Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu ảnh hưởng của thức ăn rong câu chỉ vàng khô lên quá trình sinh trưởng...

Tài liệu Nghiên cứu ảnh hưởng của thức ăn rong câu chỉ vàng khô lên quá trình sinh trưởng, tỷ lệ sống và chất lượng thịt của bào ngư (haliotis diversicolor reeve, 1846) nuôi tại bạch long v

.PDF
67
926
86

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG *** VÕ THỊ HỒNG PHƯƠNG NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA THỨC ĂN RONG CÂU CHỈ VÀNG KHÔ LÊN QUÁ TRÌNH SINH TRƯỞNG, TỶ LỆ SỐNG VÀ CHẤT LƯỢNG THỊT CỦA BÀO NGƯ (Haliotis diversicolor Reeve, 1846) NUÔI TẠI BẠCH LONG VỸ - HẢI PHÒNG LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: NUÔI TRỒNG THỦY SẢN Mã số: 60 62 70 Cán bộ hướng dẫn: TS. LỤC MINH DIỆP Nha Trang, 2013 i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Tôi cũng xin cam đoan, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luân văn này đã được cảm ơn, các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ nguồn gốc. Tác giả Võ Thị Hồng Phương ii LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên tôi xin chân thành cảm ơn đến Ban Lãnh đạo Viện Nghiên cứu Hải sản, Phòng Đào tạo Viện Nghiên cứu Hải sản; Ban giám hiệu Trường Đại học Nha trang; Khoa Nuôi trồng Thủy sản, Khoa Sau Đại học và phòng Đào tạo trường Đại học Nha trang; Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hải Phòng đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện để tôi hoàn thành tốt khóa học này. Lời cảm ơn sâu sắc tôi xin gửi đến thầy giáo hướng dẫn TS. Lục Minh Diệp người trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện luận văn. Tôi xin cảm ơn đề tài “Ứng dụng nuôi bào ngư chín lỗ (Haliotis diversicolor) bằng lồng chìm sử dụng thức ăn rong câu chỉ vàng khô tại Bạch Long Vỹ - Hải Phòng” do Sở Nông nghiệp và Phát triển thôn Hải Phòng chủ trì đã hỗ trợ tôi một phần kinh phí để tôi hoàn thành luận văn này. Lời cảm ơn chân thành xin gửi tới các thầy cô giáo Khoa Nuôi trồng thủy sản – trường Đại học Nha Trang, gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã giúp đỡ và động viên tôi trong học tập cũng như trong cuộc sống. Tuy nhiên, do thời gian thực hiện đề tài ngắn, điều kiện thực hiện có những khó khăn: địa điểm triển khai ở cách xa đất liền, giao thông chưa thuận tiện, kinh phí hạn hẹp……nên đề tài chắc chắn còn có những điểm chưa thật hoàn chỉnh. Kính mong, nhận được sự chỉ dẫn, đóng góp ý kiến của của các thầy cô và các bạn đồng nghiệp để đề tài được hoàn chỉnh hơn. Xin chân thành cảm ơn ! Hải phòng, tháng 3 năm 2013 Tác giả Võ Thị Hồng Phương iii MỤC LỤC Trang LỜI CAM ĐOAN.............................................................................................................i LỜI CẢM ƠN................................................................................................................. ii MỤC LỤC ..................................................................................................................... iii DANH MỤC BẢNG .......................................................................................................v DANH MỤC HÌNH .......................................................................................................vi DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT .....................................................................................vii MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1 Chương 1 – TỔNG QUAN TÀI LIỆU............................................................................3 1.1 Một số đặc điểm sinh học của bào ngư chin lỗ (Haliotis diversicolor Reeve, 1846)................................................................................................................................3 1.1.1 Phân loại ....................................................................................................3 1.1.2 Đặc điểm hình thái, cấu tạo .......................................................................4 1.1.3. Phân bố .....................................................................................................7 1.1.4. Đặc điểm dinh dưỡng ...............................................................................7 1.1.5. Đặc điểm sinh trưởng ...............................................................................8 1.1.6. Đặc điểm sinh sản.....................................................................................8 1.2. Giá trị dinh dưỡng của bào ngư ..........................................................................9 1.3. Tình hình nghiên cứu, kỹ thuật sinh sản nhân tạo và nuôi bào ngư chín lỗ (Haliotis diversicolor) ...................................................................................................10 1.3.1 Trên thế giới và trong khu vực ................................................................10 1.3.2. Ở Việt Nam và Hải Phòng.....................................................................13 1.4. Điều kiện tự nhiên đảo Bạch Long Vỹ .........................................................15 Chương 2 – VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU...................................17 2.1 Địa điểm, thời gian, đối tượng nghiên cứu .........................................................17 2.2. Phương pháp nghiên cứu...................................................................................17 iv 2.3.1 Phương pháp bố trí thí nghiệm................................................................18 2.3.2 Quản lý và chăm sóc ...............................................................................18 2.3.3 Các chỉ tiêu nghiên cứu và phương pháp theo dõi .................................19 2.3.4 Xử lý số liệu ............................................................................................21 Chương 3 – KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN.........................................22 3.1 Các yếu tố môi trường sinh thái ..........................................................................22 3.2 Kết quả quá trình nuôi thương phẩm bào ngư ....................................................23 3.2.1. Tốc độ tăng trưởng .................................................................................23 3.2.2. Tỷ lệ sống ...............................................................................................29 3.2.3 Ảnh hưởng của thức ăn đến chất lượng thịt của bào ngư.......................30 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .......................................................................................33 1. KẾT LUẬN ...........................................................................................................33 2. KIẾN NGHỊ ..........................................................................................................33 TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................................35 v DANH MỤC BẢNG Trang Bảng 3.1 Biến động các yếu tố môi trường trong quá trình nuôi bào ngư....................22 Bảng 3.2 Sinh trưởng chiều dài của bào ngư (mm).......................................................24 Bảng 3.3 Tăng trưởng khối lượng của bào ngư (g) .....................................................26 Bảng 3.4 Tốc độ sinh trưởng đặc trưng về khối lượng của bào ngư SGRw(%/ngày) ...27 Bảng 3.5 Kết quả phân tích các chỉ tiêu sinh hóa..........................................................30 Bảng 3.6 Kết quả phân tích thành phần axid amin (%/100g thịt) ................................31 vi DANH MỤC HÌNH Trang Hình 1.1. Bào ngư chín lỗ tại Bạch Long Vỹ [25] .........................................................4 Hình 1.2. Hình thái ngoài của bào ngư [8] ......................................................................5 Hình 1.3. Hình ảnh giải phẫu bào ngư [8]......................................................................5 Hình 1.4. Hình ảnh hệ tiêu hóa của bào ngư [8]..............................................................6 Hình 2.1. Phương pháp đo bào ngư [8] .......................................................................199 Hình 2.2. Thu thập số liệu tăng trưởng của bào ngư tại Bạch Long Vỹ .......................20 Hình 3.1. Sinh trưởng chiều dài của bào ngư trong các nghiệm thức ..........................25 Hình 3.2. Sinh trưởng khối lượng của bào ngư trong các nghiệm thức .....................288 Hình 3.3. Tỷ lệ sống của bào ngư tại các nghiệm thức ...............................................299 vii DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT GHCP: Giới hạn cho phép KHP: Không phát hiện (là giá trị nhỏ hơn giới hạn của phương pháp thử) NTTS: Nuôi trồng thủy sản QCVN: Quy chuẩn Việt Nam RK: Rong câu chỉ vàng khô RT: Rong mơ tươi Viện NCHS: Viện nghiên cứu Hải sản Viện NCNTTS: Viện nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản SGR: Tốc độ sinh trưởng đặc trưng DO: Hàm lượng ôxy hòa tan S ‰: Độ mặn. to: Nhiệt độ. NTU: Nephelometric Turbidity Units 1 MỞ ĐẦU Tại ngư trường ven đảo Bạch Long Vỹ có loài bào ngư chin lỗ (Haliotis diversicolor Reeve, 1846) là loại đặc sản có giá trị kinh tế cao, nguồn thực phẩm bổ dưỡng và là vị thuốc tự nhiên quý với nhiều công dụng còn chưa được biết. Qua nhiều năm khai thác và do hạn chế trong quản lý, nguồn lợi bào ngư chín lỗ ven đảo Bạch Long Vỹ giảm sút nhanh. Theo các số liệu khảo sát, điều tra của Viện Nghiên cứu Hải sản trước năm 1987 ở đảo Bạch Long Vỹ đã khai thác khoảng 37 tấn bào ngư khô/năm, năm 1992 còn 5 tấn khô/năm, đến nay sản lượng khai thác thấp, dưới 1 tấn khô/năm [2]. Trước thực trạng đó, chính quyền và nhân dân huyện đảo đã tiến hành 1 số dự án như: tiến hành thực hiện xây dựng “mô hình quản lý 6 m nước ven bờ”, “thiết lập vành đai bảo vệ nguồn lợi thủy sản”, “quản lý tài nguyên thiên nhiên dựa vào cộng đồng”, “đề xuất thiết lập khu bảo tồn biển”… nhằm bảo vệ môi trường và nguồn lợi thủy sản, trong đó có bào ngư. Tuy nhiên, theo kết quả khảo sát nhiều năm (2006-2010), tốc độ phục hồi bào ngư không đáng kể, đang có nguy cơ cạn kiệt, rất cần được bổ sung từ sinh sản nhân tạo và ương nuôi thích hợp bào ngư ở một số khu vực. Ở Việt Nam, việc sinh sản nhân tạo và ứng dụng công nghệ nuôi bào ngư thương phẩm đã được Viện Nghiên cứu Hải sản, Viện Nghiên cứu NTTS III… thực hiện ở một số nơi như Khánh Hòa, Quảng Nam, Quảng Ninh, Hải Phòng, tuy nhiên, các nghiên cứu thường chỉ tập trung vào từng vấn đề: đăc điểm phân loại, đặc diểm hình thái, tập tính sinh sản… mà chưa thực sự chuyển các kết quả này phục vụ nhu cầu khôi phục nguồn lợi và thực tế sản xuất ở địa phương. Đảo Bạch Long Vỹ nằm ở ngoài khơi, giữa vịnh Bắc Bộ có nhiều vỉa đá, nước trong, độ mặn cao, có nhiều rong tảo biển, xa các nguồn rác, bùn, huyền phù, điều kiện môi trường thích hợp cho nuôi bào ngư. Nghiên cứu và ứng dụng thành công nuôi thương phẩm bào ngư chin lỗ không những góp phần khôi phục và bảo tồn nguồn lợi bào ngư mà còn góp phần tăng thu nhập, tạo việc làm và xóa đói giảm nghèo cho ngư dân vùng ven biển. Một trong những vấn đề quan trọng cần giải quyết khi phát triển nuôi bào ngư là nguồn thức ăn; số lượng và chất lượng thức ăn đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển, sinh trưởng của bào ngư. Bào ngư sử dụng các loại rong biển làm thức ăn, nguồn rong này phụ thuộc rất nhiều vào mùa vụ, vì vậy việc đảm 2 bảo lượng rong làm thức ăn cho nuôi bào ngư thương phẩm quy mô lớn là không đơn giản; việc chủ động nguồn thức ăn đảm bảo về số lượng và chất lượng cho bào ngư nuôi rất cần được quan tâm, đầu tư nghiên cứu. Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu ảnh hưởng của thức ăn rong câu chỉ vàng khô lên quá trình sinh trưởng, tỷ lệ sống và chất lượng thịt của bào ngư (Haliotis diversicolor Reeve, 1846) nuôi tại Bạch Long Vỹ - Hải Phòng” Mục tiêu: Nghiên cứu khả năng sử dụng rong câu chỉ vàng khô của bào ngư nuôi để mở ra hướng chủ động nguồn thức ăn về số lượng và chất lượng cho việc phát triển nuôi bào ngư thâm canh của huyện đảo. Nội dung nghiên cứu: - Nghiên cứu ảnh hưởng của thức ăn rong câu chỉ vàng khô đến sinh trưởng, tỷ lệ sống của bào ngư nuôi thương phẩm. - Đánh giá ảnh hưởng của thức ăn rong câu chỉ vàng khô đến chất lượng dinh dưỡng của bào ngư. 3 Chương 1 – TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1 Một số đặc điểm sinh học của bào ngư chín lỗ (Haliotis diversicolor Reeve, 1846) 1.1.1 Phân loại Bào ngư chin lỗ (Haliotis diversicolor Reeve, 1846) có tên Tiếng Việt: Bào ngư chín lỗ, cửu khổng, ốc cửu khổng, ốc chin lỗ, ốc cửu khẩu, cửu khổng ngư bào… Tên bào ngư chung theo Tiếng Anh: Abalone. Vị trí trong hệ thống phân loại và tên khoa học [38]. Ngành động vật thân mềm: Mollusca. Lớp chân bụng: Gastropoda. Lớp phụ mang trước: Prosobranchia. Bộ phúc túc nguyên thủy: Archaeogastropoda. Họ bào ngư: Haliotidae. Giống bào ngư: Haliotis. Loài bào ngư chín lỗ: Haliotis diversicolor Reeve, 1846. Bào ngư là động vật thân mềm có một mảnh vỏ thuộc lớp Chân bụng; các loài bào ngư đều thuộc họ Haliotidae, giống Haliotis (nghĩa là vành tai ở biển, gọi theo hình dạng của vỏ); Các nước có ngành sản xuất bào ngư lớn gồm Nhật Bản, Australia, Nam Phi, Hàn Quốc, Đài Loan, New Zealand và Trung Quốc; thị trường tiêu thụ bào ngư chủ yếu là khu vực Châu Á gồm Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông và Nhật Bản [50] Bào ngư đạt kích cỡ thương phẩm khi chiều dài vỏ ≥ 5cm và có thể khai thác lấy thịt ăn; vỏ để chạm khắc cho các đồ gỗ, trang sức. Hiện nay trên thị trường bào ngư thương phẩm được chế biến thành nhiều dạng sản phẩm như: bào ngư khô, bào ngư đông lạnh, bào ngư đóng hộp và bào ngư ngâm rượu. 4 Hình 1.1. Bào ngư chín lỗ tại Bạch Long Vỹ [25] 1.1.2 Đặc điểm hình thái, cấu tạo Hình thái: Bào ngư chín lỗ thuộc nhóm bào ngư nhiệt đới nên có kích thước nhỏ so với các loài bào ngư sống ở vùng ôn đới; chúng có vỏ cứng, dạng hình vành tai, có 3 tầng xoắn ốc, tầng thân phát triển lấn tầng xoắn ốc khiến toàn thân bào ngư nom như một khối dẹt. Bắt đầu từ mép vỏ của tầng xoắn ốc thứ hai có khoảng 7- 9 gờ nhô, xoắn tạo thành các lỗ (lý do tên gọi ốc cửu khổng) sắp xếp có thứ tự đến tận mép của miệng vỏ phân bố theo vòng cung trên vỏ, các lỗ mở số 2 – 4 có chức năng trao đổi nước, bảo vệ xúc tu, tiết chất nhày, nơi phóng tinh – đẻ trứng... Vỏ bào ngư phía ngoài có nhiều vân tím, nâu, xanh xen kẽ nhau, phụ thuộc vào từng loài thích nghi với môi trường sống; mặt trong có lớp xà cừ óng ánh. Vỏ rất cứng cấu tạo chủ yếu bằng canxi cacbonat gồm nhiều lớp xếp chồng lên nhau, có tác dụng phân tán lực khi bào ngư bị tấn công. Chân bào ngư rộng, có cơ bám chắc vào đá đáy biển, giúp cho nó có thể sống được ở các vùng nước chảy mạnh. Cấu tạo: Bắt đầu từ giai đoạn ấu trùng veliger, bào ngư mới có thân hình cân đối ở cả hai phần của cơ thể cho tới có dạng vỏ xoắn. Cơ thể của bào ngư chia làm 3 phần: đầu, chân bụng và khối nội quan. 5 Hình 1.2. Hình thái ngoài của bào ngư [8] Hình 1.3. Hình ảnh giải phẫu bào ngư [8] - Đầu: Phần đầu bào ngư nằm ở phía trước của cơ thể, bao gồm: miệng, hầu và các cơ quan xúc giác. Phần đầu có 2 xúc tu với 2 lõm hốc mắt. Phía trước có vòi ngăn và các xúc tu tròn, dài, trên đó có cuống mắt nắng. Toàn bộ vòi - xúc tu - mắt nằm trên chân bụng phía ngoài cùng, tơ xúc giác nằm xung quanh xúc tu. 6 - Chân: Phần chân của bào ngư là các cơ trườn, nằm ngang bên dưới cơ thể. Trên đó có chức năng tiết chất nhày như các giác hút cho phép chúng di chuyển hoặc bám chắc trên bề mặt đá hay vật bám cứng. Chân bụng to, hình ô van, rất khỏe; các cơ thịt nằm phần dưới chân có cấu trúc dạng bàn bám, các cơ thịt bề mặt phía trên có 10 cặp tua ngoại biên và các xúc tu nhỏ nằm ở vùng ngoại biên, phân bố ở mép ngoài các cơ thịt; bào ngư trườn bò mạnh vào ban đêm, phân bố từ vùng trung tới hạ triều. - Khối nội quan: Khối nội quan của bào ngư nằm ở mặt lưng ngay dưới vỏ, có nhiều cơ quan nội quan; bao bọc bên ngoài là các màng áo bắt đầu từ phía lưng đến mép phần vỏ. Vỏ bào ngư được tạo ra do việc bài tiết của các tế bào cutin (giống như biểu bì thực vật) được thay thế dần ở mép ngoài và phần trống của lớp màng áo bao bọc. - Hệ tiêu hóa: Hệ tiêu hoá nằm ở bên trái của khối cơ khỏe có chức năng khép mở bảo vệ bằng cách co rút, ẩn nội quan vào trong vỏ. Các bộ phận tiêu hóa chính; miệng, thực quản, dạ dày, ruột nằm ngang và hậu môn. Do cơ thể hình xoắn nên cơ quan tiêu hóa cũng uốn lượn, cong theo vỏ; miệng và hậu môn nằm gần nhau, ở cùng một phía; miệng bào ngư gồ lên như bướu, có hình o van với các lớp cơ dày, trong miệng có vòm họng, hàm răng kitin và tuyến nước bọt. dạ dày bào ngư kế tiếp ngay sau thực quản, có dạng hình túi chữ V, phần ruột thừa và gan thì nối tiếp với dạ dày, ruột dài gấp 3 – 3,5 lần vỏ; nhìn chung hệ tiêu hóa của bào ngư tương tự như các loài động vật ăn cỏ, phù hợp với thức ăn là rong, cỏ biển. Hình 1.4. Hình ảnh hệ tiêu hóa của bào ngư [8] - Hệ hô hấp và hệ tuần hoàn: Cơ quan hô hấp của bào ngư gồm một cặp mang nằm ngay dưới hàng lỗ trên vỏ, nước biển trao đối đưỡng khí qua mang và thoát ra 7 ngoài qua lỗ dọc theo vỏ hoặc qua hậu môn, miệng. Hệ tuần hoàn của bào ngư là hệ mở, tim nằm ở khoang ngoài, bao gồm tâm thất và hai tâm nhĩ. - Hệ thần kinh: Bào ngư có hệ thần kinh chưa phát triển, có 4 cặp hạch thần kinh: chuỗi thần kinh chân, hạch thần kinh điều khiển tiêu hóa, các dây thần kinh bên kết nối theo chiều dọc và chiều ngang cơ thể. 1.1.3. Phân bố Có chừng 100 loài bào ngư phân bố rộng khắp thế giới [49], nhưng chúng phát triển phong phú về số lượng ở vùng ôn đới, tập trung ở dọc bờ biển Nam - Bắc Mỹ; ở phía Đại Tây Dương và Caribê. Riêng loài bào ngư chín lỗ (Haliotis diversicolor) phân bố rộng trong khu vực Ấn Độ - Tây Thái Bình Dương, dọc bờ biển Ấn Độ, Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam, Thái Lan, Philippin… loài này được phát hiện chủ yếu từ tuyến hạ triều đến độ sâu 15-20m, nền đáy là những vỉa đá cứng, rạn san hô. Ở Việt Nam bào ngư phân bố ở đảo Cô Tô, Bạch Long Vỹ, các đảo ở Bắc và Trung Bộ, đảo Phú Quốc… Bào ngư sống ở nơi có độ trong cao, ít sóng gió, đáy có vỉa đá sỏi, san hô, ban ngày ẩn nấp ở vách đá, khe đá, ban đêm bò ra kiếm ăn; chúng sống ở vùng biển cạn từ ven bờ đến độ sâu 10-20m, thích nghi trong khoảng nhiệt độ từ 10-35oC và nồng độ mặn từ 25-35‰. Bào ngư không phân bố ở các vùng cửa sông bởi vì cửa sông nồng độ muối thấp, có nhiều bùn, nhiệt độ cao và oxy hòa tan thấp. Trong giai đoạn đầu của chu kỳ sống ấu trùng của bào ngư sống trôi nổi, có thể di chuyển thụ động theo dòng chảy; đến cuối giai đoạn trôi nổi, bào ngư tìm đến vùng có nhiều vật bám thích hợp để định cư [41]. Khi chiều dài vỏ nhỏ hơn 5mm thường sống ở các rạn, bám ở mặt dưới các vỉa đá nơi nước cạn; khi lớn hơn chiều dài vỏ từ 5 – 10mm sống ở kẽ đá lớn nước sâu, có khi tới hơn 20m. Chúng thường tập trung thành từng cụm, có nhiều nơi mật độ từ 15-20 con/m2 [42]. 1.1.4. Đặc điểm dinh dưỡng Bào ngư thuộc nhóm chân bụng ăn rong tảo biển, thực vật và mùn bã hữu cơ; thức ăn của bào ngư thay đổi theo giai đoạn phát triển. Các giai đoạn veliger và ấu trùng bám của bào ngư ăn tảo đơn bào hay mùn bã hữu cơ; bào ngư trưởng thành thích ăn rong biển (seaweed), đặc biệt là rong đỏ (red algae), rong nâu (brown algae) và vài loại rong lục (green algae). Bào ngư bắt mồi tích cực về đêm, đặc biệt là lúc mặt trời sắp lặn và sắp mọc. 8 Nhiệt độ có ảnh hưởng đến cường độ bắt mồi của bào ngư, ở 8oC bào ngư không bắt mồi, 12oC bào ngư ăn với lượng thức ăn là 6% khối lượng cơ thể, 20oC bào ngư ăn với lượng bằng 15% trọng lượng cơ thể. Nhu cầu dinh dưỡng: thành phần dinh dưỡng tối ưu cho bào ngư phát triển cần tỷ lệ: protein 30%, lipit 3% của các axit béo không no HUFA-ω3 và HUFA – ω6. Ngày nay, hầu hết các cơ sở nuôi trên thế giới cho bào ngư ăn bằng thức ăn chất lượng cao, sản xuất theo công thức đặc biệt để đáp ứng các yêu cầu tiêu hoá của bào ngư. Thức ăn viên thường tồn tại trong nước vài ngày mà không bị phân rã. Tuy nhiên việc cho ăn thức ăn viên trong sản xuất công nghiệp còn nhiều hạn chế do dễ bị ẩm mốc, giá cao và nhất là chưa tạo ra sức tăng trưởng đột biến khi nuôi, chưa chủ động trong sản xuất giống… Vì vậy đây là vấn đề cần tiếp tục xem xét, nghiên cứu thử nghiệm trong thời gian tới. 1.1.5. Đặc điểm sinh trưởng Sinh trưởng của bào ngư chín lỗ thể hiện theo độ tuổi như sau: 1 tuổi chiều dài vỏ đạt 3-3,5 cm; 2 tuổi chiều dài vỏ đạt 3,5-5 cm; 3 tuổi chiều dài vỏ đạt 5-5,6 cm; 4 tuổi chiều dài vỏ đạt 6,5-7cm; 5 tuổi chiều dài vỏ đạt 7,5-8 cm, khi xem xét quần thể bào ngư cùng lứa cũng cho thấy: ở giai đoạn bào ngư còn nhỏ, số con cái thường nhiều hơn con đực và khi trưởng thành thì số con đực nhiều hơn con cái [47]. Bào ngư sinh trưởng chậm, có tốc độ tăng nhanh chiều dài vỏ trong năm thứ nhất và thứ hai. Theo kết quả nghiên cứu của Akio (1984) ở Nhật Bản, bào ngư giống được sản xuất vào tháng 10 - 11 và phải ương nuôi 2 - 4 tháng mới cho con giống cỡ 2mm. Trong tự nhiên thường gặp cá thể trưởng thành có chiều dài vỏ từ 60-90 mm, chiều cao bằng 2/3 chiều rộng và bằng 1/4 chiều dài [34]. Chu kỳ sinh trưởng của bào ngư phụ thuộc vào một số điều kiện tự nhiên của khu vực, theo mùa và biến động nhiệt độ. Loài bào ngư chín lỗ (Haliotis diversicolor) có tuổi thọ khác nhau, nhưng thường không quá 10 năm [41]. 1.1.6. Đặc điểm sinh sản Bào ngư sinh sản hữu tính, phân tính đực, cái riêng biệt; trong mùa sinh sản con cái thường có màu xanh đen, con đực có màu vàng. Trứng của bào ngư thụ tinh ngoài nên tỉ lệ thụ tinh rất thấp. Khi sinh sản chúng thường tập trung thành từng đàn trong một nơi với mật độ cao, như vậy đảm bảo trứng có cơ hội thụ tinh cao. 9 Ở Vịnh Bắc Bộ, bào ngư thường có 2 vụ sinh sản: tháng 4 – 5 và tháng 10 – 11; bào ngư chín lỗ thành thục khi kích thước > 5cm và tỷ lệ thụ tinh thành công tăng lên tỷ lệ thuận theo kích thước. Khi đạt tuổi 2+ bào ngư đực có tuyến sinh dục màu trắng sữa nằm ở phía dưới chân còn bào ngư cái có tuyến sinh dục màu lam hoặc xanh sẫm. Các kết quả nghiên cứu cho thấy mùa sinh sản của các loài bào ngư liên quan đến sự biến đổi nhiệt độ nước trong năm và nguồn thức ăn nơi chúng phân bố. Tỷ lệ đực, cái trong quần thể tự nhiên (có kích thước khác nhau) là 1:1 [37, 45]. Sức sinh sản của một số loài bào ngư thành thục được tính bằng số trứng của con cái. Thông thường trong giai đoạn thành thục, số trứng đạt khoảng 50.000 trứng (với chiều dài vỏ đạt > 201-205mm). Đến mùa sinh sản, bào ngư ăn ít và bò xuống nơi sâu để sinh sản, trứng và tinh được phóng ra qua hàng lỗ trên vỏ của bào ngư và lan tỏa trong nước. Bào ngư đẻ vào lúc chiều tối và rạng sáng, con đực thường phóng tinh trước sau đó con cái mới đẻ trứng. Sản phẩm sinh dục cũng có vai trò kích thích các cá thể khác trong quần thể sinh sản. Tinh trùng có khả năng thụ tinh trong 2 giờ sai khi được phóng thích ra môi trường nước, trứng bắt dầu phân cắt 10 phút sau thụ tinh; trứng bào ngư phân cắt hoàn toàn không đều theo kiểu xoắn ốc. Trứng sau khi thụ tinh trôi nổi trong nước trải qua các giai đoạn ấu trùng cho đến khi lớp vỏ được hình thành; ấu trùng có vỏ sơ khai, sẽ xuống đáy [8]. 1.2. Giá trị dinh dưỡng của bào ngư Bào ngư là loài có giá trị kinh tế bởi vì hàm lượng dinh dưỡng trong thịt của chúng rất cao được xếp vào một trong “bát bảo hải sản hay 8 hải sản quý hiếm của biển”, có thể dùng tươi, khô hoặc đóng hộp. Trong Đông y thịt bào ngư thuộc bổ âm, lành tính để bồi bổ cho người già, trẻ suy dinh dưỡng, còi xương có tác dụng chữa bệnh tốt, giúp bồi bổ khí huyết, bổ thận, tăng thị lực, chống suy nhược cơ thể và điều hoà huyết dịch, dùng cho những người cơ thể suy nhược, mắt kém, suy thận, hay đi tiểu đêm, giúp ổn định hàm lượng đường trong máu… ngoài ra có thể dùng nguyên con (cả vỏ) ngâm rượu chữa các bệnh nóng trong, trị loãng xương, thiếu canxi, yếu sinh lý... Vỏ bào ngư cũng được Đông y dùng làm thuốc gọi là “thạch quyết minh”, trong vỏ bào ngư có chứa canxi cacbonat, magiê, sắt, silic, photphat và clorua; vỏ bào ngư có vị mặn, tính hàn, tác động vào kinh mạch thuộc thận và can, giúp hạ hoả, trị nhức đầu, chóng mặt, đỏ mắt… đồng thời vỏ bào ngư là vật liệu dùng để khảm tranh, trang trí tượng, chế tác đồ trang sức, mỹ phẩm... 10 Trong 100 g bào ngư chứa: chất đạm 17,05 g; đường (carbonhydrat) 5,89 g; chất béo 0,75 g; cholesterol 84,7 mg; các loại vitamin B1, B2, khoáng chất và nguyên tố vi lượng. Trong chất đạm cũng có đủ 19 loại axit amin thiết yếu cho cơ thể ở lượng mức tương đối cao như threonin 0,73 mg; isoleucin 0,75 mg; valin 0,7 mg; và axit glutamic 2,31 mg. Ngoài ra, trong thịt bào ngư còn có các hợp chất có tác dụng diệt khuẩn là Paolin 1, Paolin 2 và một hợp chất gọi là “phần C tan trong nước”. “Phần C tan trong nước” khi kết hợp với Paolin 1 sẽ có tác dụng với vi khuẩn Streptococcus pyogenes và Staphylococcus aureus và khi kết hợp với Paolin 2 có thể ngăn chặn được virus polio và influenza A trên đối tượng thí nghiệm [26]. Tuy nhiên theo Tony Hsu (2000) thì trong 100g thịt bào ngư chứa: 18g protein; 0,1g lipid; 0,059g cholesterol; 2,7g chất xơ; 229mg phospho; 0,5mg sắt; 9 axit amin không thay thế, các vitamin B1, B2, B6, B12, K, E và 83 calo năng lượng [48]. Tùy theo thói quen hay sở thích mà bào ngư được chế biến thành các món ăn: súp khai vị, xào ngũ vị, nướng, gỏi sashimi, nấu cháo...ngoài ra một số vùng ở Hàn Quốc còn nuôi bào ngư để cấy ngọc [39]. 1.3. Tình hình nghiên cứu, kỹ thuật sinh sản nhân tạo và nuôi bào ngư chín lỗ (Haliotis diversicolor) 1.3.1 Trên thế giới Hầu hết các loài bào ngư được nuôi trên thế giới đều là các loài thuộc khu vực khí hậu ôn đới hoặc cận nhiệt đới và tương đối lớn so với các loài bào ngư nhiệt đới. Tuy nhiên thị trường của các loài bào ngư cỡ nhỏ đang phát triển rất mạnh ở Trung Quốc, Đài Loan và Nhật Bản. Nuôi bào ngư bắt đầu ở Nhật Bản và Trung Quốc vào cuối những năm 1950 và phát triển nhanh vào đầu những năm 1990. Những nước nuôi bào ngư thương phẩm đạt năng suất cao là Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Thái Lan [44]… Nuôi bào ngư chin lỗ (Haliotis diversicolor) tại các tỉnh Hooc – kai – đô [37], Phù Kẹt (Thái Lan), Liêu Ninh, Sơn Đông, Phúc Kiến, Quảng Đông và Hải Nam, Trung Quốc [43] và ở Đài Loan với hệ số thức ăn rất biến động [35]. Kỹ thuật nuôi bào ngư đã phát triển và được sàng lọc trong suốt 30 năm qua. Những kinh nghiệm này được sử dụng để xây dựng trại giống bào ngư năng suất cao và có hiệu quả kinh tế. Năm 1952, tác giả Ino thành công trong sản xuất con giống loài bào ngư chin lỗ (Haliotis diversicolor). Bào ngư được ương nuôi đến hơn 2 tháng tuổi, đạt kích thước >2mm. Những năm gần đây, nhiều nghiên cứu sản xuất giống các loài 11 bào ngư ở vùng nhiệt đới đã được triển khai [36]; do có kích thước cá thể lớn, tốc độ tăng trưởng nhanh, nên loài bào ngư chín lỗ (Haliotis diversicolor) đã được sản xuất nhiều ở Thái Lan, Philippin, Indonexia, Malaixia… Tuy nhiên kết quả còn hạn chế do tỷ lệ sống đến giai đoạn bào ngư giống rất thấp [40]. Kết quả nghiên cứu của Singhagraiwan (1991) cho thấy tỷ lệ sống của ấu trùng từ giai đoạn Trochophore đến giai đoạn Veliger đạt chưa đến 5% và đến giai đoạn ấu trùng thể bám chỉ đạt 5%. Nghiên cứu của Poomtong (Thái Lan, 1997) đã tăng tỷ lệ sống đến giai đoạn bào ngư hơn 1 tháng tuổi lên xấp xỉ 5,1%. Trong khi đó, kết quả nghiên cứu của Fermin (1998) ở Philippin chỉ đạt dưới 5%. Công bố của Viện Nghiên cứu thủy sản Penang, Malaysia thì tỷ lệ sống đến giai đoạn bám đáy (dạng Spat) là 5%. Mật độ nuôi: mật độ phụ thuộc vào kích thước vỏ, khả năng cấp tiêu nước, điều kiện chất đáy. Theo Chen, 1984 cho thấy loài bào ngư chín lỗ ở mật độ nuôi 2.500 cá thể ấu trùng/m2 là phù hợp. Tuy nhiên, mật độ tối ưu đưa ra còn chưa nêu được để xem xét và xác định mối quan hệ giữa mật độ nuôi có liên quan ra sao giữa các yếu tố sinh học và phi sinh học kèm theo. Thức ăn nuôi bào ngư thương phẩm: nhiều nghiên cứu đã được tiến hành để xác định thức ăn thích hợp cho các giai đoạn phát triển của bào ngư như thử nghiệm cho bào ngư giống ăn rong câu (Gracilaria) và rong bún (Enteromorpha) nuôi 120 ngày để xác định tỷ lệ sống và tốc độ sinh trưởng hoặc sử dụng một số kiểu thức ăn chế biến dạng viên để kiểm định 2 chỉ tiêu trên; kết quả, tỷ lệ sống của bào ngư giống khi cho ăn rong bún cao, trong khi đó các ấu trùng không thích hợp với loài rong bún. Thử nghiệm cho ăn rau diếp, xà lách, bắp cải cũng chỉ là các thức ăn thay thế ngắn hạn 3-5 ngày [8]. Bào ngư Haliotis diversicolor nuôi tại đảo Nao Châu về chất lượng cũng như số lượng đều đứng hàng đầu tại tỉnh Quảng Đông. Số liệu thống kê năm 1960, sản lượng cao nhất là 38.160 kg (năm 1936), cá thể lớn nhất có chiều dài 9,6 cm; ngư dân đảo Nao Châu đã sử dụng bể chìm để nuôi, tốc độ sinh trưởng nhanh; tại khu vực đá ngầm nơi có thủy triều thấp, gió mạnh và biển động có đặt các bể ngầm hình tròn có đường kính khoảng 1m, cao từ 0,6-1m để tiến hành nuôi bào ngư chín lỗ (Haliotis diversicolor); mỗi bể thả nuôi khoảng 1.000 bào ngư giống, cỡ trên dưới 2cm, sau 912 tháng nuôi dưỡng, bào ngư đạt chiều dài trên 5cm, tỷ lệ sống 60%, mỗi bể có thể đạt sản lượng bào ngư thương phẩm là 10-12kg. Theo Hoàng Quý Trâm (Ðài Loan) - Tạp chí KHCNTS 8/2000: Đài Loan áp 12 dụng lồng lưới để nuôi bào ngư, ưu điểm của nuôi bằng lồng lưới là tiết kiệm chi phí, giảm giá thành và đề phòng việc phát sinh bệnh tật, nhưng thời gian nuôi tương đối dài, cách nuôi loại này giá thành thấp là phương pháp nuôi lớn vừa kinh tế lại vừa thuận tiện. Tuy nhiên, đặc biệt chống gió bão, chống sóng, đảm bảo an toàn, tránh bị mất trộm [8]. Năm 2003, tại Phúc Kiến, người ta đã nghiên cứu áp dụng kỹ thuật nuôi treo bào ngư trên biển sử dụng thức ăn là rong bẹ (Laminaria) tươi và rong bẹ khô, rong bẹ muối; trong quá trình nuôi, căn cứ vào mùa vụ để lựa chọn chủng loại thức ăn thích hợp. Từ tháng 4 đến tháng 6 cho ăn rong bẹ tươi; tháng 7- 9 thức ăn là rong bẹ muối, có bổ sung các loại tảo tự nhiên hoặc thức ăn nhân tạo dạng bản mỏng; tháng 10-3 năm sau thức ăn là tảo tía hoặc rong bẹ muối. Lượng thức ăn tươi cho ăn bằng 10-30% trọng lượng cơ thể bào ngư. Thường 2-3 ngày cho ăn 1 lần. Hiện nay ở Trung Quốc, bào ngư được nuôi nhiều, chủ yếu theo các phương thức nuôi vãi (gieo) đáy, nuôi lồng bè, nuôi công nghiệp [10]. Tóm lại: Các thông tin trên cho thấy nỗ lực nghiên cứu, phát triển các kỹ thuật nuôi loài nhuyễn thể một mảnh vỏ này được nhiều quốc gia quan tâm Các thành tựu đạt được cơ bản bao gồm: - Xác định được đặc điểm sinh học, phân bố, dinh dưỡng, mùa vụ, điều kiện sống của một số loài bào ngư. - Phát triển được một số kỹ thuật sinh sản nhân tạo và ương nuôi bào ngư. Nhiều quốc gia trong vùng và trên thế giới đã chọn lọc các kết quả này trong suốt 50 năm qua để sinh sản nhân tạo và nuôi bào ngư thương phẩm, từng bước khôi phục được nguồn lợi bào ngư, phát triển nuôi biển và cải thiện thu nhập cho cộng đồng dân cư địa phương ven biển. Các tồn tại cần giải quyết chính là: - Giải quyết các sự cố môi trường khi nuôi bào ngư. - Nâng cao tỷ lệ sống trong sinh sản nhân tạo và ở các giai đoạn phát triển của bào ngư, thông qua ứng dụng các công nghệ và kỹ năng ương nuôi ở mỗi quốc gia. - Giải quyết vấn đề thức ăn trong các giai đoạn ấu trùng từ giai đoạn Trochophore - Veliger đến giai đoạn ấu trùng thể bám spat trước khi nuôi thương phẩm. - Cải thiện phương thức quản lý, chăm sóc nuôi bào ngư thương phẩm. - Cải thiện kỹ thuật khai thác bào ngư.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan