®¹i häc quèc gia hµ néi
khoa luËt
l-¬ng thÞ thu nga
ph¸p luËt cña tæ chøc th-¬ng m¹i thÕ giíi (wto)
vÒ hµng rµo th-¬ng m¹i phi thuÕ quan
luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc
Hµ néi - 2008
®¹i häc quèc gia hµ néi
khoa luËt
l-¬ng thÞ thu nga
ph¸p luËt cña tæ chøc th-¬ng m¹i thÕ giíi (wto)
vÒ hµng rµo th-¬ng m¹i phi thuÕ quan
Chuyªn ngµnh : LuËt quèc tÕ
M· sè
: 60 38 60
luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc
Ng-êi h-íng dÉn khoa häc: PGS.TS Hoµng Ph-íc HiÖp
Hµ néi - 2008
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU
Chương 1:
1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HÀNG RÀO
7
THƯƠNG MẠI PHI THUẾ QUAN CỦA TỔ CHỨC
THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI (WTO)
1.1.
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và vấn đề hạn chế các
hàng rào thương mại phi thuế quan
7
1.2.
Quan niệm pháp lý về hàng rào thương mại phi thuế quan
13
1.2.1. Quan niệm pháp lý về hàng rào thương mại phi thuế quan của
một số nước
13
1.2.2. WTO và quan niệm về hàng rào thương mại phi thuế quan
15
1.3.
Phân loại các hàng rào thương mại phi thuế quan
21
1.4.
Xu hướng phát triển của hàng rào thương mại phi thuế quan
31
Chương 2:
34
MỘT SỐ QUY ĐỊNH CƠ BẢN CỦA WTO VỀ HÀNG
RÀO THƯƠNG MẠI PHI THUẾ QUAN
2.1.
Nhận xét chung
34
2.2.
Một số quy định cơ bản trong các Hiệp định của WTO về hàng
rào thương mại phi thuế quan
35
2.2.1. Hiệp định về thủ tục cấp phép nhập khẩu (Hiệp định ILP)
35
2.2.2. Hiệp định về việc áp dụng các biện pháp kiểm dịch động thực
vật (Hiệp định SPS)
39
2.2.3. Hiệp định về hàng rào kỹ thuật (Hiệp định TBT)
44
2.2.4. Hiệp định về trị giá hải quan (Hiệp định CVA)
52
2.2.5. Hiệp định các biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại (Hiệp
định TRIMS)
55
Chương 3:
PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN CỦA MỘT SỐ NƯỚC VỀ
61
HÀNG RÀO THƯƠNG MẠI PHI THUẾ QUAN. CAM KẾT
CỦA VIỆT NAM VỚI WTO VỀ HÀNG RÀO THƯƠNG
MẠI PHI THUẾ QUAN VÀ PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI
PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Pháp luật và thực tiễn của một số nước về hàng rào thương
mại phi thuế quan
61
3.1.1. Pháp luật và thực tiễn của Hoa Kỳ về hàng rào thương mại phi
thuế quan
61
3.1.2. Pháp luật và thực tiễn của Cộng đồng Châu Âu (EU) hàng rào
thương mại phi thuế quan
64
3.1.3. Pháp luật và thực tiễn của Trung Quốc về hàng rào thương
mại phi thuế quan
68
3.1.4. Pháp luật và thực tiễn của Nhật Bản về hàng rào thương mại
phi thuế quan
72
3.1.
3.2.
Cam kết của Việt Nam với WTO về hàng rào phi thuế quan
74
3.3.
Pháp luật Việt Nam hiện hành về hàng rào phi thuế quan
78
3.4.
Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật trong nước
phù hợp với cam kết quốc tế về NTB
86
3.4.1. Phương hướng hoàn thiện
86
3.4.2. Giải pháp hoàn thiện
88
KẾT LUẬN
95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
97
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau mười một năm kể từ ngày chính thức nộp đơn xin gia nhập Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO), tháng 1/2007, Việt Nam đã chính thức trở
thành thành viên của tổ chức thương mại lớn nhất thế giới này. Để làm được
điều này, Việt Nam đã phải vượt các vòng đàm phán song phương và đa
phương khó khăn, và phải hoàn thành một khối lượng công việc lớn về cải
cách thể chế và ban hành pháp luật để phù hợp với các định chế của WTO.
Gia nhập WTO, việc hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam ngày
càng thực chất. Ngoài những cơ hội và lợi ích về kinh tế, thương mại và đầu
tư, Việt Nam cũng sẽ đối mặt với nhiều khó khăn. Quy chế thành viên WTO
của Việt Nam cũng không tạo ra sự dỡ bỏ hoàn toàn hàng rào trong thương
mại với 153 thành viên của tổ chức thương mại này. Khi là thành viên chính
thức của WTO, Việt Nam không những không loại bỏ hoàn toàn các rào cản
này mà còn tiếp tục đối mặt với các khó khăn đã tồn tại và các khó khăn mới
nảy sinh [2].
Trong những năm gần đây, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam không
ngừng gia tăng, từ 32,44 tỷ USD (năm 2005) lên 39,83 tỷ USD (năm 2006),
đạt 48,56 tỷ USD vào năm 2007, tăng 21,9% so với năm 2006 (thống kê hải
quan, thông tin hàng hoá xuất nhập khẩu, tình hình xuất nhập khẩu tháng 12
và cả năm 2005/2006 và 2007) [61]. Bên cạnh hoạt động sản xuất và tiêu thụ
tại thị trường nội địa, Việt Nam mong muốn mở rộng hơn nữa thị trường tiêu
thụ sản phẩm ra nước ngoài. Khi chưa tham gia WTO, hàng hóa xuất khẩu của
Việt Nam chịu nhiều thiệt thòi. Tuy nhiên, sau khi gia nhập, hàng xuất khẩu
của Việt Nam sẽ tiếp tục phải đối mặt với những biện pháp cản trở thương
mại từ các đối tác. Rào cản thương mại có thể là hàng rào thuế quan hoặc
hàng rào phi thuế quan. Dưới áp lực của hội nhập và tạo thuận lợi cho thương
1
mại tại từng khu vực và trên thế giới, các nền kinh tế phải liên tục cắt giảm
thuế quan theo từng lộ trình hội nhập. Nếu hàng rào thuế quan thể hiện chính
sách thương mại của từng quốc gia theo từng thời kỳ nên có tính minh bạch và
khả năng dự đoán trước, thì hàng rào phi thuế quan tại mỗi nước lại rất khác
nhau, phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế xã hội và quan điểm của Chính
phủ về việc bảo hộ ngành sản xuất nội địa hoặc chính sách thương mại.
Với mong muốn nghiên cứu sâu hơn về thực tiễn sử dụng hàng rào
thương mại phi thuế quan theo thông lệ của WTO, tôi chọn đề tài "Pháp luật
của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) về hàng rào thương mại phi thuế
quan" cho luận văn thạc sĩ của mình. Tuy nhiên, đây là vấn đề rộng, phức tạp
và luôn thay đổi nên đề tài sẽ không thể đi hết các biện pháp phi thuế quan
theo quy định và thông lệ của WTO, mà chỉ tập trung vào một số biện pháp
được sử dụng rộng rãi và phổ biến. Như:
- Chế độ cấp phép nhập khẩu;
- Quy định về kiểm dịch động thực vật;
- Các quy định kỹ thuật và tiêu chuẩn (về môi trường, an ninh quốc
gia, sức khỏe cộng đồng...);
- Quy định và thông lệ về xác định trị giá hải quan;
- Quy định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại;
- Các quy định khác ảnh hưởng tới hàng hóa nhập khẩu (hạn ngạch,
hạn ngạch thuế quan...)
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hàng rào thương mại phi thuế quan được nhiều nhà khoa học và
hoạch định chính sách thương mại trong nước khai thác và nghiên cứu ở các
góc độ khác nhau. Một số công trình nghiên cứu của Bộ Thương mại (nay là
Bộ Công thương) như "Cơ sở khoa học định hướng các biện pháp phi thuế để
bảo hộ sản xuất hàng hóa của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế
2
thương mại thế giới" của Vụ Kế hoạch năm 2000; "Hệ thống rào cản kỹ thuật
trong Thương mại quốc tế và những giải pháp để vượt rào cản kỹ thuật của
các doanh nghiệp ở Việt Nam" năm 2002 và "Nghiên cứu các rào cản trong
Thương mại quốc tế và đề xuất các giải pháp đối với Việt Nam" năm 2004
của Viện Nghiên cứu Thương mại.
Ngoài ra là các bài viết như "Bảo hộ hợp lý nông nghiệp trong quá
trình Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế" của GS.TS. Bùi Xuân Lưu, Trường
Đại học Ngoại thương; "Giới thiệu về hạn ngạch thuế quan" của Nguyễn Hải
Yến, Vụ Chính sách Thương mại Đa biên, Bộ Thương mại (nay là Bộ Công
thương), tháng 8/2005; "Khía cạnh pháp lý của các biện pháp SPS" của Dự
án hỗ trợ thương mại đa biên II (MUTRAP II), Bộ Thương mại phối hợp cùng
Ủy ban Châu Âu thực hiện năm 2002....
Hầu hết các công trình nghiên cứu và bài viết trên được thực hiện
trước khi Việt Nam gia nhập WTO, khi nước ta chưa bị ràng buộc bởi các
cam kết mở cửa thị trường và xóa bỏ các rào cản thương mại theo nghĩa vụ
WTO. Do đó, các công trình và bài viết này đã phân tích các quy định, thông
lệ của WTO về các biện pháp phi thuế quan khác nhau, có liên hệ và tìm hiểu
kinh nghiệm của một số nước trong sử dụng hàng rào thương mại phi thuế
quan nhằm đi sâu vào khía cạnh bảo hộ sản xuất trong nước trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế; hoặc nghiên cứu tính chất rào cản của các biện pháp
phi thuế quan trong tương quan so sánh với các biện pháp thuế quan... mà
chưa nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống các biện pháp phi thuế quan
của WTO thông qua các Hiệp định đa biên tiêu biểu, cũng như chưa nghiên
cứu một cách tổng thể pháp luật và thực tiễn áp dụng các biện pháp phi thuế
quan của một số nước trên thế giới. Mặt khác, các công trình và bài viết này
nghiên cứu hàng rào thương mại nói chung dưới khía cạnh tác động tới chính
sách thương mại trong nước hơn là khía cạnh luật pháp. Do đó, dưới khía
cạnh luật pháp, luận văn này góp phần làm sáng tỏ hàng rào thương mại phi
thuế quan theo pháp luật của WTO một cách toàn diện và tổng thể, thông qua
3
đó đưa ra một số giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam phù hợp với các
cam kết với WTO trong lĩnh vực này.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích làm sáng tỏ một số vấn đề
lý luận về hàng rào thương mại phi thuế quan của WTO, xây dựng lý luận và
thực tiễn cho các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam, phù hợp với
nghĩa vụ xóa bỏ rào cản thương mại với WTO. Đề tài cũng làm rõ các quy
định về hàng rào thương mại phi thuế quan tại một số thị trường xuất khẩu
chủ yếu của Việt Nam như Hoa Kỳ, Châu Âu, Nhật Bản... Ngoài việc làm
sáng tỏ một số vấn đề về hàng rào thương mại phi thuế quan của Việt Nam
hiện nay, đề tài còn nhằm làm rõ xu hướng xây dựng, sửa đổi và hoàn thiện
hàng rào này cho phù hợp với tình hình mới, vừa đảm bảo lợi ích của người
tiêu dùng trong nước, vừa để bảo hộ các ngành sản xuất còn yếu trong nước.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Với mục đích trên, đề tài đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Làm sáng tỏ các quy định của WTO và pháp luật của một số nước về
hàng rào thương mại phi thuế quan.
- Phân tích, đánh giá một cách khoa học và đầy đủ về sự hình thành,
phân loại và xu hướng phát triển của hàng rào thương mại phi thuế quan trên
thế giới; các nỗ lực của WTO trong tự do hóa thương mại, bao gồm nỗ lực
xóa bỏ các rào cản thương mại phi thuế quan.
- Nghiên cứu các cam kết của Việt Nam với WTO trong lĩnh vực này.
- Xác định yêu cầu phải hoàn thiện pháp luật trong nước và đề xuất
một số phương hướng và giải pháp để hoàn thiện pháp luật trong nước phù
hợp với các nghĩa vụ với WTO về xóa bỏ hàng rào thương mại phi thuế quan.
4
4. Đối tƣợng, phạm vi và phƣơng pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn sẽ nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện các quy định và
thông lệ của WTO về việc áp dụng các biện pháp phi thuế quan phổ biến; các
quy định và thực tiễn điển hình về áp dụng các biện pháp phi thuế quan của một
số nước, nhóm nước gồm Hoa Kỳ, Châu Âu, Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu các Hiệp định của WTO, bao gồm:
- Hiệp định về thủ tục cấp phép nhập khẩu (ILP);
- Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT);
- Hiệp định về việc áp dụng các biện pháp kiểm dịch động thực vật (SPS);
- Hiệp định thực hiện điều VII của hiệp định chung về Thuế quan và
Thương mại 1994 (CVA);
- Hiệp định về biện pháp đầu tư liên quan đến Thương mại (TRIMS);
- Và một số hiệp định khác.
- Pháp luật của một số nước, nhóm nước như Hoa Kỳ, Châu Âu,
Trung Quốc, Nhật Bản, và Việt Nam.
Bên cạnh đó, luận văn cũng đưa ra một số đề xuất về hoàn thiện hàng
rào thương mại phi thuế quan cho phù hợp với tình hình mới, cung cấp một số
thông tin và đưa ra khuyến nghị đối với các cơ quan chính phủ, các Hiệp hội
và doanh nghiệp xuất khẩu vào một số thị trường lớn như Hoa Kỳ, Châu Âu...
để hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đáp ứng được các yêu cầu về thủ tục và
kỹ thuật như quy định và pháp luật của WTO và các nước này.
Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
5
Luận văn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê
và các phương pháp nghiên cứu truyền thống khác.
5. Ý nghĩa khoa học của luận văn
Chọn và thực hiện đề tài này, tôi mong muốn những kiến thức và nội
dung của đề tài sẽ góp phần cung cấp kiến thức hữu ích về hàng rào thương
mại phi thuế quan của WTO và một số thị trường xuất khẩu cho các doanh
nghiệp xuất khẩu của Việt Nam như Hoa Kỳ, Châu Âu... Thông qua đó,
phòng ngừa và giảm bớt các nguy cơ hàng hóa Việt Nam đối mặt với các biện
pháp phi thuế quan để làm giảm sự thâm nhập của hàng hóa Việt Nam vào
các thị trường trên.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về hàng rào thương mại phi
thuế quan của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Chương 2: Một số quy định cơ bản của WTO về hàng rào thương mại
phi thuế quan.
Chương 3: Pháp luật và thực tiễn của một số nước về hàng rào thương
mại phi thuế quan. Cam kết của Việt Nam với WTO về hàng rào thương mại
phi thuế quan và phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam.
6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ HÀNG RÀO THƢƠNG MẠI PHI THUẾ QUAN
CỦA TỔ CHỨC THƢƠNG MẠI THẾ GIỚI (WTO)
1.1. TỔ CHỨC THƢƠNG MẠI THẾ GIỚI (WTO) VÀ VẤN ĐỀ HẠN CHẾ
CÁC HÀNG RÀO THƢƠNG MẠI PHI THUẾ QUAN
GATT 1947 ra đời với nhiệm vụ: "giảm đáng kể thuế và các rào cản
khác đối với thương mại và loại trừ sự phân biệt đối xử trong thương mại
quốc tế" (Lời mở đầu) [33], nhưng vẫn cho phép các nước áp dụng các biện
pháp hạn chế nhập khẩu trong một số trường hợp nhất định, nhằm bảo vệ sự
cân bằng của cán cân thương mại (Điều 12) hoặc duy trì các hình thức hỗ trợ
để phát triển kinh tế trong giai đoạn đầu phát triển, nâng cao mức sống của
người dân (Điều 18).
Tuyên bố Marrakesh ngày 15/4/1994 thể hiện quyết tâm của 124
Chính phủ tham gia Vòng đàm phán Urugoay về Đàm phán Thương mại Đa
biên trong việc thúc đẩy hơn nữa thương mại quốc tế; hoan nghênh việc cắt
giảm 40% thuế quan trên phạm vi toàn cầu và các thỏa thuận mở cửa thị
trường hàng hóa rộng hơn cho các đối tác thương mại. Cũng trong ngày
15/4/1994, Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới được ký kết tại
Marrkesh quy định cụ thể chức năng, cơ cấu tổ chức, cách thức hoạt động và
các quy định khác của WTO. Điều III (1) của Hiệp định Marrkesh quy định
chức năng của WTO là: Tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi, quản lý và
điều hành những mục tiêu khác của Hiệp định này và các Hiệp định Thương
mại Đa biên và cũng là một khuôn khổ cho việc thực thi, quản lý và điều hành
các Hiệp định Thương mại nhiều bên [35].
Một trong những chức năng hoạt động chính của WTO là tạo thuận lợi
cho thương mại quốc tế. Hoạt động tạo thuận lợi cho thương mại thể hiện
7
dưới nhiều hình thức, một trong các hình thức này là các quốc gia thành viên
cam kết cắt giảm thuế quan để mở cửa thị trường. Tuy nhiên, mở cửa thị
trường không đồng nghĩa với việc thả nổi thị trường nội địa cho hàng hóa
nước ngoài tự do xâm nhập. Song song với việc thực hiện cắt giảm thuế quan
theo các cam kết quốc tế song phương hoặc đa phương, các nước nhập khẩu
cần thiết lập các biện pháp hợp lý để tiếp tục bảo vệ thị trường trong nước,
thông qua đó bảo vệ ngành sản xuất, hoặc ít nhất là bảo vệ người tiêu dùng...
Các biện pháp này được biết đến như là biện pháp phi thuế quan (NTM), hoặc
hàng rào phi thuế quan (NTB). Trong nhiều trường hợp, NTB hay NTM được
sử dụng với cùng một nghĩa và cùng một mục đích. Tuy nhiên, hai thuật ngữ
trên không phải là một, tùy theo các cách hiểu khác nhau. Nếu WTO cho rằng
các NTM như hạn ngạch, giấy phép nhập khẩu, các quy định về vệ sinh…
cũng đồng thời được hiểu là NTB; thì Tổ chức quốc tế về hợp tác kinh tế và
phát triển (OECD) lại cho rằng NTM là các biện pháp mang tính chính sách,
tác động tới việc hạn chế thương mại, mà không phân biệt tính hợp pháp của
các biện pháp này, còn NTB được xem là những công cụ cản trở thương mại
và những công cụ này vi phạm quy định của WTO. Tuy nhiên, OECD cũng
thừa nhận rằng trong nhiều trường hợp NTM có thể chuyển hóa thành NTB.
Trong phạm vi luận văn này, NTM được đề cập tới như một hoặc một số biện
pháp cụ thể (như cấp phép nhập khẩu, biện pháp kiểm dịch…), còn NTB được
đề cập tới như là tập hợp các NTM có tính chất gây cản trở thương mại, hoặc
NTM và NTB có thể sử dụng thay thế nhau với cùng một ý nghĩa. Các hàng
rào và biện pháp phi thuế quan được đề cập ở đây là các biện pháp chung, áp
dụng đối với tất cả các lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp…
Về mặt lịch sử, một số biện pháp phi thuế quan đã xuất hiện trước
Chiến tranh thế giới thứ nhất [60, tr. 4] và hầu như chỉ áp dụng đối với các
sản phẩm nông nghiệp. Từ những năm 20, 30 của thế kỷ trước trở đi đã xuất
hiện thêm một số biện pháp bảo hộ mới như hạn ngạch, cấp phép, và một số
biện pháp mang tính chất bảo vệ như quy định về sức khỏe, an toàn và vệ sinh.
8
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, các biện pháp bảo hộ đã có bước
phát triển đáng kể do các vòng đàm phán Hiệp định GATT đã quá tập trung
vào việc đàm phán cắt giảm hàng rào thuế quan mà gần như bỏ ngỏ hàng rào
phi thuế quan. Cho tới Vòng đàm phán Kenedy từ 1964-1967, sự quan tâm tới
hàng rào thương mại phi thuế quan đã trở lại vì các biện pháp phi thuế quan
này rất phát triển trong thập kỷ 60 của thế kỷ trước. Cũng từ đây, người ta đã
nhận ra rằng các biện pháp phi thuế quan thậm chí có ảnh hưởng tiêu cực tới
thương mại lớn hơn cả các biện pháp thuế quan. Tới Vòng đàm phán
Urugoay, NTB đã thu hút sự chú ý trong lần đàm phán thứ nhất trong những
năm từ 1986-1994. Trong suốt quá trình đàm phán, các NTB mang tính chất
định lượng, hạn chế số lượng đã được chuyển hóa thành các biện pháp thuế
quan. Còn các NTB không mang tính định lượng khác được đưa vào nhóm
"các rào cản kỹ thuật". Cho tới nay, NTB vẫn là một vấn đề được quan tâm
nhiều tại Vòng đàm phán Doha của WTO những năm gần đây, với các nội
dung liên quan tới các biện pháp đầu tư, chính sách cạnh tranh, mua sắm
chính phủ, vấn đề tạo thuận lợi cho thương mại.
NTB trải qua một thời kỳ phát triển nhanh chóng khác sau khi Hiệp
định Marrakesh năm 1994 về thành lập WTO ra đời. Sự phát triển rộng rãi
của các hàng rào này đã tác động tiêu cực tới tự do thương mại, đối lập với
các nỗ lực cắt giảm thuế quan của các thành viên WTO. Một trong những lý
do tồn tại và phát triển của NTB là một khi đã xuất hiện, một biện pháp này sẽ
tồn tại rất lâu mà việc loại bỏ nó rất khó khăn và gây tốn kém về thời gian và
tiền bạc. Hoặc, khi đã loại bỏ biện pháp này thì biện pháp khác sẽ xuất hiện.
NTB, cũng như bất kỳ một chính sách bảo hộ nào khác đều có những mặt tích
cực và tiêu cực của mình. Nhìn chung, Chính phủ và thương mại nước sở tại
sẽ hưởng lợi nếu NTB được sinh ra với ý nghĩa như những tấm lá chắn bảo hộ
ngành sản xuất trong nước, hoặc bảo vệ sức khỏe người dân hay bảo vệ môi
trường. Ngược lại, Chính phủ nước ngoài và doanh nghiệp xuất khẩu sẽ phải
chịu nhiều chi phí vô hình phát sinh khi đối mặt với các biện pháp phi thuế
9
quan. Mặt khác, nếu hàng hóa không được nhập khẩu hoặc nhập khẩu hạn
chế, người tiêu dùng trong nước sẽ mất đi cơ hội mua hàng nước ngoài với
giá cả phù hợp và chất lượng tốt, vì cạnh tranh lành mạnh trong thương mại
chính là tiền để của sự phát triển, bên cạnh đó Chính phủ nước nhập khẩu mất
đi cơ hội thu thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài.
Đối với hàng hóa của các nước đang phát triển, xu hướng thiết lập
hàng rào phi thuế sau khi thành lập WTO đã tăng lên đáng kể [47, tr. 10]. Như
là thuế chống bán phá giá chẳng hạn, loại thuế này đại diện cho một công cụ
mang tính bù đắp khi các nước nhập khẩu đặt ra một khoản thuế bổ sung đối
với hàng nhập khẩu được bán tại thị trường họ với mức giá thấp hơn mức giá
nội địa của hàng hóa nhập khẩu tại nước xuất xứ. Những vụ việc tương tự thế
này thời gian qua xảy ra rất nhiều và chính Việt Nam là một trong những nạn
nhân trong các vụ về tôm, cá da trơn hoặc hàng giày mũ da...
Bắt đầu từ những năm 1980 của thập kỷ trước, Hội nghị về Kinh tế và
Phát triển của Liên Hợp quốc (UNCTAD) đã tiên phong nghiên cứu về NTB
ngay sau vòng đàm phán Tokyo, ban đầu chủ yếu nghiên cứu các NTM như
thủ tục cấp phép nhập khẩu, các hàng rào kỹ thuật đối với thương mại và biện
pháp chống bán phá giá.
Cho tới nay, NTB được coi là những quan ngại đối với việc tiếp cận
thị trường ở giai đoạn đầu. Trong những năm gần đây, cùng với những nỗ lực
cắt giảm thuế quan của tám vòng đàm phán thương mại đa biên trong khuôn
khổ GATT, việc sử dụng và tầm quan trọng của NTB thể hiện ở cả vai trò bảo
hộ và vai trò là công cụ thương mại mang tính pháp lý đã tăng lên đáng kể.
Có thể nêu ra các nguyên nhân sau:
Thứ nhất, một số NTB là đối tượng điều chỉnh tại các Hiệp định
thương mại đa biên của WTO, như giấy phép nhập khẩu, hàng rào kỹ thuật
trong thương mại - TBT, các biện pháp kiểm dịch và vệ sinh - SPS hoặc biện
pháp chống bán phá giá. Các NTB này được đánh giá cao trong việc phục vụ
10
hiệu quả các mục tiêu quan trọng của Chính phủ nước nhập khẩu, như là bảo
vệ sức khỏe người dân, vật nuôi và cây trồng. Trong thực tiễn, các NTB đã bị
lạm dụng khi những biện pháp này được sử dụng để ngụy trang cho các mục
đích bảo hộ, do đó làm cản trở việc tiếp cận thị trường, đặc biệt là đối với các
nước đang phát triển;
Thứ hai, các NTB được coi là khá phức tạp và có dáng dấp của một công
cụ chính sách và kỹ thuật mà các nước đang phát triển khó phát hiện ra chúng
đã bị sử dụng như thế nào, cũng như các mục đích của các biện pháp này.
Các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước chậm phát triển là các
đối tượng chịu nhiều tác động nhất từ NTB. Năm 2002, UNCTAD/WTO đã
dự đoán rằng khoảng 40% hàng hóa xuất khẩu của các nước chậm phát triển
là đối tượng của các NTB. Đối với các nước đang phát triển, các nền kinh tế
chuyển đổi và các nước phát triển thì con số này chỉ là 15%.
NTB với vấn đề tự do hóa thương mại và tiếp cận thị trường:
Vòng đàm phán Urugoay đạt được nhiều kết quả về tự do thương mại.
Nhìn chung, thuế quan đã giảm tới ít nhất 1/3. Đặc biệt là các nước phát triển
phải giảm khoảng 38% thuế quan và tăng cường việc miễn thuế nhập khẩu
đối với các sản phẩm công nghiệp của nước đang phát triển từ 20-40%. Vòng
đàm phán Urugoay cũng thừa nhận việc chuyển đổi các biện pháp phi thuế quan
thành các biện pháp thuế quan tương ứng nhưng cho rằng việc chuyển đổi này
không bao giờ chính xác bởi sự khác nhau về phương pháp chuyển đổi được áp
dụng và sự khác nhau quá lớn giữa việc chuyển đổi thuế quan mang tính bảo hộ
và một bên là sự đánh thuế không lành mạnh.Ví dụ, ngành xuất khẩu của Ấn Độ
đã bị thiệt hại nặng nề vì một số rào cản định lượng khi xuất khẩu sang Mỹ, như
ngành may mặc và len. Nước này đã phải kiện Mỹ ra WTO vì Mỹ không có
lý do rõ ràng đối với cho việc áp dụng các rào cản này đối với hàng xuất khẩu
của Ấn Độ. Hoặc một số nước đã mở rộng quy chế đối xử ưu đãi đối với một
số bạn hàng của mình theo chính sách phân biệt đối xử. Ví dụ như hoa nhập
11
từ các nước Châu Âu được nhập miễn thuế vào Hà Lan, trong khi cũng loại
hoa đó nhập khẩu từ nước khác như Ấn Độ thì sẽ chịu thuế suất từ 18-20%.
Để giải quyết vấn đề NTB và giảm thiểu tác động của NTB đối với
các nước thuộc thế giới thứ ba trong giai đoạn hiện nay, quan trọng nhất vẫn
là xác định những việc họ phải làm để đối phó với các biện pháp kỹ thuật và
cộng đồng thương mại có thể hỗ trợ gì cho các nước này. Điều kiện ban đầu
để cạnh tranh trên thị trường quốc tế là phải đáp ứng được các tiêu chuẩn
quốc tế về chất lượng, đảm bảo sức khỏe và an toàn của các nước nhập khẩu,
đặc biệt là tiêu chuẩn của nước phát triển. Để làm được điều này, các nhà xuất
khẩu của các nước đang phát triển cần được hỗ trợ để có thể nâng cấp và hiện
đại hóa các hệ thống tiêu chuẩn của mình, kể cả các quy định đối với việc
chứng nhận và đánh giá việc tuân thủ, đây là yếu tố cần thiết cho việc gia
nhập môi trường thương mại toàn cầu hiện nay. Hỗ trợ cũng có thể dưới hình
thức là tạo điều kiện cho các nước đang phát triển tham gia vào quá trình xây
dựng các tiêu chuẩn kỹ thuật để họ có thể tham gia tích cực hơn vào thương
mại toàn cầu. Giải pháp này đã được nhắc tới trong chương trình nghị sự về
thực hiện các vấn đề sau Vòng đàm phán Doha. Bên cạnh đó, một giải pháp
khác là cung cấp cho các nước đang phát triển các nguồn thông tin tin cậy và
các khóa đào tạo định kỳ để họ có thể tuân thủ các tiêu chuẩn và quy định mới
tác động tới hoạt động xuất khẩu của họ. Gần đây, OECD đã phân tích sự
quan tâm của các nước đang phát triển đối với NTB theo hai nội dung: Một
là, các nước đang phát triển phải đối mặt với các NTB nào; hai là, ngành sản
xuất hoặc sản phẩm xuất khẩu nào của họ bị ảnh hưởng [47]. Những nguồn
thông tin này dựa vào các dữ liệu từ các nghiên cứu gần đây cũng các vụ việc
giải quyết tranh chấp của WTO, các tổ chức khu vực và các khảo sát thương
mại tại các nước đang phát triển. Báo cáo đã cho thấy những kết quả sau:
- Các sản phẩm bị tác động lớn nhất từ NTB là thủy sản và thực phẩm
sống (27,59%), máy móc và thiết bị điện (19,20%), các sản phẩm của ngành
dệt may và quần áo (8,30%) [47, tr. 20];
12
- Các biện pháp TBT (46%), thủ tục hải quan và hành chính (khoảng
31%) và các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch (17%) là rào cản lớn nhất đối với
những sản phẩm trên [47, tr. 17].
Trên thực tế, các tiêu chuẩn kỹ thuật được coi là một vấn đề làm đau
đầu các nước đang phát triển. Mặc dù các tiêu chuẩn kỹ thuật được áp dụng
một cách hợp pháp tại các nước phát triển, nhưng một số tiêu chuẩn không
tương thích với các tiêu chuẩn quốc tế và một số thậm chí còn khắt khe hơn
cả các tiêu chuẩn quốc tế... Các nước công nghiệp phát triển thường đặt ra
tiêu chuẩn an toàn thực phẩm rất nghiêm khắc đối với hàng nhập khẩu từ các
nước đang phát triển. Do đó, đối với các nước đang phát triển thì việc đáp ứng
được những tiêu chuẩn này là vấn đề rất khó khăn. Vì vậy, cần tạo điều kiện
cho các nước đang phát triển tham gia tích cực hơn vào việc xây dựng các
tiêu chuẩn kỹ thuật liên quan tới hàng hóa xuất khẩu.
1.2. QUAN NIỆM PHÁP LÝ VỀ HÀNG RÀO THƯƠNG MẠI PHI THUẾ QUAN
1.2.1. Quan niệm pháp lý về hàng rào thƣơng mại phi thuế quan
của một số nƣớc
Từ điển Tiếng Việt giải thích: "Hàng rào buôn bán: là trở ngại mà
chính phủ một nước đặt ra đối với một hay nhiều mặt hàng xuất khẩu của
nước khác nhằm hạn chế việc xuất khẩu hàng hóa đó sang nước mình, thông
qua những hình thức như đánh thuế nhập cao, quy định hạn ngạch, kiểm soát
ngoại hối..." [50, tr. 914].
Ở mức độ rộng nhất, NTB đề cập tới tất cả các rào cản đối với thương
mại mà không phải là rào cản thuế quan. Các rào cản này bao gồm cả các loại
thuế chống bán phá giá và thuế đối kháng, cản trở nhập khẩu tự nguyện, trợ
cấp cho những khoản thua lỗ trong kinh doanh, rào cản kỹ thuật đối với
thương mại và các cản trở đối với các hoạt động thương mại hàng hóa.
Quan điểm của các nước rất khác nhau về vấn đề NTB [43, tr. 2].
13
EU không có một định nghĩa cụ thể về NTB, dựa trên cơ sở các báo
cáo của các nhà xuất khẩu Châu Âu, EU cho rằng NTB là tất cả các rào cản
mà họ cho là cản trở tới các hoạt động thương mại của các nhà xuất khẩu của
họ [43, tr. 1].
Theo Báo cáo thương mại quốc gia hàng năm đối với hàng rào ngoại
thương của Hoa Kỳ, thì NTB được định nghĩa theo nghĩa rộng và mang nặng
tính pháp lý. NTB được các nhà kinh tế và xuất khẩu của Hoa Kỳ nhìn nhận
là các quy định, chính sách và thực tiễn của quốc gia, có mục đích bảo vệ sản
phẩm nội địa khỏi sự cạnh tranh từ hàng hóa nước ngoài, hoặc khuyến khích
việc xuất khẩu của các sản phẩm nội địa. Thông tin về NTB dựa trên các báo
cáo của các nhà xuất khẩu của Hoa Kỳ [43, tr. 2].
Dựa trên kết quả khảo sát các doanh nghiệp xuất khẩu của mình,
Canada cho rằng tất cả các biện pháp nhằm hạn chế thương mại đều là NTB
từ hạn ngạch, giấy phép xuất khẩu, trị giá hải quan, SPS, TBT, phân loại cho
đến thủ tục hải quan, chi phí hành chính...
Theo các quan điểm trên, thì dữ liệu NTB do các nước thu thập được
đã bị ảnh hưởng bởi nhận thức chủ quan của cộng đồng doanh nghiệp.
Một số nước khác cho rằng khi xem xét các NTB, cần loại trừ các biện
pháp sau [48, tr. 5]:
- Các NTB liên quan đến các Hiệp định hiện hành của WTO như trị
giá hải quan, giấy phép nhập khẩu, PSI, SPS, TBT. Vì vậy, những biện pháp
này không phải là đối tượng của bất kỳ một chương trình đàm phán nào;
- Các NTB liên quan đến các Hiệp định khác của WTO như thuế
chống bán phá giá, thuế đối kháng và chống trợ cấp... là đối tượng của một
chương trình đàm phán cụ thể;
- Các NTB là một nội dung của Tuyên bố Doha như tạo thuận lợi cho
thương mại, minh bạch trong mua sắm chính phủ...
14
1.2.2. WTO và quan niệm về hàng rào thƣơng mại phi thuế quan
WTO không đưa ra một định nghĩa chuẩn về hàng rào thương mại phi
thuế quan. Tuy nhiên, Hiệp định về Tiêu chuẩn kỹ thuật (TBT) đã đưa ra một
khuôn khổ kỹ thuật nhất định đối với việc áp dụng tiêu chuẩn kỹ thuật trong
việc hạn chế thương mại. Theo đó:
Các thành viên đảm bảo rằng các quy định kỹ thuật không
được chuẩn bị, thông qua và áp dụng với mục đích tạo ra các cản
trở không cần thiết cho thương mại quốc tế. Với mục đích này, các
quy định về kỹ thuật không được gây hạn chế cho thương mại hơn
mức cần thiết để hoàn tất một mục tiêu hợp pháp, có tính đến các
rủi ro có thể nảy sinh từ sự không hoàn tất. Các mục tiêu hợp pháp
đó là: các yêu cầu về an ninh quốc gia; việc ngăn ngừa các hoạt
động gian lận, bảo vệ sức khỏe và an toàn cho con người, động vật
hoặc môi trường... [38, Điều 2.2].
Chủ thể của các NTB là các thành viên của WTO. "Thành viên của
WTO là các quốc gia hoặc vùng lãnh thổ thuế quan riêng biệt tự chủ trong
việc điều hành các mối quan hệ thương mại và các vấn đề khác..." [35, Điều 12].
Các thuật ngữ "quốc gia" hoặc "các quốc gia được sử dụng trong Hiệp định
này và các Hiệp định Thương mại Đa biên được hiểu là bao gồm cả Thành
viên của WTO có vùng lãnh thổ thuế quan riêng rẽ. Trong trường hợp Thành
viên WTO là một vùng lãnh thổ thuế quan riêng rẽ thì thuật ngữ "quốc gia"
được sử dụng trong Hiệp định này và các Hiệp định Thương mại Đa biên sẽ
được hiểu là vùng lãnh thổ thuế quan đó, nếu không có quy định cụ thể [35].
Việc không có một định nghĩa chuẩn, được quốc tế công nhận, đã khiến
cho việc nghiên cứu và phân tích NTB khó khăn hơn và do đó, kết quả phân
tích cũng kém tin cậy hơn. Từ đó, nhiều thành viên của WTO thấy rằng cần
phải có một định nghĩa chuẩn về NTB, mà tiêu chí được sử dụng để định
nghĩa NTB có thể là bản chất hạn chế thương mại và bảo hộ của chúng. Ở
15
một quốc gia phát triển áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật chặt chẽ và cao hơn
các nước khác hoặc cao hơn tiêu chuẩn thông thường của quốc tế cũng có khả
năng bị coi là sử dụng NTB.
Như vậy, chủ thể của các hàng rào thương mại phi thuế quan là:
- Quốc gia. Từ điển tiếng Việt giải thích: "Quốc gia là một nước gồm
có ba yếu tố: lãnh thổ, nhân dân và chủ quyền" [50, tr. 1622].
- Vùng lãnh thổ có thuế quan riêng rẽ: hiện nay vẫn tồn tại quy chế
thành viên đối với các Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan (Trung Quốc).
+ Đối tượng áp dụng của NTB là các hàng hóa nhập khẩu như các sản
phẩm chế biến, công nghiệp, nông nghiệp...
+ Phạm vi áp dụng của NTB rất rộng, đối với mọi quan hệ thương mại
hàng hóa, từ các hoạt động xuất khẩu, cho tới các hoạt động tiếp cận thị
trường, mở rộng thị trường, thiết lập thị trường mới và hoạt động đầu tư.
Khi xâm nhập vào thị trường mới, một số nhà nhập khẩu phải đối mặt
với một số khó khăn như các quy định về tài chính, cạnh tranh với các nhà
xuất khẩu từ các nước khác và với các nhà sản xuất của nước nhập khẩu. Tùy
theo trình độ phát triển, các yếu tố kinh tế xã hội của mình mà mỗi nước sử
dụng các công cụ khác nhau để hạn chế thương mại tự do và hàng hóa nhập
khẩu, từ thuế quan cho tới hạn ngạch nhập khẩu, các thỏa thuận hạn chế nhập
khẩu tự nguyện, từ các biện pháp hữu hình cho tới vô hình.
Một trong những nguyên nhân khiến các cam kết trong khuôn khổ
GATT không thành công, dẫn đến việc thành lập một tổ chức chặt chẽ và hợp
pháp là WTO vào giữa những năm 1990 là sự tăng nhanh số lượng rào cản
phi thuế quan mà các nước đặt ra để hạn chế hàng hóa nhập khẩu. Các nhà
hoạch định chính sách ở nhiều nước đã cố gắng tuân thủ quy định của GATT
về giảm thuế, thay vào đó họ phải tìm ra hình thức khác kiểm soát việc nhập
khẩu, giảm nhập khẩu nhằm bảo hộ một ngành sản xuất hoặc lợi nhuận của
16
- Xem thêm -