SỬ DỤNG BÀI TẬP TRONG DẠY HỌC CÁC BÀI
ÔN TẬP, SƠ KẾT, TỔNG KẾT LỊCH SỬ 12 TRƯỜNG THPT
(CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN)
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Luật giáo dục nêu rõ, để hoàn thành mục tiêu giáo dục đào tạo cần thực hiê ên
theo nguyên lý: “Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao đô ông sản xuất, ly
luâ ôn gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và
giáo dục xã hô ôi”. Nó quy định phương pháp giáo dục ở trường phổ thông: “phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ đô ông, sáng tạo” của học sinh; “phù hợp với đă ôc
điểm của từng lớp học, môn học”, “bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyê ôn ki
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn”; “tác đô ông đến tình cảm đem lại niềm vui,
hứng thú học tâ ôp của học sinh”[8, tr30].
Phương pháp giáo dục đòi hỏi viê êc dạy học ở trường phổ thông phải gắn lý
luâ nê với thực tiễn; bảo đảm viê êc cung cấp lý thuyết hợp trình đô ,ê chú trọng thực
hành, rèn luyê nê ; giảm bớt viê êc truyền thụ tri thức“mô ôt chiều” của giáo viên, tăng
cường hoạt đô nê g nhâ nê thức đô cê lâ êp của học sinh.
Dựa trên cơ sở tâm lí học và lí luận dạy học hiê ên đại chúng ta biết rằng:
trong quá trình dạy học để phát triển nhân cách của học sinh cần phải tăng cường
tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh. Thực hiê ên nhiê êm vụ đó có nhiều biê ên
pháp, trong đó viê cê sử dụng bài tâ êp chiếm mô tê vị trí quan trọng và ngày càng
khẳng định được ưu thế của mình. Quá trình dạy học ở trường phổ thông hiê nê nay
bài tâ pê được coi là khâu cơ bản và được quy định trong phân phối chương trình.
Bài tập nói chung và bài tập trong dạy học lịch sử nói riêng có vai trò hết
sức quan trọng trong việc hình thành tri thức, góp phần vào nhiệm vụ giáo dục tư
tưởng, tình cảm, nhân cách, gây hứng thú học tập và phát triển tư duy cho học sinh.
Bài tâ pê lịch sử đang và sẽ được sử dụng ngày càng rô nê g rãi, định hình được vị trí
quan trọng của mình trong viê êc nâng cao chất lượng giáo dục, phát huy năng lực
tư duy đô cê lâ êp, sáng tạo của học sinh.
Trong dạy học lịch sử, các bài ôn tập, sơ kết, tổng kết có vai trò quan trọng
trong việc nâng cao chất lượng kiến thức của học sinh, hình thành cho các em
những hiểu biết khoa học về lịch sử và tính quy luật của sự phát triển xã hội, bồi
dưỡng và rèn luyện các kỹ năng cần thiết của bộ môn.
Đặc điểm của kiến thức lịch sử mang tính không lặp lại cả về thời gian,
không gian, nhân vật, diễn biến, kết quả, ý nghĩa…Vì vậy học sinh chỉ được học
kiến thức một lần duy nhất trong một cấp học, những tiết học sau, bài học sau
những kiến thức đó không được lặp lại. Chính điều này gây khó khăn cho học sinh
trong việc củng cố, ghi nhớ kiến thức. Vậy nên trong quá trình dạy học cần giành
thời gian củng cố, ôn tập kiến thức cho học sinh, tìm các biện pháp để giúp học
sinh nhớ nhanh, nhớ lâu, nhớ bền vững những kiến thức đã được học.
Tuy nhiên, hiê ên nay vẫn còn nhiều quan niê êm cho rằng Lịch sử chỉ là môn
lý thuyết không có bài tâ pê và thực hành, điều này gây ra ảnh hưởng không nhỏ đối
với viê êc đổi mới phương pháp dạy học trong thời gian gần đây. Trong thực tiễn
quá trình sử dụng bài tập trong dạy học lịch sử nói chung và nhất là đối với các bài
1
ôn tập, sơ kết, tổng kết nói riêng ở trường trung học phổ thông vẫn còn nhiều hạn
chế, chưa được quan tâm đúng mức, thậm chí còn bị bỏ qua.
Trên cơ sở về mặt lý luận và thực tiễn quá trình dạy học cũng như căn cứ
vào mục tiêu giáo dục, giáo dưỡng và phát triển, chúng tôi chọn vấn đề: “Sử dụng
bài tập trong dạy học các bài ôn tập, sơ kết, tổng kết môn Lịch Sử lớp 12 trường
THPT (Chương trình chuẩn)” để làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm của mình.
II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lí luận
1.1. Quan niê êm về bài tâ êp lịch sư
Trong dạy học ở trường phổ thông nói chung, bài tâ pê được coi là khâu cơ
bản của quá trình dạy học, nó chiếm mô tê vị trí quan trong trong phân phối chương
trình, trong mô êt giờ lên lớp chẳng hạn như các môn Văn, Toán, Hóa, Lý…quy
định có cả giờ luyê nê tâ êp, bài tâ êp…
Theo nghĩa chung nhất, thuâ êt ngữ “bài tâ ôp” (tiếng Anh là “Exercise”, tiếng
Pháp là “Exercice”, tiếng Nga là “Uprêjniê”) dùng để chỉ mô êt hoạt đô nê g nhằm
rèn luyê ên thể chất và tinh thần: bao gồm các loại bài như bài tâ êp xướng âm, bài
tâ pê thể dục… Khi dùng trong lĩnh vực giáo dục (dạy học), theo “Từ điển Tiếng
Viê êt” thuâ êt ngữ “bài tâ ôp” có nghĩa là: “bài ra cho học sinh làm để vâ ôn dụng
những điều đã học. Ví dụ, bài tâ ôp Đại số; ra bài tâ ôp; làm bài tâ ôp ở lớp…” Những
định nghĩa trên mới giải thích về mă tê ngữ nghĩa chứ chưa làm rõ bản chất khái
niê m
ê “bài tâ ôp”.
Theo Giáo sư Nguyễn Ngọc Quang, khi xem xét khái niê m
ê “bài tâ ôp” ta
không thể tách rời nó với người làm bài tâ êp. Bài tâ êp chỉ có thể là“bài tâ ôp” khi nó
trở thành đối tượng hoạt đô nê g của mô êt chủ thể, nghĩa là có mô êt người nào đó, có
nhu cầu chọn nó làm đối tượng hoạt đô nê g, mong muốn giải bài tâ pê – tức là có mô êt
“người giải”. Như vâ êy, bài tâ êp là mô tê hê ê thông tin xác định bao gồm hai tâ pê hợp
gắn bó chă êt chẽ và tác đô nê g qua lại với nhau. Đó là những điều kiê ên (những dữ
liê êu cho trước để từ đó học sinh có căn cứ tìm ra lời giải, cách giải) và những yêu
cầu (tức là cái phải tìm, trạng thái mong muốn đạt tới của đối tượng).
Trong các tài liê êu Giáo dục học, Giáo dục lịch sử, khái niê êm“bài tâ ôp” có
nô êi dung rô nê g lớn hơn nhiều bao gồm cả bài tâ pê nhâ ên thức. Theo I.Ia. Lecne: bài
tâ pê thường được dùng theo nghĩa là mô êt nhiê êm vụ cần phải được thực hiê ên hoă êc
mô êt mục đích cần phải đạt tới.
Trên cơ sở định nghĩa “bài tâ ôp” trong dạy học, Tiến sĩ Trần Quốc Tuấn quan
niê êm: “Bài tâ ôp lịch sử là khái niêm
ô chỉ mô ôt hê ô thông tin xác định về tổ chức quá
trình dạy học lịch sử ở trường phổ thông khi kiểm tra, đánh giá kết quả học tâ ôp
của học sinh trên các linh vực nhâ ôn thức (khoa học và tư tưởng), xúc cảm – tình
cảm và kỹ năng, ki xảo”[14, tr12].
Từ nhâ nê thức trên, chúng ta có định nghĩa “bài tâ ôp” trong dạy học như sau:
Bài tâ pê là mô êt hê ê thông tin xác định bao gồm những điều kiê ên và những yêu cầu
được đưa ra trong quá trình dạy học, đòi hỏi người học có mô êt lời giải đáp, mà lời
giải đáp này về toàn bô ê hoă êc từng phần không ở trạng thái có sẵn của người giải
tại thời điểm mà bài tâ pê được đưa ra.
Như vâ êy có thể thấy rằng bài tâ pê là mô êt hê ê thông tin, quy định nhiê êm vụ
mà học sinh phải thực hiê ên hay là mục đích mà giáo viên và học sinh cần phải
2
hoàn thành trong dạy học lịch sử. Bài tâ pê lịch sử được tiến hành trong tất cả các
khâu của quá trình dạy học: nghiên cứu tài liê êu mới; củng cố, khái quát hóa, hê ê
thống hóa; vâ ên dụng, kiểm tra – đánh giá.
1.1.1. Các loại bài tập trong dạy học lịch sử
Có nhiều cách và căn cứ để phân loại bài tập, tuy nhiên thông thường chúng
ta chia ra làm ba nhóm bài tập: tự luận; trắc nghiệm; thực hành.
* Nhóm bài tập tự luận
Đây là loại bài tập có yêu cầu cao đối với học sinh khi làm bài. Loại bài tập
này đòi hỏi học sinh phải trình bày, lập luận một cách chặt chẽ những vấn đề được
nêu thành một bài viết hoàn chỉnh. Các dạng bài tập tự luận thường gặp như: bài
tập phân tích tính chất của sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử; bài tập chứng
minh, lí giải những nhận định về lịch sử; bài tập phân tích mối quan hệ giữa các sự
kiện lịch sử; bài tập tìm hiểu nguyên nhân, ý nghĩa sự kiện, bài học kinh nghiệm…
Ví dụ:
Câu 1: Trình bày quá trình thành lập ASEAN và quan hệ giữa ASEAN với
Việt Nam từ khi thành lập cho đến nay. Việt Nam cần làm gì để phát triển hơn nữa
mối quan hệ hợp tác đối với các nước trong khu vực Đông Nam Á trong quá trình
hội nhập quốc tế?
Câu 2: Hãy chứng minh: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả của sự
kết hợp giữa ba yếu tố: phong trào công nhân, phong trào yêu nước và chủ nghĩa
Mác – Lênin.
Câu 3: Sự khủng hoảng của chế độ xã hô iê chủ nghĩa (XHCN) ở Liên Xô bắt
nguồn từ những nguyên nhân nào? Theo em sự sụp đổ mô hình nhà nước XHCN ở
Liên Xô và Đông Âu đã để lại cho chúng ta những bài học gì?
Câu 4: Chiến thắng Phước Long (6 – 1 – 1975) là một “hiện tượng mới”
trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của quân và dân miền Nam. Hiện
tượng này là gì? Tại sao sau chiến thắng Phước Long, Đảng ta đã quyết tâm đề ra
kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam trong hai năm 1975 – 1976?
* Nhóm bài tập trắc nghiệm khách quan
Được xây dựng bằng hệ thống câu hỏi, bài tập đòi hỏi các câu trả lời ngắn.
Thông thường bài tập trắc nghiệm khách quan được chia làm bốn loại: bài tập yêu
cầu xác định đúng – sai; bài tập yêu cầu lựa chọn đáp án đúng; bài tập xác định
mối quan hệ giữa các yếu tố được nêu (đối chiếu, cặp đôi); bài tập điền khuyết.
* Bài tập thực hành
Loại bài tập này với mục đích làm cho học sinh biết vận dụng những kiến
thức đã học vào cuộc sống học tập, lao động và các công tác xã hội. Đồng thời
giúp cho các em tạo biểu tượng một cách chân xác về sự kiện lịch sử, rèn luyện kĩ
năng, kĩ xảo trong quá trình học tập. Một số loại bài tập thực hành như: Vẽ sơ đồ,
lược đồ, biểu đồ, đồ thị, lập bảng niên biểu, bảng so sánh, sưu tầm tài liệu, tranh
ảnh, bài viết..
1.1.2. Vai trò của bài tâ ôp trong dạy học lịch sử
Trong dạy học lịch sử cũng như các môn học khác ở trường phổ thông phải
đồng thời thực hiê ên cả ba nhiê êm vụ có quan hê ê hữu cơ với nhau: giáo dưỡng
(cung cấp kiến thức khoa học, chính xác); giáo dục (về đạo đức, phẩm chất, tư
tưởng, tình cảm, thái đô )ê và phát triển (kỹ năng, kỹ xảo thực hành bô ê môn). Trong
3
quá trình này bài tâ pê lịch sử có vai trò hết sức quan trọng trong viê êc hình thành tri
thức cho học sinh. Viê êc hình thành, củng cố kiến thức mới cho học sinh trong dạy
học lịch sử ở trường THPT được thực hiê ên thông qua nhiều phương tiê ên khác
nhau, trong đó có bài tâ pê lịch sử.
Theo lý luâ ên dạy học hiê ên đại, quá trình hình thành kiến thức cho học sinh
chỉ có thể đạt hiê êu quả khi viê êc dạy học được thực hiê ên trên cơ sở tổ chức hoạt
đô nê g nhâ nê thức đô cê lâ êp cho học sinh, chứ không phải là sự truyền đạt kiến thức
có sẵn của giáo viên. Trong cuốn “Phát huy tính tích cực học tâ êp của học sinh như
thế nào”, I.F. Kharlamôp đã viết: “quá trình nắm vững kiến thức mới không biến
thành viêcô học thuô ôc mô ôt cách bình thường các quy tắc, các kết luâ ôn khái quát
hóa. Nó được xâ ôy dựng trên cơ sở của viêcô cải tiến công tác tự lâ ôp của học sinh,
của viê ôc phân tích tính lôgic sâu sắc tài liêuô sự kiênô làm nền tảng cho viê ôc hình
thành các khái nê ôm khoa học”[9, tr10].
Để nắm vững tri thức mô êt cách sâu sắc trong học tâ pê , học sinh phải thực
hiê ên mô êt chu trình hoạt đô nê g trí tuê ,ê bao gồm những hoạt đô nê g tri giác tài liê êu,
thông hiểu nó, rèn luyê ên kỹ năng, kỹ xảo bằng những bài luyê nê tâ êp và cuối cùng
là khái quát hóa, hê ê thống hóa kiến thức. M. A. Đannilốp khẳng định: “Kiến thức
sẽ được nắm vững thực sự, nếu học sinh có thể vâ ôn dụng mô ôt cách thành thạo
chúng vào viêcô hoàn thành những bài tâ ôp ly thuyết và thực hành”[7, tr28]. Giáo sư
N.A. Menchinxkaia cũng nhấn mạnh rằng: “chỉ có mô ôt hê ô thống hợp ly các bài
luyê ôn tâ ôp, đòi hỏi học sinh phải có những phương pháp đa dạng để tiếp thu tài liêuô
học tâ ôp và mô ôt sự căng thẳng trí tuê ô cao mới cho phép đạt được những kiến thức
sâu sắc và bền vững”. Qua quá trình làm bài tâ êp giúp cho học sinh hê ê thống lại
được những kiến thức đã học, từ đó vâ ên dụng vào thực tế để giải quyết những yêu
cầu mà giáo viên đă tê ra. Sau khi hoàn thành những công viê êc ấy thì tư duy học
sinh sẽ tự phát triển thông qua các thao tác được tiến hành trong quá trình tìm lời
giải cho bài tâ pê .
Như vâ êy, bài tâ êp góp phần phát triển tư duy sáng tạo của học sinh trên cơ sở
nắm vững kiến thức cơ bản.
Bài tâ pê lịch sử góp phần vào nhiê êm vụ giáo dục tư tưởng, tình cảm, nhân
cách của học sinh. So với các môn học khác trong trường phổ thông, lịch sử có
nhiều ưu thế trong viê êc giáo dục học sinh, song vấn đề ở đây là “hiêuô quả giáo
dục, chứ không phải là sự phô trương hình thức, giáo điều, áp đă ôt”[12, tr 96]. Với
tư cách là mô êt phương tiê ên để cung cấp, trang bị tri thức lịch sử cho học sinh, bài
tâ pê lịch sử có vai trò quan trọng trong viê êc giáo dục tình cảm, phẩm chất đạo đức
cho học sinh mà các phương tiê ên dạy học khác khó có thể thay thế được. Điều này
được thể hiê ên rõ thông qua quá trình vâ ên dụng mô êt cách sáng tạo kiến thức lịch sử
để giải quyết mô tê vấn đề đă êt ra, học sinh sẽ tiếp câ nê với chân lí, phản ánh được
hiê ên thực và qua đó xây dựng được niềm tin vững chắc vào sự phát triển hợp quy
luâ êt của lịch sử. Ngoài ra, thông qua viê êc giải các loại bài tâ êp lịch sử, học sinh
được rèn luyê nê những đức tính tốt đẹp về tinh thần tự lực, tính cẩn thâ ên, kiên trì,
vượt khó, tính chân thực…
Bài tâ êp lịch sử góp phần rèn luyê ên kỹ năng thực hành bô ê môn cho học sinh.
Rèn luyê nê kỹ năng bô ê môn (bao gồm kỹ năng học tâ pê và kỹ năng thực hành) là
mô êt nhiê êm vụ quan trọng trong viê êc dạy học lịch sử ở trường phổ thông. Đây là
4
mô êt trong những biê ên pháp cần thiết để tăng cường hoạt đô nê g nhâ ên thức đô cê lâ pê ,
sáng tạo cho học sinh, góp phần nâng cao trí tuê ,ê thực hiê ên nguyên lý giáo dục của
Đảng: “Học đi đôi với hành…”.
Rèn luyê ên kỹ năng thực hành bô ê môn chính là rèn luyê nê những phương
pháp học tâ pê thích hợp nhất, phù hợp với quy luâ êt nhâ nê thức, làm cho học sinh
tích cực hoạt đô nê g tại lớp, biết phương hướng và phương pháp hoạt đô nê g tự lâ êp
để chủ đô nê g tiếp thu bài, lĩnh hô êi kiến thức mô êt cách sâu sắc và vâ ên dụng vào
cuô êc sống. Có nhiều hình thức, biê ên pháp khác nhau để thực hiê ên viê êc rèn luyê nê
kỹ năng bô ê môn cho học sinh qua dạy học lịch sử, trong đó sử dụng bài tâ êp là mô tê
trong những biê ên pháp chủ yếu và mang lại hiê êu quả cao nhất.
1.2. Vai trò, ý nghĩa của bài ôn tập, sơ kết, tổng kết môn Lịch Sư
Các bài ôn tâ pê , sơ kết, tổng kết trong chương trình lịch sử ở trường THPT
có vai trò đă êc biê êt quan trọng. Đây là loại bài nhằm củng cố, hê ê thống những kiến
thức cơ bản của mô êt giai đoạn lịch sử nhất định, tổng hợp, khái quát kiến thức, rèn
luyê nê kĩ năng, kĩ xảo cho học sinh. Bài ôn tâ êp, sơ kết, tổng kết được thực hiê ên khi
hoàn thành viê êc nghiên cứu mô êt giai đoạn, mô êt thời kì, mô tê khóa trình hay các
vấn đề lịch sử của chương trình. Bài ôn tâ êp, sơ kết, tổng kết giúp cho học sinh có
mô êt cái nhìn toàn cảnh về nô êi dung mình đã học để hê ê thống hóa, khái quát hóa
những tri thức ấy. Chính vì lí do đó loại bài này có chức năng củng cố những kiến
thức đã học, đồng thời rèn luyê nê kĩ năng thực hành bô ê môn cho học sinh. Điều
này rất quan trọng được đă êt ra trong mục tiêu giáo dục của bô ê môn. Chẳng hạn
trong bài: Tổng kết lịch sử thế giới hiê nê đại từ năm 1945 đến năm 2000, trong
chương trình lớp 12, những kiến thức cơ bản được hê ê thống lại qua đó đã giúp cho
học sinh hình dung được toàn cảnh thế giới với những nét nổi bâ êt. Sau Chiến tranh
Thế giới thứ hai thì mô êt trâ êt tự mới đã được xác lâ êp, trong đó nổi lên vai trò của
Liên Xô và Mỹ (Trâ êt tự hai cực Ianta). Với sự thắng lợi của các cuô êc cách mạng
dân chủ nhân dân ở các nước Đông Âu, chủ nghĩa xã hô êi đã vượt ra khỏi phạm vi
mô êt nước, trở thành mô êt hê ê thống thế giới...Từ đó giúp cho học sinh nhâ ên thức
được tình hình thế giới với những biến đô nê g lớn lao, với nhiều xu thế đang dần
hình thành, nhưng đồng thời cũng thấy rõ xu thế phát triển tất yếu của xã hô êi trong
tương lai.
Bài ôn tâ êp, sơ kết, tổng kết giúp cho học sinh có thể phân tích được bản chất
những mối quan hê ,ê giải thích sâu hơn những khái niê êm phức tạp mà mình đã
được học trước đó để nâng cao trình đô ê lý thuyết khi lí giải các vấn đề lịch sử.
Chẳng hạn trong bài: Tổng kết lịch sử Viê êt Nam từ năm 1919 đến năm 2000,
chương trình lớp 12, giúp cho học sinh thấy rõ hơn tiến trình phát triển đi lên của
cách mạng Viê êt Nam. Từ đó học sinh có thể hiểu sâu hơn, giải thích rõ hơn những
vấn đề như: xu hướng vô sản, dân chủ tư sản,... trong quá trình đấu tranh thành lâ pê
Đảng cô nê g sản Viê êt Nam.
Bài ôn tâ êp, sơ kết, tổng kết có vai trò hết sức quan trọng trong viê êc phát
triển tư duy và rèn luyê nê kĩ năng thực hành bô ê môn cho học sinh.Tổ chức tốt loại
bài học này là điều kiê ên quan trọng để nâng cao chất lượng kiến thức hình thành
cho học sinh những hiểu biết khoa học về lịch sử và tính quy luâ êt của sự phát triển
xã hô êi, bồi dưỡng các kĩ năng được quy định trong chương trình lịch sử ở trường
phổ thông.
5
2. Những giải pháp thực hiện đề tài
2.1. Một số nguyên tắc chung khi sư dụng bài tập trong dạy học bài ôn
tập, sơ kết, tổng kết
2.1.1. Sử dụng bài tập phải góp phần thực hiện mục tiêu dạy học (giáo
dưỡng, giáo dục và phát triển)
Sử dụng bài tập cũng như sử dụng bất cứ biện pháp nào trong dạy học lịch
sử đều nhằm mục đích nâng cao chất lượng giờ học qua đó để thực hiện tốt mục
tiêu giáo dục. Hiệu quả bài học là cái đích của mọi phương pháp, mọi hình thức
dạy học, trong đó việc sử dụng bài tập để dạy học bài ôn tập, sơ kết, tổng kết cũng
nhằm mục đích trên. Đây là nguyên tắc chung chi phối nội dung, phương pháp dạy
học, trên cơ sở mục tiêu dạy học mà đưa ra biện pháp, hình thức dạy học cho phù
hợp với từng bài, từng chương hay từng khóa trình lịch sử.
Chúng ta biết rằng, hiệu quả của bài học lịch sử được thể đánh giá qua ba
tiêu chí, về giáo dưỡng phải cung cấp kiến thức cơ bản, khoa học cho học sinh.
Ví dụ: khi sử dụng bài tập trong dạy học bài 11: Tổng kết lịch sử thế giới
hiện đại từ năm 1945 đến năm 2000 (SGK Lịch sử 12, chương trình chuẩn), để
thực hiện mục tiêu giáo dưỡng, chúng ta cần hệ thống lại cho học sinh những kiến
thức đã học về lịch sử thế giới sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến năm 2000, qua
hai thời kì: thời kì Chiến tranh lạnh từ năm 1945 đến năm 1991, thế giới chia làm
hai phe – tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa trong trật tự “hai cực” do Mỹ và
Liên Xô đứng đầu mỗi cực và sau thời kì Chiến tranh lạnh từ năm 1991, trật tự thế
giới “hai cực” tan rã, một trật tự thế giới mới “đa cực” đang hình thành; về sự phát
triển và vai trò của các nước lớn trong quan hệ quốc tế; về kết quả của phong trào
giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi và khu vực Mĩ La tinh; tác động của cuộc
cách mạng khoa học – công nghệ và xu thế toàn cầu hóa đã tạo thời cơ và thách
thức đối với tất cả các nước trong quá trình phát triển.
2.1.2. Sử dụng bài tập phải có sự lựa chọn để thực hiện tốt nhiệm vụ, mục
đích của bài học
Trong dạy học lịch sử có nhiều loại bài học, về cơ bản chúng ta chia thành
bốn loại bài học (bài cung cấp kiến thức mới; bài ôn tập, sơ kết, tổng kết; bài kiểm
tra đánh giá; bài hỗn hợp). Tương ứng với mỗi loại bài học lại có những mục đích
khác nhau và biện pháp thực hiện khác nhau, đây là căn cứ để chúng ta sử dụng bài
tập cho hợp lí. Như vậy phải căn cứ vào từng loại bài học cụ thể mà đưa ra biện
pháp sử dụng bài tập cho phù hợp với nhiệm vụ, mục đích cũng như đặc điểm của
bài.
Ví dụ: khi sử dụng bài tập để dạy các bài ôn tập sơ kết, tổng kết, trước hết
phải xác định rõ mục đích của loại bài này: Bài ôn tâ pê , sơ kết, tổng kết được sử
dụng khi hoàn thành viê êc nghiên cứu mô êt giai đoạn, mô êt thời kì, mô êt khóa trình
hay các vấn đề lịch sử của chương trình, nhằm củng cố, tổng hợp, khái quát kiến
thức, rèn luyê ên kĩ năng, kĩ xảo cho học sinh. Trên cơ sở những sự kiê ên lịch sử cụ
thể đã học, bài ôn tâ pê , sơ kết, tổng kết cung cấp cho học sinh mô êt bức tranh toàn
diê ên về các hiê ên tượng hoă êc quá trình lịch sử đã học và hê ê thống hóa, khái quát
hóa các kiến thức đã tiếp thu. Mă êt khác, viê êc ôn tâ pê , sơ kết, tổng kết kiến thức
cần phải chú ý phát triển tính tích cực đô cê lâ êp trong nhâ nê thức, đă êc biê êt là tư duy
6
và rèn kuyê ên kỹ năng thực hành bô ê môn của học sinh. Nhiê êm của loại bài học này
không trình bày kiến thức mới mà hướng dẫn học sinh nhớ lại những điều đã học,
uốn nắn những hiểu biết sai. Bổ sung, khái quát hóa, rút ra những kết luâ nê để nhâ ên
thức sâu sắc, toàn diê ên hơn.
2.1.3. Sử dụng bài tập phải có sự kết hợp linh hoạt với các phương pháp
dạy học khác
Trong dạy học các môn khoa học cũng như trong dạy học lịch sử, không có
phương pháp nào là “độc tôn”, có thể thay thế cho tất cả các phương pháp khác,
chính vì vậy việc sử dụng bài tập cũng tuân thủ nguyên tắc trên. Để đạt hiệu quả
trong một giờ lên lớp đòi hỏi người giáo viên phải có sự linh hoạt, kết hợp nhuần
nhuyễn các phương pháp dạy học. Không phải bất cứ nội dung nào, mục nào của
bài học đều sử dụng bài tập mà phải có sự kết hợp với các phương pháp dạy học
khác như : trình bày miệng, sử dụng đồ dùng trực quan, sử dụng tài liệu thành văn,
tạo biểu tượng,…có như vậy mới làm cho giờ học sinh động, học sinh dễ tiếp thu
kiến thức.
Ví dụ: khi dạy mục 3: Thời kì 1945 – 1954, bài 27: Tổng kết lịch sử Việt
Nam từ năm 1919 đến năm 2000 (SGK lớp 12, chương trình chuẩn), ngoài việc sử
dụng các loại bài tập chúng ta cần kết hợp với việc sử dụng tài liệu thành văn, trình
bày miệng để làm rõ nội dung của mục. Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
được thành lập, đất nước ta gặp vô vàn khó khăn thử thách, nhân dân ta vừa xây
dựng chính quyền cách mạng, giải quyết nạn đói, nạn dốt và khó khăn về tài chính,
vừa đấu tranh chống ngoại xâm, nội phản bảo vệ chính quyền và cuối năm 1946
chống thực dân Pháp mở rộng xâm lược cả nước.
2.1.4. Sử dụng bài tập phải đảm bảo tính vừa sức đối với học sinh
Đây là một nguyên tắc quan trọng nó đảm bảo tính khả thi cho quá trình
thực hiện việc sử dụng bài tập trong dạy học. Trong một lớp học bao giờ cũng có
sự chênh lệch về trình độ, mức độ nhận thức giữa các học sinh, yếu tố này cần phải
được tính đến khi sử dụng bài tập. Tính vừa sức được thể hiện bằng việc khi đưa
bài tập vào sử dụng sẽ phù hợp với từng đối tượng học sinh, thông thường phải lấy
mặt bằng chung của lớp làm căn cứ. Mặt khác phải xem xét trình độ và năng lực
khác nhau để sử dụng có hiệu quả các loại bài tập, phải giúp học sinh làm việc với
sự nỗ lực về trí tuệ ở tất cả các nhóm (khá – giỏi; trung bình; yếu – kém). Muốn
làm được điều này cần sử dụng một cách đa dạng các loại bài tập với nhiều mức độ
khác nhau.
Ví dụ: khi tiến hành ôn tập lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, chúng
ta sử dụng các loại bài tập để giúp học sinh củng cố được nội dung kiến thức đã
học. Đối với học sinh nhóm yếu – kém có thể sử dụng bài tập trắc nghiệm Đúng –
Sai để kiểm tra các em qua đó giúp các em nhớ lại được kiến thức đã học.
Ví dụ:
Hãy điền đúng (Đ), hoặc sai (S) vào ô trống đầu câu:
1. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933 là tác động lớn
nhất của tình hình thế giới đến cách mạng Việt Nam.
7
2. Phong trào cách mạng 1930 – 1931 được coi là cuộc đấu tranh
chính trị, vũ trang đầu tiên của nhân dân ta.
3. Nhiệm vụ trực tiếp của cách mạng Đông Dương trong những năm
1936 – 1939 là chống phong kiến, phát xít và bè lũ bán nước.
Đối với học sinh nhóm trung bình cần kết hợp với bài tập tự luận để học sinh
ngoài việc nắm kiến thức còn có thể lí giải bản chất của vấn đề.
Ví dụ:
1. Tại sao nói phong trào cách mạng 1936 – 1939 là cuộc diễn tập thứ hai
chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa tháng Tám?
2. Trình bày nội dung chính của Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (5 – 1941) và nêu ý nghĩa lịch sử của hội nghị.
Đối với học sinh ở nhóm khá – giỏi ngoài những yêu cầu trên, cần thiết phải
giúp các em đánh giá, phân tích được nội dung vấn đề và khả năng vận dụng kiến
thức để hoàn thành nhiệm vụ, đồng thời rèn luyện khả năng thực hành bộ môn cho
các em.
Ví dụ:
1. Phân tích nghệ thuật nắm bắt thời cơ và chớp thời cơ của Đảng ta trong
cách mạng tháng 8 – 1945.
2. Có ý kiến cho rằng: cách mạng tháng Tám thành công là một sự ăn may,
diễn ra trong điều kiện “trống vắng quyền lực”. Em có đồng ý với ý kiến trên
không? Tại sao.
3. Hãy lập bảng so sánh chủ trương của Đảng qua các thời kì cách mạng từ
1930 đến 1945 và giải thích tại sao có sự khác biệt đó.
Bên cạnh việc tuân thủ những nguyên tắc chung, do đặc thù của bài ôn tập,
sơ kết, tổng kết cho nên khi sử dụng bài tập để dạy học loại bài này còn có những
phương pháp riêng.
2.2. Một số biện pháp cụ thể để sư dụng bài tập trong dạy học các bài
ôn tập, sơ kết, tổng kết
Qua nghiên cứu lí luận và nhất là từ thực tiễn quá trình dạy học, chúng tôi đã
chia việc sử dụng bài tập thành hai trường hợp cơ bản:
2.2.1. Thứ nhất: Sử dụng bài tập dưới sự hướng dẫn, tổ chức của giáo viên
Đây là hình thức sử dụng cơ bản và nhiều nhất trong quá trình dạy học với
sự hướng dẫn, điều khiển, tổ chức của giáo viên để học sinh tiến hành làm bài tập.
Đối với trường hợp thứ nhất chúng ta có các hình thức sử dụng như sau:
2.2.1.1. Giao bài tập cho từng cá nhân làm việc, sau đó công bố đáp án, cho
học sinh đổi bài và tự chấm, nhận xét kết quả của nhau
Để thực hiện hình thức này chúng ta có thể sử dụng phiếu học tập và phát
cho từng học sinh, giáo viên chỉ hướng dẫn các em cách làm bài và quan sát lớp,
sau đó công bố đáp án cho các em đổi bài, tự chấm điểm và nhận xét kết quả của
bạn. Đây là hình thức đòi hỏi tính độc lập của mỗi cá nhân khi làm việc, học sinh
được giáo viên hướng dẫn cách làm bài và tự mình giải quyết những yêu cầu mà
bài tập đưa ra. Đồng thời tạo ra tâm lí thi đua giữa các em vì chấm bài tại lớp thể
8
hiện sự dân chủ, tạo động cơ học tập cho học sinh, qua việc nhận xét kết quả của
bạn sẽ góp phần sửa chữa những thiếu sót của bản thân.
Ví dụ: Để tiến hành dạy học bài 11: Tổng kết lịch sử thế giới hiện đại từ năm
1945 đến năm 2000, chúng ta sử dụng phiếu học tập sau:
PHIẾU HỌC TẬP (số 1)
Họ và tên:……………………………..
Lớp:……………………………………
Hãy hoàn thành các bài tập sau:
1. Trình bày xu thế phát triển chủ yếu của thế giới từ sau 1991. Hãy lí giải vì sao
có sự thay đổi trong chiến lược phát triển đất nước của hàu hết các quốc gia
trên thế giới.
2. Phân tích tác động của xu thế toàn cầu hóa đối với các quốc gia dân tộc trên
thế giới. Ở Việt Nam tác động đó diễn ra như thế nào?
3. Chiến tranh lạnh là gì? Phân tích hậu quả của chiến tranh lạnh. Vì sao Liên
Xô và Mĩ buộc phải chấm dứt chiến tranh lạnh?
4. Trình bày tóm tắt quá trình hình thành và tan rã của trật tự thế giới hai cực
Ianta. Phân tích những nhân tố góp phần làm tan rã trật tự thế giới ấy.
5. Lập bảng thống kê những thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô từ
năm 1950 đến đầu những năm 70 và phân tích những nhân tố góp phần tạo
nên những thành tựu ấy.
6. Lập niên biểu những sự kiện chính của lịch sử thế giới từ 1945 đến 2000 và
nhận xét về xu thế phát triển hiện nay của thế giới.
PHIẾU HỌC TẬP (số 2)
Họ và tên:……………………………..
Lớp:……………………………………
Hãy hoàn thành các bài tập sau bằng cách khoanh tròn trước đáp án đúng.
1. Hội nghị Ianta diễn ra trong hoàn cảnh lịch sử:
A. Các nước Đồng minh họp bàn về việc tấn công tiêu diệt CNFX
B. Chiến tranh thế giới thứ hai sắp kết thúc, nhiều vấn đề quan trọng cần
phải giải quyết.
C. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, các nước thắng trận họp bàn về
việc phân chia quyền lợi.
D. Thế giới phân chia thành hai phe - Xã hội chủ nghĩa và Tư bản chủ
nghĩa.
2. Những quyết định của Hội nghị Ianta đưa đến hệ quả:
A. Một trật tự thế giới mới được hình thành gọi là trật tự hai cực Ianta.
B. Trên lãnh thổ Đức hình thành hai nhà nước Đức với hai chế độ chính trị
và con đường phát triển khác nhau.
C. Liên hợp quốc được thành lập.
D. Chủ nghĩa phát xít Đức bị tiêu diệt tận gốc.
3. Nguyên tắc cơ bản nhất chỉ đạo hoạt động của Liên hợp quốc là:
A. Bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia và quyền tự quyết của các dân
tộc.
B. Tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị của tất cả các nước.
C. Không can thiệp vào công việc nội bộ của bất kì nước nào.
9
D. Chung sống hòa bình và sự nhất trí giữa năm nước lớn (Liên Xô, Mĩ,
Anh, Pháp, Trung Quốc).
PHIẾU HỌC TẬP (số 2)
Họ và tên:……………………………..
Lớp:……………………………………
Hãy hoàn thành các bài tập sau bằng cách khoanh tròn trước đáp án
đúng.
4. Đặc trưng nổi bật nhất trong bối cảnh quốc tế sau Chiến tranh thế giới thứ
hai?
A. Chủ nghĩa xã hội đã vượt ra khỏi phạm vi một nước.
B. Thế giới phân chia thành hai phe – xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa
do Liên Xô và Mĩ đứng đầu.
C. Quan hệ quốc tế bị chi phối bởi các mối quan hệ giữa các cường quốc
lớn.
D. Liên Xô và Mĩ cùng mở rộng phạm vi ảnh hưởng trên thế giới.
5. Hội nghị Ianta đã thỏa thuận việc đóng quân ở nước đức sau Chiến tranh thế
giới thứ hai là:
A. Liên Xô đóng quân ở Đông Đức, Mĩ đóng quân ở Tây Đức.
B. Liên Xô đóng quân ở Đông Đức và Đông Béclin, Mĩ đóng quân ở Tây
Đức và Tây Béclin.
C. Liên Xô đóng quân ở Đông Đức và Đông Béclin, Mĩ, Anh, Pháp đóng
quân ở Tây Đức và Tây Béclin.
D. Mỗi nước Liên Xô và Mĩ đóng quân ở một nửa lãnh thổ nước Đức.
6. Đặc trưng nổi bật nhất của tình hình thế giới trong thời gian nửa sau thế kỉ XX
là:
A. Sự thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở các nước
Đông Âu, CNXH vượt ra khỏi phạm vi một nước và trở thành hệ thống
thế giới.
B. Mĩ ngày càng giàu mạnh, vươn lên vị trí số một thế giới.
C. Cao trào giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước Á, Phi, Mĩ
Latinh, dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống thuộc địa của chủ ngiã thực dân
trên toàn thế giới.
D. Thế giới bị phân chia thành hai cực – hai phe: tư bản chủ nghĩa và xã
hội chủ nghĩa do Mĩ và Liên Xô đứng đầu mỗi phe.
2.2.1.2. Giao bài tập và hướng dẫn cả lớp làm việc
Đây là hình thức huy động sức mạnh tập thể, phát huy tối đa năng lực của tất
cả học sinh. Giáo viên sau khi đưa bài tập, hướng dẫn các em cách làm và yêu cầu
tất cả học sinh lần lượt tham gia trình bày, bổ sung cho nhau. Cuối cùng nhiệm vụ
của giáo viên là tổng kết và nhận xét kết quả đạt đươc, bổ sung, uốn nắn những
thiếu sót của học sinh. Đối với hình thức này chúng ta nên thực hiện bằng việc
thiết kế hệ thống bài tập trên các Slide và dùng phần mềm Powerpoint để trình
chiếu cho cả lớp theo dõi và làm việc. Hình thức này tiết kiệm được thời gian và
10
giúp học sinh làm việc hiệu quả hơn tuy nhiên việc làm này đòi hỏi giáo viên phải
dành nhiều thời gian để biên soạn và thực hiện.
Ví dụ: khi dạy học bài 27: Tổng kết lịch sử Việt Nam từ năm 1919 đến năm
2000, chúng ta thiết kế hệ thống bài tập trên phần mềm trình chiếu Powerpoint.
Đối với các dạng bài tập trắc nghiệm và thực hành chúng ta có thể tiến hành
tương tự như cách làm trên sau đó trình chiếu để học sinh quan sát và làm việc
2.2.1.3. Giao bài tập cho các nhóm, giáo viên nêu nhiệm vụ để các nhóm tự
thực hiện
Sau khi cho các nhóm làm bài tập, giáo viên tổ chức trình bày kết quả và
nhận xét kết quả của nhau. Bài tập được sử dụng dưới hình thức hoạt động nhóm
góp phần tạo ra sự tích cực của học sinh trong việc tiếp thu kiến thức, đồng thời
cũng rèn luyện cho các em khả năng làm việc, phối hợp cùng với tập thể. Đây là
hình thức thường được sử dụng khi không có thiết bị công nghệ thông tin, nó đem
lại hiệu quả và có tính khả thi cho giáo viên khi thực hiện.
Ví dụ: khi tiến hành ôn tập, sơ kết phần lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945 –
1954, chúng ta có thể sử dụng bài tập bằng các hình thức sau:
Sử dụng phiếu “Hoạt động nhóm” để thực hiện khi không có sự hỗ trợ của các
thiết bị khác.
PHIẾU HOẠT ĐỘNG NHÓM 1
Hãy hoàn thành bài tập sau:
Trình bày tình hình nước ta sau cách mạng tháng Tám. Nhiệm vụ của cách
mạng Việt Nam lúc này là gì? Tại sao nói: sau cách mạng tháng Tám nước ta
đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”
Nhiệm vụ:
- Trình bày được tình hình nước ta sau cách mạng tháng Tám về các mặt:
kinh tế, chính trị, xã hội.
- Nêu được nhiệm vụ trước mắt của cách mạng nước ta.
- Nhận xét về tình hình đất nước và lí giải nhận định trên bằng các sự kiện
lịch sử cụ thể.
- Sau khi hoàn thành, nhóm cử đại diện trình bày, các thành viên còn lại
chú ý lắng nghe để bổ sung và hoàn thiện bài tập.
- Trả lời những câu hỏi do các nhóm đặt ra.
- Ghi vào vở những nội dung chính và lời nhận xét của các nhóm khác.
Đối với những nhóm còn lại chúng ta sẽ làm tương tự, sau đó cho đại diện
trình bày, các nhóm nhận xét và cuối cùng giáo viên nhận xét, bổ sung nếu cần
thiết.
Bên cạnh đó chúng ta cũng có thể sử dụng máy tính để trình chiếu cho các
nhóm quan sát và thực hiện với nhiều dạng bài tập khác nhau.
2.2.1.4. Giáo viên tổ chức, dẫn dắt, gợi y để học sinh hiểu nội dung bài tập
Hình thức này được thực hiện khi giao bài tập cho tập thể làm, giáo viên sẽ
dẫn dắt, gợi ý các em một số nhiệm vụ cần làm, cách giải quyết vấn đề được nêu
11
ra. Đây là hình thức đòi hỏi kĩ năng tổ chức, kinh nghiệm của giáo viên, làm sao
hướng các em vào nhiệm vụ cần làm nhưng không phải là làm thay công việc của
học sinh.
Ví dụ: giáo viên giao bài tập sau cho lớp:
1. Có ý kiến cho rằng: cách mạng tháng Tám thành công là một sự “ăn
may”, diễn ra trong điều kiện “trống vắng quyền lực”. Em có đồng ý với ý kiến đó
không? Vì sao? Bằng những sự kiện lịch sử cụ thể hãy làm rõ vấn đề trên.
Để học sinh có thể giải quyết vấn đề này, giáo viên cần gợi ý một số nhiệm
vụ chính mà các em thực hiện trong quá trình giải bài tập:
+ Các em có đồng ý với ý kiến trên không?
+ Nếu không đồng ý thì giải thích vì sao.
+ Lấy dẫn chứng (là những sự kiện lịch sử đã học) để làm rõ quan điểm của
mình về vấn đề được nêu.
+ Bằng sự lập luận có khoa học để phủ định ý kiến trên.
Như vậy với sự gợi ý của giáo viên sẽ giúp các em có cơ sở để giải quyết
vấn đề đã đưa ra đúng theo những yêu cầu của bài tập.
2.2.1.5. Giao bài tập cho một học sinh đọc và tập thể lớp cùng làm
Hình thức này chỉ được tiến hành khi không thể thực hiện được các biện
pháp đã nêu vì những lí do khác nhau mà không sử dụng các phương tiện kĩ thuật
hỗ trợ quá trình dạy học. Tuy nhiên biện pháp này có hạn chế vì mất thời gian làm
bài của học sinh và độ chính xác không cao khi chép lại bài tập. Để khắc phục
những hạn chế đó, người giáo viên khi thiết kế bài tập phải ngắn gọn dễ hiểu giúp
học sinh có thời gian làm bài và nghe chính xác yêu cầu của bài tập.
2.2.1.6. Sử dụng hệ thống câu hỏi gợi mở để giúp học sinh giải bài tập
Là hình thức được sử dụng đối với loại bài tập nhận thức, có độ khó tương
đối. Giúp học sinh giải loại bài tập này đòi hỏi giáo viên phải sử dụng một hệ
thống các câu hỏi gợi mở để gợi ý, dẫn dắt các em giải quyết vấn đề được nêu. Khi
thực hiện biện pháp này, giáo viên cần lưu ý, chỉ gợi ý bằng cách cho các em trả lời
những câu hỏi đặt ra qua đó thấy được nhiệm vụ mà mình cần làm và tiến hành
giải bài tập, giáo viên không được làm thay nhiệm vụ của học sinh.
Ví dụ: giáo viên giao bài tập sau cho học sinh:
Chiến thắng Phước Long (6 – 1 – 1975) là một “hiện tượng mới” trong cuộc
kháng chiến chống Mĩ cứu nước của quân và dân miền Nam. Hiện tượng này là gì?
Tại sao sau chiến thắng Phước Long, Đảng ta đã quyết tâm đề ra kế hoạch giải
phóng hoàn toàn miền Nam trong hai năm 1975 – 1976?
Để giúp học sinh giải bài tập này, giáo viên đưa ra hệ thống câu hỏi gợi mở
sau:
+ Kết quả đạt được trong chiến dịch đánh Đường 14 - Phước Long?
+ Phản ứng của Mĩ sau chiến thắng này của nhân dân ta?
+ Phản ứng này có khác gì với phản ứng của chúng trước đây?
+ Phản ứng của chính quyền Sài Gòn?
+ Phản ứng đó mang lại kết quả như thế nào?
+ Qua phản ứng của Mĩ và chính quyền Sài Gòn nói lên điều gì?
+ Căn cứ vào cơ sở nào để chúng ta đưa ra quyết định giải phóng hoàn toàn
miền Nam?
12
Với hệ thống câu hỏi gợi mở như vậy sẽ giúp học sinh sáng tỏ vấn đề và tự
mình giải bài tập.Vấn đề đặt ra ở đây là: tại sao gọi chiến thắng Phước Long là một
hiện tượng mới, so với các chiến thắng trước đây mà quân và dân miền Nam giành
được có điểm gì khác. Vì sao sau thắng lợi này chúng ta đã đưa ra kế hoạch giải
phóng hoàn toàn miền Nam trong hai năm 1975 – 1976? Học sinh đã được học về
sự kiện này, thế nhưng coi đó là một hiện tượng mới thì chưa hiểu, chính điều này
sẽ kích thích tư duy của các em, các em mong muốn được tìm hiểu cụ thể vấn đề
này quá trình đó sẽ tạo ra sự hứng thú cho các em khi tìm hiểu nội dung.
2.2.1.7. Giáo viên giải bài tập để làm mẫu cho học sinh
Trong thực tiễn dạy học, chúng ta biết rằng không phải bài tập nào học sinh
cũng làm được và cũng như vậy không phải tất các em đều làm tốt. Chính vì vậy
giáo viên cần phải rèn luyện khả năng giải bài tập cho tất cả các em như vậy học
sinh mới có cơ sở để làm những bài tập khác. Hình thức này được giáo viên sử
dụng đối với loại bài tập khó, học sinh còn lúng túng khi tìm biện pháp giải vì vậy
giáo viên cần thiết phải tiến hành giải để học sinh quan sát, ghi nhớ.
Ví dụ: giáo viên tiến hành giải bài tập sau cho học sinh:
1. Hãy trình bày quá trình vận động tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam. Phân tích tính tất yếu, khách quan về sự ra đời của Đảng.
2. Phân tích nghệ thuật nắm bắt và chớp thời cơ của Đảng ta trong cách
mạng tháng 8 – 1945.
Đối với bài tập 1, giáo viên cần làm rõ một số nội dung như:
+ Quá trình vận động tiến tới thành lập Đảng được bắt đầu bằng những hoạt
động yêu nước đầu thế kỉ XX, cho đến khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm
1930.
+ Đó là một quá trình đấu tranh của nhiều khuynh hướng cách mạng, của
nhiều tầng lớp, giai cấp trong xã hội và cuối cùng là sự chọn lựa của lịch sử dân
tộc đi theo con đường cách mạng vô sản.
+ Là kết quả của sự kết hợp tất yếu giữa ba yếu tố: chủ nghĩa Mác – Lênin,
phong trào công nhân và phong trào yêu nước…
Đối với bài tập 2, cần làm rõ một số nội dung chính như:
+ Thế nào là thời cơ?
+ Thời cơ trong cách mạng tháng Tám được hình thành như thế nào?
+ Đảng đã chuẩn bị và nắm bắt được thời cơ từ lúc nào?
+ Việc chớp thời cơ được thực hiện trong hoàn cảnh nào?
+ Vì sao quá trình đó là một nghệ thuật trong cách mạng?
Làm rõ những nội dung trên sẽ giúp cho học sinh có được phương pháp cụ
thể khi tiến hành giải bài tập, qua đó hình thành kĩ năng giải bài tập cho các em.
2.2.2. Thứ hai: Sử dụng bài tập bằng hoạt động độc lập của học sinh
Trường hợp này ít được sử dụng hơn so với việc có sự tổ chức, điều khiển
của giáo viên. Tuy nhiên để đáp ứng mục tiêu dạy học lịch sử và đổi mới phương
pháp dạy học ở trường phổ thông hiện nay, chúng ta cần tăng cường hình thức này
để rèn luyện khả năng tự làm việc của học sinh. Đây là hình thức đòi hỏi hoạt động
độc lập của học sinh, giáo viên chỉ làm nhiệm vụ “quan sát viên” cùng tham gia
vào quá trình giải bài tập. Đối với trường hợp này chúng ta có các hình thức sử
dụng như sau:
13
2.2.2.1. Giải bài tập do học sinh tự đưa ra
Đây là biện pháp sử dụng xuất hiện từ thực tiễn của quá trình dạy học, khi
một số em đem bài tập mà mình tìm hiểu lên lớp hỏi thầy, cô và bạn bè. Qua việc
làm này chúng ta có thể cho các em chuẩn bị bài tập trước, sau đó tiến hành giải tại
lớp và coi đây là một biện pháp sử dụng bài tập có hiệu quả, cần phải nhân rộng.
Hình thức này tạo ra sự chủ động của học sinh cả từ khâu chuẩn bị cho đến quá
trình giải bài tập tại lớp, điều này sẽ tạo cho các em tâm lí là “nhân vật chính”
trong suốt quá trình thực hiện. Giáo viên có nhiệm vụ “quan sát viên”, có thể lựa
chọn bài tập để các em tiến hành giải và khi kết thúc sẽ nhận xét kết quả mà học
sinh đạt được, qua đó củng cố kiến thức sâu sắc hơn. Có thể thấy rằng đây là hình
thức sử dụng mới nhưng chúng ta cần quan tâm nghiên cứu vì nó đem lại hiệu quả
rất khả quan, vừa tạo sự tích cực chủ động của học sinh, rèn luyện khả năng tự làm
việc, tạo hứng thú học tập cho các em. Qua những giờ giải bài tập như vậy sẽ giúp
các em làm quen và tự tin hơn với việc thi cử.
2.2.2.2. Giao bài tập cho học sinh làm ở nhà
Hình thức này được thực hiện đối với tất cả các loại bài học trong đó có bài
ôn tập, sơ kết, tổng kết. Sau khi hoàn thành bài học trên lớp hoặc trước khi tiến
hành dạy bài mới chúng ta có thể giao bài tập để học sinh làm ở nhà. Giao bài tập ở
nhà sẽ rèn luyện khả năng làm việc độc lập cho học sinh, các em tự xử lí tài liệu,
lập luận để giải quyết yêu cầu của bài tập và trình bày thành bài viết hoàn chỉnh.
Chính quá trình đó sẽ rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo và thực hành bộ môn cho các em,
đồng thời cũng giúp các em tự củng cố, ôn tập kiến thức đã học, liên hệ với thực tế
trong cuộc sống.
Ví dụ: chúng ta có thể giao bài tập sau cho học sinh làm ở nhà:
1. Vẽ lược đồ chiến dịch Điện Biên Phủ (1954) và sưu tầm tài liệu, tranh
ảnh, thơ ca viết về chiến thắng lịch sử này.
2. Tìm hiểu và trình bày hoàn cảnh, diễn biến của phong trào khởi nghĩa tại
địa phương em trong cách mạng tháng Tám (1945). Hãy nhận xét về hình thức tiến
hành khởi nghĩa của địa phương mình. Hình thức đó có gì giống và khác với các
tỉnh khác trong cả nước.
Từ những biện pháp cụ thể trên đây, chúng ta có thể xây dựng một quy trình
tiến hành dạy học bài ôn tập, sơ kết, tổng kết có sử dụng bài tập ở trường THPT:
•Một là: Nêu mục tiêu bài học.
Ví dụ: mục tiêu bài 11: Tổng kết lịch sử thế giới hiện đại từ năm 1945 đến
năm 2000 được xác định như sau:
- Về kiến thức:
+ Củng cố những kiến thức đã học về lịch sử thế giới hiện đại từ năm
1945 đến năm 2000.
+ Nhận rõ mốc phân kì hai giai đoạn trong lịch sử thế giới hiện đại từ
năm 1945 đến năm 2000 và nắm được nội dung chủ yếu trong mỗi giai đoạn.
- Về kĩ năng:
+ Rèn luyện và vận dụng phương pháp tư duy phân tích, tổng hợp
khái quát các sự kiện, các vấn đề quan trọng diễn ra trên thế giới. Điều này càng có
ý nghĩa thực tiễn đối với học sinh lớp 12, bởi vì các em bước vào đời khi đất nước
đang trong giai đoạn đẩy mạnh công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế.
14
- Về thái độ:
+ Nhận thức được: mặc dù có những khác nhau về nội dung, tính chất
nhưng ở cả hai giai đoạn của lịch sử thế giới hiện đại đều nổi bật và bao trùm là
tính chất gay gắt đối với các quốc gia, dân tộc trong cuộc đấu tranh vì những mục
tiêu: hòa bình ổn định, độc lập dân tộc, tiến bộ xã hội và hợp tác phát triển.
+ Thấy rõ nước ta là một bộ phận của thế giới và ngày càng có quan
hệ mật thiết với khu vực và thế giới, nhất là sau Chiến tranh lạnh, khi nước ta ngày
càng hội nhập thế giới, tham gia vào các tổ chức thế giới và khu vực.
•Hai là: Nêu bài tập, hướng dẫn học sinh hiểu bài tập.
•Ba là: Tổ chức, dẫn dắt, gợi ý để học sinh hiểu yêu cầu, nhiệm vụ của bài
tập.
•Bốn là: Sử dụng hệ thống câu hỏi gợi mở để giúp học sinh hiểu rõ yêu cầu
của bài tập.
•Năm là: Tổ chức cho học sinh giải bài tập với nhiều hình thức khác nhau:
làm việc cá nhân, nhóm hay tập thể…
•Sáu là: Tổ chức cho các em giải bài tập do mình đưa ra.
•Bảy là: Giáo viên giải bài tập cho học sinh theo dõi, ghi nhớ.
•Tám là: Nhận xét đánh giá kết quả đạt được của học sinh trong giờ học.
•Chín là: Tổng kết bài học, giao bài tập về nhà cho học sinh.
Từ quy trình tiến hành sử dụng bài tập như đã nêu, chúng ta thấy rằng quá
trình đó tạo thành một chu kì vận động giúp cho học sinh tự củng cố kiến thức, tự
rèn luyện kĩ năng thực hành. Trong chu kì vận động đó, giáo viên có khi là “nhân
vật chính” tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh, cũng có lúc chỉ là “quan sát
viên” nhường lại vị trí trung tâm cho học sinh, để các em tự tổ chức hoạt động học
tập của mình.
III. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI
Khi áp dụng những giải pháp của đề tài vào thực tiễn dạy học các bài ôn tập,
sơ kết, tổng kết lịch sử lớp 12 trường THPT (Chương trình chuẩn), chúng tôi đã đạt
được những kết quả sau:
- Về mặt nhận thức, bài tâ êp có vai trò hết sức quan trọng trong viê êc hình
thành tri thức, góp phần vào nhiệm vụ giáo dục tư tưởng, tình cảm, nhân cách, gây
hứng thú học tập và phát triển tư duy cho học sinh. Khi làm bài tâ êp trong các tiết
ôn tâ pê , sơ kết, tổng kết giúp học sinh củng cố, hê ê thống, khái quát lại kiến thức đã
học về một giai đoạn, một thời kì lịch sử.
- Về mă êt giáo dưỡng, bài tâ êp giúp các em nắm kiến thức sâu sắc, bền vững
hơn. Thâ êt vâ êy, khi làm bài tâ pê , học sinh phải đi từ viê êc nghiên cứu đề bài, tìm ra
cách giải, để làm được điều đó học sinh phải trải qua mô êt quá trình hoạt đô nê g tư
duy: ghi nhớ, phân tích, phán đoán, tổng hợp...
Quá trình hoạt đô nê g trí tuê ê không phải bắt đầu từ cái chưa có mà phải dựa
vào những kinh nghiê êm thực tiễn, những kiến thức mà học sinh đã tiếp thu từ
trước. Các em phải nhớ, hiểu vâ ên dụng tốt kiến thức và kinh nghiê êm của mình
mới làm bài tâ pê được. Ngược lại viê êc làm bài tâ pê cho phép các em hiểu kiến thức
sâu sắc hơn, nhớ và vâ ên dụng tốt hơn những điều đã học.
15
Đối với bô ê môn Lịch sử, do đă êc trưng riêng nên khi dạy giáo viên phải giúp
cho học sinh nhớ được các sự kiê ên, không gian, thời gian, nhân vâ êt lịch sử, khái
niê êm, quy luâ êt, bài học lịch sử. Để làm được điều đó, trong quá trình giảng dạy
giáo viên ngoài cung cấp cho học sinh kiến thức cơ bản để khôi phục lại quá khứ
đúng như nó tồn tại và có những hiểu biết chân thực về quá khứ còn cần phải sử
dụng các loại bài tâ êp lịch sử. Đa-ni-lốp đã khẳng định: “kiến thức sẽ được nắm
vững thực sự nếu học sinh có thể vâ ôn dụng mô ôt cách thành thạo chúng vào viêcô
hoàn thành những bài tâ ôp ly thuyết và bài tâ ôp thực hành”[7, tr28].
Thực tế hiê ên nay còn khá nhiều tình trạng học sinh nhầm lẫn sự kiê ên, địa
danh, thời gian, nhân vâ êt giữa lịch sử thế giới và lịch sử dân tô êc... Vì vâ êy nếu sử
dụng tốt các loại bài tâ pê trong dạy học các bài ôn tâ êp sẽ khắc phục được tình trạng
này.
Thông qua các loại bài tâ êp ở lớp và bài tâ pê về nhà, học sinh bắt buô êc phải
đọc lại bài, nhớ lại lời giảng trên lớp, qua đó củng cố, tổng hợp kiến thức cũng như
tự rèn luyê ên được kĩ năng thực hành bô ê môn. Qua sự phân tích sâu sắc sự kiê ên
như vâ êy giúp học sinh nắm được bản chất sự kiê ên, từ đó có quan niê êm, cách nhìn
nhâ nê , đánh giá các vấn đề lịch sử đúng đắn, khoa học hơn, góp phần nâng cao hiểu
biết của học sinh.
- Về mă êt giáo dục, Thái Duy Tuyên cho rằng: bài tâ êp là mô êt phương tiê ên
giáo dục tốt. Để rèn luyê ên phẩm chất, nhân cách cho học sinh, thầy giáo phải sử
dụng nhiều biê nê pháp, nhiều phương tiê nê khác nhau, trong đó có bài tâ pê có thể
xem là phương tiện có hiê uê quả và thường dùng nhất. Thế mạnh của bài tâ pê là ở
chỗ rèn luyê nê ý chí và niềm tin vào khoa học, vào sức mạnh của bản thân. Niềm
tin này có được là nhờ trong quá trình đô cê lâ êp vâ ên dụng kiến thức đã giúp cho các
em giải quyết đúng đắn các vấn đề đă êt ra. Lúc này kiến thức trở thành của riêng
các em, các em thấy mình lớn mạnh hơn trong viê êc giải quyết các vấn đề tự nhiên
và xã hô êi.
Làm bài tâ êp có tác dụng rèn luyê ên ý chí và tính kiên cường vượt khó, làm
cho chúng trở thành thói quen trong hoạt đô nê g hằng ngày của bản thân học sinh.
Bô ê môn Lịch sử có ưu thế cung cấp các mă êt khác nhau của đời sống xã
hô êi... qua đó có tác dụng giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức, hành vi rất lớn đối
với học sinh. Để phát huy ưu thế đó thì viê êc giao bài tâ êp cho học sinh làm cũng là
mô êt cách có hiê êu quả.
- Bài tâ pê lịch sử còn có ý nghĩa về mă êt phát triển, chức năng giáo dưỡng và
giáo dục của bô ê môn Lịch sử góp phần vào viê êc phát triển học sinh, chủ yếu là
hình thành ở học sinh năng lực tư duy và năng lực hành đô nê g. Tư duy lịch sử là
hoạt động trí tuê ê của học sinh nhằm nhâ nê thức đúng quá khứ, hiểu rõ hiê ên tại và
dự đoán sự phát triển hợp quy luâ êt của tương lai. Tư duy lịch sử thể hiê ên rõ nhất,
tâ pê trung nhất ở viê êc vâ ên dụng kiến thức đã học mô êt cách thông minh, tích cực và
sáng tạo.
Bài tâ êp lịch sử không chỉ phát triển về mă êt tư duy mà còn hình thành cả
năng lực hành đô nê g. Thông qua các bài tâ êp vẽ bản đồ, lâ êp niên biểu,... các em sẽ
có những biểu tượng lịch sử sinh đô nê g và chân thực, phát triển ở các em óc sáng
tạo, đồng thời viê êc học đi đôi với hành cũng nhằm đáp ứng yêu cầu và con đường
16
biê ên chứng của sự nhâ nê thức: Từ trực quan sinh đô nê g đến tư duy trừu tượng và từ
tư duy trừu tượng quay trở về thực tiễn.
- Chúng tôi tiến hành soạn giáo án thực nghiệm thể hiện mục đích, nội dung,
phương pháp giảng dạy theo những kết luận của đề tài, giảng dạy ở lớp thực
nghiệm. Ở lớp đối chứng, tôi soạn giảng theo giáo án bình thường. Đồng thời, tôi
tiến hành nghiên cứu các nhân tố tác động đến quá trình thực nghiệm (sau khi đã
chọn đối tượng thực nghiệm), tìm cách xử lý và khống chế nhằm cân bằng các điều
kiện chủ quan và khách quan, tạo ra sự tương đương giữa lớp thực nghiệm và lớp
đối chứng.
Khi tiến hành giảng dạy ở lớp thực nghiệm và lớp đối chứng, các giáo viên
bộ môn đều tham gia dự giờ để quan sát tiến trình bài học và không khí lớp học.
Kết thúc tiết học, trước hết tôi tiến hành trao đổi với giáo viên dự giờ để xin
ý kiến của họ về nội dung, phương pháp, không khí của giờ học và khả năng lĩnh
hội kiến thức của học sinh. Đồng thời, tôi cũng trao đổi với học sinh để nắm bắt ý
kiến của các em về bài học, những thay đổi trong nội dung, phương pháp giảng dạy
ở lớp thực nghiệm. Kết hợp, tôi kiểm tra kết quả lĩnh hội kiến thức của học sinh ở
cả lớp đối chứng và thực nghiệm để làm cơ sở đánh giá mức độ kiến thức, kĩ năng
mà các em đạt được sau bài học.
Đối với ý kiến của giáo viên và học sinh, đa số các ý kiến đều nhận xét về
bài học theo giáo án mới đã tạo ra một không khí học tập khác hẳn. Cả giáo viên
và học sinh đều xác định được nhiệm vụ nhận thức của bài học, nội dung và
phương pháp giảng dạy phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh, đảm bảo mục
tiêu bài học. Việc kết hợp linh hoạt các phương pháp giảng dạy trên cơ sở phát huy
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh đã tạo điều kiện cho các em củng cố,
hệ thống và nắm vững những kiến thức đã học. Không khí lớp học sôi nổi, học sinh
hào hứng tham gia vào các hoạt động học tập do giáo viên đưa ra. Tuy nhiên, một
số ý kiến băn khoăn về khả năng áp dụng phổ biến những tiết dạy như vậy, bởi
điều kiện cơ sở vật chất, tài liệu, đồ dùng dạy học còn thiếu, trình độ học sinh
nhiều lớp thấp, không đồng đều...
Về kết quả kiểm tra kiến thức, chúng tôi đã tiến hành chấm bài kiểm tra theo
thang điểm 10 và tiến hành xử lý kết quả thu được theo phương pháp thống kê toán
học để kiểm định tính phù hợp và hiệu quả của phương pháp mới và sự khác biệt
giữa kết quả của lớp thực nghiệm và lớp đối chứng.
Điểm
1
2
3
4
5
6
Số HS đạt điểm
Lớp thực nghiệm (x) 0
7
5
6
23
48 57
47 21 11 225
Lớp đối chứng (y)
16 19 26 64
33 31
26 7
0
7
8
9
10 N
3
225
17
Kết quả của bảng thống kê cho ta thấy rõ, ở các lớp thực nghiệm tỉ lệ học
sinh đạt điểm từ 1 đến 5 điểm giảm xuống rõ dệt (18,2% so với 55,5%), tỉ lệ học
sinh đạt điểm từ 6 – 10 điểm tăng lên đáng kể (81,7% so với 44,5%) so với các lớp
đối chứng, chứng tỏ học sinh nắm vững kiến thức cơ bản của các giai đoạn, thời kì
lịch sử đã học.
Từ kết quả thu được qua việc tiến hành thực nghiệm sư phạm, cho phép
khẳng định việc sử dụng bài tập để dạy các bài ôn tập, sơ kết, tổng kết lịch sử lớp
12 trường THPT là phù hợp và có tính khả thi.
IV. ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG ĐỀ TÀI
Qua việc nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn cho thấy: Bài tập là một
phương tiện quan trọng trong giảng dạy nhằm góp phần nâng cao hiệu quả dạy học
bộ môn. Đặc biệt là việc sử dụng bài tập trong dạy học các bài ôn tập, sơ kết, tổng
kết sẽ đem lại hiệu quả “kép”, nghĩa là vừa phát huy ưu thế của bài tập đồng thời
nâng cao hiệu quả của loại bài này. Từ đó có thể nhận thấy rằng, sử dụng bài tập
xuất phát từ chính yêu cầu, mục đích của bản thân bài ôn tập, sơ kết, tổng kết.
Từ kết quả trên cho phép chúng tôi kết luận rằng, trong dạy học bài ôn tập,
sơ kết, tổng kết cần thiết phải sử dụng bài tập. Vì bài tập là phương tiện để củng cố
kiến thức, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo và thực hành bộ môn cho học sinh.
Qua xây dựng và sưu tầm, chúng tôi đã thành lập được một hệ thống bài tập
phục vụ cho việc giảng dạy các bài ôn tập, sơ kết, tổng kết môn lịch sử lớp 12, đây
là các dạng bài tập có ý nghĩa khi sử dụng để giảng dạy loại bài học này.
Đã xây dựng được một số nguyên tắc và biện pháp sư phạm chủ yếu để sử
dụng bài tập trong dạy học bài ôn tập, sơ kết, tổng kết, đặc biệt là hình thức giải bài
tập do học sinh đưa ra. Đây là biện pháp sử dụng mới trong thực tế nhưng đem lại
hiệu quả thiết thực cho người sử dụng bởi vì vừa phát huy được tính cực độc lập,
tạo hứng thú học tập vừa rèn luyện khả năng tự làm việc của học sinh, giúp các em
có tâm lí thoải mái, tự tin hơn trong giờ học.
Đã xây dựng được một quy trình sử dụng bài tập trong dạy học bài ôn tập,
sơ kết, tổng kết, bao gồm một số bước cơ bản như đã trình bày ở trên.
Kết quả thực nghiệm sư phạm bước đầu đã khẳng định được giá trị của việc
sử dụng bài tập trong dạy học bài ôn tập, sơ kết, tổng kết. Các biện pháp sư phạm
cụ thể đã giúp học sinh khái quát hóa, củng cố kiến thức một cách toàn diện hơn,
đồng thời rèn luyện khả năng thực hành bộ môn cho các em trong quá trình học
tập. Do vậy, việc sử dụng bài tập trong dạy học các bài ôn tập, sơ kết, tổng kết lịch
sử có thể áp dụng trong phạm vi trường THPT Sông Ray cũng như tất cả các
trường THPT trên toàn quốc.
Từ những kết quả trên đây, chúng tôi có một số khuyến nghị như sau:
1. Để sử dụng bài tập trong dạy học bài ôn tập, sơ kết, tổng kết, trước hết
cần bồi dưỡng cho giáo viên về mặt lí luận vai trò của lọai bài học này và sự cần
thiết phải sử dụng bài tập trong quá trình dạy học.
2. Các đơn vị, tổ chức quả lí, tổ bộ môn cần tăng cường công tác kiểm tra
giáo án của giáo viên trước khi lên lớp, động viên khuyến khích việc đổi mới
phương pháp dạy học trong đó có vấn đề sử dụng bài tập.
18
3. Cần tăng cường số lượng, thời lượng của các bài ôn tập, sơ kết, tổng kết
trong dạy học lịch sử ở trường THPT. Bởi vì loại bài học này có vai trò, vị trí hết
sức quan trọng trong dạy học lịch sử, tuy nhiên trong thực tế số lượng và thời
lượng của bài học này chiếm một tỉ lệ rất nhỏ (đối với chương trình chuẩn, bộ môn
Lịch sử ở trường THPT chỉ có 7 bài ôn tâp, sơ kết, tổng kết với thời lượng là 9
tiết).
4. Để sử dụng bài tập một cách có hiệu quả đòi hỏi giáo viên phải thực sự
đầu tư, giành thời gian công sức biên soạn, sắp xếp và tổ chức thực hiện một cách
linh hoạt. Chúng ta biết rằng hình thức tổ chức, phương pháp, biện pháp và hướng
dẫn học sinh làm bài tập là yếu tố cơ bản quyết định thành công của việc sử dụng
bài tập trong dạy học bài ôn tập, sơ kết, tổng kết nhằm nâng cao chất lượng, hiệu
quả bài học lịch sử.
19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bài tập Lịch sử 12, Nguyễn Sĩ Quế, Nguyễn Mai Anh, Vũ Thị Ánh Tuyết,
NXB Giáo dục, Hà Nội (2008).
2. “Bài tập lịch sử và sử dụng bài tập trong dạy học lịch sử ở trường Trung
học cơ sở”, Nguyễn Văn Đằng, Tạp chí Giáo dục số (5) - (2001), tr. 3334.
3. Hệ thống bài tập nhận thức trong dạy học lịch sử ở trường Trung học phổ
thông, Trần Vĩnh Tường (chủ biên), Đặng Văn Hồ, Nguyễn Thị Ty,
4. “Hướng dẫn học sinh làm bài tập lịch sử”, Nguyễn Thị Côi, Phạm Thị Kim
Anh, Tạp chí nghiên cứu Giáo dục số (6) - (1994), tr.13,14
5. Lịch sử 12, Phan Ngọc Liên (Tổng chủ biên), Vũ Dương Ninh, Trần Bá Đệ
(chủ biên), NXB Giáo dục, Hà Nội (2007).
6. Lịch sử 12, (Sách giáo viên), Phan Ngọc Liên (Tổng chủ biên), Vũ Dương
Ninh, Trần Bá Đệ (chủ biên), NXB Giáo dục, Hà Nội (2007).
7. Ly luận dạy học ở trường phổ thông, M.A. Đanilốp, M. N.Xcackin (chủ
biên), NXB Giáo dục Hà Nội (1978).
8. Luật Giáo dục, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB
Chính trị Quốc gia (2005), tr.28, 30.
9. Phát huy tính tích cực học tập của học sinh như thế nào (Tập II), (Bản
dịch) I.F. Kháclamốp, NXB Giáo dục, Hà Nội (1979).
10. Phương pháp dạy học lịch sử (Tập 1), Phan Ngọc Liên, Trịnh Đình Tùng,
Nguyễn Thị Côi, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội (2002).
11. Phương pháp dạy học lịch sử (tập 2), Phan Ngọc Liên, Trịnh Đình Tùng,
Nguyễn Thị Côi, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội (2002).
12. Phương pháp dạy học lịch sử, Phan Ngọc Liên – Trần Văn Trị, NXB Giáo
dục, Hà Nội (1998).
13. “Tổ chức hoạt động ôn tập trong dạy học lịch sử ở trường THPT”, Hoàng
Thanh Tú, Tạp chí Dạy và học ngày nay số (2) - (2007).
14. Thiết kế và sử dụng bài tập trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ
thông, Trần Quốc Tuấn, NXB Đại học Quy Nhơn - (2003).
15. “Về việc giảng dạy các bài ôn tập tổng kết trong chương trình lịch sử ở
trường THPT”,Trịnh Đình Tùng, Hoàng Thanh Tú, Tạp chí Giáo dục số
(131) - (2006), tr.33,35.
Tác giả
Nguyễn Xuân Sơn
20
- Xem thêm -