MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập, xây dựng và lãnh đạo nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nay là nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam. Vì vậy, sự nghiệp và tên tuổi của Người gắn liền với sự ra đời và
phát triển của Nhà nước Việt Nam mới - Nhà nước công nông đầu tiên ở
Đông Nam Á.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức và xây dựng nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà là di sản vô cùng quý báu của Đảng và dân téc ta, là cơ sở
để xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay - một nhà nước
với hệ thống chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân từ Trung ương
đến địa phương. Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà nước ta đã phát huy trí tuệ sáng suốt
và sức mạnh vô địch của toàn dân nhằm đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ xâm lược. Trên thực tế, chỉ lúc nào Đảng ta phát huy được trí tuệ sáng
suốt, tập hợp được sức mạnh của nhân dân thì mới xây dựng được chính
quyền nhà nước mạnh mẽ.
Trái lại, chính quyền nhà nước trở nên yếu kém, kinh tế - xã hội lâm
vào khủng hoảng, trì trệ chính là khi đường lối, chính sách phát triển kinh tế xã hội cùng phương thức quản lý nhà nước không đáp ứng được những yêu
cầu, đòi hỏi chính đáng lợi Ých của đại đa số nhân dân, không khuyến khích
được tài năng và trí tuệ của dân téc. Đó là bài học đắt giá trong quá trình xây
dựng và hoàn thiện nhà nước qua mỗi giai đoạn lịch sử.
Ngày nay, trong quá trình đổi mới, Đảng ta đã và đáng tiếp tục quán
triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về "thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng
suốt của nhân dân" nhằm xây dựng bộ máy chính quyền nhà nước trong
sạch, vững mạnh; trong đó công cuộc cải cách hành chính là một biện pháp
quan trọng sẽ tăng cường hiệu lực và hiệu quả hoạt động của chính quyền
các cấp trên thực tế.
Vì vậy, nghiên cứu sự ra đời, nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh về
"thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân" và mối quan hệ
của nó với công cuộc cải cách hành chính nhằm xây dựng chính quyền nhà
nước trong sạch vững mạnh hiện nay là một công việc có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn sâu sắc. Đó là nhiệm vụ đặt ra cấp bách cho những người nghiên
cứu và những người quản lý xã hội trong quá trình tiến hành công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
2. Tình hình nghiên cứu
Hồ Chí Minh là người đầu tiên sáng lập ra Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà - Nhà nước Dân chủ đầu tiên ở Đông Nam Á. Vì vậy, tư tưởng
và hoạt động lãnh đạo của Hồ Chí Minh về nhà nước đã có nhiều tác giả
nghiên cứu. Trước hết phải kể đến các tác giả: Nguyễn Ngọc Minh với:
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, Nxb Sự thật, Hà
Nội, 1998. Đây là công trình nghiên cứu khá toàn diện về những tư tưởng và
những đóng góp thực tiễn của Hồ Chí Minh đối với nhà nước và pháp luật của
Nhà nước ta trong cả hai giai đoạn cách mạng Dân téc dân chủ và cách mạng
xã hội chủ nghĩa. Tiếp đó là PGS.TS Hoàng Văn Hảo với: Tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhà nước kiểu mới - Sù hình thành và phát triển, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1995. Tác giả cũng đã nghiên cứu từ sự lùa chọn kiểu nhà nước
của Hồ Chí Minh đến những tư tưởng của Hồ Chí Minh về Nhà nước Việt
Nam trong thời kỳ Cách mạng Dân téc Dân chủ và trong t hời kỳ cách mạng
xã hội chủ nghĩa. Phần kết luận của tác giả chiếm gần nửa số trang của tập
sách có nhiều nghiên cứu mới về sự "kết hợp đạo đức và pháp luật trong tư
tưởng Hồ Chí Minh"; từ đó nêu ra sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước pháp quyền và từng bước hoàn thiện nó trong quá trình đổi mới ở nước
ta. Tiếp theo phải kể đến công trình chuyên khảo của PTS. Nguyễn Đình Léc,
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1998 (sản phẩm của đề tài cấp Nhà nước KX.02.13). Đây là
công trình nghiên cứu khá cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của
dân, do dân, vì dân và sự vận dụng của Đảng ta trong việc xây dựng nhà nước
pháp quyền ở Việt Nam; Vò Đình Hoè với: Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí
Minh, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2001.
Tiếp sau đó, có nhiều tác giả nghiên cứu về chủ đề này như Phạm
Ngọc Anh - Bùi Đình Phong với: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà
nước pháp quyền kiểu mới ở Việt Nam, Nxb Lao động, 2003; Nguyễn Anh
Tuấn (chủ biên) với Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước kiểu mới ở
Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh, 2003; Bùi Ngọc Sơn với Tư tưởng lập
hiến Hồ Chí Minh, Nxb Lý luận chính trị, 2004. Một số giáo trình tư tưởng
Hồ Chí Minh của Hội đồng lý luận Trung ương, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh... cũng có bài về tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân,
do dân, vì dân; các tác giả: Dương Xuân Ngọc có bài "Quá trình xây dựng
thể chế nhà nước của dân, do dân, vì dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh", Tạp
chí Lý luận chính trị, 2-2004; Lê Mậu Hãn với Hồ Chí Minh kién lập nhà
nước pháp quyền Việt Nam, Tạp chí Lịch sử Đảng, 5-2005, GS. Trần Xuân
Trường với: Đảng cầm quyền và nhà nước của dân, do dân, vì dân; PGS.TS
Nguyễn Trọng Phóc với: 60 năm xây dựng nhà nước cách mạng của dân, do
dân, vì dân, Tạp chí Lý luận chính trị, số 9 năm 2005; PGS.TS Lê Văn Tích
(chủ biên) với: Đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống, Nxb Chính trị quốc
gia, 5-2006; GS.VS Nguyễn Duy Quý với bài: Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Thành tựu và những vấn đề cần giải quyết, Tạp chí
Thông tin công tác tư tưởng lý luận, 7-2006; GS.TS Hoàng Chí Bảo với: Dân
chủ xã hội chủ nghĩa - mục tiêu và động lực của đổi mới; GS. TSKH Đào Trí
Óc với bài: Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa; Báo Nhân dân số ra ngày 8-8-2006; Nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải
với: Sự điều hành năng động của Chính phủ là một nhân tố đưa tới những
thành tựu đổi mới và phát triển đất nước, Báo Nhân dân số ra ngày 17-62006.
Các công trình trên đây đã nghiên cứu ngày một rõ tư tưởng Hồ Chí
Minh và những đóng góp thực tế của Người trong việc xây dựng và lãnh đạo
nhà nước kiểu mới ở Việt Nam, trong giai đoạn cách mạng dân téc dân chủ và
cách mạng xã hội chủ nghĩa; phân tích sáng tạo của Hồ Chí Minh và tính cách
mạng của nhà nước do Hồ Chí Minh sáng lập. Tuy nhiên do mục đích và yêu
cầu đặt ra cho mỗi công trình mà chưa có tác giả nào nghiên cứu tư tưởng Hồ
Chí Minh về "thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân" một
cách độc lập và trong mối liên hệ với công cuộc cải cách hành chính hiện nay.
Vì vậy, trên cơ sở tiếp thu những thành quả nghiên cứu của các tác giả đi trước,
tôi lùa chọn vấn đề: "Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của
nhân dân với công cuộc cải cách hành chính ở Tuyên Quang", làm đề tài
luận văn thạc sĩ chuyên ngành Hồ Chí Minh học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích:
Nghiên cứu làm rõ quá trình hình thành, nội dung cơ bản tư tưởng Hồ
Chí Minh về "thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của dân" để từ đó
thấy rõ hơn công cuộc cải cách hành chính hiện nay là sự tiếp nối tư tưởng
của Hồ Chí Minh nhằm phát huy sức mạnh và trí tuệ của nhân dân để xây
dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, đáp ứng đòi hỏi của công cuộc công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về "thực
hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân".
- Xác định nội dung chủ yếu của tư tưởng trên.
- Nghiên cứu mối liên hệ tư tưởng Hồ Chí Minh về "thực hiện chính
quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân" với công cuộc cải cách hành
chính nhằm xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân trong sạch,
vững mạnh.
- Liên hệ với thực tiễn chương trình cải cách hành chính nhằm xây
dựng chính quyền vững mạnh vì dân ở Tuyên Quang hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài đi sâu nghiên cứu nguồn gốc, cơ sở và quá trình hình thành nội
dung tư tưởng Hồ Chí Minh về "thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt
của nhân dân" và sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta hiện nay vào trong công
cuộc cải cách hành chính nhằm xây dùng thành công nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa - mét chính quyền trong sạch, vững mạnh thực sự của dân, do dân,
vì dân trên phạm vi quốc gia cũng như ở địa bàn tỉnh Tuyên Quang hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin và các
phương pháp cụ thể: phương pháp phân tích và tổng hợp, lịch sử - lôgíc, điều
tra xã hội học.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn hoàn thành sẽ góp phần làm sáng tỏ tư tưởng Hồ Chí Minh
về "thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân" và từ đó thấy
rõ mối liên hệ và những kinh nghiệm, bài học quý báu của tư tưởng Êy với
công cuộc cải cách hành chính hiện nay.
Luận văn là tài liệu quý giúp những người nghiên cứu và quản lý hiểu
rõ thêm một tư tưởng quan trọng của Hồ Chí Minh về phát huy sức mạnh và
trí tuệ toàn dân để xây dựng chính quyền trong sạch và vững mạnh - mét đòi
hỏi thường xuyên và cấp bách đối với Việt Nam trong tiến trình củng cố, xây
dựng đất nước và hội nhập quốc tế. Luận văn là tài liệu tham khảo để giảng
dạy trong các trường hành chính, trường chính trị tỉnh và giúp chính quyền
tỉnh Tuyên Quang trong quá trình thực hiện Chương trình cải cách hành chính
ở địa bàn tỉnh giai đoạn 2006 - 2010 nhằm xây dựng hệ thống chính quyền
Tuyên Quang trong sạch, vững mạnh...
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu làm 2 chương,7 tiết.
Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ "THỰC HIỆN CHÍNH QUYỀN
MẠNH MẼ VÀ SÁNG SUỐT CỦA NHÂN DÂN"
1.1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH
1.1.1. Cơ sở lý luận
Học thuyết Mác - Lênin về nhà nước là di sản khoa học và cách mạng
cho những người cộng sản và các dân téc thuộc địa đứng lên giải phóng khỏi
ách nô dịch của chủ nghĩa đế quốc; thực hiện chính quyền chuyên chính vô
sản có sức mạnh tập trung chèng lại sự phản kháng của các thế lực thù địch,
đồng thời phát huy dân chủ thực sự để tổ chức tốt nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa, phát triển khoa học kỹ thuật, xây dựng nền giáo dục và văn hóa mới
cho nhân dân.
Trong tác phẩm "Nhà nước và cách mạng - Học thuyết của chủ nghĩa
Mác về nhà nước và những nhiệm vụ của giai cấp vô sản trong cách mạng"
V.I.Lênin viết:
Học thuyết đấu tranh giai cấp mà Mác vận dụng vào vấn đề nhà
nước và vấn đề cách mạng xã hội chủ nghĩa, tất nhiên phải đưa tới
chỗ thừa nhận sự thống trị về chính trị của giai cấp vô sản, chuyên
chính của giai cấp đó, tức là một chính quyền không bị chia sẻ với ai
hết, và trực tiếp dùa vào lực lượng vũ trang của quần chúng. Giai cấp
tư sản chỉ có thÓ bị lật đổ, khi nào giai cấp vô sản trở thành giai cấp
thống trị đủ sức trấn áp sự phản kháng không thể tránh khỏi, tuyệt
vọng của giai cấp tư sản, và đủ sức tổ chức hết thảy quần chúng lao
động và bị bóc lột để xây dựng một chế độ kinh tế mới.
Giai cấp vô sản cần có chính quyền nhà nước, cần có sức
mạnh tập trung, cần có tổ chức bạo lực để trấn áp sự phản kháng
của bọn bóc lột và lãnh đạo quảng đại quần chúng nhân dân - nông
dân, tiểu tư sản, nửa vô sản - trong công cuộc "tổ chức" nền kinh tế
xã hội chủ nghĩa [22, tr.32].
Sự tổng kết và phát triển tư tưởng của Mác - Ăngghen về nhà nước và
cách mạng, hết sức kỳ tài của Lênin, đã cho chóng ta thấy được "vấn đề nhà
nước" đã được trình bày ngày càng sáng tỏ theo tiến trình lịch sử, từ "Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản" 1848 tới Công xã Pari 1871 và đến "đêm trước của
cách mạng vô sản xã hội chủ nghĩa" tháng 10 Nga năm 1917. Các đặc điểm
về mô hình, vai trò, chức năng chủ yếu của nhà nước vô sản cùng những
nhiệm vụ của giai cấp công nhân trong cách mạng luôn được bổ sung bằng
tổng kết thực tiễn phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế
trong cuộc đấu tranh chính trị để giành lấy chính quyền.
Công xã Pari 1871 là hình thức chính quyền nhà nước đầu tiên của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động. Tuy tồn tại không lâu, song nó đã để lại
cho phong trào cộng sản và công nhân thế giới một mô hình nhà nước rất đặc
sắc về tính dân chủ trên nhiều phương diện tổ chức và hoạt động của nó.
Lênin nhận xét:
Chính quyền mới, với tính cách là chuyên chính của tuyệt đại
đa số, đã có thể duy trì và đã được duy trì chỉ là nhờ vào sự tín
nhiệm của quần chúng đông đảo, chỉ bằng lôi cuốn một cách tự do
nhất, rộng rãi nhất và mạnh mẽ nhất toàn thể quần chúng tham gia
chính quyền... Đó là chính quyền công khai đối với mọi người, làm
việc trước mặt quần chúng, quần chúng dễ dàng gần gũi nó, nó trực
tiếp sinh ra từ quần chúng, là cơ quan trực tiếp đại biểu cho quần
chúng nhân dân và ý chí của họ [21, tr.378].
V.I.Lênin còn chỉ rõ, trong điều kiện mới giai cấp vô sản càng phải
kiên quyết sử dụng bạo lực cách mạng, đập tan bộ máy của nhà nước tư sản;
khả năng giành chính quyền bằng phương pháp hòa bình là rất quý nhưng Ýt
khi xảy ra. Cách mạng vô sản có thể nổ ra và giành thắng lợi ở những mắt
khâu yếu nhất của chủ nghĩa đế quốc. Nhiệm vụ lúc này là phải đập tan bộ
máy hành chính, quân sự quan liêu, những công cụ áp bức, bóc lột, đàn áp
nhân dân; còn các cơ quan khác như cơ quan thống kê, ngân hàng, bưu điện...
là những yếu tè cần thiết cho quản lý nhà nước mới thì "không thể và cũng
không nên phá hủy bé máy đó đi. Phải giải thoát cho bộ máy đó khỏi phải
phục tùng bọn tư bản, phải bắt bộ máy đó phục tùng các Xô viết vô sản, phải
mở rộng bộ máy đó ra, làm cho nã bao trùm mọi lĩnh vực và trong cả nước"
[23, tr.404].
Muốn cách mạng vô sản thắng lợi, giành chính quyền về tay nhân dân,
theo Lênin, còn phải xây dựng được đảng mác xít chân chính; đoàn kết và tập
hợp mọi lực lượng cách mạng mà nòng cốt là liên minh công - nông
Chủ nghĩa Mác giáo dục công nhân, là giáo dục đội tiên phong
của giai cấp vô sản, đội tiên phong này đủ sức nắm chính quyền và
dẫn dắt toàn dân tiến lên chủ nghĩa xã hội, đủ sức lãnh đạo và tổ
chức một xã hội mới, đủ sức làm thầy, làm người dẫn đường, lãnh
tụ của tất cả những người lao động và những người bị bóc lột để
giúp họ tổ chức đời sống xã hội của họ, mà không cần đến giai cấp
tư sản và chống lại giai cấp tư sản [22, tr.33].
Nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời là kết quả đấu tranh cách mạng của
giai cấp vô sản và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Cách mạng ở mỗi nước, mỗi thời kỳ có những điều kiện và hoàn cảnh khác
nhau cho nên sự ra đời của các nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng như việc tổ
chức nhà nước kiểu mới có những đặc điểm khác nhau. Vì thế, mỗi nước cần
phải chọn cho mình những phương pháp và hình thức thích hợp.
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trên con đường đi tìm con đường cứu
nước cứu đồng bào, Người đã gặp ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin. Dưới ánh
sáng Luận cương về vấn đề dân téc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin và tấm
gương cách mạng tháng Mười Nga, Người đã tìm ra con đường giải phóng
cho dân téc mình và cho các dân téc thuộc địa. Năm 1920, bằng nhiệt tình
cách mạng hiếm thấy và sự mẫn cảm chính trị đặc biệt, tại Đại hội lần thứ 18
Đảng Xã hội Pháp Nguyễn Ái Quốc tán thành và ủng hé Đảng mình đi theo
con đường Quốc tế thứ ba - Quốc tế Cộng sản. Sù kiện đó đánh dấu bước
chuyển biến về chất trong tư tưởng Nguyễn Ái Quốc, từ chủ nghĩa yêu nước
đến chủ nghĩa Lênin, từ người yêu nước thành người cộng sản. Đây là yếu tố
cực kỳ quan trọng để Nguyễn Ái Quốc trở thành người sáng lập Đảng Cộng
sản Việt Nam và tiếp đó là sáng lập ra nhà nước cách mạng công nông đầu
tiên ở Đông Nam Á.
Vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội là vấn đề chính quyền.
Thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga và mô hình chính
quyền công nông binh đã được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc vận dông ngay từ đầu
năm 1930. Trong Chính cương vắn tắt được thông qua tại Hội nghị thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam, Người sớm vạch rõ "Chủ trương làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản" [29, tr.1].
Để thực hiện thành công cuộc cách mạng này, Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ những
yêu cầu về phương diện xã hội, kinh tế, chính trị...., trong đó:
Về phương diện chính trị:
a) Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến
b) Làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập
c) Dùng ra chính phủ công nông binh (TG nhấn mạnh)
d) Tổ chức ra quân đội công nông [29, tr.1].
Đây là ý tưởng đầu tiên của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về một mô hình
nhà nước mới ở Việt Nam, thay thế cho nhà nước thực dân phong kiến đang
thống trị ở Việt Nam lóc bấy giê.
Trước khí thế đấu tranh sôi nổi của phong trào cách mạng trong nước
sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, điển hình là cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930-1931) với việc áp dụng trực tiếp mô hình chính quyền Xô viết
Nguyễn Ái Quốc sớm nhận định:
Đó là đầu tiên nhân dân ta nắm chính quyền ở địa phương và bắt
đầu thi hành những chính sách dân chủ, tuy mới làm được trong một
phạm vi nhỏ hẹp. Xô viết Nghệ An bị thất bại, nhưng đã có ảnh hưởng
lớn. Tinh thần anh dũng của nó luôn luôn nồng nàn trong tâm hồn quần
chúng, và nó đã mở đường cho thắng lợi về sau [32, tr.154-155].
Đầu năm 1941, sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Tháng 5
năm 1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị Trung ương 8. Sau khi phân tích
tình hình trong nước và quốc tế, Người đã nhận định: "Vấn đề chính là nhận
định cuộc cách mạng trước mắt của Việt Nam là một cuộc cách mạng giải
phóng dân téc; lập Mặt trận Việt Minh, khẩu hiệu chính là: đoàn kết toàn dân,
chống Nhật, chống Pháp, tranh lại độc lập; hoãn cách mạng ruộng đất" [32,
tr.158]. Hội nghị đã có chủ trương mới "không nên nói công nông liên hiệp
và lập chính quyền xô viết mà phải nói toàn thể nhân dân liên hợp và lập
chính phủ dân chủ cộng hòa" [11, tr.127]. Chương trình Việt Minh cũng nêu
rõ: "sau khi đánh đuổi đế quốc phát xít Nhật, sẽ lập nên chính phủ nhân dân của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lấy cờ đỏ, sao vàng năm cánh làm quốc cờ.
Chính phủ nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Quốc dân đại hội
cử lên..." [29, tr.583].
Cuối năm 1944, khi thời cơ giải phóng dân téc đến gần, Hồ Chí Minh
nói rõ hơn về mô hình một nhà nước mới của cách mạng Việt Nam trong Thư
gửi đồng bào toàn quốc, đó là mét chính phủ đại biểu cho sự chân thành đoàn
kết và hành động nhất trí của toàn thể quốc dân ta. "Một cơ cấu nh thế mới đủ
lực lượng và uy tín, trong thì lãnh đạo công việc cứu quốc, kiến quốc, ngoài
thì giao thiệp với các hữu bang" [29, tr.505].
Nh vậy, từ mô hình Nhà nước công nông binh chuyển sang mô hình
Nhà nước Dân chủ Cộng hòa là một bước chuyển kịp thời và sáng tạo của Hồ
Chí Minh, phản ánh được đặc thù thực tiễn cách mạng giải phóng dân téc ở
Việt Nam. Đó là mét sáng tạo cách mạng về chính thể nhà nước trong lý luận
về nhà nước của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Sù ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với chức năng
chuyên chính của chính quyền nhân dân, là một đóng góp của Hồ Chí Minh đối
với việc thực hiện chức năng "chuyên chính" của nhà nước trong lý luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin về Nhà nước của giai cấp vô sản.
Cơ sở để hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một chính
quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân được bắt nguồn chính từ việc nhà
nước cách mạng phải thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại của nhà
nước dân chủ vừa mới được thiết lập sau cách mạng tháng Tám. Trung thành
với nguyên tắc "dĩ bất biến, ứng vạn biến", Hồ Chí Minh trong thời kỳ đầu
của cách mạng tháng Tám Ýt dùng khái niệm: cách mạng vô sản, nhà nước vô
sản và nền chuyên chính vô sản, thay vào đó là các khái niệm đồng nghĩa kèm
theo cặp từ "quần chúng", "nhân dân". Sau này khi điều kiện cho phép Hồ Chí
Minh đã giải thích rõ ràng hơn:
VÒ chuyên chính dân chủ nhân dân: chế độ nào cũng có
chuyên chính. Vấn đề là ai chuyên chính với ai? Dưới chế độ thực
dân phong kiến, tư bản, chuyên chính là số Ýt người chuyên chính với
đại đa số nhân dân. Dưới chế độ dân chủ nhân dân, chuyên chính là
đại đa số nhân dân chuyên chính với thiểu số phản động chống lại lợi
Ých nhân dân, chống lại chế độ dân chủ nhân dân [33, tr.279].
Trong bài viết cho báo Pravđa (Liên Xô) "Cách mạng tháng Mười vĩ
đại mở ra con đường giải phóng cho các dân téc" nhân kỷ niệm 50 năm ngày
cách mạng tháng Mười Nga, Hồ Chí Minh viết:
Giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam ngày càng thấm
nhuần những lời dạy của Lênin và những bài học lớn của cách mạng
tháng Mười.
Cần có sự lãnh đạo của mét đảng cách mạng chân chính của
giai cấp công nhân, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân. Chỉ có sự
lãnh đạo của một đảng biết vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình thì mới có thể đưa
cách mạng giải phóng dân téc đến thắng lợi và cách mạng xã hội chủ
nghĩa đến thành công... [35, tr.303-304].
Như vậy, theo Hồ Chí Minh việc xây dựng, tổ chức và lãnh đạo chính
quyền dân chủ nhân dân của Đảng Cộng sản Việt Nam phải dùa vào chủ
nghĩa Mác-Lênin và phải bảo đảm xây dựng chính quyền thật sự mạnh mẽ,
chắc chắn và sáng suốt của nhân dân. Sự sáng suốt trong lãnh đạo của Đảng
với chính quyền là nhân tố không thể thiếu để thực hiện tổ chức xây dựng một
chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân. Cơ sở lý luận làm cho
đường lối lãnh đạo của Đảng và các chính sách nhà nước tỏ ra thật sự sáng
suốt chính là lý luận Mác-Lênin được vận dụng một cách sáng tạo vào điều
kiện cụ thể ở Việt Nam.
Hồ Chí Minh khẳng định: Chính quyền nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà là nhà nước dân chủ, nhà nước của dân, do dân và vì dân; cơ sở xã
hội của nhà nước là toàn thể dân téc, nền tảng là liên minh công - nông, lao
động trí óc dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh một nhà nước mạnh mẽ và sáng suốt của
nhân dân trước hết là một nhà nước thực sự đại biểu cho quyền lợi của nhân
dân, thực sự do nhân dân lập ra, được nhân dân ủng hộ. Đồng thời, đó phải là
một chính quyền nhà nước tập trung, có bộ máy hành chính mạnh mẽ, quản lý
điều hành bằng pháp luật có hiệu lực, hiệu quả thực tếl; đội ngò cán bộ công
chức am hiểu pháp luật, chuyên môn và có đạo đức phục vụ nhân dân.
Bằng sự vận dụng sáng tạo các nguyên lý, quan điểm của Học thuyết
Mác - Lênin về nhà nước vào chỉ đạo và xây dựng thành công nhà nước Dân
chủ cộng hòa ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh tỏ rõ là một người Mác xít
chân chính, đã bổ sung "cơ sở lịch sử" của chủ nghĩa Mác bằng sự thắng lợi trên
thực tiễn của cách mạng dân téc dân chủ mở đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, "những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được" [27, tr.465]. Hồ
ChÝ Minh đã tiếp nối ánh sáng của cách mạng tháng Mười Nga bằng nắng
vàng mùa thu cách mạng tháng Tám trên đất nước Việt Nam, xua tan bóng
đêm của chủ nghĩa thực dân ngự trị trên đất nước gần một thế kỷ.
1.1.2. Cơ sở thực tiễn
Những công việc của chính quyền non trẻ sau Cách mạng Tháng Tám
là sự tiếp nối những công việc và thành quả của chính quyền "nước Việt Nam
mới phôi thai" ở khu giải phóng trước Cách mạng Tháng Tám. Không thể
hiểu thấu đáo cơ sở thực tiễn của tư tưởng "thực hiện chính quyền mạnh mẽ
và sáng suốt của nhân dân" nếu không tìm hiểu tiến trình xây dựng chính
quyền ở giai đoạn này.
Sang năm 1945, phong trào phát triển mạnh, căn cứ địa cách mạng
được mở rộng, hình thành một vùng rộng lớn gồm 6 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn,
Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên và một số vùng ngoại vi
thuộc các tỉnh Bắc Giang, Vĩnh Yên, Phú Thọ, Yên Bái...
Trước tình hình đó, Hồ Chí Minh chỉ thị thành lập khu giải phóng, cử
ra Uỷ ban chỉ huy lâm thời, thực hiện chức năng của chính quyền cách mạng.
Tại các địa phương trong khu giải phóng, các Uỷ ban nhân dân cách mạng
cũng được thành lập, do nhân dân cử ra, để thi hành 10 chính sách của Việt
Minh. Khu giải phóng là hình ảnh "nước Việt Nam mới phôi thai", "các Uỷ
ban nhân dân cách mạng vừa lãnh đạo nhân dân chuẩn bị tổng khởi nghĩa,
vừa tập cho nhân dân cầm chính quyền" [5, tr.134-135].
Tiến trình thành lập Chính phủ Việt Nam được Đảng ta và Hồ Chí
Minh chuẩn bị rất kỳ công, có khởi nguồn tự mục tiêu tranh đấu của Mặt trận
Việt Minh (tháng 5/1941) đặc biệt khi thời cơ "ngàn năm có một" xuất hiện,
lãnh tụ Hồ Chí Minh đã quyết định khai mạc Đại hội Quốc dân trong ngày
16-8-1945 tại Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.
Đại hội đại biểu quốc dân Tân Trào mang tầm vóc lịch sử nh Quốc hội
đầu tiên của nước Việt Nam mới.
Asimét L.A.Patti (Archimèdes L.A.Patti), một sĩ quan tình báo Mỹ có
mặt ở Hà Nội ngay sau khi Tổng khởi nghĩa thắng lợi đã nhận xét rằng, khi
biết tin phát xít Nhật đã sụp đổ, Hồ Chí Minh "đã hành động một cách kiên
quyết và nhanh chóng vì ông phải bảo đảm chiếm được một chỗ đứng vững
chắc ở... Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Ông Hồ biết rằng ông phải làm cho mọi
người thấy rõ được cả tính chất hợp pháp lẫn sức mạnh để giữ vai trò lãnh đạo
và phát triển phong trào" [39, tr.146].
Quốc dân Đại hội Tân Trào là "một tiến bộ lớn trong lịch sử đấu tranh
giải phóng của dân téc ta từ ngót một thế kỷ nay" [29, tr.553], Quốc dân Đại
hội Tân Trào với tính cách là cơ quan mang tính đại diện quyền lực cao nhất
của nhân dân tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng và 10 chính
sách của Việt Minh, thông qua quyết định thành lập Uỷ ban giải phóng dân
téc Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, thực hiện chức năng Chính phủ
lâm thời sau cách mạng tháng Tám thắng lợi.
Đây là một nét sáng tạo độc đáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng
Cộng sản Đông Dương và Tổng bộ Việt Minh trong việc phát huy ý chí, sức
mạnh dân téc và tính hợp pháp của sự nghiệp đấu tranh giành chính quyền
độc lập tự do bằng tổ chức Đại hội đại biểu quốc dân để đề ra quyết sách
chuyển xoay vận nước bằng phương thức khởi nghĩa vũ trang, xoá bỏ chế độ
nô dịch thực dân, kiến lập chế độ cộng hoà dân chủ với cơ quan mang tính
quyền lực cao nhất là Đại hội đại biểu quốc dân và Uỷ ban dân téc giải phóng
do Đại hội đại biểu quốc dân lập ra.
Ngày 25/8/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh về đến Hà Nội. Theo đề nghị
của Người, Uỷ ban dân téc giải phóng Việt Nam tù cải tổ thành Chính phủ
lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhiều ủy viên Việt Minh trong
ủy ban dân téc giải phóng đã tự nguyện rót ra để mời thêm nhân sĩ ngoài Việt
Minh tham gia. Sau này, Hồ Chí Minh ca ngợi: "Đó là một cử chỉ vô tư, tốt
đẹp, không ham chuộng địa vị, đặt lợi Ých của dân téc, của đoàn kết toàn dân
lên trên lợi Ých cá nhân. Đó là một cử chỉ đáng khen, đáng kính mà chúng ta
phải học tập" [32, T.6, tr.160].
Việc Uỷ ban dân téc giải phóng tù cải tổ thành Chính phủ lâm thời
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh là
đáp ứng yêu cầu: Làm sao cho Chính phủ lâm thời tiêu biểu được Mặt trận
dân téc thống nhất một cách rộng rãi và đầy đủ, mời thêm một số nhân sỹ
tham gia chính phủ để cùng nhau gánh vác nhiệm vụ nặng nề mà quốc dân đã
giao phó cho. Và để Chính phủ sớm ra mắt quốc dân đồng bào trong ngày tổ
chức lễ tuyên bố độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Trong
"Tuyên cáo về việc thành lập Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa" (Việt Nam dân quốc công báo, Số 1, ngày 29-9-1945), ngày 28-8-71945
có đoạn:
Chính phủ lâm thời không phải là chính phủ riêng của Mặt
trận Việt Nam độc lập Đồng Minh (Việt Minh) nh có người đã lầm
tưởng. Cũng không phải là một chính phủ chỉ bao gồm đại biểu của
các chính đảng. Thật là một chính phủ quốc gia thống nhất, giữ trọng
trách là chỉ đạo cho toàn thể, đợi ngày triệu tập được Quốc hội đề cử
ra một Chính phủ Dân chủ Cộng hòa chính thức.
Hỡi quốc dân đồng bào,
Vận mệnh ngàn năm của dân téc ta đang quyết định trong lúc
này đây. Toàn thể quèc dân hãy khép chặt hàng ngò, đứng dưới lá
quốc kỳ, làm hậu thuẫn cho Chính phủ lâm thời, nắm chắc tự do độc
lập, cải tạo Tổ quốc bấy lâu đã bị bọn giặc nước tàn phá [24, Tr.324].
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, một nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh
mẽ, trước hết phải là nhà nước hợp hiến, hợp pháp.
Sau khi giành chính quyền trong cả nước, trước tình hình biến chuyển
hết sức mau lẹ, Ban Thường vụ Trung ương Đảng, Tổng bộ Việt Minh quyết
định sớm tổ chức lễ Tuyên bố độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, trên lễ đài, các thành viên chính
phủ ra mắt trước đông đảo quần chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ của
dân téc lần đầu tiên xuất hiện trước công chóng. Thay mặt Chính phủ lâm
thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh long trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố
trước quốc dân đồng bào và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra
đời. "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành
một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân téc Việt Nam quyết đem tất cả tinh
thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập
Êy" [24, tr.327-328].
Tuyên ngôn độc lập là bản anh hùng ca chiến đấu và chiến thắng của
dân téc Việt Nam, nêu cao ý chí đấu tranh của toàn dân để giữ vững quyền
độc lập, tự do, bảo vệ chế độ cộng hòa dân chủ Việt Nam. Quyền độc lập tự
do của dân téc Việt Nam được khẳng định trong Tuyên ngôn độc lập do Chủ
tịch Hồ Chí Minh công bố trước quốc dân và quốc tế đã đặt cơ sở pháp lý
quan trọng đầu tiên về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và có
giá trị đóng góp vào sự phát triển nền pháp lý tiến bộ của loài người.
Cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 là sự vùng dậy của toàn thể
dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng ta và Hồ Chí Minh nhằm xóa bá bộ
máy thống trị của đế quốc và bọn phong kiến tay sai, lập nên chính quyền
nhân dân trong cả nước. Đây là sự thắng lợi của đường lối của Đảng ta và tư
tưởng Hồ Chí Minh về quá trình hình thành một nhà nước do nhân dân, vì
nhân dân, thay thế cho nhà nước thực dân phong kiến đã tồn tại ở Việt Nam
gần một thế kỷ. Cuộc cách mạng tháng Tám đã lật đổ ách thống trị của chủ
nghĩa đế quốc thực dân, và "nền quân chủ mÊy mươi thế kỷ", thành lập nước
Cộng hòa Dân chủ, đưa dân téc Việt Nam bước vào mét kỷ nguyên mới - kỷ
nguyên Dân chủ Cộng hòa, kỷ nguyên Độc lập, Tù do. Nói về ý nghĩa to lớn của
cuộc Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Lần này là lần đầu tiên trong
lịch sử cách mạng của các dân téc thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo
cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc" [32, tr.159].
Tuy nhiên, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà phải "tiếp quản" mét
di sản kinh tế - xã hội hết sức nghèo nàn, lạc hậu. "Giặc đói" đe dọa sinh
mạng của hàng triệu đồng bào. Nền tài chính quốc gia gần nh trống rỗng.
Về mặt xã hội, hậu quả của xã hội cũ rất nặng nề. Sự thất học của đại
đa số nhân dân cũng là một loại giặc "giặc dốt". Chỉ có 10% dân số biết chữ,
hầu hết ở bậc tiểu học. Số công chức có trình độ đại học và cao đẳng trong cả
nước chỉ khoảng vài trăm người. Thực tế đó đã làm cho việc tổ chức hoạt
động và xây dựng chế đé mới của nhà nước ta gặp nhiều, khó khăn. Các tệ
nạn xã hội, hủ tục và lối sống lạc hậu do chế độ thực dân phong kiến, phát xít
để lại là gánh nặng cho nhà nước cách mạng non trẻ.
Về chính trị, trong khi các lực lượng Đồng minh kéo vào nước ta, các
thế lực phong kiến phản động, tay sai của thực dân Pháp đã tăng cường hoạt
động trở lại. Hàng chục tổ chức chính trị, đảng phái được thành lập nh Đại
Việt Cách mạng Đảng, Việt Nam phục quốc, Việt Nam quốc xã Đảng... do
Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Sâm, Ngô Đình Diệm cầm đầu. Đặc biệt có hai
đảng phái chính trị từ nước ngoài trở về theo đội quân Tưởng là Việt Nam
cách mạng đồng chí hội (Việt Cách) và Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt
Quốc) ra mặt chống phá chính quyền rất quyết liệt. Hoàn cảnh Việt Nam lóc
này vô cùng khó khăn.
Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng II - 1951, Hồ Chí Minh đã viết:
Nước ta độc lập chưa một tháng, thì phía Nam, quân đội đế
quốc Anh kéo đến. Chúng mượn tiếng là lột vũ trang của quân
Nhật, nhưng sự thật chúng là đội quân viễn chinh giúp thực dân
Pháp âm mưu cướp lại nước ta.
Phía Bắc thì quân đội Quốc dân Đảng Trung Quốc kéo sang.
Chúng cũng mượn tiếng là lột vũ trang quân Nhật, nhưng kỳ thật
chúng có ba mục đích hung ác:
- Tiêu diệt Đảng ta,
- Phá tan Việt Minh,
- Giúp bọn phản động Việt Nam đánh đổ chính quyền nhân
dân, để lập một chính phủ phản động làm tay sai cho chóng.
Đứng trước tình hình gay go và cấp bách Êy, Đảng phải dùng
mọi cách để sống còn, hoạt động và phát triển, để lãnh đạo kín đáo và
có hiệu quả hơn, và có thời giê củng cố dần dần lực lượng của chính
quyền nhân dân, củng cố Mặt trận dân téc thống nhất [32, tr.161].
Theo tư tưởng chỉ đạo Hồ Chí Minh, chính trong những tình thế hiểm
nghèo cần phải sáng suốt, cần có đối sách mềm dẻo, nhân nhượng, hòa hoãn
để giữ vững và củng cố sức mạnh thống nhất của chính quyền nhân dân,
thành quả quan trọng nhất của cách mạng tháng Tám. Hồ Chí Minh hiểu rõ:
"vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền, giành chính
quyền đã khó nhưng giữ vững chính quyền càng khó hơn". Chính trong thời
khắc cực kỳ nghiêm trọng và đầy thử thách này, thiên tài Hồ Chí Minh và
nghị lực cách mạng phi thường của dân téc đã giúp Người nhạy bén và sáng
suốt lùa chọn những đối sách đúng đắn nhằm giải quyết kịp thời có hiệu quả
những nhiệm vụ vô cùng phức tạp, khó khăn; bình tĩnh chèo lái con thuyền
cách mạng Việt Nam vượt qua thác ghềnh, từng bước tiến lên. Thời gian là
một yếu tố vô cùng cần thiết để "củng cố dần lực lượng của chính quyền nhân
dân, củng cố Mặt trận dân téc thống nhất", nguồn sức mạnh của hệ thống
chính trị dân chủ vừa mới được thành lập; thời gian là sức mạnh, là lực lượng
cho Mặt trận và Chính quyền triển khai công việc tổ chức đoàn kết toàn dân
và xây dựng "chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân" trở thành một
hệ thống chính quyền thống nhất từ "Chính phủ toàn quốc" đến chính quyền
địa phương trong cả nước Việt Nam.
Sù kiện Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bè "tự giải tán" là "để phá
tan tất cả những điều hiểu lầm ở ngoài nước và trong nước có thể trở ngại cho
tiền đồ giải phóng nước ta". Những người muốn nghiên cứu về chủ nghĩa Mác
- Lênin "sẽ gia nhập Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương".
Như vậy, bằng việc công khai thành lập Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác
và tờ báo Sự thật cùng các chỉ thị, nghị quyết, trên thực tế Đảng ta vẫn tiếp
tục tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối chính sách của Đảng,
giữ vững được mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng, bảo đảm sự lãnh đạo
toàn diện của Đảng trong sự nghiệp kháng chiến kiến quốc.
Tình hình những tháng năm đầu của cách mạng là thời kỳ chồng chất
những khó khăn thử thách với Đảng và chính quyền nhân dân trên mọi
phương diện từ nội trị, kinh tế, quân sự, đến ngoại giao.
Với tư cách là thượng khách của nước Pháp, trong chuyến thăm Pháp
năm 1946, Hồ Chí Minh là hiện thân của ý chí độc lập dân téc, hoà bình và
hữu nghị của nước Việt Nam mới, Người đã làm hết sức mình để cố tránh
một cuộc chiến tranh đổ máu cho hai dân téc Việt - Pháp và kéo dài khoảng
thời gian hoà hoãn để củng cố chính quyền, chuẩn bị lực lượng cho cách
mạng ở trong nước.
Trước những câu hỏi có tính "cân não" về xu hướng cộng sản, ở một
thời điểm nhạy cảm, của các nhà báo Pháp phỏng vấn Hồ Chủ tịch, Người
điềm tĩnh trả lời:
Tất cả mọi người đều có quyền nghiên cứu một chủ nghĩa.
Riêng tôi, tôi nghiên cứu chủ nghĩa Các Mác. Cách đây 2000 năm,
Đức chóa Giêsu đã nói là ta phải yêu mến các kẻ thù của ta. Điều
đó đến bây giê vẫn chưa thực hiện được.
Còn khi nào thì chủ nghĩa Các Mác thực hiện thì tôi không thể
trả lời được. Muốn cho chủ nghĩa cộng sản thực hiện được, cần phải
có kỹ nghệ, nông nghiệp và tất cả mọi người đều được phát triển
hết khả năng của mình. Ở nước chúng tôi, những điều kiện Êy chưa
có đủ [30, tr.272].
Qua đó, ta có thể thấy Hồ Chí Minh luôn đứng ở thực tại, cho dù trong
những hoàn cảnh ngặt nghèo, Người vẫn tỏa sáng một tầm nhìn bao quát,
những biến chuyển biện chứng của lịch sử vận động khách quan đều thông
qua những điều kiện cụ thể. Ở đó con người không thể áp đặt ý muốn chủ
- Xem thêm -