Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất
đúng đắn của Đảng và nhân dân ta. Đồng chí hãy phân tích cơ sở khách
quan và chứng minh luận điểm đó của Đảng ta trong quá trình Cách mạng
Việt Nam ./.
Chúng ta đã biết rằng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là bài học
lớn, xuyên suốt quá trình cách mạng Việt Nam, là con đường duy nhất đúng đắn mà
Đảng và dân tộc Việt Nam đã lựa chọn. Thực tiễn cách mạng Việt Nam gần một thế
kỷ qua cho chúng ta nhận thức sâu sắc hơn bài học độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Sự gắn kết giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội cũng chính là con
đường tất yếu khách quan, hợp với quy luật phát triển của đất nước, hợp lòng người.
Đó là sự lựa chọn của Đảng, Bác Hồ và cũng chính là sự lựa chọn của nhân dân, của
lịch sử.
Quả thật, trước hết chúng ta thấy độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
là một sự lựa chọn hợp quy luật, hợp lòng dân. Đây là sự lựa chọn khách quan của
lịch sử.
Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, nhân dân ta đã liên tiếp đứng
lên đấu tranh chống lại kẻ xâm lược. Từ năm 1858 đến trước năm 1930, đã có hàng
trăm phong trào, cuộc khởi nghĩa oanh liệt dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu, các nhà
yêu nước theo nhiều khuynh hướng khác nhau, nhưng đều bị thực dân Pháp đàn áp
tàn bạo và thất bại. Nguyên nhân chính là do không có đường lối cách mạng đúng
đắn theo một hệ tư tưởng tiên tiến, khoa học và cách mạng. Đó là sự khủng hoảng
đường lối cứu nước.
Tháng 6 năm 1911 người thanh niên Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái Quốc, Hồ
Chí Minh, Bác Hồ…) ra đi tìm đường cứu nước. Bôn ba nhiều nơi trên thế giới, vừa
lao động, vừa quan sát, nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm các cuộc cách mạng tư
sản điển hình (Pháp, Mỹ); tham gia hoạt động trong Đảng xã hội Pháp, sau đó trở
thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, Người đã rút ra nhiều
bài học quý báu và bổ ích, là cơ sở cho sự lựa chọn con đường cách mạng của mình.
1
Cách mạng Tháng Mười Nga nổ ra và thắng lợi đã ảnh hưởng sâu sắc đến
Nguyễn Ái Quốc. Song, bước ngoặt lớn trong tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc diễn ra
khi Người được đọc Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa
của V.I Lênin vào tháng 7 năm 1920. Người ta tìm thấy con đường duy nhất đúng
đắn để cứu nước, giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp. Đó là con
đường giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp; giai cấp vô sản phải nắm
lấy ngọn cờ giải phóng dân tộc, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; cách
mạng dân tộc từng nước gắn liền với phong trào cách mạng thế giới…Người khẳng
định “ Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác là con
đường cách mạng vô sản”. Từ đó, Người truyền bá chủ nghĩa Mác- Lê Nin vào đất
nước ta, sáng lập và rèn luyện Đảng ta, lãnh đạo Đảng và nhân dân ta giành được hết
thắng lợi này đến thắng lợi khác. Toàn dân ta đi theo Đảng. Vì vậy, có thể nói đó là
sự lựa chọn của lịch sử Việt Nam, của toàn dân tộc Việt Nam.
Sự lựa chọn đó dựa trên hai căn cứ chủ yếu.
Một là, thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã mở ra thời
đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn
thế giới. Chính tính chất của thời đại mới đã tạo ra khả năng hiện thực cho những
dân tộc đang còn lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Những khả năng hiện thực
này đã đem lại nhận thức mới mẻ và triệt để trong quan niệm cũng như giải pháp để
giải quyết vấn đề độc lập dân tộc.
Hai là, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới giải phóng triệt để giai cấp vô sản và nhân
dân lao động khỏi áp bức bốc lột, bất công, mới đem lại cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc cho nhân dân và đưa nhân dân lao động trở thành những người làm chủ
xã hội. Độc lập dân tộc chỉ gắn liền với chủ nghĩa xã hội thì mới vững chắc. “Độc
lập dân tộc là điều kiên tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội
là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc” như cuơng lĩnh năm 1991 của
Đảng đã chỉ rõ.
2
Chủ nghĩa xã hội bảo đảm quyền tự quyết dân tộc, quyền lựa chọn chế độ
chính trị, lựa chọn con đường và mô hình phát triển, độc lập cả về chính trị, kinh tế
văn hoá.
Chủ nghĩa xã hội bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân; nhân dân có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phú; con đường phát triển toàn diện, có năng lực và điều
kiện làm chủ, xoá bỏ tình trạng áp bức, bốc lột, nô dịch của dân tộc này với dân tộc
khác về chính trị, kinh tế và tinh thần.
Chủ nghĩa xã hội tạo ra sự trao đổi, hợp tác kinh tế, văn hoá giữa các nước
dựa trên nguyên tắc tôn trọng chủ quyền của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, vì một
thế giới không có chiến tranh, không có sự hoành hành của tội ác, của những sự tàn
bạo và bất công, bảo đảm cho con người sống trong an bình và hạnh phúc.
Thực tiễn Cách mạng nước ta từ khi có Đảng đã khẳng định: độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn.
Trong gần 80 năm qua, Đảng và nhân dân ta luôn kiên trì và thực hiện mục tiêu
này. Nhờ vậy, mà cách mạng nước ta đã giành được những thắng lợi có ý nghĩa lịch
sử và thời đại.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 và việc thành lập Nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà. Đây là kết quả tổng hợp của các phong trào cách mạng
liên tục diễn ra trong 15 năm sau ngày thành lập Đảng, từ cao trào Xô Viết Nghệ
Tĩnh, cuộc vận động dân chủ 1936-1939 đến phong trào giải phóng dân tộc 19391945, Cách Mạng Tháng Tám đã xoá bỏ chế độ thuộc địa nửa phong kiến ở nước ta,
mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ
quốc, đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân
chủ nhân dân, thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội,
góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
3
Thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, củng cố vững chắc hơn độc
lập dân tộc, từng bước đưa nước ta lên chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, bài học lớn, được đặt ở vị trí hàng đầu qua các nhiệm kỳ Đại hội của
Đảng, đặc biệt qua 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới mà Đại hội X xác định là
bài học phải “kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nên tảng
chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Trong nhiều văn kiện của Đảng ta, vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội luôn được khẳng định một cách mạnh mẽ và dứt khoát. Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã nêu rõ :
"Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là bài học xuyên
suốt quá trình cách mạng của nước ta. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết
để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc
cho độc lập dân tộc". Tại Đại hội IX của Đảng, khi tổng kết những bài học chủ
yếu của 15 năm đổi mới, Báo cáo Chính trị đã chỉ rõ bài học thứ nhất là:
"Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh".
Nhìn ra bên ngoài và nhìn lại lịch sử Việt Nam trong thế kỷ XX vừa qua,
chúng ta càng thấy rằng sự lựa chọn của Đảng ta, của nhân dân ta là hoàn toàn
chính xác.
Như chúng ta đã biết, dân tộc ta có truyền thống yêu nước, anh dũng bất
khuất, đã từng chiến thắng nhiều đế quốc phong kiến hung hãn. Từ khi thực
dân Pháp xâm lược nước ta, phong trào yêu nước đã dấy lên hết sức mạnh mẽ.
Liên tiếp nổ ra các cuộc nổi dậy trên khắp mọi miền đất nước thu hút đông đảo
các tầng lớp nhân dân, các bậc sĩ phu, kể cả một bộ phận quan lại phong kiến.
Các phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Yên Thế; các phong trào Duy Tân,
Đông Du, khởi nghĩa Yên Bái và hàng chục cuộc đấu tranh khác nữa đều bị
thực dân Pháp thẳng tay đàn áp và thất bại. Điều đó chứng tỏ rằng, vẫn là
nhân dân giàu lòng yêu nước, có truyền thống chống giặc ngoại xâm, sẵn sàng
4
ủng hộ và tham gia các phong trào yêu nước; còn các bậc sĩ phu, các nhà lãnh
đạo các phong trào chống thực dân Pháp đều có thừa trí dũng, không thiếu
quyết tâm nhưng họ, cả giai cấp phong kiến và đại diện cho chế độ phong kiến,
cả giai cấp tư sản và đại diện cho thế lực tư sản khi đó đều không giải quyết
được vấn đề độc lập dân tộc ở nước ta.
Trong bối cảnh đó, chưa bao giờ như lúc bấy giờ, độc lập dân tộc càng trở
nên là yêu cầu cơ bản, khách quan của xã hội Việt Nam - xã hội thuộc địa, nửa
phong kiến. Công cuộc giải phóng dân tộc Việt Nam khi ấy ở trong "tình hình
đen tối như không có đường ra". Bằng con đường nào và giai cấp nào có khả
năng gánh vác sứ mệnh trọng đại đó ?
Nhưng rồi chính lịch sử lại có lời giải đáp. Chủ nghĩa Mác ra đời đã vạch
ra cái tất yếu từng bị che lấp bởi màn sương mù trong lịch sử. Chủ nghĩa Mác
khẳng định : chủ nghĩa tư bản nhất định bị thay thế bằng một chế độ tốt đẹp
hơn - chế độ cộng sản chủ nghĩa không có người bóc lột người và người đào
huyệt chôn chủ nghĩa tư bản chính là giai cấp công nhân - sản phẩm của nền
đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Đó là một tiếng sét trong lòng chủ nghĩa tư
bản ở vào thời thịnh trị, sau khi nó chiến thắng các chế độ chuyên chế phong
kiến, và đã bành trướng ra khắp thế giới. Các nước tư bản phát triển khi ấy
đang trở thành "trung tâm vũ trụ", chi phối và làm mưa làm gió mọi mặt đời
sống xã hội loài người.
Nhưng chính thời điểm mà chủ nghĩa tư bản tưởng như đang cực thịnh
ấy, thì Cách mạng Tháng Mười đã nổ ra. Sự đột phá Tháng Mười mở đầu cho
một xu thế phát triển mới của lịch sử thế giới. Nếu trước Cách mạng Tháng
Mười, chế độ tư bản chủ nghĩa phát triển đến mức người ta rêu rao như một
"định mệnh", như một "trật tự vĩnh hằng", thì sau Tháng Mười - 1917, không
ai không thấy, cái "then" hãm thế giới ấy đã bị bẻ gẫy, điều định mệnh ấy
thành ảo tưởng, cái trật tự ấy bị lật nhào, tạo ra phản ứng dây chuyền của hàng
loạt cuộc đấu tranh giải phóng có quy mô to lớn và chiều sâu cách mạng chưa
từng thấy trong lịch sử nhân loại.
5
Rõ ràng, tới những năm 20 của thế kỷ XX với những biến động to lớn và
sâu sắc, đặc biệt với Cách mạng Tháng Mười Nga "rung chuyển thế giới", đã
làm cho tính chất thời đại thay đổi, giai cấp trung tâm của thời đại thay đổi, vai
trò lãnh đạo cách mạng cũng thay đổi; vì vậy con đường để giải quyết mâu
thuẫn của xã hội, lực lượng cách mạng và phương pháp cách mạng cũng thay
đổi.
Toàn bộ tình hình đó của thế giới, bằng nhiều con đường, dội vào và thấm
sâu trong mảnh đất Việt Nam - nơi mà chính "sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản
đã chuẩn bị đất rồi; chủ nghĩa cộng sản chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt của
công cuộc giải phóng nữa thôi". Hơn ai hết, chính Nguyễn Ái Quốc là người
gieo hạt, gây mầm cách mạng Việt Nam. Người đã đi từ chủ nghĩa yêu nước
đến với chủ nghĩa xã hội. Ở Người, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, bản lĩnh và
tố chất đặc biệt Việt Nam đã "bắt gặp" chủ nghĩa Mác - Lê-nin, nói như Cố
Thủ tướng Phạm Văn Đồng - một cuộc gặp gỡ đẹp như cùng hẹn trước - đã
chung đúc nên tư tưởng Hồ Chí Minh. Với kỳ công của Nguyễn Ái Quốc, chủ
nghĩa Mác - Lê-nin kết hợp với phong trào yêu nước và phong trào công nhân
Việt Nam chuyển hóa thành một tất yếu đưa đến một sự kiện trọng đại : năm
1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự kiện này là mốc son đánh dấu sự kết
hợp các nhân tố dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội trong bản chất của Đảng. Vừa ra đời, Đảng tuyên bố : "Chủ
trương tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản". Lời tuyên bố ấy cũng đồng nghĩa với lời bác bỏ thẳng thừng chế độ phong
kiến và chế độ tư bản chủ nghĩa; và nhìn rộng hơn, cũng bác bỏ bất cứ một thứ
chủ nghĩa nào khác, bất cứ một con đường nào khác. Một cách tự nhiên là,
ngay sau lời tuyên bố ấy của Đảng, chủ nghĩa xã hội không chỉ là mục tiêu lựa
chọn mà đã thực sự thúc đẩy lịch sử dân tộc Việt Nam chuyển mình, là con
đường dân tộc Việt Nam đã và đang đi từ đó dọc thế kỷ XX, và tiếp tục đi cho
tới đích cuối cùng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao
6
động trên thế giới khỏi ách nô lệ; chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại,
đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc có một xã hội
tốt lành gắn liền với tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no; bảo đảm việc
làm cho mọi người, tất cả vì niềm vui, hòa bình, hạnh phúc của con người. Rõ
ràng, sự lựa chọn mục tiêu độc lập dân tộc gắn chặt với chủ nghĩa xã hội của
Đảng và nhân dân ta, xét về lôgíc là một tất yếu khách quan; xét về lịch sử, là
hoàn toàn phù hợp với sự vận động của cách mạng Việt Nam và xu thế phát
triển của thời đại; xét về nhu cầu, là hoàn toàn xuất phát từ điều kiện cụ thể của
một nước thuộc địa, nửa phong kiến và nguyện vọng cháy bỏng của nhân dân
Việt Nam; và xét về mặt xã hội, đó là một hệ giá trị cơ bản nhất quyết định sự
phát triển của đất nước Việt Nam ta hôm nay và mai sau.
Có thể khẳng định như vậy bởi vì việc giải quyết vấn đề độc lập dân tộc
theo ý thức hệ phong kiến và tư sản, trong khuôn khổ của chế độ phong kiến và
chế độ tư bản chủ nghĩa không tránh khỏi những mâu thuẫn và những hạn chế
bắt nguồn từ bản chất kinh tế và chính trị các chế độ ấy - những hình thái kinh
tế - xã hội dựa trên các quan hệ tư hữu về tư liệu sản xuất và các quan hệ đối
kháng giai cấp.
Vượt qua những mâu thuẫn và những hạn chế trong việc giải quyết vấn
đề độc lập dân tộc theo lập trường phong kiến và tư sản chỉ có thể là con đường
gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, tức là giải quyết độc lập dân tộc
theo lập trường của giai cấp công nhân, của chủ nghĩa xã hội khoa học. Đó là :
Độc lập dân tộc thực sự phải là độc lập về chính trị, kinh tế, văn hóa, đối ngoại.
Độc lập dân tộc thực sự đòi hỏi phải xóa bỏ tình trạng áp bức bóc lột và nô dịch
của dân tộc này đối với dân tộc khác về kinh tế, chính trị và tinh thần. Do đó,
độc lập gắn liền với tự do và bình đẳng, công việc nội bộ quốc gia - dân tộc phải
do quốc gia - dân tộc đó giải quyết không có sự can thiệp từ bên ngoài.
Bản chất của chủ nghĩa xã hội là thực hiện triệt để giải phóng giai cấp, giải
phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Chủ nghĩa xã hội sẽ xóa
bỏ căn nguyên kinh tế sâu xa của tình trạng người bóc lột người do chế độ
7
chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất sinh ra. Nhờ đó, nó xóa bỏ cơ sở kinh tế
sinh ra ách áp bức con người về chính trị và sự nô dịch con người về tinh thần,
ý thức và tư tưởng.
Chủ nghĩa xã hội thực hiện độc lập dân tộc để mở đường đưa dân tộc tới
sự phát triển phồn vinh về kinh tế, sự phát triển phong phú đa dạng về văn hóa,
tinh thần, sự thực hiện đầy đủ nhất quyền lực của nhân dân. Chỉ với chủ nghĩa
xã hội, độc lập dân tộc mới đạt tới chân giá trị của nó ở chỗ nó hướng tới phục
vụ lợi ích và quyền lực của mọi người lao động, làm cho mọi thành viên của
cộng đồng dân tộc trở thành người chủ thực sự có cuộc sống vật chất ngày càng
đầy đủ và cuộc sống tinh thần ngày càng phong phú. Chính điều đó làm cho
nền tảng của sự độc lập tự chủ càng thêm vững chắc, khả năng bảo vệ nền độc
lập dân tộc càng đầy đủ và mạnh mẽ.
Sự phát triển thực chất và bền vững của độc lập dân tộc được đo bằng
những khả năng và điều kiện bảo đảm cho dân tộc thoát khỏi tình cảnh nô lệ,
phụ thuộc, bị áp bức bóc lột và nô dịch. Nó cũng bảo đảm cho dân tộc vượt qua
tình trạng đói nghèo, lạc hậu và tụt hậu trong tương quan với các dân tộc khác
trong thế giới và ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn để đạt tới sự bình đẳng
trong các mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cộng đồng dân tộc
này với cộng đồng dân tộc khác.
Toàn bộ khả năng và điều kiện bảo đảm đó chỉ có thể được tìm thấy và
giải quyết bằng con đường phát triển chủ nghĩa xã hội.Độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội trở thành hệ giá trị phát triển của Việt Nam, dưới ngọn cờ của
Đảng, trong thời đại ngày nay. Đó cũng chính là cái lôgíc phát triển lịch sử của
dân tộc Việt Nam, 71 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, làm nên cốt cách
Việt Nam, bản lĩnh Việt Nam và vị thế Việt Nam trước thế giới.
Nhận thức và hành động theo sự lựa chọn và theo hệ giá trị đó, Đảng ta đã
lãnh đạo thành công cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945, một điển hình trong
các dân tộc thuộc địa, tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến hoàn toàn
8
không cân sức với "hai đế quốc to", mở ra thời kỳ phi thực dân sau Việt Nam
cho cả hệ thống thuộc địa và các nước phụ thuộc trên thế giới.
Qua nửa thế kỷ giành và giữ độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt 15 năm đổi mới, với hệ giá trị đó, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã xứng đáng tiêu biểu cho bản lĩnh Việt Nam trong việc giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa, đã tỏ rõ tính độc lập tự chủ trong mọi đường lối,
chính sách đối nội và đối ngoại, đưa đời sống nhân dân lên ngày một cao hơn,
đưa đất nước và dân tộc lên vị thế mới trong khu vực và thế giới.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, với Việt Nam không chỉ là mục tiêu,
là nhu cầu, là cương lĩnh hành động, là ngọn cờ hiệu triệu, mà còn là động lực,
là niềm tin sắt son của dân tộc Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Như thế,
đối với Việt Nam ta, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội là sự gắn kết hai
sức mạnh thành một sức bật mới; là cội nguồn thắng lợi của cách mạng Việt
Nam hôm qua, hôm nay và mai sau.
Thế kỷ XXI mở đầu thiên niên kỷ thứ ba của một thế giới đầy biến động,
cũng đồng thời mở ra một kỷ nguyên hội nhập, đua tranh gay gắt của cộng
đồng quốc tế. Dù thời cuộc biến đổi xoay vần ra sao, dù phải đối mặt với xu thế
toàn cầu hóa, với tất cả mặt tích cực và tiêu cực, bất trắc; dù cho ai đó bị lóa
mắt bởi những bộ áo cánh sặc sỡ của chủ nghĩa tư bản thì hệ giá trị ấy - độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trong ý thức và trong hành động vẫn là mục tiêu,
lư tưởng, là quốc bảo phù hợp xu thế thời đại. Mãi mãi giương cao ngọn cờ độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, bước vào thế kỷ XXI, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, nhân dân ta tiếp tục giành thêm nhiều thắng lợi to lớn hơn nữa trong sự
nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh, đưa đất nước ta sánh vai cùng các nước trong
khu vực và trên thế giới.
9
KIÊN ĐỊNH MỤC TIÊU ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI SỰ VẬN DỤNG SÁNG TẠO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG ĐIỀU
KIỆN HIỆN NAY
Nhìn lại 20 năm đổi mới, Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương tại
Đại hội X của Đảng rút ra 5 bài học lớn. Bản lĩnh chính trị của Đảng, được khẳng
định là bài học thứ nhất: "trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ
Chí Minh. Đổi mới không phải từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là làm cho chủ
nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn, và được xây dựng có hiệu quả hơn. Đổi
mới không phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của Đảng
và kim chỉ nam cho hành động cách mạng"(1). Như vậy, độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội là mục tiêu chính trị không thay đổi, dù trong bất cứ giai đoạn nào,
hoàn cảnh nào của cách mạng Việt Nam.
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và bài học mẫu mực của Cách
mạng Tháng Mười Nga, vấn đề độc lập dân tộc của Việt Nam được Hồ Chí
Minh chỉ rõ: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường
nào khác con đường cách mạng vô sản" (2). Nhờ có quan điểm đúng về sự gắn
bó và chi phối lẫn nhau giữa hai nhiệm vụ và hai giai đoạn cách mạng này mà sự
nghiệp độc lập dân tộc của cách mạng Việt Nam mới giành thắng lợi triệt để và
trọn vẹn.
Sau 20 năm đổi mới, bài học đầu tiên được Đảng ta rút ra cũng chính là
vấn đề độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Một sự thật khách quan là, quan
điểm chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam về độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội soi sáng cách mạng Việt Nam hơn 77 năm qua, xuất phát trực tiếp từ tư
tưởng Hồ Chí Minh, trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Một lần nữa khắc
sâu bài học về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, khi chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ đã thuộc về nhân dân ta hơn 30 năm, công cuộc đổi mới qua 20 năm, càng
10
khẳng định bản lĩnh chính trị đúng đắn, vững vàng của Đảng ta về kiên định
mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam, trong giai đoạn mới.
Công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta là tiếp tục sự nghiệp giải phóng dân
tộc theo con đường cách mạng vô sản, trong điều kiện mới. Độc lập dân tộc lúc
này, đối với chúng ta, chính là sự vươn lên để thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu,
khẳng định vị thế của Việt Nam bình đẳng với tất cả các quốc gia dân tộc khác
trên thế giới, ở mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học... Dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là điều kiện cơ bản để bảo vệ
nền độc lập dân tộc một cách thực tế, vững chắc trong hội nhập kinh tế quốc tế
rất phức tạp và đầy rẫy nguy cơ mất còn hiện nay. Trong quá trình đổi mới,
Đảng ta đã sớm cảnh báo tới nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước
trong khu vực và trên thế giới sẽ ảnh hưởng không tốt tới an ninh quốc gia, chủ
quyền dân tộc và nền độc lập của đất nước.
Đổi mới để phát triển và phát triển để đổi mới mạnh mẽ và vững chắc hơn
là nhận thức căn bản và biện chứng về quan hệ giữa chủ nghĩa xã hội và độc lập
dân tộc. Tập trung cho tăng trưởng mạnh kinh tế trong thời kỳ quá độ chính là
làm cho cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội ngày một nhiều hơn trên thực tế; do
đó, càng có điều kiện thuận lợi hơn trong công tác bảo vệ và giữ vững nền độc
lập dân tộc, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Định hướng xã hội chủ nghĩa
được Đảng ta xác định trong phát triển kinh tế thị trường có ý nghĩa căn bản
đảm bảo cho nền kinh tế vừa phát triển theo quy luật một cách đúng hướng vừa
làm điều kiện nền tảng giải quyết những vấn đề xã hội bền vững.
Thực tế 20 năm đổi mới, một lần nữa cho thấy, nền độc lập dân tộc càng
được bảo vệ vững chắc thì hiệu quả công cuộc xây dựng chế độ mới ngày càng
cao. Đến lượt nó, công cuộc xây dựng xã hội mới có hiệu quả càng là điều kiện
quan trọng thiết thực bảo vệ nền độc lập dân tộc vững vàng. Nhờ xác định đúng
mối quan hệ này và tổ chức thực hiện tốt trên thực tế nên cách mạng Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử
trong cả đối nội và đối ngoại.
11
Bài học của Đại hội X về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, sau 20 năm
đổi mới, là sự trung thành và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Đảng ta trong sự nghiệp cách mạng hiện
nay:
Càng đổi mới, chúng ta càng nhận thức đúng tư tưởng Hồ Chí Minh về
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Về phát triển kinh tế, chuyển mạnh từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao
cấp sang phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Về bản chất,
đây là sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh cho rằng, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
là thời kỳ tất yếu khách quan, nên Người chủ trương, sau khi hoàn thành cách
mạng dân tộc, dân chủ, chúng ta chọn con đường rút ngắn, bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa, nhưng phải trải qua thời kỳ quá độ. Cách đi này được Hồ Chí Minh
chỉ rõ: "Miền Bắc nhất định phải tiến lên chủ nghĩa xã hội. Mà đặc điểm to nhất
của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên
chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa...
Vì vậy, nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng
vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã
hội..."(3).
Quan niệm tiến dần lên chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh thể hiện rõ
nhận thức rằng, thời kỳ quá độ là một chặng tiến gần và trực tiếp với chủ nghĩa
xã hội, nhưng nó là một giai đoạn độc lập tương đối. Đó là thời kỳ xã hội đang
từ bỏ những cái cũ, cái lạc hậu và bước đầu xây dựng những cái mới, cái tiến bộ.
Nó hoàn toàn chưa phải là thời kỳ hàm chứa toàn vẹn những đặc trưng của chủ
nghĩa xã hội. Người nói, ta bước vào thời kỳ quá độ tiến dần lên chủ nghĩa xã
hội, không qua con đường phát triển tư bản chủ nghĩa với nghĩa là bỏ qua một
phương thức sản xuất, một hình thái kinh tế - xã hội, một chế độ chính trị.
Theo Hồ Chí Minh, quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là thời kỳ xây
dựng chế độ dân chủ mới, trong đó, về chính trị, mọi quyền lực đều thuộc về
12
nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng; về kinh tế, thực hiện nền kinh tế nhiều
thành phần.
Như vậy, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ phát triển kinh tế nhiều
thành phần. Quan điểm này đã được chúng ta thực thi từ khởi sự đổi mới (1986)
và ngày một hoàn thiện nó. Đại hội X khẳng định trên cơ sở ba chế độ sở hữu
(toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và năm thành
phần kinh tế. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận
hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
bình đẳng, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Ở đó, kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước
định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh
tế cùng phát triển; kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những
động lực của nền kinh tế. Hồ Chí Minh rất coi trọng các thành phần kinh tế tư
nhân, tư bản và xác định vị trí kinh tế - xã hội to lớn của nó trong thời kỳ quá
độ. Người cho rằng, nếu ta khéo lãnh đạo, khéo tổ chức thì giai cấp tư sản
cũng có thể theo chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội.
Về bản chất, đây là thời kỳ phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở
vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
của nhân dân. Muốn vậy, phải tập trung phát triển lực lượng sản xuất, giải phóng
triệt để sức sản xuất; quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất.
Đại hội đã làm sáng tỏ thêm một bước nội dung cơ bản của định hướng xã
hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị trường, thể hiện trên bốn tiêu chí
lớn:
- Về mục tiêu, nhằm làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất,
nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi
người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng
bước khá giả hơn.
13
- Về cơ cấu, phát triển đồng bộ các thành phần và khẳng định vai trò chủ
đạo của kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng
trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
- Về định hướng xã hội và phân phối, phải thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế
phải gắn chặt và đồng bộ với phát triển xã hội, văn hóa, giáo dục và đào tạo, giải
quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người.
- Về lĩnh vực quản lý, phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, bảo
đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước là yếu tố quan trọng
bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế hiện nay ở nước ta. Vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề này, Đại hội X chỉ rõ Nhà nước phải tập
trung làm tốt các chức năng:
- Định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và cơ
chế, chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường.
- Tạo môi trường pháp lý và cơ chế, chính sách thuận lợi để phát huy các
nguồn lực xã hội cho phát triển.
- Hỗ trợ phát triển, chăm lo xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội quan trọng, hệ thống an sinh xã hội.
- Bảo đảm tính bền vững tích cực của các cân đối kinh tế vĩ mô, hạn chế
các rủi ro và tác động tiêu cực của cơ chế thị trường.
Về văn hóa xã hội, con người, một lần nữa, Đại hội X làm rõ và vận dụng
đúng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với năm quan điểm chỉ đạo cơ bản mang tính
chiến lược trong quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa nước nhà trong
thời kỳ quá độ. Đồng thời Đại hội X cũng xác định, phát triển văn hóa, nền tảng
tinh thần của xã hội là một trong những nhiệm vụ lớn của toàn Đảng, toàn dân
và toàn quân.
14
Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng và
kim chỉ nam cho hành động cách mạng của Đảng
Đại hội X khẳng định: Đảng ta "Kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh... Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động của Đảng" (4), với tư cách là nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng của Đảng trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa:
- Kiên trì đường lối đổi mới, đổi mới toàn diện, có nguyên tắc và sáng tạo;
trong quá trình đổi mới, phải luôn luôn giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng, kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, không đa nguyên, đa đảng. Đây chính
là bản lĩnh chính trị của Đảng trung thành với quan điểm của Hồ Chí Minh về
Đảng lãnh đạo cách mạng thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng, và tổ chức, thường xuyên tự
đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu; đổi mới
công tác xây dựng Đảng. Phát huy dân chủ trong Đảng, thực hiện đúng nguyên
tắc tập trung dân chủ, giữ vững kỷ cương, kỷ luật; thường xuyên tự phê bình và
phê bình; giữ gìn và tăng cường xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng,
đấu tranh kiên quyết với những phần tử cơ hội thực dụng... Xây dựng hệ thống
tổ chức bộ máy trong sạch, vững mạnh, tinh gọn; xác định thẩm quyền, trách
nhiệm rõ ràng, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Coi trọng xây dựng tổ chức cơ
sở đảng. Đây là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm
quyền.
- Đảng chăm lo xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ bản
lĩnh chính trị, phẩm chất, trí tuệ và năng lực hoạt động thực tiễn để hoàn thành
nhiệm vụ. Tạo sự chuyển biến thực sự và đồng bộ trong công tác cán bộ trên tất
cả các khâu đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử
dụng cán bộ. Đặc biệt, coi trọng xây dựng hạt nhân lãnh đạo, trọng dụng nhân
tài mà Hồ Chí Minh hằng quan tâm.
15
- Tăng cường gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Xây dựng các thiết
chế mở rộng và phát huy dân chủ, bảo đảm các chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước đều có sự tham gia xây dựng của nhân dân, phản ánh ý chí, lợi ích
chính đáng của nhân dân, của quốc gia, dân tộc. Cán bộ, đảng viên và công chức
luôn thực sự là công bộc của nhân dân như Hồ Chí Minh đã dạy.
- Để làm trong sạch Đảng và bộ máy công quyền, tăng cường và nâng cao
chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát - chức năng và phương thức
lãnh đạo quan trọng của Đảng. Thường xuyên kiểm tra việc thực hiện các nghị
quyết, quyết định của Đảng để phát huy ưu điểm, phòng ngừa và khắc phục kịp
thời mọi sai phạm, khuyết điểm; kiểm tra, giám sát kết quả công tác, năng lực và
phẩm chất của cán bộ, đảng viên, góp phần xây dựng tổ chức đảng, cơ quan nhà
nước và đội ngũ cán bộ, đảng viên ngày càng trong sạch, vững mạnh.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo, nhất là phương thức lãnh đạo Nhà nước,
bảo đảm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy hiệu
lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của Mặt
trận, các đoàn thể nhân dân. Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và
pháp luật.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
đã trở thành đường lối chiến lược, nguyên nhân thắng lợi của cách mạng Việt
Nam hơn 77 năm qua. Bài học thứ nhất do Đại hội X của Đảng khẳng định
không chỉ thể hiện tính đúng đắn, mà còn thể hiện rõ sự vận dụng trung thành,
sáng tạo tư tưởng của Người trong công cuộc đổi mới vì chủ nghĩa xã hội ở
nước ta.
Những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của 20 năm đổi mới và những
bài học chủ yếu rút ra trong qúa trình đổi mới tạo ra cơ sở và niềm tin cho toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta vững bước đi lên trên con đường độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn, đảm bảo
16
thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ
văn minh” vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội ./.
17
- Xem thêm -