Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tiểu luận tình huống xử lý tình huống “xử phạt vi phạm hành chính đối với vụ việ...

Tài liệu Tiểu luận tình huống xử lý tình huống “xử phạt vi phạm hành chính đối với vụ việc buôn bán hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu.

.PDF
22
1979
94

Mô tả:

TRƯỜNG ĐÀO TẠO CÁN BỘ LÊ HỒNG PHONG – THÀNH PHỐ HÀ NỘI LỚP BỒI DƯỠNG NGẠCH CHUYÊN VIÊN K3A-2015 ---------- TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP Đề tài: Xử lý tình huống “Xử phạt vi phạm hành chính đối với vụ việc buôn bán hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu” Họ và tên: VŨ THU THỦY Chức vụ: Chuyên viên Đơn vị: Đội QLTT số 33 Hà Nội, tháng 11 năm 2015 1 PHẦN I: LỜI NÓI ĐẦU 1. Tính tất yếu của đề tài nghiên cứu Trong bối cảnh hội nhập với thế giới hiện nay, Việt Nam đã và đang thể hiện được vị trí của mình trên đấu trường quốc tế cũng như thiết lập được nhiều mối quan hệ với các quốc gia khác trên toàn cầu. Việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO vào năm 2007 của Việt Nam là một bước ngoặt lớn thể hiện sự chuyển mình của đất nước, sự đổi mới trong tư duy của những nhà lãnh đạo và mở ra hướng đi mới, cuộc chơi mới, đem lại nhiều cơ hội và thách thức cho các doanh nghiệp trong nước. Qua 8 năm là thành viên WTO, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng mừng, và là dự bứt phá ngoạn mục của cả chính quyền và người dân. Việt Nam đã thu hút mạnh mẽ đầu tư nước ngoài nhờ môi trường ổn định, minh bạch. Kim ngạch xuất khẩu tăng; nền kinh tế vĩ mô được ổn định, tạo điều kiện để phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; công nghiệp – dịch vụ phát triển mạnh mẽ; sự ra đời của các trung tâm thương mại, siêu thị và cửa hàng tiện dụng đã làm thay đổi diện mạo của thương mại bán lẻ, thay đổi thói quen mua sắm của người tiêu dùng theo hướng văn minh, hiện đại và góp phần đáng kể vào sự phát triển kinh tế - xã hội. Cùng với việc thuận lợi xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam ra thị trường thế giới, hoạt động nhập khẩu hàng hóa cũng trở nên sôi động hơn khi cơ chế thoáng tạo điều kiện thuận lợi cho hàng nước ngoài vào Việt Nam khi nhiều mặt hàng được áp thuế nhập khẩu 0%. Và đặc biệt hơn, trong thời gian gần đây, hoàn tất việc gia nhập TTP – Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương sẽ góp phần không nhỏ vào việc ổn định và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta. Bên cạnh những thành tựu mà Việt Nam đã đạt được trên con đường hội nhập, thì những khó khăn mà Việt Nam gặp phải cũng không hề ít. Thứ nhất là cạnh tranh diễn ra gay gắt hơn, với nhiều đối thủ hơn, trên bình diện sâu, rông hơn. Hai là nguy cơ phân hóa giàu nghèo tăng cao do tác động tiêu cực của toàn cầu hóa. Ba là kinh nghiệm vận hành nền kinh tế thị trường chưa nhiều gây ra 2 khó khăn không nhỏ. Bốn là Hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra những vấn đề mới trong việc bảo vệ môi trường, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chống lại lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền. Tốc độ toàn cầu hóa ngày càng tăng khiến lượng hàng hóa nhập khẩu ồ ạt vào Việt Nam là không thể tránh khỏi. Bên cạnh những sản phẩm dịch vụ tốt, lành mạnh phục vụ cho đời sống của nhân dân, thì vẫn còn một bộ phận không nhỏ những hàng hóa độc hại ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe và sự sống của người dân. Một bộ phận cá nhân vì lợi nhuận mà bất chấp thủ đoạn, trốn thuế, kinh doanh trái pháp luật những mặt hàng có hại cho người sử dụng như thuốc lá lậu, rượu lậu, những thực phẩm không đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm,… Thuốc lá là một trong số những mặt hàng độc hại gây ra các bệnh về đường hô hấp như ung thư vòm họng, viêm phế quản, hen suyễn, nguy cơ ung thư phổi rất cao, gây xơ vữa động mạch và nhiều căn bệnh nguy hiểm khác. Mặt hàng này hiện đã và đang được buôn lậu ngày càng nhiều vào thị trường Việt Nam. Hiện nay thuốc lá nhập lậu vào thị trường Việt Nam đang gia tăng nhanh chóng. Theo số liệu khảo sát năm 2012 của Trung tâm Thuế và Đầu tư Quốc tế và tổ chức Oxford Economics, Việt Nam là thị trường tiêu thụ thuốc lá lậu lớn thứ 2 trong số 11 quốc gia Châu Á được khảo sát. Riêng năm 2013, khoảng 17 tỷ điếu thuốc lá nhập lậu vào thị trường Việt Nam; 2 tháng đầu năm 2014, thuốc lá lậu tăng 43% so với cùng kỳ năm 2013. Thuốc lá nhập lậu đã tác động xấu đến nhiều mặt kinh tế và xã hội của đất nước: Lấy đi 20% thị phần thuốc lá điếu nội địa. Năm 2012 thuốc lá lậu làm thất thu ngân sách nhà nước 6.500 tỷ đồng, tương đương 309 triệu USD; Làm mất sản lượng nguyên liệu: 18.000 tấn/năm (tương đương diện tích trồng là 10.000 hecta); Mất việc làm của nông dân: 5 triệu công lao động/năm, mất việc làm của công nhân: 600.000 công lao động/năm; và hàng trăm nghìn lao động trong các ngành thương mại, dịch vụ liên quan. Đối phó với vấn đề này, nhiều năm nay các lực lượng chức năng đã 3 quyết liệt thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, các Bộ, ngành tập trung kiểm tra, xử lý buôn lậu, buôn bán, vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu trên các tuyến biên giới và trong nội địa. Tình hình buôn lậu, buôn bán vận chuyển thuốc lá điếu vẫn diễn biến phức tạp với những phương thức, thủ đoạn hoạt động tinh vi và đa dạng hơn. Đối tượng đầu nậu, người vận chuyển hình thành những đường dây liên huyện, liên tỉnh, xuyên quốc gia, móc nối giữa trong nước với nước ngoài. Tại khu vực biên giới và trên đường vận chuyển vào nội địa, đối tượng đầu nậu tổ chức đường dây rất tinh vi, điều hành chặt chẽ, sử dụng các thủ đoạn thuê người vận chuyển, đa số là dân thường, với phương thức chủ yếu là vận chuyển trên đồng ruộng, sông rạch. Trong thị trường nội địa, thuốc lá lậu tuy không còn được bày bán công khai như trước nhưng vẫn được các đối tượng kinh doanh nhà hàng, khách sạn…bán lén lút với số lượng không ít. Thủ đoạn chủ yếu là cất giấu thuốc lậu tại nơi ở hoặc gửi ở nhà bên cạnh để bán cho khách, khi bị kiểm tra thì ném thuốc lá ra khỏi nơi kinh doanh và không thừa nhận là chủ hàng. Việc tổ chức khám nơi cất giấu là nhà ở và phương tiện vận chuyển đang lưu thông trên đường là rất khó . Chính vì vậy, tôi chọn đề tài: “Xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi buôn lậu thuốc lá của Đội QLTT số 33” làm đề tài của tiểu luận cuối khóa lớp Bồi dưỡng ngạch Chuyên viên 2015, để nghiên cứu cụ thể hơn về việc thực hiện hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuộc thẩm quyền của lực lượng Quản lý thị trường. 2. Mục đích nghiên cứu Đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật trong hoạt động thương mại; Tăng cường hoạt động kiểm tra, kiểm soát để ngăn chặn kịp thời hành vi buôn lậu trên địa bàn; Nâng cao trách nhiệm của lãnh đạo, những người thực thi pháp luật; Nâng cao ý thức chấp hành các quy định của Pháp luật của các tổ chức các nhân đặc biệt là những người kinh doanh các mặt hàng có điều kiện. 3. Phương pháp nghiên cứu 4 Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng để phân tích và giải quyết nội dung của tình huống: - Phương pháp quan sát, thực nghiệm. - Pháp phân tích số liệu thu thập. - Phương pháp tổng hợp. - Phương pháp thống kê, so sánh. 4. Phạm vi nghiên cứu Do thực tế khách quan, thời gian nghiên cứu cũng như địa điểm nên tiểu luận tập trung phân tích vụ việc xảy ra trên địa bàn Quận Bắc Từ Liêm vào thời điểm cuối năm 2014. 5. Kết cấu tiểu luận Phần I: Lời nói đầu 1. Tính tất yếu của đề tài nghiên cứu 2. Mục tiêu nghiên cứu 3. Phương pháp nghiên cứu 4. Phạm vi nghiên cứu 5. Kết cấu tiểu luận Phần II: Nội dung 1. Mô tả tình huống 2. Xác định mục tiêu xử lý tình huống 3. Nguyên nhân, hậu quả 4. Phương án giải quyết 5. Xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện Phần III: Kết luận và kiến nghị 5 PHẦN II. NỘI DUNG 1. Mô tả tình huống Ngày 24 tháng 12 năm 2014, Đội QLTT số 33 Quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội nhận được Báo cáo đề xuất phối hợp thực hiện của Đội CSPCTP về Môi trường – Công an Quận Bắc Từ Liêm về một vụ việc về kinh doanh thuốc lá lậu của đối tượng Lê Thị Liên, cửa hàng số 46 Phạm Văn Đồng, kho tại số 9 ngõ 85/69 Tân Xuân, Xuân Đỉnh, Bắc Từ Liêm, Hà Nội. Qua điều tra, trinh sát, cán bộ trinh sát phát hiện quy luật hoạt động như sau: - Thời gian nhập xuất hàng thường từ 8h30 sáng, 13h30 chiều và 17h45 tối; - Phương tiện vận chuyển bằng xe máy nhưng thường xuyên thay đổi biển số xe; - Nơi cất giữ, tập kết là kho tại tầng 2 của số 46 Phạm Văn Đồng và kho tại số 9 ngõ 85/69 Tân Xuân, Xuân Đỉnh, Bắc Từ Liêm, Hà Nội; - Khi vận chuyển các đối tượng thường sử dụng các loại thùng bánh kẹp loại to, dán băng dính màu xanh hoặc đỏ và sử dụng các túi nilon màu đen để đựng các loại thuốc lá ngoại. Để công tác đấu tranh đạt hiệu quả, trinh sát thuộc Đội CSPCTP về Môi trường – CA Quận Bắc Từ Liêm đã đề xuất: - Thành lập 2 tổ trinh sát: 01 Tổ trinh sát ngoại tuyến tại khu vực trước cửa hàng số 46 Phạm Văn Đồng và 01 Tổ trinh sát ngoại tuyến tại khu vực kho số 9 ngõ 85/69 Tân Xuân để nắm bắt, theo dõi di biến động của đối tượng khi vận chuyển hàng hóa. - Quá trình kiểm tra sẽ phối hợp cùng với Đội QLTT số 33 và sử dụng Quyết định kiểm tra của lực lượng Quản lý thị trường để kiểm tra các địa điểm trên. Căn cứ Báo cáo đề xuất, Giấy giới thiệu của Công an Quận Bắc Từ Liêm – Đội CSPCTP về Môi trường, Đội QLTT số 33 đã phối hợp với Công an Quận Bắc Từ Liêm tiến hành kiểm tra cửa hàng kinh doanh thuốc là điếu, địa chỉ: cửa hàng số 46 đường Phạm Văn Đồng, Phường Xuân Đỉnh, Quận Bắc Từ Liêm, Hà 6 Nội và kho số 85/69 Tân Xuân theo Quyết định kiểm tra việc chấp hành pháp luật số 0044207/QĐ-KT ngày 24 tháng 12 năm 2014. Tại thời điểm kiểm tra, cửa hàng đang hoạt động kinh doanh thuốc lá điếu do Việt Nam sản xuất, Ông Lê Mạnh Hợp chủ kinh doanh không xuất trình được giấy tờ gì có liên quan đến hoạt động kinh doanh của cửa hàng. Thực tế kiểm tra tại cửa hàng, cửa hàng đang bày bán thuốc lá điếu do Việt Nam sản xuất bao gồm: - Thuốc lá điếu Vinataba: 8 cây = 80 bao; - Thuốc lá điếu Thăng Long: 10 cây = 100 bao; - Thuốc lá điếu Tourism (du lịch): 9 cây = 90 bao; Tại cửa hàng, Tổ công tác phát hiện thuốc lá điếu do nước ngoài sản xuất không có hóa đơn chứng từ chứng minh nguồn gốc hàng hóa bao gồm các nhãn: - Mazlboro (trắng): 80 bao (20 điếu/bao); - Hero: 70 bao (20 điếu/bao); - 555 (Gold): 180 bao (20 điếu/bao); - ESSE (đen): 70 bao (20 điếu/bao); - ESSE (đỏ): 70 bao (20 điếu/bao); - ESSE (xanh): 80 bao (20 điếu/bao); - ZEST : 10 bao (20 điếu/bao); Chủ kinh doanh – ông Hợp trình bày do thuốc lá điếu do Việt Nam sản xuất bán chậm, ít người mua nên ông nhập với số lượng ít, đồng thời nhập thêm một số thuốc lá điếu do nước ngoài sản xuất để kiếm thêm thu nhập. Toàn bộ số thuốc lá ngoại trên ông mua trôi nổi trên thị trường, không có hóa đơn chứng từ chứng minh nguồn gốc. Tại kho số 85/69 Tân Xuân, Xuân Đỉnh, Bắc Từ Liêm, Hà Nội, Tổ trinh sát ngoại tuyến Công an Quận Bắc Từ Liêm cùng kiểm soát viên Đội QLTT số 7 33, kết hợp với 01 cán bộ thuộc UBND phường Xuân Đỉnh đã phục sẵn bên ngoài. Ngay khi có Quyết định kiểm tra việc chấp hành pháp luật của Đội QLTT số 33 tại cửa hàng số 46 Phạm Văn Đồng, Tổ trinh sát cùng với Kiểm soát viên Đội QLTT số 33 đã ập vào kho để tiến hành kiểm tra kho. Tại kho có 02 nhân viên thuộc cửa hàng đang trông coi tại kho. Tuy nhiên, tại kho hàng, lực lượng chức năng không phát hiện bất kỳ một bao thuốc lá nào bao gồm cả thuốc lá nội địa và thuốc lá ngoại nhập. Nhân viên cửa hàng tại kho cho hay, do tình hình buôn bán gặp khó khăn, không đủ chi phí thuê kho bãi, nên chủ kinh doanh đã chuyển toàn bộ hàng hóa tại kho về cửa hàng tại số 46 Phạm Văn Đồng từ ngày 20/12/2014 và cho nhân viên thu dọn, dọn dẹp lại kho để trả lại cho chủ kho cho thuê. Căn cứ thực tế kiểm tra tại cửa hàng và lời trình bày của chủ kinh doanh, Đội QLTT số 33 đã ra Quyết định tạm giữ số 0120933/QĐ-TGTV tạm giữ toàn bộ số thuốc lá ngoại không chứng từ nói trên tại cửa hàng với lý do là kinh doanh thuốc lá điếu do nước ngoài sản xuất là mặt hàng cấm kinh doanh. Đồng thời Đội QLTT số 33 đã hẹn ông Hợp – chủ kinh doanh đúng 9h ngày 25/12/2014 có mặt tại trụ sở Đội QLTT số 33 để giải quyết vụ việc (khi đi mang theo giấy tờ có liên quan đến cửa hàng). Ngày 26 tháng 12 năm 2014, hồi 14h30, ông Hợp có mặt tại trụ sở Đội QLTT số 33 để tiếp tục làm việc. Tại buổi làm việc, ông Hợp có xuất trình 01 Hóa đơn giá trị gia tăng số 0000289 của Công ty TNHH Dịch vụ thương mại Tiến Sơn bán hàng thuốc lá điếu do Việt Nam sản xuất cho ông Lê Mạnh Hợp tại địa chỉ: Số 46 đường Hồ Tùng Mậu, Xuân Đỉnh, Bắc Từ Liêm, Hà Nội. Ngoài ra, ông Hợp không xuất trình giấy tờ gì khác liên quan đến hoạt động kinh doanh của cửa hàng ông. Ông Hợp thừa nhận hành vi kinh doanh không có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, kinh doanh thuốc lá mà không có giấy phép kinh doanh bán lẻ thuốc lá, kinh doanh thuốc lá điếu do nước ngoài sản xuất là hàng nhập lậu. Trị giá các mặt hàng thuốc lá điếu ngoại tạm giữ là 10.905.000 đồng (Mười triệu chín trăm linh năm nghìn đồng). 8 Căn cứ kết quả kiểm tra và buổi làm việc ngày 26/12/2014, Tổ công tác thuộc Đội QLTT số 33 kết luận: Cửa hàng kinh doanh thuốc lá do ông Lê Mạnh Hợp làm chủ kinh doanh tại địa chỉ số : 46 đường Phạm Văn Đồng. Xuân Đỉnh, Bắc Từ Liêm, Hà Nội đã có các hành vi vi phạm pháp luật sau: - Kinh doanh thuốc lá điếu do Việt Nam sản xuất không có giấy chứng nhận dăng ký kinh doanh vi phạm: Khoản 1 Điều 50 Nghị định số 43/2010/NĐ-CP ngày 05/4/2010 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp; - Kinh doanh bán lẻ thuốc lá điếu do nước ngoài sản xuất không có giấy phép kinh doanh bán lẻ vi phạm: Khoản 3, Điều 26, Nghị định 67/2013/NĐ-CP ngày 27/6/2013 của Chính Phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật phòng chống tác hại của thuốc lá về kinh doanh thuốc lá; - Kinh doanh hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu với số lượng 560 bao vi phạm: số thứ tự 19, mục A, Nghị định số 43/2009/NĐ-CP ngày 07/5/2009 của Chính phủ. Dựa trên kết luận trên, Tổ công tác đã lập Biên bản vi phạm hành chính số 0037168/BB-VPHC ngày 26/12/2014 về các hành vi vi phạm nói trên. 2. Xác định mục tiêu xử lý tình huống: Nhằm giải quyết các vấn đề do tình huống đề ra, đồng thời góp phần tăng cường pháp chế Xã hội chủ nghĩa, tính đúng đắn trong sử dụng các văn bản quy phạm pháp luật, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, và đảm bảo trật tự an toàn xã hội, việc giải quyết một số vấn đề đặt ra dưới đây sẽ phần nào giúp cho việc thực hiện các mục tiêu kể trên được trọn vẹn và không gây ra các hiểu lầm cũng như khúc mắc: a, Với hành vi kinh doanh thuốc lá điếu do Việt Nam sản xuất không có giấy phép kinh doanh bán lẻ thì áp dụng chế tài nào để xử lý? Điều 33 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 nêu rõ: Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những mặt hàng mà nhà 9 nước không cấm. Mọi người đều phải sống và làm việc theo pháp luật. Kinh doanh thuốc lá điếu hay bất kể kinh doanh một loại mặt hàng nào đều phải thực hiện đăng ký kinh doanh với cơ quan nhà nước có thẩm quyền dưới hình thức là hộ kinh doanh, doanh nghiệp hay bất kỳ loại hình nào khác. Trong tình huống nói trên, ông Hợp mở cửa hàng kinh doanh thuốc lá điếu do Việt Nam sản xuất nhưng lại không có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, không đăng ký kinh doanh với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, vi phạm Khoản 1, Điều 50 Nghị định 43/2010/NĐ-CP ngày 15/4/2010 của Chính phủ. Điều 50 của Nghị định 43/2010/NĐ-CP quy định về quyền thành lập hộ kinh doanh và nghĩa vụ đăng ký của hộ kinh doanh; Khoản 1 Điều 50 nêu rõ: “Công dân Việt Nam đủ 18 tuổi, có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự đầy đủ; các hộ gia đình có quyền thành lập hộ kinh doanh và có nghĩa vụ đăng ký hộ kinh doanh theo quy định tại Chương này”. Như vậy, với hành vi trên, cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng Khoản 2, Khoản 4, Điều 6 Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Thương mại. b, Với hành vi kinh doanh thuốc lá điếu do Việt Nam sản xuất không có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (mặt hàng hạn chế kinh doanh) thì áp dụng chế tài nào để xử lý? Khoản 1, Điều 19 Luật Phòng chống tác hại của thuốc lá số 09/2013/QH13 quy định rõ: “Kinh doanh thuốc lá là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Tổ chức, cá nhân mua bán, chế biến, nhập khẩu nguyên liệu thuốc lá; sản xuất, mua bán, nhập khẩu thuốc lá phải có giấy phép do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp”. Như vậy, muốn kinh doanh thuốc lá, người kinh doanh phải có giấy phép mua bán sản phẩm thuốc lá do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp. Cụ thể trong tình huống này, hành vi bán lẻ thuốc lá điếu mà không có giấy phép bán lẻ do Phòng Kinh tế - UBND Quận Bắc Từ Liêm cấp là hoàn toàn trái pháp luật. Với hành vi trên, cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng 10 Điểm a, Khoản 4, Điều 7 Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại. c, Với hành vi kinh doanh hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu với số lượng 560 bao thì áp dụng chế tài nào để xử lý? Đối với hành vi vi phạm pháp luật về kinh doanh hàng cấm là thuốc lá điế nhập lậu với số lượng 560 bao, cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng Điểm g, Khoản 1, Điều 25 Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại. d, Liệu rằng các chế định, văn bản quy phạm pháp luật được sử dụng trong kết luận của Tổ công tác Đội QLTT số 33 và trong biên bản vi phạm hành chính đã hoàn toàn phù hợp với các hành vi vi phạm và đúng quy định của pháp luật? - Đối với hành vi vi phạm pháp luật không có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, văn bản quy phạm pháp luật được sử dụng ở đây là hoàn toàn phù hợp về nội dung và tính chất của hành vi vi phạm. - Đối với hành vi vi phạm kinh doanh bán lẻ thuốc lá điếu do Việt Nam sản xuất mà không có giấy phép kinh doanh bán lẻ, văn bản quy phạm pháp luật được sử dụng ở đây là Nghị định 67/2013/NĐ-CP ngày 27/6/2013 của Chính phủ, cụ thể là khoản 3 Điều 26. Khoản 3 Điều 26 Nghị định 67/2013/NĐ-CP quy định về điều kiện cấp giấy phép bán lẻ thuốc lá như sau: “3. Điều kiện cấp Giấy phép bán lẻ sản phẩm thuốc lá: a) Thương nhân có đăng ký ngành nghề kinh doanh bán lẻ sản phẩm thuốc lá; b) Có địa điểm kinh doanh cố định, địa chỉ rõ ràng, đảm bảo các yêu cầu về kỹ thuật, trang thiết bị theo quy định; c) Diện tích điểm kinh doanh dành cho thuốc lá tối thiểu phải có từ 03 m2 trở lên; 11 d) Có văn bản giới thiệu, hợp đồng mua bán của các doanh nghiệp bán buôn sản phẩm thuốc lá; đ) Phù hợp với Quy hoạch hệ thống mạng lưới mua bán sản phẩm thuốc lá được cấp có thẩm quyền phê duyệt.” Xét về mặt bao quát chung, điều khoản và văn bản quy phạm pháp luật được sử dụng ở đây là hoàn toàn đúng và có liên quan tới hành vi vi phạm pháp luật của đối tượng. Tuy nhiên, nội dung của điều khoản áp dụng lại không thật sự phù hợp với tính chất của hành vi. Hành vi vi phạm ở đây là kinh doanh bán lẻ thuốc lá điếu mà không có giấy phép kinh doanh, trong khi Khoản 3, Điều 26 của Nghị định 67/2013/NĐ-CP lại quy định về Điều kiện cấp giấy phép bán lẻ sản phẩm thuốc lá, quy định về các điều kiện để được cấp giấy phép bán lẻ thuốc lá. Hành vi vi phạm được xác định là vi phạm khoản 3 Điều 26 khi hành vi đó vi phạm về các điều kiện để được cấp giấy phép bán lẻ như không có địa điểm kinh doanh cố định, địa chỉ rõ ràng, đảm bảo các yêu cầu về kỹ thuật, trang thiết bị theo quy định; diện tích điểm kinh doanh dành cho thuốc lá tối thiểu không đủ tiêu chuẩn từ 03 m2 trở lên; ….. Hơn nữa, việc áp dụng điều khoản này cũng chưa thật sự chi tiết khi không nêu rõ là áp dụng điểm nào của Khoản 3, Điều 26, Nghị định 67/2013/NĐ-CP trong khi khoản này có tới 5 điểm nhỏ. Bên cạnh đó, Khoản 1, Điều 19 Luật Phòng chống tác hại của thuốc lá số 09/2013/QH13 quy định rõ: “Kinh doanh thuốc lá là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Tổ chức, cá nhân mua bán, chế biến, nhập khẩu nguyên liệu thuốc lá; sản xuất, mua bán, nhập khẩu thuốc lá phải có giấy phép do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp”. Hành vi kinh doanh bán lẻ thuốc lá điếu mà không có giấy phép kinh doanh vi phạm rõ ràng Khoản 1, Điều 19 Luật Phòng chống tác hại của thuốc lá số 09/2013/QH13. Như vậy, sử dụng Khoản 1, Điều 19 Luật Phòng chống tác hại của thuốc lá số 09/2013/QH13 làm căn cứ pháp lý để xác định hành vi vi phạm là đầy đủ, chi tiết và phù hợp hơn Khoản 3, Điều 26, Nghị định 67/2013/NĐ-CP về nội dung và tính chất của hành vi. 12 - Đối với hành vi vi phạm thứ 3, việc sử dụng Nghị định số 43/2009/NĐ-CP ngày 7/5/2009 của Chính phủ là phù hợp. Tuy nhiên Biên bản vi phạm hành chính số 0037168/BB-VPHC ngày 26/12/2014 của Đội QLTT số 33 có kết luận hành vi vi phạm của đối tượng như sau: Kinh doanh hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu (số lượng 560 bao) vi phạm: số thứ tự 19, mục A Nghị định số 43/2009/NĐ-CP ngày 7/5/2009 của Chính phủ (Nghị định sửa đổi bổ sung danh mục hàng hóa dịch vụ cấm kinh doanh của Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/6/2006). số thứ tự 19, mục A Nghị định số 43/2009/NĐ-CP ngày 7/5/2009 của Chính phủ là hoàn toàn sai do Nghị định số 43/2009/NĐ-CP chỉ gồm 2 Điều và không có số thứ tự 19, mục A. Cụ thể điều 1 Nghị định này nêu: “Bổ sung số thứ tự 19 (thuốc lá điếu, xì gà và các dạng thuốc lá thành phẩm khác nhập lậu) vào Mục A của Phụ lục I trong Danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh (ban hành kèm theo Nghị định 59/2006/NĐ-CP ngày 12 tháng 6 năm 2006 của Chính phủ), như sau: STT Tên hàng hóa, dịch vụ Văn bản pháp Cơ quan quản lý luật hiện hành ngành A Hàng hóa …. ……………….. 19 Thuốc lá điếu, xì gà và các dạng Nghị định này …………… ………….. Bộ Công Thương thuốc lá thành phẩm khác nhập lậu Như vậy, việc kết luận hành vi vi phạm hành chính phải ghi như sau thì đúng với văn bản quy phạm pháp luật: “Kinh doanh hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu (số lượng 560 bao) vi phạm: Điều 1, Nghị định số 43/2009/NĐ-CP ngày 07 tháng 5 năm 2009 của Chính phủ (Nghị định sửa đổi bổ sung danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh của Nghị định 59/2006/NĐ-CP ngày 12 tháng 6 năm 2006 hướng dẫn thi hành Luật Thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện)”. 13 e, Hành động ập vào kho tại số 85/69 Tân Xuân, Xuân Đỉnh, Bắc Từ Liêm, Hà Nội là có đúng quy định của pháp luật về quy trình kiểm tra việc chấp hành pháp luật và khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính của lực lượng quản lý thị trường? Điều 129 Luật xử lý vi phạm hành chính số 15/2012/QH13 ngày 20 tháng 6 năm 2012 nêu rõ những quy định chung về việc thực hiện khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính. Cụ thể: “Điều 129. Khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính 1. Khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính chỉ được tiến hành khi có căn cứ cho rằng ở nơi đó có cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính. 2. Những người được quy định tại khoản 1 Điều 123 của Luật này có quyền quyết định khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính; trong trường hợp nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là chỗ ở thì đề nghị Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện xem xét, quyết định. 3. Khi khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính phải có mặt người chủ nơi bị khám hoặc người thành niên trong gia đình họ và người chứng kiến. Trong trường hợp người chủ nơi bị khám, người thành niên trong gia đình họ vắng mặt mà việc khám không thể trì hoãn thì phải có đại diện chính quyền và 02 người chứng kiến. 4. Không được khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính vào ban đêm, trừ trường hợp khẩn cấp hoặc việc khám đang được thực hiện mà chưa kết thúc nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản. 5. Mọi trường hợp khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính phải có quyết định bằng văn bản và phải lập biên bản. Quyết định và biên bản khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính phải được giao cho người chủ nơi bị khám 01 bản.” 14 Trong tình huống trên, qua quá trình thu thập thông tin và theo báo cáo của trinh sát viên Đội CSPCTP về môi trường, lực lượng chức năng có đủ căn cứ để chứng minh được rằng nơi đó có cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính. Như vậy, việc thực hiện khám kho là cần thiết để ngăn chặn kịp thời hành vi vi phạm. Trong khi khám, chủ kinh doanh không có mặt tại kho, cũng không có người thành niên trong gia đình họ chứng kiến; việc có mặt của 02 nhân viên làm người chứng kiến, 01 cán bộ UBND phường Xuân Đỉnh làm đại diện chính quyền, thành phần Công an Quận Bắc Từ Liêm và kiểm soát viên Đội QLTT số 33 đã làm cho việc thực hiện khám kho trở nên hợp pháp. Tuy nhiên điểm mấu chốt là ấn chỉ của lực lượng QLTT được sử dụng ở đây. Luật xử lý VPHC quy định rõ “Mọi trường hợp khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính phải có quyết định bằng văn bản và phải lập biên bản”, điều này khẳng định việc khám kho của Đội QLTT số 33 trong trường hợp này là không đúng với quy định của pháp luật khi tiến hành khám mà không có quyết định Khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính do Đội trưởng Đội QLTT số 33 ký. May mắn là chủ kinh doanh không khiếu nại về việc thực hiện hoạt động khám nơi cất giữ tang vật trái pháp luật này của Đội QLTT số 33. Như vậy, trách nhiệm để xảy ra sai sót trong quá trình thực thi pháp luật này thuộc về Đội trưởng Đội QLTT số 33 và trinh sát viên Đội CSPCTP về môi trường đề xuất khám kho cất giữ tang vật vi phạm là thuốc lá ngoại nhập lậu. 3. Nguyên nhân và hậu quả a, Nguyên nhân Xảy ra vụ việc kể trên và các vấn đề nảy sinh trong quá trình giải quyết vụ việc là do một số các nguyên nhân chủ yếu sau: - Sự thiếu ý thức trong việc chấp hành pháp luật của chủ kinh doanh. Chủ kinh doanh mặc dù biết là khi kinh doanh một loại mặt hàng nào đó đều phải đăng ký kinh doanh với cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng lại không thực hiện hoạt động đó. Thêm vào đó, kinh doanh mặt hàng thuốc lá là mặt hàng kinh doanh có điều kiện, 15 - Sự thiếu hiểu biết, hiểu chưa trọn vẹn vấn đề của người kiểm soát viên thị trường. Việc áp dụng chưa đúng và chưa chuẩn xác văn bản quy phạm pháp luật xuất phát từ việc nghiên cứu chưa kỹ văn bản cần áp dụng, không cẩn thận trong việc trích dẫn văn bản. Chính điều này làm giảm tính pháp lý của các ấn chỉ của lực lượng QLTT, đặc biệt trong trường hợp này là Biên bản VPHC. - Sự thiếu trách nhiệm và không nắm vững quy trình nghiệp vụ của người đứng đầu; trách nhiệm của trinh sát viên trong việc điều tra thu thập thông tin về hoạt động của đối tượng tình nghi. b, Hậu quả - Gây ra thiệt hại về kinh tế cho cả cơ quan nhà nước và người vi phạm pháp luật; - Uy tín của cơ quan nhà nước bị ảnh hưởng nghiêm trọng, giảm sút lòng tin của người dân vào chính quyền và pháp luật của nhà nước; - Tính nghiêm minh của pháp chế xã hội chủ nghĩa bị ảnh hưởng; - Biểu hiện ra ngoài sự yếu kém trong dịch vụ công; 4. Xây dựng phương án và lựa chọn phương án giải quyết tình huống a, Phương án 1 - Xây dựng đề xuất xử lý vi phạm hành chính đối với đối tượng nên trên. Cụ thể: 1. Phạt tiền: 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu đồng) với hành vi hoạt động kinh doanh mà không có giấy chứng nhận kinh doanh theo quy định; Áp dụng Khoản 2, Khoản 4 Điều 6 Nghị định số 185/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại. 2. Phạt tiền: 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu đồng) với hành vi kinh doanh hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh (thuốc lá) mà không có giấy phép kinh doanh hàng hóa dịch vụ hạn chế kinh doanh theo quy định; Áp dụng: Điểm a, Khoản 4, Điều 7 Nghị định số 185/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại. 16 3. Phạt tiền: 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng) đối với hành vi vi phạm về kinh doanh hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu có số lượng 560 bao; Áp dụng: Điểm g, Khoản 1, Điều 25 Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực thương mại. Tổng mức phạt tiền: 55.000.000 đồng (Năm mươi lăm triệu đồng) - Thẩm quyền ra Quyết định xử phạt thuộc Chi cục Quản lý thị trường. Do vậy, tổ công tác cần hoàn thiện hồ sơ, chuyển Chi cục QLTT Hà Nội ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo thẩm quyền. b, Phương án 2 - Xây dựng đề xuất xử lý vi phạm hành chính đối với đối tượng nên trên. Cụ thể: * Hình thức xử phạt chính: 1. Phạt tiền: 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu đồng) với hành vi hoạt động kinh doanh mà không có giấy chứng nhận kinh doanh theo quy định; Áp dụng Khoản 2, Khoản 4 Điều 6 Nghị định số 185/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại. 2. Phạt tiền: 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu đồng) với hành vi kinh doanh hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh (thuốc lá) mà không có giấy phép kinh doanh hàng hóa dịch vụ hạn chế kinh doanh theo quy định; Áp dụng: Điểm a, Khoản 4, Điều 7 Nghị định số 185/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại. 3. Phạt tiền: 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng) đối với hành vi vi phạm về kinh doanh hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu có số lượng 560 bao; Áp dụng: Điểm g, Khoản 1, Điều 25 Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực thương mại. Tổng mức phạt tiền: 55.000.000 đồng (Năm mươi lăm triệu đồng) 17 * Hình thức phạt bổ sung: Tịch thu toàn bộ số hàng hóa nhập lậu theo Biên bản tạm giữ số 0032271/BB-TGTV ngày 21/12/2014 của Đội QLTT số 33. Áp dụng Điểm a, Khoản 3, Điều 25 Nghị định 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại. - Hoàn thiện hồ sơ chuyển Chi cục QLTT Hà Nội ra Quyết định xử phạt VPHC theo thẩm quyền. - Sau khi Chi cục QLTT ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với đối tượng nêu trên, Tổ công tác thuộc Đội QLTT số 33 tiến hành Chuyển giao lại số hàng hóa tịch thu cho Phòng Nghiệp vụ tổng hợp Chi cục QLTT Hà Nội để tiến hành tiêu hủy theo quy định của pháp luật. c, So sánh các phương án Cả 2 phương án đều có tính khả thi, áp dụng đúng các quy định của pháp luật trong việc xử lý vi phạm hành chính. Tuy nhiên, Phương án 1 đúng nhưng chưa thật đầy đủ, phương án này mới chỉ sử dụng phạt hành chính mà không có hình thức phạt bổ sung đối với mặt hàng cần tịch thu và tiêu hủy là thuốc lá. Phương án 2 đầy đủ, chính xác và đáp ứng được nhiều yêu cầu về mục tiêu xử lý hơn phương án 1 về trình tự và các hình thức xử phạt để ngăn chặn triệt để hành vi vi phạm. Do vậy, sử dụng phương án 2 là đúng và hợp lý hơn cả so với phương án 1. 5. Xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện phương án TT Nội dung công việc 1 Tìm hiểu các văn bản liên quan Thời gian thực hiện ½ ngày 18 Tổ chức, cá nhân tham gia Địa điểm thực hiện Tổ công tác Trụ sở Đội QLTT 33 Ghi chú 2 Rà soát lại toàn bộ quá trình kiểm tra, lập biên bản để tìm ra sai sót (nếu có) báo cáo giải trình với Ban Chỉ huy Đội QLTT 33. 3 4 5 6 7 8 Tổ công tác, Ban Chỉ huy Đội Trụ sở Đội QLTT 33 Hoàn thiện hồ sơ chuyển ½ ngày Chi cục QLTT Hà Nội ra Quyết định xử phạt VPHC theo thẩm quyền Tổ công tác, Ban Chỉ huy Đội, Chi cục QLTT Hà Nội Ban hành Quyết định xử ½ ngày phạt vi phạm hành chính. Ban hành Quyết định xử ½ ngày phạt VPHC Chi cục QLTT Hà Nội Tống đạt Quyết định xử ½ ngày phạt vi phạm hành chính cho đương sự theo đúng quy định của pháp luật. ½ ngày Nộp tiền phạt Tổ công tác, Ông Lê Mạnh Hợp Trụ sở Đội QLTT 33, Trụ sở Chi cục QLTT Hà Nội Trụ sở Chi cục QLTT Hà Nội Trụ sở Chi cục QLTT Hà Nội Địa điểm kinh doanh cửa hàng thuốc lá điếu Kho bạc Nhà nước Trụ sở Đội QLTT 33 ½ ngày Chuyển Biên lai nộp tiền ½ ngày phạt Tiến hành lập Biên bản 1 ngày Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, cụ thể ở đây là số thuốc lá nhập lậu 10 Chuyển giao số hàng 1 ngày hóa là thuốc lá điếu nhập lậu cho kiểm soát viên 9 Chi cục QLTT Hà Nội Ông Lê Mạnh Hợp Ông Lê Mạnh Hợp , Đội QLTT 33 Tổ công tác, Trụ sở Đội chủ số hàng QLTT số 33 lậu Tổ công tác, kiểm soát viên Phòng 19 Kho chứa hàng tiêu hủy Chi cục phụ trách của Phòng nghiệp vụ Tổng hợp – Chi cục QLTT Hà Nội Nghiệp vụ QLTT Hà tổng hợp Chi Nội cục QLTT Hà Nội 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan