TIỂU LUẬN GIỮA KÌ
CHẤT LƯỢNG DÂN SỐ
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
KHOA XÃ HỘI HỌC
=================
TIỂU LUẬN GIỮA KÌ
Môn : CHẤT LƯỢNG DÂN SỐ.
Giảng viên : TS. Nguyễn Thị Kim Hoa
Sinh viên thực hiện :
Hà Nội – T12/2011
NHÓM 4 - K53CTXH
DÂN TỘC CHỨT
1
TIỂU LUẬN GIỮA KÌ
CHẤT LƯỢNG DÂN SỐ
Phần I. CƠ SỞ LÍ THUYẾT
I. Một số khái niệm
1. Khái niệm dân số.
Dân số (population) là đại lượng tuyệt đối con người trong một đơn vị hành
chính hay một quốc gia, một châu lục hoặc cả hành tinh chúng ta tại một thời điểm
nhất định.Dân số của một cộng đồng, một quốc gia phụ thuộc vào quá trình sinh tử.
Ngoài ra còn phụ thuộc vào một số yếu tố khác như kết hôn, ly hôn, gián hôn và
đặc biệt là xuất nhập cư.
2. Chất lượng dân số.
Theo Ph. Ăngghen, chất lượng dân số là khả năng của con người thực hiện các
hoạt động một cách có hiệu quả nhất.
Theo các nhà nhân khẩu học Nga, chất lượng dân số là “khái niệm trung tâm của
hệ thông tri thức về dân số”. Và được phản ánh qua các chỉ tiêu: (1) Trình độ giáo
dục; (2) Cơ cấu nghề nghiệp xã hội; (3) Tính năng động và tình trạng sức khoẻ.
Theo từ điển bách khoa của Việt Nam xuất bản năm 1995, “ chất lượng dân số
phải được biểu thị bằng các thuộc tính bản chất của dân số”.
3. Khái niệm Dân tộc thiểu số.
“Dân tộc thiểu số” là những dân tộc có sốdân ít hơn so với dân tộc đa số trên phạm
vi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủnghĩa Việt Nam.
NHÓM 4 - K53CTXH
DÂN TỘC CHỨT
2
TIỂU LUẬN GIỮA KÌ
CHẤT LƯỢNG DÂN SỐ
Phần II: Tổng quát về dân tộc Chứt
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc với hơn 50 dân tộc anh em , phân bố rộng
khắp lãnh thổ, trong đó dân tộc thiểu số phân bố trên địa bàn rộng lớn ở vùng miền
nùi , vung biên giới hải đảo , vùng đầu nguồn xung yếu vị trí quan trọng của đất
nước về chính trị , kinh tế và an ninh quốc phòng. Trong những năm qua Đảng và
Nhà nước ta đã có nhiều chính sách đầu tư giú bà con dân tộc thiểu số cải thiên
cuộc sống. Tuy nhiên do điểu kiên đại lí, phong tục tập quán cung như do ảnh
hưởng của các yếu tố kinh tế thị trường đã tác động không nhỏ đến chất lượng
cuộc sống của các dân tộc thiểu số kinh tế.
Người Chứt, còn gọi là người Rục, người Sách, người A Rem, người
Mày, người Mã Liềng, người Tu Vang, người Pa Leng,người Xe Lang, người Tơ
Hung, người Cha Cú, người Tắc Cực, người U Mo, người Xá Lá Vàng... là một
dân tộc ít người sinh sống tại Lào và Việt Nam.
1. Địa bàn cư trú
Tại Việt Nam, theo số liệu tổng điều tra dân số ngày 1 tháng 4 năm 1999 thì dân
tộc này có dân số khoảng 3.289 người[1], sống chủ yếu ở tại Minh Hóa, Tuyên
Hóa, Bố Trạch (Quảng Bình); một số ở Hương Khê (Hà Tĩnh) và tại Đăk Lăk.
Thực tế, 7 tên gọi Sách, Mày, Rục, Mã Liềng, Arem, Xơ-lang, Umo dùng để chỉ 7
nhóm trong tộc người này. Nhóm người Rục được phát hiện muộn nhất (năm1959)
ở xã Thượng Hóa, huyện Minh Hóa và đến năm 2004 có 85 hộ với 428 nhân khẩu.
Nhưng theo ước tính của Tổng cục Thống kê ngày 1 tháng 7 năm 2003 thì dân số
người Chứt giảm xuống còn 3.787 người[2].
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Chứt ở Việt Nam có
dân số 6.022 người, cư trú tại 23 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Chứt cư
trú tập trung tại các tỉnh: Quảng Bình(5.095 người, chiếm 84,6 % tổng số người
NHÓM 4 - K53CTXH
DÂN TỘC CHỨT
3
TIỂU LUẬN GIỮA KÌ
CHẤT LƯỢNG DÂN SỐ
Chứt tại Việt Nam), Đắk Lắk (435 người), Lâm Đồng (266 người), Hà Tĩnh (156
người)[3]
Tại Lào, theo ước tính của Ethnologue[4] thì có khoảng 450 người Chứt
(Ethnologue ghi là theo điều tra dân số năm 1995 của Lào) sinh sống tại
tỉnh Khammouan.
Người Chứt là tộc người sử dụng ngôn ngữ cùng ngữ hệ với tiếng Việt. Tiếng Chứt
được nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm vì gần gũi với tiếng Kinh nguyên thủy.
Giáo sư Trần Trí Dõi đã nhận xét tiếng Chứt như "bảo tàng lưu giữ các giai đoạn
phát triển của tiếng Việt". Văn hóa của người Chứt cũng cho phép tìm lại lịch sử
phát triển của người Việt cổ.Người Chứt sống chủ yếu bằng trồng trọt và một phần
nhờ săn bắn và hái lượm. Họ ăn cơm đồ cách thuỷ với thức ăn thường có rau rừng
thái nhỏ nấu với ốc hay cá suối.
2. Về lịch sử phát triển
Trước đây, người dân tộc Chứt sống di cư, chủ yếu sống ở vùng rừng núi
tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh trong điều kiện sống rất lạc hậu. Theo A. Cheon và
Th. Guignard, hai nhà nghiên cứu người Pháp đã mô tả người dân tộc Chứt "hết
sức nhút nhát, hễ thấy người lạ thì lập tức lẩn trốn. Họ không có quần áo, nam nữ
đều che mình bằng vỏ cây sui, ngủ chung lẫn lộn trong hang hoặc trong lều. Họ ăn
bột cây nhúc và săn bắt tôm, cá, thú nhỏ trong rừng. Cả nam và nữ đều búi tóc
đằng sau". Có nguồn thông tin cho biết nhóm người Rục thời trước có nguồn thức
ăn quan trọng là bột cây báng và thịt khỉ.
Dưới thời thực dân Pháp, người dân tộc Chứt bị miệt thị là "Xá Lá Vàng".
"Xá" chỉ những tộc người lạc hậu; "Lá Vàng" chỉ cuộc sống di cư. Người dân tộc
Chứt thường chỉ sống tại một địa điểm trong những túp lều lợp bằng lá cây khoảng
vài ngày cho đến khi lá chuyển sang màu vàng thì bỏ đi nơi khác. Bản thân chữ
NHÓM 4 - K53CTXH
DÂN TỘC CHỨT
4
TIỂU LUẬN GIỮA KÌ
CHẤT LƯỢNG DÂN SỐ
"Chứt" cũng được hiểu là hang đá, nơi trú ngụ của người Chứt. Với trình độ sản
xuất thấp, người dân tộc Chứt không biết dệt vải. Vào mùa hè, nam giới người
Chứt thường đóng khố và cởi trần; còn phụ nữ Chứt mặc váy. Vào mùa đông, họ
mặc áo làm bằng vỏ cây.
Khi Việt Nam giành được độc lập sau cuộc kháng chiến chống Pháp, người
Chứt được chính quyền Việt Nam vận động về sống định cư, hòa đồng hơn vào các
tộc người khác.
Ngày nay người dân tộc Chứt đã sống
định canh, định cư nhưng các làng của người
Chứt gọi là Cà Vên thường tản mạn và nhà
cửa không bền vững. Họ sống nhờ trồng trọt
như nhóm dân tộc Sách làm ruộng, còn nhóm
dân tộc Rục và dân tộc A Rem làm rẫy, canh
tác lúa, đậu, lạc, trầu không. Khi đến mùa thu
hoạch, họ vẫn lên ở các hang núi gần nương
rẫy, chỉ trở lại bản làng khi mùa màng xong
Người đàn ông này đang chuẩn bị
nỏ lên rẫy
(nguồn:http://cuocsongviet.com.vn)
xuôi. Người Chứt cũng hái lượm, săn bắn, đánh cá, chăn nuôi. Nghề mộc và đan
lát khá phổ biến trong các tộc người Chứt. Các đồ dùng bằng kim loại và vải vóc, y
phục phải mua hoặc trao đổi do người Chứt không trồng bông dệt vải hay chế tạo
đồ kim loại.
Người dân tộc Chứt ngày nay thường nhận mình có họ Cao, họ Đinh... Mỗi
dòng họ đều có người tộc trưởng, có bàn thờ tổ tiên chung. Trong làng người dân
tộc Chứt, tộc trưởng nào có uy tín lớn hơn thì được suy tôn làm trưởng làng
3. Ngôn ngữ:
Người Chứt là tộc người sử dụng ngôn ngữ cùng ngữ hệ với tiếng Việt.
Tiếng Chứt được nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm vì gần gũi với tiếng
NHÓM 4 - K53CTXH
DÂN TỘC CHỨT
5
TIỂU LUẬN GIỮA KÌ
CHẤT LƯỢNG DÂN SỐ
Kinh nguyên thủy. Ngôn ngữ của người Chứt thuộc nhóm ngôn ngữ Việt
Mường.
4. Đặc điểm kinh tế
5. Đặc điểm văn hoá dân tộc
Hầu hết các dân tộc thiểu số của tỉnh Quảng Bình đều có mặt và sinh sống tập
trung trong vùng đệm của VQG. Ngoài người Kinh chiếm phần đông đảo, trong
khu vực có hai dân tộc thiểu số được xếp hạng trong số 54 dân tộc Việt Nam là:
dân tộc Vân Kiều và dân tộc Chứt. Dân tộc Vân Kiều bao gồm các tộc người: Vân
Kiều, Khùa, Ma Coong và Trì. Dân tộc Chứt gồm các tộc người: Sách, Mày, Rục
và Arem.
Các tộc người này thường phân bố tập trung thành từng bản riêng rẽ, hoặc đôi
khi sống xen kẽ lẫn nhau trong cùng một bản. Nhìn chung thì mỗi xã thường có
một vài tộc người cùng làm ăn sinh sống.
Bảng 1.5. Thành phần dân tộc của các xã VQG Phong Nha - Kẻ Bàng
Xã
người
Tổng
Dân Hoá
Hoá Sơn
Trung Hoá
%
người
%
người
%
người
Dân tộc Vân kiều
Ma
Kinh Vân
Khùa
Trì
Kiều
Coong
3446
43524 1933
46
773
1231
82.9 3.7
6.6 2.3
0.1
17
3446
0.4
77.5
876
61.1
4727
28
NHÓM 4 - K53CTXH
DÂN TỘC CHỨT
Dân tộc Chứt
Sách Mày Rục
Arem
Tổng
983 324 216 52476
1.5
1.9 0.6 0.4
983
22.1
558
38.9
100.0
4446
100.0
1434
100.0
4755
6
TIỂU LUẬN GIỮA KÌ
%
người
Thượng Hoá
%
người
Tân Trạch
%
Thượng
người
%
Trạch
người
%
người
Xuân Trạch
%
người
Sơn Trạch
%
người
Phú Định
%
người
Hưng Trạch
%
người
Phúc Trạch
Trường Sơn
%
CHẤT LƯỢNG DÂN SỐ
99.4
1965
77.2
0.6
187
7.3
15
20
19
12.6
1212 46
1.1
1.5
92.7
3.5
324 69
12.7
132
87.4
15
1.1
8794
100.0
4926
100.0
8126 109
98.7 1.3
2405
100.0
10081
100.0
1592 1804
46.9
53.1
100.0
2545
100.0
151
100.0
1308
100.0
8794
100.0
4926
100.0
8235
100.0
2405
100.0
10081
100.0
3396
100.0
Theo Hà Văn Tân và Phạm Đức Dương trong bài "Về ngôn ngữ tiếng Việt-Mường" (Tạp chí Dân tộc học số 1/1978) thì ngôn ngữ Chứt là cổ nhất trong nhóm
ngôn ngữ Việt-Mường và được tách khỏi tiếng Việt-Mường từ thế kỷ X - XI.
Theo tài liệu của Ban Dân tộc Bình Trị Thiên (1980) thì thời đó người Chứt
chỉ có 359 hộ với 1839 nhân khẩu, 85 người Chứt sống ở xã Thượng Trạch và Tân
Trạch (vùng Phong Nha) còn đại đa số (1754 người) sống ở huyện Tuyên Hoá. Họ
sống rải rác và xen kẽ với tộc người Khùa.
NHÓM 4 - K53CTXH
DÂN TỘC CHỨT
7
TIỂU LUẬN GIỮA KÌ
CHẤT LƯỢNG DÂN SỐ
Theo Nguyễn Quốc Lộc (1984) và các tác giả trong cuốn "Các dân tộc ít
người của Bình Trị Thiên " thì ở 3 tỉnh trên có 2.000.000 người, trong đó khoảng
60.000 người (3%) thuộc 4 dân tộc : Vân Kiều, Kơ Tu, Tà Ôi và Chứt. So với 54
dân tộc trong cả nước Việt Nam, Chứt là một dân tộc nhỏ đứng thứ 44. Dân tộc
Chứt gồm nhiều nhóm tộc: Sách, Mày, Rục, Arem... Arem là nhóm nhỏ nhất, đến
thời điểm tháng 12/1997 chỉ có 116 người, sau đó là nhóm Rục chỉ có 324 người
(đến tháng 12/1997).
a. Về văn hoá dân gian, người Chứt có những bài hát phổ biến, nhất là
điệu "Con trâu ra đồng" được sử dụng với một số nhạc cụ dân tộc như khèn, đàn
ống. Đàn ống gần giống như nhị của người Kinh được làm bằng cây lồ ô. Ngoài ra
còn có một số nhạc cụ khác như sáo (pi), ống thổi (pìa). Các làn điệu dân ca và
nhạc cụ được sử dụng vào ngày lễ tết, đám cưới, hoặc được thầy mo sử dụng trong
lễ cúng cơm mới, gọi hồn,....
b. Về tôn giáo tín ngưỡng, đối với dân tộc Chứt còn tồn tại nhiều phong
tục tập quán như các nghi lễ, các ma thuật, kiêng kỵ,... Mỗi năm người Chứt có 3
lần cúng tế nông nghiệp: lần thứ nhất là lễ làm mùa, lần thứ hai là lễ lấp lỗ, lần thứ
ba là lễ cúng cơm mới. Các ma thuật chủ yếu ở đây được sử dụng vào việc chữa
bệnh và làm hại người khác. Người Chứt còn giữ tương đối nhiều hình thức kiêng
kỵ rất phức tạp, như đi vào rừng thì tên các loài động vật phải gọi tên lóng và phải
im lặng sợ ma rừng phật ý. Khi đàn bà sinh đẻ phải vào trong lán ở bìa rừng do
người chồng làm để sinh nở. Sau khi sinh nở chỉ có hai vợ chồng tự chăm sóc
nhau. Sau từ 10 đến 15 ngày hai vợ chồng mới được trở về nhà sau khi đã làm một
số thủ tục tà phép (phong tục này còn tồn tại ở một số bản người Sách xã Dân
Hoá). Một số kiêng kỵ khác như kiêng ngồi góc nhà, đặc biệt là kiêng không mắc
màn trong nhà đã gây cản trở trong việc phòng chống các bệnh truyền nhiễm như
sốt rét, sốt suất huyết... Tuy nhiên, các phong tục tập quán và lễ nghi cho đến nay
NHÓM 4 - K53CTXH
DÂN TỘC CHỨT
8
TIỂU LUẬN GIỮA KÌ
CHẤT LƯỢNG DÂN SỐ
đã thay đổi nhiều do ảnh hưởng văn hoá của người Kinh. Chỉ có một số bản vẫn
giữ lại các phong tục cổ xưa, như bản Arem (Tân Trạch), bản người Rục ở Yên
Hợp (Thượng Trạch) và một số bản người Sách ở xã Dân Hoá.
Theo tiếng dân tộc Chứt ở Quảng bình thì Rục có nghĩa là: nơi nước lặn
xuống đất để chảy ngầm dưới đất hoặc nước từ ngầm nổi lên trên. Arem có nghĩa
là: mái đá, lèn đá, hang đá hoặc vòm đá.
Người Arem và người Rục là hai nhóm nhỏ của dân tộc Chứt từ xa quen sống
cách ly với cộng đồng ở vùng núi đá hoặc trong hang đá.
Trong dân tộc Chứt, nhóm Arem và nhóm Rục có ít người nhất và cũng là hai
trong số các nhóm nhỏ nhất so với toàn bộ các nhóm dân tộc khác trên đất nước
Việt Nam. Đời sống của hai tộc người này tương đối giống nhau trong sản xuất,
các phong tục và cách sinh hoạt. Đời sống của họ còn giữ tính hoang sơ nhất, sống
cách ly khỏi các cộng đồng dân tộc một thời gian dài nên họ vẫn sống dựa vào nương rẫy, săn bắn, hái lượm và bắt cá trong suối. Theo phong tục của họ khi làm
một cái rẫy để trồng lúa khô hoặc ngô thì người đứng đầu bản phải mơ thấy thần
linh cho làm có kết quả thì họ mới làm, nếu không thì họ phải vào rừng kiếm thức
ăn bằng cách đào củ các loại cây thuộc họ Mài (Dioscoraceae), họ Ráy (Araceae).
Nhúc là một loại tinh bột rất quan trọng đối với họ được lấy từ loài cây đoác
(Arenga saccharifera), thuộc họ Cau dừa (Palmae) rất phổ biến ở vùng này. Các
loại rau xanh chủ yếu từ nguồn măng tre nứa và các loài rau rừng. Nguồn thịt cung
cấp cho bữa ăn một phần rất lớn được thu thập từ việc săn, bẫy thú nhỏ, bắt cá,
cua, ếch, nhái, lấy mật ong. Khi săn bắn thú họ đi thành nhóm 7 - 8 người dùng nỏ,
lao. Nhà của họ rất đơn giản, thường bằng tre hoặc cây gỗ nhỏ và lợp lá cây nên
chỉ tồn tại được 3 - 4 năm. Trớc đây người Arem sống từng nhóm 10 - 12 nhà rải
rác ở các vùng gần hang Đại Cáo, hang Người lùn, hang Duật... Còn người Rục
NHÓM 4 - K53CTXH
DÂN TỘC CHỨT
9
TIỂU LUẬN GIỮA KÌ
CHẤT LƯỢNG DÂN SỐ
sống thành nhóm nhỏ hơn khoảng 5-7 hộ ở các thung lũng gần nơi nước lặn hoặc
các hang đá ở núi Ma Ma.
c. Trang phục:Trước đây quần áo của hai nhóm người này được tự đan
lấy bằng sợi của vỏ cây sui (Antiaris toxicaria) thuộc họ Dâu tằm (Moraceae), một
loài cây có nhựa mủ độc nhưng vỏ có nhiều sợi. Các tác giả ngoại quốc lại cho
rằng quần áo như vậy rất gần gũi với các dân tộc Polynesi. Ngày nay trang phục
của họ cũng dần được thay đổi theo hướng ăn mặc của người Kinh.
Trước kia người Arem sống rải rác trong các thung lũng và hang đá trong
rừng ở gần bản Đoòng và bản Rào Con bây giờ. Sau khi được phát hiện năm 1962,
Chính phủ đã tổ chức cho họ ra ở gần cây số 14 đờng 20 và giúp đỡ họ rất nhiều.
Giai đoạn 1965-1972, do chiến tranh ác liệt trên dọc tuyến đường mòn Hồ Chí
Minh, họ lại phân tán vào rừng, một phần về nơi cư trú cũ, một phần sống trong
hang Đại Cáo và Đại ả cách đờng 20 khoảng trên 10 km về phía đông. Năm 1993
Chính phủ lại giúp đỡ người Arem xây dựng một bản mới là Tân Trạch ở phía tây
nam VQG và giúp đỡ họ dựng nhà, xây lớp học, trạm xá và cung cấp cho họ các
nhu cầu cần thiết.
NHÓM 4 - K53CTXH
DÂN TỘC CHỨT
10
TIỂU LUẬN GIỮA KÌ
CHẤT LƯỢNG DÂN SỐ
Người Rục sống rải rác, rất hoang dã trong các thung lũng và núi đá ở núi Ma
Ma trước khi được bộ đội tìm thấy (1960). Sau đó Chính phủ đã giúp họ định cư
tại bản Yên Hợp bây giờ. Tuy nhiên, cuộc sống định cư đối với họ chưa trở thành
thói quen, nên một số gia đình vẫn tiếp tục sống cuộc sống hoang sơ trong hang đá
và thung lũng núi đá vôi. Hiện nay ở Yên Hợp còn một số hộ sống như thế trong
núi Ma Ma; họ vẫn muốn từ chối sự giúp đỡ về nhà cửa, trường học, y tế, gia súc.
Người Arem và người Rục là đối tượng nghiên cứu của dân tộc học vì cho
đến 3 thập kỷ gần đây họ vẫn quen sống cách ly khỏi cộng đồng. Công cụ sản xuất
lạc hậu, quần áo tự sản xuất bằng vỏ cây sui và dây rừng. Tộc người Arem và
người Rục với các phong tục tập quán của họ cũng là một đối tượng cần bảo vệ
như những di sản văn hoá nhân văn.
Văn hóa tín ngưỡng
Người dân tộc Chứt có quan hệ vợ chồng bền vững. Lễ cưới được tổ chức
bên nhà gái trước lễ đón dâu. Lễ vật trong đám cưới ngoài lợn, gà; luôn luôn phải
có thịt khỉ sấy khô. Bên cạnh những tập quán lạc hậu, người Chứt cũng có những
nét văn hóa khá đặc sắc. Họ có tập tục cúng lúa mới bằng cách gặt lúa rẫy về, rang
gạo để cúng. Ngày cúng lúa mới cũng là ngày hội. Đồng bào cùng quây quần và
hát những bài hát bằng tiếng dân tộc trong tiếng đàn Chơ-ra-bon khuấy động núi
rừng. Ông Đệ cho biết, cây đàn Chơ–ra–bon có lẽ là nhạc cụ duy nhất mà người
Chứt còn lưu giữ được. Chiếc đàn chỉ gồm một ống nứa và một sợi dây cước, dùng
một thanh nứa mỏng, dẹt kéo qua kéo lại như đàn violon. Chiếc đàn tuy đơn sơ
nhưng phát ra những âm thanh rất du dương.
Hiện nay đồng bào ăn mặc giống như người Kinh. Quan hệ vợ chồng bền vững; lễ
cưới được tổ chức bên nhà gái, sau đó mới đón dâu. Lễ vật quan trọng nhất ngoài
lợn, gà, nhất thiết phải có thịt khỉ sấy khô. Tang ma đơn giản và có nhiều ảnh
hưởng của người Kinh, thường tổ chức trong 3 ngày, sau đó đưa đi chôn, đắp mộ
NHÓM 4 - K53CTXH
DÂN TỘC CHỨT
11
TIỂU LUẬN GIỮA KÌ
CHẤT LƯỢNG DÂN SỐ
đất, sau 3 ngày tộc trưởng làm lễ gọi hồn người chết về ngụ trên bàn thờ tổ tiên ở
nhà tộc trưởng, từ đó phần mộ không được chăm nom. Ngoài thờ cúng tổ tiên, bàn
thờ đặt ở nhà tộc trưởng, người Chứt thờ nhiều ma: ma rừng, ma suối, thần nông,
ma bếp... Các nghi lễ nông nghiệp thường được thực hiện như lễ xuống giống, lễ
sau gieo hạt, lễ cúng hồn lúa, lễ ăn mừng được mùa. Kho tàng văn nghệ dân gian
phong phú như làn điệu dân ca Kà Tưm, Kà Lềnh, nhiều truyện kể; nhạc cụ có
khèn bè, đàn ống, lồ ô, sáo...
Việc ma chay của người dân tộc Chứt đơn giản, nhóm dân tộc Sách có tiếp
thu ảnh hưởng của người dân tộc Kinh. Lễ tang được tổ chức trong 2 đến 3 ngày
bằng nghi lễ cúng bái, rồi đưa người chết đi chôn. Mộ phần được đắp thành nấm
đất, không có nhà mồ bên trên. Sau 3 ngày, tộc trưởng làm lễ gọi hồn cho người
chết về ngụ tại bàn thờ tổ tiên ở nhà tộc trưởng, từ đó người thân không chăm sóc
mộ nữa.
NHÓM 4 - K53CTXH
DÂN TỘC CHỨT
12
TIỂU LUẬN GIỮA KÌ
CHẤT LƯỢNG DÂN SỐ
Ngoài thờ cúng tổ tiên, người dân tộc Chứt tin có ma rừng, ma suối, ma
không trung, ma bếp... Trong tín ngưỡng của người dân tộc Chứt cũng có Thần
nông bảo vệ mùa màng và là vị thần tối cao. Hoạt động nông nghiệp thường được
thực hiện kèm theo các nghi lễ như lễ xuống giống, lễ sau gieo hạt, lễ cúng hồn
lúa, lễ ăn mừng được mùa.
Người dân tộc Chứt có làn điệu dân ca là Cà Lưm, Kà Lềnh. Nhạc cụ có
khèn bè, đàn ống lồ ô loại cho nam và loại cho nữ, ống sáo 6 lỗ... Dân tộc Chứt có
vốn truyện cổ và văn nghệ dân gian phong phú, gồm nhiều đề tài khác nhau.
Người Chứt có món cơm pồi rất ngon, được chế biến rất công phu. Lương
thực chủ yếu của dân tộc Chứt là ngô, sắn, lúa nương và các loại củ quả (chất có
bột), nên nguyên liệu để làm món cơm pồi gồm: ngô hạt, lúa nếp nương, sắn củ.
Tuy nhiên thì người chứt vẫn rất lạc hậu thể hiện:
Món ăn của người Chứt hàng ngày chủ yếu là củ nâu, củ mài, măng, ếch và
nhái. Ếch và nhái thường được phơi khô, sấy bằng khói để ăn dần. Bên cạnh đó,
người Chứt còn có món “đặc sản” được gọi là “canh bồi”. Món ăn này được chế
biến bằng cách dùng măng nứa ngâm nước, đâm vào một ít bột gạo và thịt nhái rồi
hầm lên như nấu cháo. Đó là hai món ăn mà như ông Đệ nhận xét là “không dễ gì
mà làm quen được”.
Ngày mới phát hiện ra, đồng bào sống tạm bợ trong các hang đá hoặc các
túp lều dột nát. Người Chứt rất mê tín và tin vào việc mọi người đều có linh hồn
sau khi qua đời. Chính vì thế, nếu gia đình nào có người chẳng may mất đi, lập tức
họ sẽ đặt người chết lên các hốc đá trong rừng, sau đó vào rừng tìm những cây thật
to, bóc lấy lớp vỏ và bó vào thi thể của người chết, để như thế đúng một ngày một
đêm. Sau đó, trước khi từ biệt, mỗi người trong bản sẽ dùng dao cắt một miếng
trên vỏ cây đã được dùng để bó thi thể, mang theo trong người. Sau đó họ để lại thi
thể một ít thóc, củi, dao, nồi…Họ tin rằng nếu làm như vậy, linh hồn người chết sẽ
NHÓM 4 - K53CTXH
DÂN TỘC CHỨT
13
TIỂU LUẬN GIỮA KÌ
CHẤT LƯỢNG DÂN SỐ
luôn bên cạnh, phù hộ giúp đỡ trồng được nhiều lúa, săn được nhiều thú, đi rừng
tránh được rắn rết, hổ báo và những con ma rừng.
Người Chứt cũng có một tập tục rất lạc hậu mà phải đến hàng chục năm, các
cán bộ bám bản mới xóa bỏ được. Đó là những người phụ nữ khi đến kỳ sinh nở
hoặc những ngày "đèn đỏ", họ sẽ phải ở một mình ngoài rừng, sát bên bờ suối.
Những người phụ nữ này phải ở trong những căn lều lợp hoàn toàn bằng lá rừng.
Đồng bào quan niệm rằng những phụ nữ ở trong thời kỳ đó thường không được
sạch sẽ, nếu ở cùng mọi người sẽ mang lại điều không may mắn.
Nhóm người Rục
Tộc người Rục được một Tiểu đội Công an tỉnh Quảng Bình phát hiện
vào ngày 12 tháng 8 năm 1959 trong một hang sâu tại vùng hang động Phong NhaKẻ Bàng, thuộc xã Thượng Hóa, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình gồm 11 hộ gia
đình với 34 người.
Người dân tộc Rục có tập quán rất lạc hậu, quen ở hang sâu, săn bắt, hái
lượm... nhưng họ cũng có một cuộc sống tinh thần phong phú với những nhạc cụ
núi rừng như đàn Trơ Bon, đàn Môi, sáo Dọc và làn điệu Cà Lưm Cà Lềnh. Do tập
quán lạc hậu, sống trong hang đá, săn bắt, hái lượm tận rừng sâu, người dân tộc
Rục có nguy cơ suy giảm dân số hết sức nghiêm trọng.
Trong hơn 40 năm, người dân tộc Rục đã làm một cuộc hành trình về với
cộng đồng. Đến cuối năm 2006, nhân khẩu đã lên đến 414 người và được phân bố
trong bốn bản Phú Minh, Ón, Yên Hợp và Mò Ó-Ồ Ồ thuộc xã Thượng Hóa,
huyện Minh Hoá, tỉnh Quảng Bình; ở xen kẽ với các tộc khác như Sách, Mày,
Kinh. Số liệu điều tra vào năm 2009 ghi nhận số lượng nhân khẩu có khoảng 600
người.
NHÓM 4 - K53CTXH
DÂN TỘC CHỨT
14
TIỂU LUẬN GIỮA KÌ
CHẤT LƯỢNG DÂN SỐ
II. Dân tộc Chứt tại Thượng Hóa – Minh Hóa – Quảng Bình
1. Thông tin về xã
- Diện tích: 346km2
- Diện tích canh tác trung bình / đầu người (m2): 750m2/người
- Thu nhập bình quân / đầu người ( đồng/ người/ tháng): 294.000đồng
- Tổng số thôn bản: 10 thôn ( 6 thôn, 4 bản)
- Khoảng cách từ trung tâm xã đến trung tâm huyện: 18km
- Khoảng cách từ trung tâm xã đến thị xã ( của tỉnh): 110km
- Tổng số hộ gia đình: 723
- Tổng số hộ gia đình nghèo: 552
- Tổng số dân sô: 3160
- Xã đã có điện lưới sinh hoạt, điện thoại và ô tô đến huyện
Người trong xã chủ yếu là Người Kinh và người Chứt nhưng nhóm chúng
tôi chủ yếu đề cập tới dân tộc Chứt, người Chứt đang sinh sống trên địa bàn:
Dân tộc Chứt:
Tổng số hộ gia đình
Tổng số dân số
Số hộ có ít nhất 01 phương tiện nghe nhìn
Số hộ gia đình văn hóa năm 2010
Số người từ 11 tuổi trở lên vi phạm pháp luật,
207
834
71
5
4
bị tệ nạn xã hội năm 2010
Số người từ 19 – 60 có trình độ từ dạy nghề
11
ngắn hạn trở lên
2. Thông tin về thôn, bản:
NHÓM 4 - K53CTXH
DÂN TỘC CHỨT
15
TIỂU LUẬN GIỮA KÌ
CHẤT LƯỢNG DÂN SỐ
Trong 6 thôn tại xã là: Phú Nhiên, Tiến Hóa, Hát, Khai Hóa, Quyền,
Quang thì chỉ có thôn Phú Nhiên là có đường ô tô đến xã, có điện đến bản: Tổng
số hộ gia đình: 2/163 (chiếm gần 2%), tổng số dân: 7/727 (chiếm 0.9%).
Còn 4 bản: Bản Ón, Bản Yên Hợp, Bản moo ô, Bản Phú Minh thì hầu hết
đã có đường ô tô đến xã, có điện đến bản chiếm 98% trên tổng số dân số.
Qua bảng thống kê thì thấy được:
Giao thông liên lạc;
Đây là một trong yếu tố quan trọng đối với sự tiến bộ và phát triển vì
chúng liên quan đến vấn đề lưu thông là phương tiện tiếp cận với các nguồn tài
nguyên thiên nhiên, đường ô tô lên xã , cơ hội và việc làm, giáo dục vận chuyển
hàng hóa ( giao thông, điện thoại , ti vi ,sử dụng internet…
Giao thông : nhìn chung hiện nay giao thông của của đại bàn nghiên cứu
cũng đã được cải thiện .
Thông tin liên lạc: đã có điện thoại, mạng thông tin đài báo của xã và điện
đã đến với từng bản.
3. Thu nhập và phân phối thu nhập
Thu nhập bình quan đầu người thể hiện mức sống và sư giàu có của người
dân. Nhờ có thu nhập mà người dân có thể tự duy trì cuộc sống của bản thân mình
và gia đình. Th u nhập và phân bổ thu nhập phản ánh mức độ cân bằng của các
nguồn kinh tế.( thu nhập bình quân , hệ số GINI, Tỉ lệ đói nghèo).
Dân tộc Chứt tại xã Thượng Hóa : nhờ có sự tác động của sự phát triển khoa
học kí thuật, kinh tế xã hội cũng như những tác động của yếu tố địa hình , điều
kiện thiên nhiên đã tác động không nhỏ đến đời sống người dân.
Thu nhập của người dân đã tăng lên số hộ đói nghèo, đã giảm xuống.
4. Lao động và việc làm
Lao động làn nhân tố quan trong vì lao động là phương thức tạo ra thu nhập
để duy trì và cai thiện cuộc sống.
NHÓM 4 - K53CTXH
DÂN TỘC CHỨT
16
TIỂU LUẬN GIỮA KÌ
CHẤT LƯỢNG DÂN SỐ
Việc làm: hiện nay cơ cấu nghề của người Chứt, cũng như người Kinh tại
xã Thượng Hóa kha đa dạng và được hưởng nhiều chính sách để phát triển kinh tế
tăng thu nhập.
“ Bây giờ kinh tế đã có sự biến chuyển, trước đây hàng hóa của dân đem ra chợ
bán ít, nay người dân làm ra hàng hóa (rau cỏ, gà vịt, nhiều hơn). Nhận thức của
người dân được nâng lên qua đài báo, tập huấn, nhà nước đầu tư về giống, cây con.
Có ý thức sản xuất để trao đổi”
Kinh tế phát triển chủ yếu là thu nhập từ cây lúa nước, khoa học kỹ thuậ
được áp dụng, Nhiều, năng suất cao. Người Chứt biết chăn nuôi gà lợn, trâu bò,
mùa rét biết bảo vệ chăm sóc, quây kín tránh rét. Chuẩn bị rơm rạ cho trâu ăn khi
mùa đông. Tuân theo sự tuyên truyền của khuyến nông , xã trong áp dụng khoa học
kỹ thuật.
5. Tình hình giáo dục
Về trường lớp mẫu giáo:
Tổng số cơ sở trường lớp mẫu giáo trong xã : 10
Trong số cơ sở trường lớp mẫu giáo phân ra::
- Cơ sở riêng biệt
: 0 cơ sở
- Cơ sở nhờ nhà dân : 3 cơ sở
Trong số cơ sở trường lớp mẫu giáo, phân ra:
- Xây kiên cố
: 7 cơ sở
- Nhà sàn kiên cố : 0 cơ sở
Về giáo dục tiểu học: ( cấp I; từ lớp 1 đến lớp 5)
Xã đã đạt chuẩn quốc gia về giáo dục tiểu học cấp I
Có tổng số 7 lớp tiểu học cho các em tiểu học ( tổng số nhà xây kiên cố: 7
nhà).
Tổng số giáo viên Tiểu học : 41 thầy cô, và tất cả các thầy cô đều là người
dân tộc kinh, không có thầy cô nào là người dân tộc Chứt
NHÓM 4 - K53CTXH
DÂN TỘC CHỨT
17
TIỂU LUẬN GIỮA KÌ
Nam
Nữ
Tổng số
CHẤT LƯỢNG DÂN SỐ
Là giáo viên
Phân theo dân tộc
Từ nơi khác đến
Là người địa phương
14
13
27
7
7
14
21
20
41
Qua bảng thống kê, và điều tra thì ta có thể thấy rằng: số giáo viên tiểu học
hiện nay còn thiếu rất nhiều và học sinh thì phải học ghép rất nhiều ( nhiều lứa
tuổi). Và thông qua ta thấy được nhu cầu giáo dục đối với bậc tiểu học là rất quan
trọng vì bây giờ chúng ta đang hướng tới phổ cập giáo dục.
Về giáo dục trung học cơ sở ( cấp II, từ lớp 6 đến lớp 9)
Trong xã mới có 2 nhà xây dựng kiên cố để cho các em học tập và sinh hoạt,
nhưng trường lớp vẫn chưa đạt chuẩn quốc gia vì hệ thống cơ sở vật chất giáo dục,
các phương tiện nghe nhìn vẫn còn thiều nhiều để phục vụ quá trình học tập của
các em.
Có tổng số 18 giao viên, chủ yếu là người Kinh
Nam
Nữ
Tổng số
Là giáo viên
Phân theo dân tộc
Từ nơi khác đến
Là người địa phương
13
1
14
2
2
4
15
3
18
Theo bảng thống kê, Tổng số học sinh phân theo:
+ Mẫu giáo
: 221 học sinh
+ Tiều học
: 335 học sinh
+ Trung học cơ sơ
: 190 học sinh’
+ Trung học phổ thông : 93 học sinh
NHÓM 4 - K53CTXH
DÂN TỘC CHỨT
18
TIỂU LUẬN GIỮA KÌ
CHẤT LƯỢNG DÂN SỐ
Trình độ học vấn của người từ 18 tuổi trở lên của toàn xã (chỉ đề cập tới
người Chứt)
Tên
dân Tổng DS Không
tộc
Kinh
Chứt
Tổng số
Tiểu học ( THCS
THPT (từ Trung học
từ
18 biết đọc, từ lớp 1 ( từ lớp 6 lớp
tuổi
trở biết viết
lên
1575
398
1973
0
48
48
đến lớp 5) đến lớp 9) đến
570
280
850
489
46
535
12)
378
20
398
10 chuyên
lớp nghiệp trở
lên
129
4
133
Theo bảng số liệu trên thì có thể thấy được trình độ giáo dục của người Chứt
trong hệ thống toàn xã: có 48 người không biết đọc biết viết, bậc tiểu học chiếm
32% trong tổng số, THCS chiếm 9% trong tổng số, THPT chiếm 5% trong tổng số,
trung học chuyên nghiệp trở lên chiếm 3% tổng số.
6. Y tế công cộng
Tuổi thọ người dân được nâng cao.. tuổi thọ trung bình 60-65 Trong làng
có cụ sống 75- 80tuổi
chiều cao, cân nặng, bệnh tật, chế độ dinh dưỡng, tuổi thọ, giới tính…: Như
các DT khác, điều kiện tương đương nhau, nhưng về chiều cao thì người Chứt hơi
thấp hơn các DT khác
Người dân được tuyên truyền chăm sóc sức khỏe , phong tránh các bệnh
thường gặp, vệ sinh môi trường , an toàn thức phẩm…
- Mong muốn của người dân: tăng cường cơ sở vất chất, phương tiện kĩ
thuật, hỗ trợ thêm thuốc men,…
- Tăng cường y tế dự phòng, giáo dục về sinh môi trường, khám sức khỏe
định kì.
NHÓM 4 - K53CTXH
DÂN TỘC CHỨT
19
TIỂU LUẬN GIỮA KÌ
CHẤT LƯỢNG DÂN SỐ
Mặc dù đã có sự đầu tư và được sự quan tâm của chính quyền địa phương,
huyện, tỉnh nhưng cơ sở vật chất kĩ thuật vẫn chưa đảm bảo tốt mà những tình
trạng khẩn cấp thì đều phải chuyển lên các khoa, tuyến cao cấp hơn mới có để
phương tiện, thiết bị y tế tốt nhất để có được chăm sóc tốt nhất. Hệ thống cơ sở vật
chất, cơ sở vật chất vẫn chưa đạt chuẩn quốc gia và cũng còn nhiều khâu thiếu sót.
Tuy nhiên thì trong xã cũng đã có trạm y tế riêng biệt và cũng đã được xây
dựng kiên cố để phục vụ người dân tại địa phương: trẻ em được tiêm phòng, phụ
nữ mang thai thì được khám và kiểm tra định kì.
Tổng số cán bộ y tế xã 08 người, phân ra:
- Bác sĩ
- Y sĩ đa khoa
: 01 người
: 02 người
- Nữ hộ sinh trung hoc : 02 người
- Y tá trung học
: 03 người
Trạm y tế cũng đã có điện thắp sáng, có điện thoại và quần thuốc để phục vụ
người dân trong xã
Số gường bệnh: 4 giường
Nhìn chung, hệ thống y tế xã đã được cải thiện đáng kể.
III- Chính sách của Đảng, Nhà nước, chính quyền địa phương đối
với Dân tộc Chứt
Ủy ban Dân tộc phối hợp với Trung ương Hội phối hợp xây dựng mô hình
xóa đói giảm nghèo ở vùng tộc người Rục (dân tộc Chứt) xã Thượng Hóa, huyện
Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình nhằm giúp cho đồng bào tiếp cận với tiến bộ khoa học
– kỹ thuật, cách làm ăn và phương pháp áp dụng những tiến bộ hoa học kỹ thuật
mới vào sản xuất nông, lâm nghiệp, nâng cao thu nhập. Tổng kinh phí thực hiện dự
NHÓM 4 - K53CTXH
DÂN TỘC CHỨT
20
- Xem thêm -