VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
----------------------------
NGUYỄN THỊ TƢỜNG VI
NGUỒN LỢI CÁ TRONG CÁC HỆ SINH THÁI Ở
VÙNG BIỂN VEN BỜ QUẢNG NAM – ĐÀ NẴNG
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ SINH HỌC
NHA TRANG – 2017
1
MỞ ĐẦU
Trên thế giới công tác quản lý nghề cá ngày càng tập trung vào việc
bảo vệ các hệ sinh thái cũng như các nhóm nguồn lợi cá riêng rẽ. Ý tưởng
đầu tiên về quản lý nghề cá dựa vào hệ sinh thái được đề cập trong tuyên
bố Stockholm từ năm 1972, nhưng mãi đến năm 2003, FAO mới chính
thức xuất bản ấn phẩm có nội dung về cách tiếp cận hệ sinh thái trong
quản lý nghề cá (Ecosystem Approach to Fisheries-EAF) hay quản lý
nghề cá dựa vào hệ sinh thái (Ecosystem-Based Fishery ManagementEBFM). Đây là phương thức quản lý mới và hiệu quả. Một trong những
khái niệm được đưa vào sử dụng là liên kết sinh thái. Sheaves (2009) định
nghĩa liên kết sinh thái là hiện tượng di chuyển của sinh vật từ sinh cư này
đến sinh cư khác theo mùa vụ để hoàn thành vòng đời của chúng. Với
cách tiếp cận quản lý nghề cá dựa trên hệ sinh thái thì hiểu biết về liên kết
sinh thái của các đối tượng nguồn lợi sẽ tăng cường khả năng quản lý các
hệ sinh thái và đồng thời cũng nhấn mạnh rằng trong một khu bảo tồn biển
nhất thiết phải bao gồm nhiều sinh cư.
Vùng ven bờ Việt Nam có sự phân bố của các hệ sinh thái đặc thù của
vùng nhiệt đới như rạn san hô, rừng ngập mặn và thảm cỏ biển. Tương tự
như nhiều quốc gia khác trên thế giới, tình trạng suy thoái các hệ sinh thái
và giảm sút nguồn lợi ven bờ đã và đang diễn ra với tốc độ nhanh ở nhiều
nơi trong vài thập kỷ trở lại đây. Nguyên nhân là do hoạt động khai thác
quá mức cùng với sự thiếu hiểu biết về các hệ sinh thái biển cũng như chỉ
quan tâm đến lợi ích trước mắt mà không chú ý đến hậu quả sinh thái lớn
về lâu dài. Đã có nhiều nghiên cứu về nguồn lợi cá trong các hệ sinh thái
ven bờ làm cơ sở đề xuất các giải pháp quản lý, tuy nhiên các nghiên cứu
thường tập trung đánh giá cơ cấu ngành nghề khai thác, năng suất, sản
lượng, các nhóm loài nguồn lợi chính và sự thay đổi nguồn lợi dưới tác
động của con người. Trong những năm gần đây cũng đã có một số vùng
biển áp dụng cách tiếp cận quản lý nghề cá dựa vào hệ sinh thái như Phú
Quốc hay một số sinh cư ven bờ ở Biển Đông, tuy nhiên cách tiếp cận này
vẫn chưa phổ biến do vẫn còn thiếu cơ sở khoa học, đặc biệt là các dữ liệu
về mối liên kết sinh thái hay di truyền quần thể của các đối tượng nguồn
lợi. Chính vì vậy mà nhiều văn bản quản lý nghề cá hiện nay chủ yếu là
qui định kích thước cá khai thác, kích thước mắc lưới hay mùa vụ khai
thác (không trùng với mùa vụ sinh sản), cấm khải thác bằng các nghề hủy
1
diệt chứ hầu như chưa có các qui định rõ ràng, cụ thể về việc bảo vệ các
bãi đẻ, bãi ương dưỡng hay các sinh cư đóng vai trò quan trọng trong
vòng đời của những đối tượng nguồn lợi quan trọng.
Vùng biển ven bờ Quảng Nam-Đà Nẵng có sự phân bố đa đạng của
các hệ sinh thái biển đặc thù như vùng đáy mềm, thảm cỏ biển, rạn san hô,
cửa sông, rừng ngập mặn.... tuy nhiên hiện nay các hệ sinh thái này cũng
đang chịu áp lực lớn từ hoạt động khai thác nguồn lợi quá mức và khai
thác bằng các ngư cụ mang tính hủy diệt của con người. Việc bảo vệ và
quản lý nguồn lợi vùng biển ven bờ Quảng Nam-Đà Nẵng ở phạm vi từng
hệ sinh thái riêng rẽ đã và đang gặp nhiều khó khăn do việc phân chia
ranh giới quản lý trên biển chỉ dựa vào các đặc điểm địa lý, hành chính
hơn là các đặc điểm sinh thái, sinh học, hơn nữa việc xác định ranh giới
giữa các vùng biển hiện nay vẫn chưa thật rõ ràng. Do đó, nghiên cứu về
đặc trưng nguồn lợi cá và liên kết sinh thái của các đối tượng nguồn lợi
trong vùng biển ven bờ Quảng Nam-Đà Nẵng là cơ sở khoa học vững
chắc để đề xuất các giải pháp quản lý nghề cá dựa trên hệ sinh thái tại
vùng biển này, chính vì vậy chúng tôi thực hiện luận án: “Nguồn lợi cá
trong các hệ sinh thái ở vùng biển ven bờ Quảng Nam-Đà Nẵng”.
Mục tiêu nghiên cứu:
Cung cấp bộ tư liệu tương đối đầy đủ về hiện trạng khai thác và đặc
trưng nguồn lợi cá cũng như mối liên quan về nguồn lợi giữa các hệ sinh
thái, làm cơ sở đề xuất các giải pháp quản lý nghề cá trong vùng biển ven
bờ Quảng Nam – Đà Nẵng.
Nội dung nghiên cứu:
1 - Đặc trưng cơ bản của các hệ sinh thái và nguồn lợi cá liên quan.
2 - Phân tích và so sánh đặc trưng nguồn lợi cá giữa các hệ sinh thái.
3 - Liên kết sinh thái của quần thể cá Dìa công Siganus guttatus trong
các sinh cư ven bờ.
4 - Phân tích các tác động và bất cập trong khai thác và quản lý nghề cá
hiện nay.
5 - Đề xuất các giải pháp quản lý và sử dụng hợp lý nguồn lợi cá liên
quan đến các hệ sinh thái.
2
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của nghiên cứu:
Cung cấp đầy đủ các dẫn liệu về nguồn lợi cá, trên cơ sở đó đề xuất
được các nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng
nguồn lợi cá ở trong các hệ sinh thái vùng biển ven bờ Quảng Nam-Đà
Nẵng.
ĐIỂM MỚI CỦA LUẬN ÁN
1. Luận án được xem là công trình tổng hợp và phân tích đầy đủ nhất
về các đặc trưng hệ sinh thái, tính đa dạng loài và hiện trạng khai thác
nguồn lợi cá liên quan đến các hệ sinh thái ở vùng biển ven bờ Quảng NamĐà Nẵng.
2. Đáng chú ý, là công trình đầu tiên và duy nhất cho đến nay nghiên
cứu và phát hiện có sự liên kết quần thể của nguồn lợi cá Dìa công (Siganus
guttatus) giữa các hệ sinh thái thông qua phát thảo vòng đời từ con non đến
con trưởng thành, trong đó nguồn lợi con giống ở vùng cửa sông Thu Bồn
và các cá thể trưởng thành trên rạn san hô ở Đà Nẵng và Cù Lao Chàm là
cùng một quần thể.
3. Là công trình đầu tiên đề xuất các giải pháp quản lý nghề cá dựa
vào hệ sinh thái cho vùng biển ven bờ Quảng Nam-Đà Nẵng.
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình nghiên cứu nguồn lợi cá
1.1.1. Trên thế giới
1.1.1.1. Nguồn lợi và hiện trạng khai thác
Các nghiên cứu nguồn lợi cá trên thế giới chủ yếu tập trung vào hiện
trạng khai thác, gồm có các hướng chính sau: (1) Thống kê sản lượng, ước
tính trữ lượng và biến động nguồn lợi cá biển từng khu vực, (2) Các nhóm
loài nguồn lợi chính, (3) Sinh học các đối tượng nguồn lợi và (4) Quản lý
nghề cá.
Trong các hướng nghiên cứu trên, thống kê sản lượng và ước tính trữ
lượng là một trong những hướng nghiên cứu nguồn lợi cá chủ đạo, được
thực hiện để đánh giá hiện trạng khai thác nguồn lợi cá biển từng khu vực
để từ đó đưa ra các so sánh hay dự báo, cảnh báo xu hướng nghề cá thế giới
nhằm đảm bảo nguồn lợi được khai thác hợp lý. Các phương pháp thường
được sử dụng trong nghiên cứu trữ lượng là phương pháp thủy âm, phương
3
pháp diện tích kéo lưới, phương pháp qui đổi năng suất đánh bắt hoặc
phương pháp thiết lập mối quan hệ giữa sản lượng và năng suất sinh học.
Bên cạnh hướng nghiên cứu Thống kê sản lượng, ước tính trữ lượng và
biến động nguồn lợi cá, hướng nghiên cứu Các nhóm loài nguồn lợi chính
cũng nhận được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học. Các nghiên cứu
Thống kê sản lượng, ước tính trữ lượng và biến động nguồn lợi cá và Các
nhóm loài nguồn lợi chính được thực hiện nhằm đưa ra các chính sách
Quản lý nghề cá sao cho khai thác hợp lý, đảm bảo nguồn lợi được phát
triển bền vững. Hiện nay, công tác quản lý ngày càng tập trung vào việc bảo
vệ các hệ sinh thái cũng như các nhóm nguồn lợi cá riêng rẽ.
1.1.1.2. Liên kết sinh thái
Ý tưởng quản nghề cá dựa trên hệ sinh thái đã có từ những năm 1972
nhưng mãi đến năm 2003 FAO mới chính thức xuất bản cách tiếp cận hệ
sinh thái trong quản lý nghề cá. Một trong những nguồn dữ liệu quan trọng
làm cơ sở cho cách tiếp cận này chính là hiểu biết về mối liên hệ vòng đời
của các đối tượng nguồn lợi trong các hệ sinh thái-liên kết sinh thái
(Ecological connectivity).
Nghiên cứu sự di cư của các loài cá có vòng đời liên quan đến các sinh
cư ven bờ như rạn san hô, thảm cỏ biển và rừng ngập mặn,… có ý nghĩa rất
quan trọng trong việc tìm ra môi trường sống cần thiết của cá cũng như sự
liên kết sinh thái của các đối tượng nguồn lợi. Vai trò của rạn san hô, thảm
cỏ biển và rừng ngập mặn khác nhau theo từng giai đoạn phát triển cá thể
trong vòng đời của chúng. Vài loài cá liên quan đến rạn san hô di cư đến bãi
đẻ vùng ven bờ, nơi chúng phát tán trứng vào môi trường nước, thường thì
phía đầu ra của rạn (phía hướng biển) sau đó trứng và ấu trùng trôi nổi vào
vùng nước nông định cư trên thảm cỏ biển, các lạch nước trong rừng ngập
mặn. Nghiên cứu liên kết sinh thái giữa rạn san hô và thảm cỏ biển ở khu
bảo tồn biển Karimunjawa (Indonesia) (2012) cho biết có 66/212 loài cá
chia làm 4 nhóm sinh thái: cá thảm cỏ biển, cá ương dưỡng, cá phân bố
rộng và cá rạn san hô. Cá rạn san hô và cá ương dưỡng được tìm thấy trên
rạn san hô và có sự chuyển đổi giữa hai sinh cư rạn san hô và thảm cỏ biển.
Cá phân bố rộng có mật độ giảm dần từ rạn san hô đến thảm cỏ biển. Honda
và cs. (2013) nghiên cứu liên kết sinh thái của các loài cá trong các hệ sinh
thái ven bờ ở Phillipine từ năm 2010-2012 cho thấy, có đến 85,6% số loài
cá sử dụng 2 sinh cư trong vòng đời, vài loài sử dụng nhiều sinh cư như cá
Hồng (Lutjanus monostigma) hay cá Phèn hồng (Parupeneus barberinus)
4
sử dụng cả 3 sinh cư rạn san hô, thảm cỏ biển và rừng ngập mặn trong
vòng đời của chúng.
Trong nghiên cứu liên kết sinh thái thì di truyền quần thể là công cụ
thường được sử dụng để xác định mối liên kết quần thể. Trong vài thập kỷ
trở lại đây, sự tiến bộ trong nghiên cứu di truyền phân tử đã có ảnh hưởng
không nhỏ đến nghiên cứu di truyền quần thể, góp phần giải quyết vấn đề
về quản lý nguồn lợi.
1.1.2. Ở Việt Nam
Thống kê những công trình nghiên cứu về nguồn lợi cá biển ở Việt Nam
có thể thấy rằng có các hướng nghiên cứu sau:
- Tìm hiểu ngư trường, xác định năng suất, sản lượng, trữ lượng và khả
năng khai thác bằng các phương pháp như: thủy âm đối với cá nổi nhỏ, diện
tích kéo lưới (được sử dụng rộng rãi nhất) và qui đổi năng suất đánh bắt,…
- Phân bố và biến động số lượng cá trong mối quan hệ với một số đặc
trưng môi trường, biến động về năng suất và thành phần loài cá đánh bắt
được.
- Sinh học các loài cá kinh tế và cơ sở khoa học khai thác hợp lý.
- Đánh giá hiện trạng nguồn lợi cá dưới tác động của tự nhiên và con
người.
- Đánh giá tổng hợp về nguồn lợi, tình hình khai thác cá ở các thủy vực
khác nhau và đưa ra danh sách thành phần loài cá thuộc vùng biển Việt
Nam.
Có thể thấy hiện nay phần lớn các nghiên cứu chỉ tập trung đánh giá
chung về các loại nguồn lợi, một số công trình nghiên cứu nguồn lợi nhưng
hầu như chỉ mới liệt kê thành phần loài và nêu một vài nhận xét về các loại
nguồn lợi chung. Mặc dù cũng có một số nghiên cứu đã được tiến hành cho
từng đối tượng nguồn lợi riêng rẽ, tuy nhiên các kết quả này chủ yếu tập
trung vào việc đánh giá năng suất và sản lượng khai thác của các đối tượng
cá nổi nhỏ trong toàn vùng biển.
Nghiên cứu về các hệ sinh thái biển ở Việt Nam được quan tâm muộn hơn
so với các nghiên cứu về nguồn lợi và chỉ thực sự được điều tra, nghiên cứu
từ sau ngày miền Bắc hoàn toàn giải phóng (1954). Sau khi nhận thức được
vai trò quan trọng của các hệ sinh thái, đặt biệt là các hệ sinh thái ven bờ
như rừng ngập mặn, rạn san hô và thảm cỏ biển thì các nghiên cứu về nguồn
lợi cá trong các hệ sinh thái cũng được quan tâm. Tuy nhiên các nghiên cứu
này chủ yếu là ghi nhận sự có mặt của một số đối tượng cá kinh tế, phân
5
tích tính đa dạng loài, thời gian gần đây bắt đầu đề cập đến hiện trạng khai
thác và đánh giá mức độ suy giảm nguồn lợi và những giải pháp để sử dụng
bền vững, chưa thấy các nghiên cứu đầy đủ về nguồn lợi cá (các đối tượng
nguồn lợi chính, sản lượng, năng suất đánh bắt, mùa vụ khai thác, phân
bố,…) trong các hệ sinh thái. Đặc biệt cho đến nay hầu như chưa thấy công
trình nghiên cứu nào đề cập đến liên kết sinh thái (Ecological connectivity)
của nguồn lợi cá trong các sinh cư ven bờ tại Việt Nam.
- Vùng biển ven bờ Quảng Nam-Đà Nẵng
Vùng biển ven bờ Quảng Nam – Đà Nẵng có 3 vùng khai thác chính là
vùng biển Cù Lao Chàm, cửa sông Thu Bồn và biển Đà Nẵng. Quần đảo
Cù Lao Chàm thuộc xã đảo Tân Hiệp, thành phố Hội An, Quảng Nam
gồm 8 đảo nằm cách cửa sông Thu Bồn 15 km. Vùng biển Đà Nẵng có
chiều dài bờ biển 89 km, tiếp giáp với phía Bắc quần đảo Cù Lao Chàm.
Tại vùng biển này các nghiên cứu về nguồn lợi cá chỉ dừng lại ở mức
đánh giá hiện trạng khai thác và liệt kê các nhóm loài nguồn lợi chính ở
từng khu vực mà chưa có các nghiên cứu về đặc trưng nguồn lợi và liên
hệ sinh thái trong vùng biển.
1.2. Đặc điểm khí hậu, thủy văn, địa hình và trầm tích vùng biển ven
bờ Quảng Nam và Đà Nẵng
Khu vực Đà Nẵng-Quảng Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ
cao và ít biến động, là khu vực chuyển tiếp của khí hậu miền Bắc và khí hậu
miền Nam. Nhiệt độ trung bình năm 25-26,9 oC, mùa đông nhiệt độ vùng
đồng bằng có thể xuống dưới 20oC, mùa hè có thể trên 30oC. Độ ẩm trung
bình khoảng 83,4-84%. Mỗi năm có 2 mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 8 đến
tháng 12, mưa tập trung từ tháng 10-11; và mùa khô từ tháng 1 đến tháng 7.
Đặc điểm nổi bật của khí hậu ở đây là sự chuyển dịch mưa lớn sang cuối
Thu, đầu mùa Đông. Lượng mưa trung bình năm khoảng 2800-3000
mm/năm; lượng mưa cao nhất vào các tháng 10, 11 trung bình 550-1000
mm/tháng; thấp nhất vào các tháng 1, 2, 3, 4 trung bình từ 20-40 mm/tháng.
CHƢƠNG 2. VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Nguồn lợi cá và tình hình quản lý, khai thác sử dụng.
6
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung vào 3 hệ sinh thái chính trong vùng biển ven bờ từ Đà
Nẵng đến Quảng Nam, đó là: vùng ven bờ Đà Nẵng (bao gồm bán đảo Sơn
Trà và vịnh Đà Nẵng), quần đảo Cù Lao Chàm và cửa sông Thu Bồn.
2.3. Thời gian thực hiện
Luận án được thực hiện từ tháng 02/2011 đến tháng 9/2016.
2.2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.2.1. Nghiên cứu đặc trƣng cơ bản của các hệ sinh thái và nguồn lợi cá
liên quan.
2.2.1.1. Đặc điểm sinh cư (habitat)
Đặc điểm sinh cư và đặc trưng các hệ sinh thái được luận án tổng hợp từ
các nghiên cứu của các tác giả.
2.2.1.2. Thành phần loài cá
Xây dựng danh lục thành phần loài cá tại vùng biển nghiên cứu từ hai
nguồn: từ nguồn tài liệu thứ cấp và từ kết quả khảo sát nghiên cứu bổ sung
thành phần loài cá của chính tác giả.
- Tổ chức khảo sát thu mẫu cá
Thu mẫu vật trực tiếp từ tất cả các loại nghề khai thác tại điểm lên cá
của các tàu đánh bắt.
* Định loại cá
- Việc định loại cá dựa vào đặc điểm hình thái theo các tài liệu của:
Nguyễn Khắc Hường (2001), Nguyễn Khắc Hường và Trương Sĩ Kỳ (2007),
Vương Dĩ Khang (1963), Nguyễn Văn Lục và cs. (2007). Đỗ Thị Như
Nhung (2007), Nguyễn Nhật Thi (2000, 2008), Nguyễn Hữu Phụng (2001),
Allen và cs. (1997, 2003), Carpenter và Niem (1999a; 1999b; 2001a;
2001b), Kuiter và Helmut (2007), Kuiter & Tonozuka (2001), Matsuura &
cs. (2000), Kimura và Matsuura (2003), Matsuura và Kimura (2005),
Nakabo (2002), Randall và cs. (1990), 沈世杰 (Shen) (1993).
2.2.1.3. Đặc trưng nguồn lợi cá
Thông tin về nguồn lợi được thu thập bằng phương pháp "Điều tra
nguồn lợi vùng bờ có sự tham gia của cộng đồng" (Walters và cs., 1998),
kết hợp với khảo sát thu mẫu thực địa.
- Khảo sát thực địa
+ Thu mẫu xác định nguồn lợi chính
7
Từ danh sách nguồn lợi chính có được từ kết quả tham vấn cộng đồng sẽ
tiến hành xác định tên loài bằng cách đi cùng ngư dân thu mẫu tại điểm lên
cá.
+ Thu mẫu nguồn giống và xác định bãi giống
Xác định bãi giống cá dựa vào thông tin tham vấn ngư dân và thuê ghe
cùng với ngư dân đến khu vực khai thác giống, xác định tọa độ ranh giới bãi
giống bằng máy định vị Garmin GPS map 76CSx.
Thu thập mẫu nguồn giống tại vùng vịnh Đà Nẵng, cửa sông Thu Bồn là
các loài thuộc họ cá Mú (Serranidae), cá Hồng (Lutjanidae) và cá Dìa
(Siganidae).
2.2.2. Phân tích và so sánh đặc trƣng nguồn lợi cá giữa các hệ sinh thái
2.2.2.1. Phân tích chỉ số đa dạng sinh học
Phân tích cấu trúc của các khu hệ cá thông qua các chỉ số đa dạng bằng
phần mềm Primer 6.0. Chỉ số giống nhau (Similarity index) theo công thức
của Bray-Curtis (1957). Độ giàu có loài theo Margalef (1958). Chỉ số tương
đồng Sorensen, 1948 (Ks). Phân tích PCA (Principal component analysis)
bằng phần mềm CANOCO ver. 4.5.
2.2.2.2. Phân tích đặc tính sinh thái
Phân chia các nhóm sinh thái cá dựa theo tính thích nghi về độ mặn và
theo môi trường sống của Froese và Pauly (2015).
2.2.2.3. Đặc trưng nguồn lợi
Phân tích, so sánh, đánh giá đặc điểm một số nguồn lợi cá khai thác tại 3
hệ sinh thái trong vùng biển nghiên cứu và thu mẫu tìm hiểu hiện trạng kích
thước một số nhóm cá liên quan đến các sinh cư ven bờ.
2.2.3. Nghiên cứu liên kết sinh thái
2.2.3.1. Thu mẫu nghiên cứu cấu trúc kích thước cá Dìa công (Siganus
guttatus)
Tổng số cá thể đo được là 3.878 con cá Dìa công tại 3 vùng biển Cù Lao
Chàm, cửa sông Thu Bồn và Đà Nẵng.
2.2.3.2. Thu mẫu phân tích ADN
Đã tiến hành thu 35 mẫu cá Dìa công tại 3 vùng biển trên vào năm 2014
để phân tích ADN.
- Phân tích ADN
Mẫu vây cá được gửi đến Trung tâm đa dạng sinh học biển (MARBEC)Đại học Université Montpellier II, France phân tích.
8
2.2.4. Tài liệu về hiện trạng khai thác
Nguồn số liệu về số lượng tàu thuyền và công suất máy, sản lượng khai
thác hàng năm được thu thập từ báo cáo của các cơ quan quản lý chuyên
ngành địa phương. Ngoài ra, thông tin về hiện trạng khai thác được tác giả
thu thập qua tham vấn cộng đồng và các đợt khảo sát thực địa tại vùng biển
nghiên cứu.
CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. ĐẶC TRƢNG CƠ BẢN CỦA CÁC HỆ SINH THÁI VÀ NGUỒN
LỢI CÁ LIÊN QUAN
3.1.1. Đà Nẵng
3.1.1.1. Đặc điểm sinh cư
Rạn san hô vùng biển Đà Nẵng có diện tích không lớn, có 191 loài san
hô cứng tạo rạn, diện tích khoảng 104,6 ha. Thảm cỏ biển duy nhất phân bố
ở Bãi Nồm (vùng biển phía Nam bán đảo Sơn Trà) với diện tích hơn 10 ha.
Các thảm rong biển thành phần ưu thế là các giống rong mơ Sargassum và
Rosenvingea ước tính 26,2 ha.
Có thể nói vùng biển Đà Nẵng có sự đa dạng các sinh cư ven bờ nhiệt
đới nhưng các sinh cư này không đóng vai trò then chốt trong việc tạo ra
năng suất sinh học cho vùng biển Đà Nẵng mà phụ thuộc vào sức sản xuất
của hai cửa sông Hàn và sông Cu-Đê, các vùng đáy cát và đáy bùn sét trong
vịnh. Đặc trưng sinh thái vùng biển Đà Nẵng chính là vùng vịnh đáy mềm,
sự có mặt các sinh cư rạn san hô và thảm cỏ biển làm cho vùng vịnh có tính
đa dạng cao về mặt sinh thái.
3.1.1.2. Thành phần loài cá
Kết hợp thành phần loài cá của các đợt khảo sát bổ sung và danh mục
loài của các tác giả đã công bố trước đây ở vùng biển này, luận án tổng hợp
được thành phần loài cá vùng ven biển Đà Nẵng bao gồm 425 loài thuộc
230 giống, 95 họ và 18 bộ. Kết quả của các đợt khảo sát của luận án đã bổ
sung cho vùng ven biển Đà Nẵng 29 loài, 24 giống, 20 họ và 7 bộ.
3.1.1.3. Đặc trưng nguồn lợi cá
a. Nguồn lợi cá thương phẩm
Có 18 loài cá trong 6 họ được cho là nguồn lợi chính đối với cộng đồng
ngư dân Đà Nẵng. Theo thứ tự giá trị kinh tế: nhóm cá hố đem lại thu nhập
cao nhất, sau đó đến lạc, cá cơm, cá khế, cá thu, cá ngừ và cá dìa, giò (Bảng
9
3.1). Riêng cá Dìa công trước đây 8-10 năm là nguồn lợi quan trọng có ý
nghĩa với ngư dân Đà Nẵng (Võ Sĩ Tuấn, 2002), tuy nhiên những năm gần
đây sản lượng đối tượng này đã bị suy giảm.
Bảng 3.1. Thành phần nguồn lợi chính ở vùng biển ven bờ Đà Nẵng
TT
(1)
1
(2)
2
3
4
(3)
5
6
7
8
9
(4)
10
11
12
(5)
13
(6)
14
15
16
17
18
Tên khoa học
Muraenesocidae
Muraenesox bagio (Hamilton, 1822)
Engraulidae
Encrasicholina heteroloba (Rüppell, 1837)
Encrasicholina punctifer Fowler, 1938
Stolephorus commersonnii Lacepède, 1803
Carangidae
Atule mate (Cuvier, 1833)
Caranx ignobilis (Forsskål, 1775)
Decapterus kurroides Bleeker, 1855
Decapterus macrosoma Bleeker, 1851
Decapterus maruadsi (Temminck & Schlegel, 1843)
Siganidae
Siganus canaliculatus (Park, 1797)
Siganus fuscescens (Houttuyn, 1782)
Siganus guttatus (Bloch, 1787)
Trichiuridae
Trichiurus lepturus Linnaeus, 1758
Scombridae
Auxis rochei (Risso, 1810)
Rastrelliger kanagurta (Cuvier, 1816)
Scomberomorus commerson (Lacepède, 1800)
Scomberomorus guttatus (Bloch & Schneider,1801)
Thunnus tonggol (Bleeker, 1851)
Tên tiếng Việt
Họ cá Dƣa
Cá Dưa thường
Họ cá Trỏng
Cá Cơm mõm nhọn
Cá Cơm đỏ
Cá Cơm thường
Họ cá Khế
Cá Tráo
Cá Khế vây vàng
Cá Nục đỏ
Cá Nục thuôn
Cá Nục sò
Họ cá Dìa
Cá Dìa cana
Cá Dìa trơn
Cá Dìa công
Họ cá Hố
Cá Hố hột
Họ cá Thu Ngừ
Cá Ngừ ồ
Cá Bạc má Ấn Độ
Cá Thu vạch
Cá Thu chấm
Cá Ngừ bò
Ước tính sản lượng và doanh thu của nguồn lợi chính năm 2011 cho
thấy, nguồn lợi từ cá hố và cá lạc đem lại doanh thu lớn nhất, sau đó là cá
nục, cá cơm, cá thu, ngừ và nhóm cá dìa (Bảng 3.2).
10
Bảng 3.2. Ước tính sản lượng và doanh thu của nguồn lợi chính vùng biển
ven bờ ĐN năm 2011
Nguồn lợi chính
TT
1
2
3
4
5
6
Cá Hố hột (Trichiurus lepturus)
Cá Dưa thường (Muraenesox bagio)
Cá Khế (Carangidae)
Cá Trỏng (Engraulidae)
Cá Thu Ngừ (Scombridae)
Cá Dìa (Siganidae)
Sản lƣợng
Tấn
%
378
13
260
9
1.140
40
670
24
176
6
Tổng cộng
198
2.822
7
Doanh thu
Tấn
%
45.360
35
23.400
18
17.100
13
16.750
13
16.720
13
10.593
129.923
8
100
Từ bảng 3.2 có thể thấy cá Hố hột đem lại nguồn thu cao nhất cho ngư
dân Đà nẵng với tỉ lệ 35%, sau đến cá Lạt vàng (18%); các nhóm cá cơm, cá
nục và cá thu, ngừ cho tỉ lệ doanh thu tương đương nhau chiếm 18%. Thấp
nhất là nhóm cá liên quan đến rạn san hô là cá dìa, doanh thu chỉ chiếm 8%
tổng doanh thu từ các nhóm nguồn lợi chính.
b. Nguồn giống
Có 7 loài được ngư dân khai thác để bán cho các hộ nuôi cá thương phẩm
(Bảng 3.3).
Bảng 3.3. Thành phần loài cá giống được khai thác ven bờ Đà Nẵng
TT
(1)
1
2
3
4
(3)
5
(4)
6
7
Tên khoa học
Serranidae
Epinephelus awoara (Temminck & Schlegel, 1842)
Epinephelus coioides (Hamilton, 1822)
Epinephelus malabaricus (Bloch & Schneider, 1801)
Epinephelus trimaculatus (Valenciennes, 1828)
Siganidae
Siganus guttatus (Bloch, 1787)
Lutjanidae
Lutjanus johnii (Bloch, 1792)
Lutjanus russellii (Bleeker, 1849)
11
Tên
tiếng Việt
Họ cá Mú
Cá Song gio
Cá Mú mè
Cá Mú điểm gai
Cá Mú sao
Họ cá Dìa
Cá Dìa công
Họ cá Hồng
Cá Hồng vảy ngang
Cá Hồng chấm đen
Kết quả khảo sát kích thước cá cho thấy cá giống được khai thác vùng
rạn san hô ven bờ Đà Nẵng có chiều dài khác nhau tùy loài dao động từ 44148 mm. Nhóm có chiều dài lớn nhất là cá Mú sọc ngang đen (Epinephelus
fasciatus), với chiều dài trung bình 142 mm. Con giống cá Dìa công thu
được có chiều dài nhỏ nhất là 60 mm, trung bình 85 mm, nhóm kích thước
90mm chiếm ưu thế, cá thể lớn nhất thu được có kích thước 140 mm. Kết
quả tham vấn cộng đồng và khảo sát kích thước đều chưa thấy nhóm cá Dìa
công hay cá mú, cá hồng kích thước nhỏ cỡ cá bột hay cá hương (dưới 40
mm) ở vùng biển Đà Nẵng.
3.1.2. Cù Lao Chàm
3.1.2.1. Đặc điểm sinh cư
Rạn san hô là môi trường sống quan trọng và phổ biến nhất tại khu bảo
tồn biển Cù Lao Chàm. Có tổng cộng 277 loài san hô cứng tạo rạn diện tích
ước tính khoảng 311,2 ha. Bên cạnh các rạn san hô phân bố khá rộng vùng
biển Cù Lao Chàm còn được đặc trưng bởi sự tồn tại của nhiều rạn đá ngầm
ở vùng nước sâu từ 25-40 m mà trên đó có nhiều san hô không tạo rạn. Ở
khu vực Đá Trắng và Mũi Thờ có các rạn đá ngầm với diện tích khoảng 6
ha (Nguyễn Văn Long và cs., 2008).
Thảm cỏ biển chỉ phân bố tại bờ phía Tây của đảo Cù Lao Chàm, có 5
loài cỏ biển trong đó loài cỏ lá xoan Halophila được xem là phổ biến nhất.
Tổng diện tích cỏ biển là 50 ha.
Các thảm rong biển gồm 76 loài thuộc 4 ngành rong, trong đó
Sargassum và Rosenvingea được xem là môi trường sống quan trọng đối
với cá, đặc biệt là cá dìa (rabbitfish). Ứớc tính có khoảng 10 tấn Sargassum
khô trên tổng số 8 thảm rong biển tại Cù Lao Chàm.
Có thể so sánh diện tích phân bố các sinh cư ven bờ của Cù Lao Chàm
với Đà Nẵng qua Bảng 3.4.
Bảng 3.4. Diện tích phân bố các sinh cư vùng biển Đà Nẵng và Cù Lao
Chàm.
Sinh cư
Vùng
biển
Đà Nẵng
Cù Lao Chàm
Rạn san
hô (ha)
Thảm cỏ
biển (ha)
104,6
311,2
10
50
Thảm rong
biển (ha)
55 tấn khô
10 tấn khô*
Bãi rạn Rãnh sâu
ngầm (ha)
(m)
6
0-30
0-60
* Thiếu số liệu (10 tấn Sargassum); Nguồn: Võ Sĩ Tuấn và cs. (2004),
Nguyễn Văn Long và cs. (2008)
12
Có thể nói vùng biển Cù Lao Chàm là vùng chịu tác động trực tiếp của
biển khơi có rạn san hô là sinh cư quan trọng bậc nhất tạo nên đặc trưng
sinh thái cho toàn vùng biển, quyết định đến đặc trưng quần xã sinh vật
cũng như nguồn lợi của vùng biển này.
3.1.2.2. Thành phần loài cá
Kết hợp thành phần loài cá của các đợt khảo sát bổ sung và danh mục
loài của các tác giả công bố đã ghi nhận thành phần loài cá ở Cù Lao Chàm
bao gồm 452 loài thuộc 178 giống, 66 họ và 15 bộ. Như vậy, luận án đã bổ
sung vào các nghiên cứu cho vùng biển Cù Lao Chàm 5 loài thuộc 4 giống,
3 họ và 2 bộ.
3.1.2.3. Đặc trưng nguồn lợi cá
Đã xác định được 14 loài trong 6 họ cá là nguồn lợi chính vùng biển Cù
Lao Chàm (Bảng 3.5).
Bảng 3.5. Thành phần nguồn lợi chính vùng biển Cù Lao Chàm
TT
(1)
1
(2)
2
3
4
(3)
5
(4)
6
7
8
(5)
9
(6)
10
11
12
13
14
Tên khoa học
Muraenesocidae
Muraenesox bagio (Hamilton, 1822)
Clupeidae
Sardinella gibbosa (Bleeker, 1849)
Spratelloides delicatulus (Bennett, 1832)
Spratelloides gracilis (Temminck & Schlegel,1846)
Leiognathidae
Leiognathus equulus (Forsskål, 1775)
Siganidae
Siganus canaliculatus (Park, 1797)
Siganus fuscescens (Houttuyn, 1782)
Siganus guttatus (Bloch, 1787)
Trichiuridae
Trichiurus lepturus Linnaeus, 1758
Scombridae
Auxis rochei (Risso, 1810)
Rastrelliger kanagurta (Cuvier, 1816)
Scomberomorus commerson (Lacepède, 1800)
Scomberomorus guttatus (Bloch & Schneider,1801)
Thunnus tonggol (Bleeker, 1851)
Tên tiếng Việt
Họ cá Dƣa
Cá Dưa thường
Họ cá Trích
Cá Trích xương
Cá Lầm tròn
Cá Lầm tròn nhẳng
Họ cá liệt
Cá Liệt lớn
Họ cá Dìa
Cá Dìa cana
Cá Dìa trơn
Cá Dìa công
Họ cá Hố
Cá Hố hột
Họ cá Thu Ngừ
Cá Ngừ Ồ
Cá Bạc Má Ấn Độ
Cá Thu vạch
Cá Thu chấm
Cá Ngừ Bò
Kết quả ước tính sản lượng và doanh thu của 6 nhóm nguồn lợi chính ở
vùng biển Cù Lao Chàm thể hiện ở bảng 3.6.
13
Bảng 3.6. Ước tính sản lượng và doanh thu của nguồn lợi chính vùng
biển Cù Lao Chàm năm 2011
TT
Sản lƣợng
Nguồn lợi chính
1
Cá Hố hột (Trichiurus lepturus)
2
Cá Dưa thường (Muraenesox bagio)
3
Cá Dìa (Siganidae)
4
Cá Liệt lớn (Leiognathus equulus )
5
Cá Thu Ngừ (Scombridae)
6
Cá Trích (Clupeidae)
Tổng cộng
Tấn
%
198,6
58,4
88,2
57,5
22
96,4
516,7
39
12
17
11
4
17
100
Doanh thu
Triệu đồng
23.832
5.256
5.832
1.725
1.710
964
40.172
%
61
13
14
4
4
2
100
Đã tiến hành thu 96 cá thể một số loài cá liên quan đến rạn san hô (cá
Dìa cana, cá Dìa công và cá mú) từ điểm lên cá để đánh giá sơ bộ kích
thước khai thác. Kết quả cho thấy cá Dìa công và Dìa cana có kích thước
trung bình trên 175mm, tương đối nhỏ hơn kích thước trung bình thường
gặp của loài (200mm). Kết quả khảo sát cho thấy tại vùng biển này không
có hoạt động khai thác cá giống.
3.1.3. Cửa sông Thu Bồn
3.1.3.1. Đặc điểm sinh cư
Rừng ngập mặn là sinh cư điển hình vùng hạ lưu sông Thu Bồn với cây
ngập mặn ưu thế tuyệt đối là Dừa nước (Nippa fructicans) thuộc họ Cọ
Palmae. Tổng diện tích phân bố hiện nay ở hạ lưu sông Thu Bồn khoảng
hơn 80 ha.
Các thảm cỏ biển vùng hạ lưu sông Thu Bồn phân bố chủ yếu ở xã Cẩm
Thanh và chỉ có hai loài: Cỏ Xoan gân song song Halophila beccarii và Cỏ
Lươn Nhật Bản Zostera japonica. Các thảm cỏ Lươn là quan trọng nhất,
chiếm hầu hết các cồn gò. Diện tích phân bố chung cho toàn vùng khoảng
30 ha, trong đó vùng phân bố tập trung và quan trọng nhất nằm ở thôn 2, Gò
Hí và cồn Bà Bốn thuộc xã Cẩm Thanh. Rừng ngập mặn là sinh cư quan
trọng nhất vùng cửa sông Thu Bồn. Sự có mặt của các thảm cỏ biển làm
tăng thêm tính đặc sắc và trù phú cho hệ sinh thái cửa sông. Đặc điểm các
thảm cỏ biển ở hạ lưu sông Thu Bồn là có sự biến động rất lớn theo mùa,
các thảm cỏ biển phát triển rất tốt vào mùa nắng khi độ mặn lớn hơn 15‰,
vào mùa mưa lũ phần thân đứng sẽ bị thối rửa (Nguyễn Hữu Đại, 2008), do
đó các sinh vật liên quan đến thảm cỏ biển cũng sẽ có biến động theo mùa.
14
3.1.3.2. Thành phần loài cá
Kết hợp thành phần loài cá của các đợt khảo sát bổ sung và danh mục
loài của các tác giả công bố đã ghi nhận thành phần loài cá ở vùng cửa sông
Thu Bồn bao gồm 182 loài thuộc 110 giống, 55 họ và 15 bộ (luận án đã bổ
sung 70 loài thuộc 57 giống, 37 họ và 12 bộ).
3.1.3.3. Đặc trưng nguồn lợi cá
a. Nguồn lợi cá thương phẩm
Đã xác định được 15 loài, trong đó 3 họ thuộc bộ cá Vược (Perciformes)
và 1 họ thuộc bộ cá Đối Mugiliformes là nguồn lợi chính a (Bảng 3.7).
Bảng 3.7. Thành phần nguồn lợi chính vùng cửa sông Thu Bồn
TT
Tên khoa học
Tên tiếng Việt
(1)
1
2
3
(2)
4
Mugilidae
Chelon melinopterus (Valenciennes, 1836)
Moolgarda pedaraki (Valenciennes, 1836)
Moolgarda cunnesius (Valenciennes, 1836)
Gerreidae
Cá Đối
Cá Đối vảy cồ, cá Đối bạc
Cá Đối
Cá Đối đầu nhọn
Họ cá Móm
Gerres erythrourus (Bloch, 1791)
Cá Móm lưng xanh
5
6
7
(3)
8
9
(4)
10
Gerres japonicus Bleeker, 1854
Gerres longirostris (Lacepède, 1801)
Gerres oyena (Forsskål, 1775)
Sparidae
Acanthopagrus berda (Forsskal, 1775)
Acanthopagrus latus (Houttuyn, 1782)
Gobiidae
Acentrogobius caninus (Cuvier & Valenciennes,
1837)
Acentrogobius nebulosus (Forsskål, 1775)
Glossogobius giuris (Hamilton, 1802)
Oxyurichthys ophthalmonema (Bleeker, 1856)
Oxyurichthys papuensis (Valenciennes, 1837)
Oxyurichthys tentacularis (Valenciennes, 1837)
Cá Móm Nhật Bản
Cá Móm
Cá Móm chỉ bạc
Họ cá Tráp
Cá Tráp đuôi xám
Cá Tráp vây vàng(cá hanh)
Cá Bống trắng
11
12
13
14
15
Cá Bống tro
Cá Bống vân mây
Cá Bống cát
Cá Bống
Cá Bống vảy nhỏ
Cá Bống van mắt (thệ)
Mùa vụ, ngành nghề khai thác và sản lượng, doanh thu ước tính của các
nhóm nguồn lợi chính vùng cửa sông Thu Bồn thể hiện ở bảng 3.8.
15
Bảng 3.8. Ước tính sản lượng và doanh thu nguồn lợi chính vùng cửa sông
Thu Bồn năm 201
TT
1
2
3
4
Nguồn lợi chính
Cá bống trắng (Gobiidae)
Cá đối (Mugilida)
Cá móm (Gerreidae)
Cá trap (Sparidae)
Total
Sản lƣợng
Tấn
%
102
42
65
27
60
24
18
7
100
245
Doanh thu
Tấn
%
8.670
36
8.125
33
4.800
20
2.700
11
100
24.295
Mùa vụ khai thác nguồn lợi cá vùng cửa sông Thu Bồn thường diễn ra
quanh năm hay kéo dài trong vài tháng, không chia làm 2 vụ chính và phụ
hay mùa gió Đông Bắc, mùa gió Tây Nam.
b. Nguồn lợi cá giống
Đã xác định được 5 loài thuộc 4 họ trong bộ cá Vược (Perciformes) là
nguồn giống cá chủ yếu được khai thác vùng cửa sông Thu Bồn (Bảng 3.9).
Trong đó họ cá Mú hiện có 3 loài được khai thác phổ biến, trong đó loài cá
Mú mè hay cá Mú chấm cam Epinephelus coioides (ngư dân gọi là cá Mú
đen) chiếm trên 90% sản lượng cá Mú khai thác vùng cửa sông Thu Bồn, cá
Mú Blee-ker và cá Mú điểm gai chiếm gần 10%, còn lại là các loài cá mú
khác chỉ thỉnh thoảng mới bắt gặp. Một số loài thuộc họ cá Dìa, cá Hồng và
cá Nâu mỗi họ chỉ có 1 loài đang được khai thác làm giống.
Bảng 3.9. Thành phần nguồn lợi cá giống được khai thác vùng cửa sông
Thu Bồn
TT
(1)
1
2
3
(2)
4
(3)
5
(4)
6
Tên khoa học
Serranidae
Epinephelus coioides (Hamilton, 1822)
Epinephelus malabaricus (Bloch & Schneider, 1801)
Epinephelus bleekeri (Vaillant, 1878)
Lutjanidae
Lutjanus argentimaculus (Forsskal, 1775)
Siganidae
Siganus guttatus (Bloch, 1787)
Scatophagidae
Scatophagus argus (Linnaeus, 1766)
16
Tên tiếng Việt
Họ cá Mú
Cá Mú mè
Cá Mú điểm gai
Cá Mú Bleekeri
Họ cá Hồng
Cá Hồng bạc
Họ cá Dìa
Cá Dìa công
Họ cá Nâu
Cá Nâu
3.2. PHÂN TÍCH VÀ SO SÁNH ĐẶC TRƢNG NGUỒN LỢI CÁ
GIỮA CÁC HỆ SINH THÁI
3.2.1. Tính chất thành phần loài
3.2.1.1. Thành phần loài cá giữa ba khu vực
Tổng hợp thành phần loài cá ở 3 khu vực nêu trên, bao gồm 747 loài
thuộc 318 giống, 106 họ, 20 bộ. So với tổng số loài cá ở 3 khu vực, Cù Lao
Chàm có thành phần loài đa dạng nhất, với 452 loài (chiếm 60,5% tổng số
loài); Đà Nẵng: 425 loài (56,9%); cửa sông Thu Bồn: 182 loài (24,4%).
Vùng biển Cù Lao Chàm và Đà Nẵng đều có sự đa dạng các sinh cư như rạn
san hô, thảm cỏ biển, thảm rong biển, vùng triều bờ đá và vùng triều bờ cát,
vùng đáy mềm (đáy bùn cát, đáy cát),... tuy nhiên diện tích phân bố các sinh
cư của vùng biển Cù Lao Chàm lớn hơn gấp nhiều lần vùng biển Đà Nẵng,
điều này làm cho vùng biển Cù Lao Chàm có sự đa dạng, phong phú các
sinh cảnh hơn biển Đà Nẵng dẫn đến sự đa dạng loài cũng cao hơn. So với
vùng cửa sông Thu Bồn với 2 sinh cư đặc trưng là rừng ngập mặn và thảm
cỏ biển có thể thấy vùng biển Cù Lao Chàm và Đà Nẵng có sự đa dạng các
sinh cảnh hơn vùng cửa sông Thu Bồn, chính sự đa dạng các sinh cảnh
quyết định đến tính đa dạng loài.
3.2.1.2. Đặc trưng thành phần và độ giàu có loài giữa 3 khu vực
Chỉ số giống nhau Bray-Curtis về thành phần loài của 3 khu vực cho
thấy, vùng biển Đà Nẵng và Cù Lao Chàm có mức tương đồng cao nhất
44,2%, tiếp đến là Thu Bồn và Đà Nẵng 36,2%, Thu Bồn và Cù Lao Chàm
thấp nhất chỉ 15,8%. Phân tích nhóm cho thấy thành phần loài thuộc 3 khu
vực hình thành nên 2 nhóm: Cù Lao Chàm và Đà Nẵng, Thu Bồn hình
thành riêng 1 nhóm.
Phân tích chỉ số tương đồng Sorensen (1948) cũng cho thấy, mức độ gần
gũi về thành phần loài ở khu vực Đà Nẵng và Cù Lao Chàm cao nhất đạt
44,2%; tiếp đến là Đà Nẵng và Thu Bồn 36,2% và khu vực Cù Lao Chàm
và Thu Bồn là thấp nhất 15,8%.
3.2.1.3. Đặc tính thích nghi theo độ mặn và môi trường sống
Đặc tính thích nghi theo độ mặn của cá ở vùng biển Cù Lao Chàm, Đà
Nẵng và cửa sông Thu Bồn có sự sai khác rõ rệt, thành phần loài cá ở vùng
cửa sông Thu Bồn và Đà Nẵng hình thành nhiều nhóm cá thích nghi rộng
muối gồm 4 nhóm: nước mặn, lợ-ngọt, lợ-mặn và ngọt-lợ-mặn; Cù Lao
Chàm chỉ 3 nhóm (mặn, lợ-mặn và ngọt-lợ-mặn), riêng nhóm cá chỉ thích
nghi nước lợ không tồn tại ở cả 3 khu vực.
17
Đặc tính thích nghi theo môi trường sống ở 3 khu vực cũng có sự khác
biệt rõ rệt giữa các nhóm cá, thành phần loài cá ở vùng biển Cù Lao Chàm,
Đà Nẵng và Thu Bồn thể hiện rõ tính thích nghi theo môi trường sống khá
rộng với sự hiện diện cả 5 nhóm cá (cá đáy, đáy ven bờ, nổi khơi, nổi ven
bờ và cá có đời sống gắn liền với rạn san hô).
Có thể nói tính thích nghi theo môi trường sống thể hiện ở nhóm cá có
đời sống gắn liền với rạn san hô chiếm ưu thế ở Cù Lao Chàm, Đà Nẵng và
nhóm cá sống đáy, cá nổi ven bờ lại chiếm ưu thế ở vùng cửa sông Thu
Bồn.
3.2.2. Đặc trƣng nguồn lợi
3.2.2.1. Thành phần nguồn lợi chính
Đã tổng hợp danh sách các nhóm nguồn lợi chính tại 3 khu vực ở vùng
biển ven bờ Quảng Nam-Đà Nẵng (Bảng 3.10).
Bảng 3.10. Các nhóm nguồn lợi chính ở 3 khu vực nghiên cứu
TT
1
2
3
4
Biển Cù Lao Chàm
Cá Dưa thường
(M. bagio)
Cá Dìa (Siganidae)
Cá Liệt lớn
(Leiognathus equulus)
Cá Trích (Clupeidae)
5
Cá Hố hột (T. lepturus)
6
Cá Thu Ngừ
(Scombridae)
Cửa sông Thu Bồn
Cá Móm (Gerreidae)
Biển Đà Nẵng
Cá Dưa thường
(Muraenesox bagio)
Cá Trỏng (Engraulidae)
Cá Tráp (Sparidae)
Cá Khế (Carangidae)
Cá Đối (Mugilidae)
Cá Dìa (Siganidae)
Cá Hố hột (Trichiurus
Cá Bống trắng (Gobiidae)
lepturus)
Cá Thu Ngừ
(Scombridae)
-
Có thể thấy có sự tương đồng về thành phần nguồn lợi chính giữa hai
vùng biển Đà Nẵng và Cù Lao Chàm: hai vùng có 4 trên 6 nhóm nguồn lợi
giống nhau, đó là cá Hố hột, cá Dưa thường, cá Dìa và cá Thu Ngừ; Cá trích
cũng có vai trò quan trọng với ngư dân Đà Nẵng.
Hạ lưu sông Thu Bồn có 4 nhóm nguồn lợi chính là các loài thuộc họ cá
Bống trắng, cá Đối, cá Móm và cá Tráp vì đây là những loài cá cửa sông
thật sự, thích hợp với vùng cửa sông Thu Bồn.
Như vậy có thể nói sự đa dạng loài liên quan đến sự đa dạng các sinh cư,
nhưng đặc trưng nguồn lợi lại phụ thuộc vào đặc trưng hệ sinh thái.
18
3.2.2.2. Nguồn giống nguồn lợi
So sánh thành phần, sản lượng và doanh thu nguồn giống của hai khu
vực cửa sông Thu Bồn và Đà Nẵng cho thấy đặc điểm nguồn giống có sự
khác biệt lớn (Bảng 3.11).
Bảng 3.11. Thành phần, sản lượng và doanh thu nguồn giống cá ở vùng
biển Đà Nẵng và cửa sông Thu Bồn năm 2011
Khu vực
Biển
Đà Nẵng
Cửa sông
Thu Bồn
Sản lƣợng
Doanh thu
(triệu đồng)
Cá Mú (Serranidae)
5.500 con
50
Cá Dìa công (Siganus guttatus)
Cá Mú (Serranidae)
Cá Hồng bạc (Lutjanus
argentimaculus)
Cá Nâu (Scatophagus argus)
24 tấn
26.000 con
3.600
95
22.000 con
70
10.000 con
50
Nguồn lợi giống
Doanh thu
tổng cộng
(triệu đồng)
50
3.815
So với vùng hạ lưu sông Thu Bồn thì sản lượng và doanh thu nguồn lợi
giống vùng biển Đà Nẵng hầu như không đáng kể, chỉ 1,3% (50 triệu/3.815
triệu). Phân bố nguồn giống vùng cửa sông Thu Bồn được xác định qua
tham vấn và khảo sát thực địa (Hình 3.1).
Hình 3.1. Sơ đồ vùng phân bố nguồn giống cá mú, cá Dìa công và cá
hồng hạ lưu sông Thu Bồn theo kết quả tham vấn cộng đồng
Kết quả khảo sát thực địa xác định vị trí phân bố cho thấy khu vực có
nhiều con giống thuộc họ cá Hồng, cá Mú và cá Dìa công là các cồn bãi, các
thảm cỏ biển và rừng dừa nước, đặc biệt khu vực xuất hiện dày đặc cá Dìa
công là thảm cỏ biển Gò Hí nằm ngay bên ngoài rừng dừa nước (Hình 3.2).
19
- Xem thêm -