HéI TH¶O KHOA HäC QUèC TÕ Kû NIÖM 1000 N¡M TH¡NG LONG – Hµ NéI
PH¸T TRIÓN BÒN V÷NG THñ §¤ Hµ NéI V¡N HIÕN, ANH HïNG, V× HOµ B×NH
VAI TRß CñA KINH §¤ TH¡NG LONG
TRONG QU¸ TR×NH HéI NHËP TOµN CÇU
CñA §¹I VIÖT THÕ Kû XVII
TS Hoàng Anh Tuấn*, ThS Lê Thuỳ Linh**
Có hay không một kỷ nguyên to|n cầu ho{ trong lịch sử nh}n loại giai đoạn cận đại sơ
kỳ? Ba thập kỷ nghiên cứu v| tranh luận của giới sử học quốc tế đã góp phần phục dựng bức
tranh to|n cảnh về một diễn trình hội nhập to|n cầu diễn ra từ sau c{c ph{t kiến của
Christopher Columbus đến cuộc c{ch mạng tư sản Ph{p (khoảng 1500 - 1789). C{c quốc gia
Đông Á, Đại Việt nói riêng, đã hội nhập như thế n|o v| có vai trò quan trọng đến đ}u trong hệ
thống trao đổi thương mại v| giao lưu văn ho{ to|n cầu thời kỳ đó? Gần một thập niên khai
th{c v| nghiên cứu tương đối hệ thống c{c nguồn tư liệu phương T}y liên quan đến Đại Việt
cho phép khẳng định một c{ch chắc chắn: Đại Việt - với vai trò nổi bật của Kinh đô Thăng Long
- đã có sự hội nhập nhất định v|o qu{ trình to|n cầu ho{ cận đại sơ kỳ.
1. Kỷ nguyên thương mại và toàn cầu hoá cận đại sơ kỳ
Trong c{ch ph}n kỳ lịch sử T}y Âu, giai đoạn từ sau c{c đại ph{t kiến địa lý của hai d}n
tộc T}y Ban Nha v| Bồ Đ|o Nha cuối thế kỷ XV đến cuộc c{ch mạng tư sản Ph{p cuối thế kỷ
XVIII thường được gọi chung l| giai đoạn “cận đại sơ kỳ”i. Từ cuối thế kỷ XX trở lại đ}y, ở nhiều
nền sử học phương Đông, kh{i niệm “cận đại sơ kỳ” cũng ng|y c|ng được x{c lập một c{ch phổ
biến trong c{ch ph}n kỳ lịch sử c{c d}n tộcii. Mặc dù vậy, ở Việt Nam, kh{i niệm “cận đại sơ kỳ”
vẫn chưa được sử dụng một c{ch chính thống trong c{c công trình sử học mang tính quy chuẩn
mặc dù c{c nh| nghiên cứu đã luận b|n tương đối nhiều về những chuyển biến nội sinh của Đại
Việt dưới t{c động của c{c luồng thương mại v| bang giao quốc tếiii.
Không chỉ khai sinh giai đoạn cận đại sơ kỳ, c{c đại ph{t kiến địa lý của người ch}u Âu
đồng thời mở ra một kỷ nguyên ph{t triển mới cho quan hệ thương mại v| bang giao giữa
phương Đông v| phương T}y - tiền đề của qu{ trình to|n cầu ho{. Sau khi tìm ra c{c con đường
sang Đông Ấn v| T}y Ấn, trong suốt thế kỷ XVI, hai d}n tộc T}y Ban Nha v| Bồ Đ|o Nha đã
*
**
Trường Đại học Khoa học Xã hội v| Nh}n văn, Đại học Quốc gia H| Nội.
Viện Sử học Việt Nam.
tiến h|nh khai th{c thuộc địa (khai mỏ bạc ở Nam Mỹ) v| khai mở c{c tuyến buôn b{n nối liền
nhiều trung t}m kinh tế lớn của thế giới (Lisbon - Ấn Độ - Đông Nam Á - Trung Quốc - Nhật
Bản). Sang thế kỷ XVII, c{c d}n tộc ch}u Âu kh{c như Anh, H| Lan, Ph{p< cũng tham gia một
c{ch mạnh mẽ v|o hệ thống trao đổi n|y. Từ Mỹ Latinh, bạc nén theo thuyền về T}y Ban Nha
để từ đó chảy sang c{c trung t}m thương mại lớn của ch}u Âu như Lisbon, Lu}n Đôn, Antwerp
(Bỉ), Amsterdam (H| Lan)< Từ c{c trung t}m thương mại chính đó, bạc lại theo c{c thương
thuyền Bồ Đ|o Nha, H| Lan, Anh, Ph{p< sang Đông Ấn (Ấn Độ, Đông Nam Á, Trung
Quốc<), chưa kể đến một lượng bạc lớn kh{c chảy thẳng từ Nam Mỹ sang Manila (Philippines)
trên c{c thương thuyền T}y Ban Nha vượt Th{i Bình Dương.
Ngo|i bạc, c{c loại thương phẩm cũng được trao đổi rộng rãi: vải dạ, đồ mỹ nghệ v| kỹ
thuật của ch}u Âu cũng theo thuyền sang phương Đông để đổi lấy hương liệu, tơ lụa, gốm sứ,
xạ hương< Từ thế kỷ XVI, một mạng lưới thương mại liên ho|n đã được người Bồ Đ|o Nha
lập ra, nối liền thương cảng Lisbon với Goa (Ấn Độ), Malacca (Đông Nam Á), Macao (Trung
Quốc), Nagasaki (Nhật Bản). Ở phía t}y, không chỉ thương phẩm m| một dòng chảy nh}n lực
(người ch}u Âu v| nô lệ ch}u Phi) cũng tr|n qua Đại T}y Dương, hình th|nh những trung t}m
kinh tế thuộc địa mới nằm rải r{c từ miền Bắc đến miền Nam ch}u Mỹ. C{c loại c}y trồng v|
vật nuôi (khoai lang, ngô, đậu<) từ Nam Mỹ được giới thiệu sang Đông Á, góp phần l|m nên
sự bùng nổ d}n số v| biến đổi kinh tế - xã hội ở Trung Quốc thế kỷ XVIII, trong khi c{c loại dịch
bệnh từ c{c cựu ch}u lục cũng theo ch}n người ch}u Âu v| nô lệ da đen sang t}n thế giới, góp
phần v|o qu{ trình diệt vong của nhiều nền văn minh cổ xưa thuộc khu vực Nam Mỹ< Qu{
trình to|n cầu ho{ giai đoạn cận đại sơ kỳ ra đời từ đóiv.
2. Hội nhập toàn cầu của Đại Việt thế kỷ XVII và vai trò của Kinh đô Thăng Long
Cho đến những năm cuối của thế kỷ XX, trước khi có những nghiên cứu mới về Thăng
Long (Đại Việt nói chung) thế kỷ XVII, giới sử học nhìn chung duy trì quan điểm tương đối
thiếu tích cực về vị trí v| vai trò của kinh đô Thăng Long trong c{c mạng lưới thương mại v|
bang giao quốc tế. Trong c{ch nhìn truyền thống, việc c{c triều đình phong kiến Việt Nam, nhất
l| triều Lê sơ, không chủ trương thúc đẩy ngoại thương khiến cho nhiều nh| nghiên cứu duy trì
quan điểm về sự “khép kín” hoặc thậm chí “biệt lập” của Đại Việt với c{c dòng chảy thương
mại khu vực v| quốc tế vốn diễn ra hết sức sôi động ở khu vực Biển Đông. Chẳng hạn, trong lý
luận của mình về nền hải thương Đông Nam Á giai đoạn cận đại sơ kỳ, học giả Anthony Reid
cho rằng, đến cuối thế kỷ XVI, Thăng Long - mặc cho sự hưng thịnh về kinh tế v| mậu dịch quốc
nội - vẫn nằm kh{ xa c{c tuyến hải thương quốc tế nối Đông Bắc Á với c{c hải cảng quốc tế
phương nam v| phía t}yv.
Tuy nhiên, từ cuối thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVII (hoặc khoảng giữa thế kỷ XVIII đối
với trường hợp Đ|ng Trong), vấn đề hội nhập quốc tế của quốc gia Đại Việt đã có bước ph{t
triển ngoạn mục, khẳng định vị trí chiến lược v| vai trò trọng yếu của Đại Việt trong hệ thống
thương mại v| bang giao to|n cầu. Cuộc khủng hoảng chính trị của triều Lê sơ (đỉnh cao l| sự
ph}n cắt Đ|ng Ngo|i - Đ|ng Trong) góp phần thúc đẩy xu thế hướng ngoại của hai tập đo|n
phong kiến Trịnh v| Nguyễn nhằm tìm kiếm c{c hậu thuẫn về t|i chính v| qu}n sự từ c{c thế
lực ngoại bang. Nếu như ở Đ|ng Trong, c{c chúa Nguyễn tận dụng thương cảng Hội An để thu
hút thương nh}n ngoại quốc đến buôn b{n nhằm thiết lập quan hệ chiến lược với họ (đặc biệt l|
với người Nhật v| người Bồ Đ|o Nha), ở Đ|ng Ngo|i - dù chậm ch}n hơn so với họ Nguyễn c{c chúa Trịnh (tiêu biểu l| chúa Trịnh Tr{ng v| chúa Trịnh Tạc) cũng đã có những chủ trương
nhất định trong việc khai th{c chức năng thương mại của kinh đô Thăng Long trong việc thiết
lập quan hệ với c{c thế lực nước ngo|i. Từ cuối thế kỷ XVI, c{c thương nh}n Trung Quốc, Nhật
Bản v| Đông Nam Á ghé thăm c{c thương cảng v| trung t}m buôn b{n nội địa của Đ|ng Ngo|i
ng|y c|ng nhiều. Từ cuối thập niên 20 của thế kỷ XVII, người Bồ Đ|o Nha khai mở quan hệ
buôn b{n với chính quyền Thăng Long. Năm 1637, Công ty Đông Ấn H| Lan thiết lập quan hệ
buôn b{n với vương quốc Đ|ng Ngo|i, lập thương điếm buôn b{n ở Kẻ Chợ đến tận năm 1700
mới chấm dứt. Công ty Đông Ấn Anh cũng thiết lập thương điếm buôn b{n ở Phố Hiến v|
Thăng Long trong giai đoạn 1672 - 1697. Ngo|i ra, người Ph{p, người T}y Ban Nha< cũng
tham gia v|o c{c hoạt động thương mại v| truyền gi{o ở Thăng Long nói riêng, Đại Việt nói
chung trong c{c thời kỳ kh{c nhau của thế kỷ XVIIvi.
Với riêng vương quốc Đ|ng Ngo|i của Đại Việt, xung lực chính cho qu{ trình dự nhập
to|n cầu nằm ở vai trò của một số thương phẩm xuất khẩu có gi{ trị v| nhu cầu cao trên thị
trường, tiêu biểu nhất l| c{c loại sản phẩm tơ lụa, thứ đến l| gốm sứ, xạ hương, quế, đồ sơn
m|i< Theo những số liệu trích lục được từ kho tư liệu lưu trữ của c{c Công ty Đông Ấn H|
Lan v| Anh, trong giai đoạn tơ lụa Đ|ng Ngo|i có vị trí cao ở thị trường khu vực (đặc biệt l| thị
trường Nhật Bản, giai đoạn 1641 - 1654). H|ng năm, Đ|ng Ngo|i sản xuất ra khoảng 90 tấn tơ
sống v| khoảng 6.000 đến 10.000 tấm vải lụa khổ lớn (lĩnh, ho|ng quyến<). Sự hấp dẫn của tơ
lụa v| c{c loại h|ng ho{ xuất khẩu Đ|ng Ngo|i khiến cho lượng tiền (bạc nén, c{c loại đồng tiền
bạc, tiền đồng, đồng thỏi<) đổ v|o Đ|ng Ngo|i đứng ở mức kh{ cao: trong khoảng 7 thập niên
cuối của thế kỷ XVII, trung bình mỗi năm người H| Lan v| người Hoa đưa v|o Đ|ng Ngo|i
khoảng hơn 350.000 guilder H| Lan (khoảng hơn 100.000 lạng bạc nén) để trao đổi c{c loại h|ng
ho{ của Đ|ng Ngo|i, chưa kể vốn đầu tư của c{c lực lượng buôn b{n ngoại quốc kh{c như Nhật
Bản, Bồ Đ|o Nha, thương nh}n Đông Nam Á
- Xem thêm -