Bài thuyết trình Hiến pháp tư sản mỹ
Khái niệm chếế độ bầầu cử
Chế độ bầu cử là một tổng thể các nguyên tắc, các quy đ ịnh
của pháp luật quy định trình tự, thủ tục bầu ra các cơ quan
đại diện quyền lực Nhà nước, điều chỉnh các quan hệ xã hội
hình thành trong quá trình bầu cử.
A.Khái quát chung vếầ luật bầầu cử của Hoa Kỳ
Thực ra luật quy định bầu cử thống nhất cả nước vào ngày Thứ ba
trong tháng 11 như nêu ở trên được Quốc hội Mỹ thông qua năm
1845. Còn trước đó thì Luật cũ (thông qua năm 1792) quy đ ịnh các
bang tùy điều kiện của mình linh hoạt tổ chức bỏ phiếu trong
khoảng thời gian 34 ngày trước ngày 1/12. Có nhiều cách lý gi ải tại
sao Quốc Hội Mỹ lại chọn bỏ phiếu chung vào ngày Thứ ba như
trên:
Thời gian đó nằm trong thời gian 34 ngày của lu ật cũ và nếu
tổ chức ngày bầu cử chung thì sẽ tạo một sân chơi “công bằng”,
giảm thiểu khả năng một ứng cử viên Tổng thống thắng điểm
tại một số bang bầu cử sớm nhất, để rồi giành được lợi thế ở
các bang khác bầu cử muộn hơn;
Đầu tháng 11 hàng năm không quá lạnh và nông dân vừa kết
thúc vụ mùa (vào thời kỳ này nước Mỹ là nước nông nghiệp và
dân chủ yếu sống nhờ nghề nông);
Nếu tổ chức vào ngày thứ 4 trong tuần cũng không ti ện do
nhiều nơi nông dân chọn ngày thứ tư là ngày họp chợ;
Chuyển dịch ngày bầu cử về phía cuối tuần lại vướng vào
ngày nghỉ lễ tôn giáo.
Năm bầu cử Tổng thống khác cơ bản năm bầu cử giữa kỳ ở chỗ là
có thêm lá phiều bầu Tổng thống và Phó Tổng thống, còn danh
sách bầu các chức danh khác cơ bản giữ nguyên. Trong ngày bầu
cử giữa kỳ, cử tri trên khắp nước Mỹ bầu một danh sách rất dài,
với 1 số ghế chủ chốt gồm:
1/3 tổng số Thượng nghị sĩ liên bang (33 hoặc 34 người trên
tổng số 100 Thượng nghị sĩ do nhiệm kỳ của các thượng nghị sĩ
là 6 năm, nhưng mỗi kỳ bầu cử 2 năm 1 lần nên bầu lại 1/3 để
giữ tính liên tục);
Toàn bộ 435 Hạ nghị sĩ Liên bang và 6 nghị sĩ (không có quyền
bỏ phiếu trong các vấn đề mang tính “quyết định”) đại di ện cho
Thủ đô Washington DC và 5 vùng lãnh thổ chưa hợp nhất (g ồm
Guam, Puerto Rico, American Samoa, Bắc Mariana, Quần đảo
Virgin);
34 trên tổng số 50 Thống đốc bang (nhiệm kỳ 4 năm) cộng
với Thống đốc 2 bang là Vermont và New Hampshire (có nhiệm
kỳ 2 năm), tổng cộng 36 Thống đốc bang. Trong năm bầu cử
Tổng thống, cử tri “chỉ” bầu 16 ghế Thống đốc bang mà thôi (14
ghế Thống đốc bang cộng với 2 ghế của Vermont và New
Hampshire);
Nghị viện các bang (cũng tổ chức thành lưỡng viện –
Bicametal Body – là Thượng viện bang và Hạ nghị viên bang, tuy
nhiên số lượng thành viên thượng viện và hạ viện mỗi bang lại
một khác). Đáng chú ý là chỉ duy nhất 1 bang là bang Nebraska
trong tổng số 50 bang tổ chức nghị viện theo hình thức “Nhất
viện” (Unicameral Body);
Chức Thị trưởng, Hội đồng thành phố, thị trấn…
Có thể nói hệ thống tổ chức chính quyền liên bang, bang và cách
thức bầu các chức danh nắm những vị trí trên ở Mỹ là một trong
những hệ thống phức tạp và tinh vi nhất trên thế giới vì phải tính
đến sự cân bằng của tất rất nhiều yếu tố.
B. Các cuôc bầu cử ở hoa kì
I. Bầu cử tổng thống
1. luật lệ bầu cử
Trong hiến pháp Hoa Kỳ, việc bầu cử tổng thống được đề cập trong Điều II Khoản 1 và trong
các tu chính án XII, XXII, và XXIII. Tổng thống và phó tổng thống được Đại cử tri đoàn bầu
chọn trong cùng danh sách ứng cử. Các thành viên trong đại cử tri đoàn từ mỗi tiểu bang
được định theo thể thức mà cơ quan lập pháp ở đó quy định - hiện nay hầu hết là dùng kết
quả phiếu phổ thông. Người nhận trên nửa số phiếu cho tổng thống (hiện nay là 270) sẽ là
người thắng cử tổng thống, và người nhận trên nửa số phiếu cho phó tổng thống là người
thắng cử phó tổng thống. Nếu không ai nhận trên nửa số phiếu Đại cử tri đoàn, thì Hạ
viện được quyền chọn tổng thống, với phái đoàn từ mỗi tiểu bang được một phiếu, và phó
tổng thống được Thượng viện chọn. Việc này rất hiếm xảy ra, nhưng đã xảy ra hai lần: Hạ
viện chọn tổng thống trong năm 1825 và Thượng viện đã chọn tổng thống trong năm 1837.
Bầu cử diễn ra mỗi bốn năm một lần vào ngày thứ ba sau ngày thứ hai đầu tiên trong tháng
11. Các chính quyền địa phương tổ chức cuộc bầu cử và đảm bảo kết quả trung thực và
ngăn chận gian lận trong việc kiểm phiếu.
Hiến pháp và các tu chính án không miêu tả cách mỗi tiểu bang chọn đại cử đoàn. Việc này
có nghĩa là cử tri được chính quyền tiểu bang cho phép đi bầu chứ không phải Chính phủ
liên bang; vì thế quyền bầu cử không phải là một quyền được hiến pháp bảo đảm. Mỗi tiểu
bang có quyền cấm một số cá nhân bầu cử (trừ các trường hợp không được hiến pháp cho
phép).
2. Nguyên tắc bầu cử
Theo điều II khoảng 1 hien pháp hoa kì
Người có đủ tiêu chuẩn được bầu làm Tổng thống phải
là công dân sinh ra tại bản địa hoặc là công dân Hoa Kỳ
trong thời gian thực hiện Hiến pháp này, từ 35 tuổi trở
lên và đã có 14 năm cư trú ở Hoa Kỳ.
Trong trường hợp Tổng thống bị cách chức hoặc qua
đời, từ chức hoặc không đủ năng lực trong việc thực thi
quyền lực và nhiệm vụ của mình, thì mọi quyền lực và
nhiệm vụ sẽ chuyển giao cho Phó Tổng thống. Quốc hội
sẽ căn cứ vào luật bổ khuyết một quan chức vào ghế
trống trong các trường hợp truất quyền, tử vong, từ
chức hoặc không ñủnăng lực của cả Tổng thống và Phó
Tổng thống; quan chức nào thay quyền Tổng thống
hoặc Phó Tổng thống sẽ thi hành nhiệm vụ cho ñến khi
chấm dứt tình trạng không ñủnăng lực và khi ñã bầu
ñược Tổng thống mới.
Thứ nhất, nguyên tắc bình đẳng giữa các bang. Quá trình đàm phán
để hình thành nhà nước Liên bang hợp chủng quốc Hoa Kỳ mà ban
đầu chỉ có 13 bang (thực chất là 13 quốc gia) là sự mặc cả, thỏa
hiệp. Họ thỏa hiệp về thượng viện, nhất trí rằng đây là thiết chế
lập pháp quan trọng nhất, quyết định các vấn đề trọng đại của đất
nước và tại đó các bang lớn, bé đều có đại diện như nhau là 2
Thượng nghị sĩ. Chẳng hạn bang Delaware chỉ có 900.000 dân
nhưng cũng có 2 thượng nghị sĩ như bang đông dân nhất là
California với 38 triệu người.
Thứ hai, nguyên tắc phổ thông đầu phiếu và mọi người bình đẳng
như nhau. Tổng số 435 Nghị sĩ liên bang Mỹ là không đổi, nhưng
dân số các bang có thể thay đổi hàng năm do phát triển kinh tế,
thay đổi trong môi trường, giáo dục và nhu cầu di chuyển của
người dân để tìm kiếm công ăn việc làm, tìm nơi định cư mới. Do
đó cứ 10 năm 1 lần, vào các năm chẵn đầu các thập kỷ (ví dụ 1990,
2000, 2010), nước Mỹ tổ chức các cuộc điều tra dân số toàn qu ốc
với nhiều câu hỏi để sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau. Trên
cơ sở bản đồ dân số thay đổi sau một thập kỷ, “bản đồ” bầu cử
cũng được vẽ lại theo sự thay đổi dân số và số lượng nghị sĩ của
mỗi bang có thể tăng hay giảm tùy thuộc số lượng dân cư tại một
bang vào thời điểm điêu tra dân số. Các bang có dân số đông và
tăng nhanh và nhờ đó cũng có số lượng dân biểu lớn trong Hạ viện
là California, Texas, Florida.
Thứ ba, “Người chiến thắng được tất cả”. Do tổ chức nhà nước
theo hình thức liên bang, nên dân Mỹ tuy mang tiếng bầu cử trực
tiếp Tổng thống nhưng lại không bầu trực tiếp, mà bầu gián tiếp
theo tổng số ghế mà các bang có đại diện tại Quốc hội Liên bang
gồm 100 phiếu đại diện các Thượng nghị sĩ, 435 phiếu đại diện các
Hạ nghị sĩ và 3 phiếu đại cử tri của Thủ đô Washington DC (t ổng
cộng 538 phiếu Đại cử tri) và người đắc cử Tổng thống phải giành
được ít nhất 270 phiếu Đại cử tri.
Nếu ứng cử viên Tổng thống thắng tại bang nào, thì coi như nhận
được phiếu đại cử tri của toàn bộ bang đó. Từ đây xảy ra các
trường hợp:
ứng cử viên thắng tại nhiều bang hơn chưa chắc đã đảm bảo
thắng cuộc
ứng cử viên nhận được số phiếu bỏ cao hơn của cử tri chưa
chắc đã thắng (tức thắng qua phổ thông đầu phi ếu, như trường
hợp Phó Tổng thống Al Gore thắng Thống đốc Bang Texas
George Bush trong cuộc bầu cử Tổng thống tháng 11/2000,
nhưng lại thua tại Bang quan trọng là Florida và do đó thua phi ếu
Đại cử tri). Điều quan trọng đối với bất kỳ ứng cử viên Tổng
thống nào là tìm mọi cách thắng ở các bang đông dân, có nhiều
phiếu Đại cử tri. Do 1 số bang ở Mỹ có truyền thống bỏ cho
Cộng hòa (như Texas, Georgia), và một số bang có truyền thống
bỏ cho Dân chủ (như California, New York), và có đến 80% các
cử tri có sẵn “dòng máu cộng hòa” hay “dòng máu dân chủ” ch ạy
trong cơ thể, bất kể đảng của họ xấu tốt ra sao thì họ vẫn luôn
“trung thành” với lý tưởng mà mình đã chọn và bỏ phiếu cho
“đảng của mình”, do đó các cuộc bầu cử trên thực tế là nhắm
vào các “Swing states” (bang dao động) hay “Swing voters” (các
cử tri dao động) hoặc những cử tri vẫn còn lưỡng lự, chưa
quyết định (undecided voters).
4. quá trình bầu cử
a. giai đoạn khởi đầu
Điều kiện ứng cử tổng thống: Quy định đối với từng vị trí
được bầu lên ở cấp liên bang khác nhau, được nêu rõ trong
điều I và II của Hiến pháp Mỹ. Ví dụ, ứng cử viên tổng thống
phải là một công dân Mỹ, ít nhất 35 tuổi, và cư trú tại Mỹ ít
nhất là 14 năm. Phó tổng thống cũng phải đáp ứng những yêu
cầu tương tự. Theo Điều bổ sung sửa đổi thứ 12 của Hiến
pháp Mỹ, phó tổng thống không được là công dân của cùng
một bang với tổng thống.
Một chính trị gia có tham vọng trở thành tổng thống Hoa Kỳ sẽ thành lập
một uỷ ban. Uỷ ban này sẽ tìm hiểu, thăm dò triển vọng của vị chính trị gia
đó và quyên góp tiền bạc để vận động tranh cử. Nếu như không giành được
sự quan tâm của cử tri, thì họ sẽ tự động rút lui. Nếu kết quả khả quan thì họ
sẽ ra ứng cử tổng thống.
b. Giai đoạn vận động ứng cử:
Đây là giai đoạn các ứng viên (thuộc cùng một đảng) cạnh tranh trong
nội bộ đảng để được chọn là ứng viên duy nhất ra tranh chức tổng
thống với đảng khác. Các ứng viên phải tiêu tốn rất nhiều tiền bạc để
quảng cáo, tuyên truyền, vận động các cử tri ủng họ cho mình.
Các ứng viên tổ chức vận động ở các tiểu bang để kêu gọi cử tri ủng
hộ mình. Tại mỗi bang, cử tri qua cuộc bầu cử sơ bộ chọn ra đại diện
của tiểu bang đi dự đại hội đảng toàn quốc.
Bầu cử sơ bộ
Bầu cử sơ bộ thuộc về truyền thống chính trị của Hoa Kỳ. Nhiều
người Mỹ cho đây là công cụ dân chủ để người dân có thể gây ảnh
hưởng vào việc lựa chọn người lãnh đạo nước. Những người đứng
đầu đảng ít có ảnh hưởng đến chương trình hoạt động và việc lựa
chọn người ra tranh cử. Qua cuộc bầu cử sơ bộ, cử tri có được
nhiều lựa chọn và có thể thử khả năng người ứng cử xem có thích
hợp với chức vụ tổng thống.[2]
Có hai cách thức chọn đại diện:
Tại một số bang cử tri họp tại trường học, nhà riêng hay một
nơi nào đó để chọn đại diện, những người được chọn đã tuyên bố
ủng hộ một ứng viên nào đó, để tham dự đại hội tiểu bang lựa đại
biểu (còn gọi là Caucus);
Một số bang chọn cách thức bầu cử sơ bộ (hay gọi là primary):
những cử tri có đăng ký bỏ phiếu chọn đại diện trực tiếp tham dự
đại hội đảng.
Trong các cuộc bầu cử sơ bộ, cử tri không chọn trực tiếp ứng cử
viên đảng mình mà bầu các đại biểu. Những người này sẽ bầu úng
cử viên đảng. Đảng Dân chủ theo hệ thống tỷ lệ, ứng cử viên sẽ
được số đại biểu tùy theo số phiếu. Trong khi đảng Cộng hòa đa số
theo nguyên tắc "winner takes all" (người thắng cuộc sẽ được tất cả
các đại biểu trong bang).[3]
Để được chọn ra tranh cử tổng thống, ứng cử viên đảng Dân chủ
phải được 2383 từ 4764, còn đảng Cộng hòa thì phải được 1237 từ
2472 đại biểu
c. Giai đoạn tổ chức đại hội Đảng:
Đại hội đảng tổ chức vài tháng trước cuộc bầu cử tổng thống để chọn
ứng viên ra tranh chức tổng thống. Thường thì trước khi diễn ra đại
hội người ta đã biết ứng viên nào được tuyển chọn dựa vào các cuộc
vận động của các ứng viên tại các tiểu bang và qua những cuộc bầu cử
sơ bộ trong Đảng.
Ứng viên chiến thắng sẽ chọn một người cùng ra tranh chức Phó tổng
thống, thường là một trong số những người thua cuộc.
d. Giai đoạn vận động tranh cử:
Đây là giai đoạn quyết định trong quá trình tranh cử tổng thống. Đây
là thời điểm ứng viên của hai đảng (Dân chủ và Cộng hoà) đối đầu
trực tiếp với nhau.
Họ phải chi những khoản tiền khổng lồ cho cuộc vận động. Hai ứng
viên tổ chức những hoạt động quảng cáo, tuyên truyền nhằm lôi kéo
sự ủng hộ. Và cử tri cũng rất quan tâm tới các cuộc tranh luận trên
truyền hình giữa hai ứng viên.
Đa số các bang đã thể hiện sự ủng hộ cho ứng viên nào. Tuy nhiên,
một vài bang đến giờ chót vẫn chưa thể hiện sự ủng hộ cho ứng viên
nên được gọi là "bang giờ chót". Vài tuần cuối trước khi bầu cử, các
ứng viên sẽ tập trung vận động ở các bang này.
e. Giai đoạn bầu cử:
Cuộc bầu chọn tổng thống Hoa Kỳ được tổ chức vào ngày thứ Ba sau
thứ Hai đầu tiên của tháng 11.
Tổng số Đại cử tri của Hoa Kỳ là 538 người. Một ứng viên muốn trở
thành tổng thống phải giành được số phiếu tối thiểu là 270.
Ở các tiểu bang, ứng viên nào giành được nhiều nhất phiếu cử tri thì
giành được toàn bộ phiếu của cử tri đoàn.
4. quá trình bỏ phiếu
Mỗi địa hạt đêu có phòng bầu cử dành cho dân trong khu vực và có
thể thay đổi mỗi năm . Thùng phiếu có thê tại một nhà chứa xe của
một người phục vụ cộng đồng , có thể tại một trường học , hay một cơ
quan . Giờ bầu cử khác nhau tùy vùng và tiểu bang , nhưng thông
thường từ 7h sáng đên 8h tối theo giờ địa phương .Tại văn phòng bầu
cử . ban vận động thuyêt phục cử tri bỏ phiếu cho đảng của họ một lần
nữa .Mặc dù trước đó người ta đã nhận truyền đơn , điện thoại quảng
cáo về các ứng cử viên . Trước khi vào phòng phiếu , nhân viên ban
đầu cử hướng dẫn cách dùng máy bỏ phiếu
Đối với việc bỏ phiếu Hoa Kỳ có rât nhiều thiết bị bầu cử và công
nghệ này được thay đổi liên tục . Trước đây , khi công nghệ bầu cử
chưa được hiện đại hóa thì đó là những lá phiếu đánh dấu “X” bên
cạnh tên ứng cử viên được chọn . Tuy nhiên , tính đên năm 2004 thì
đã có 6 hệ thống được sử dụng mang tính hiện đại hóa rất cao . Đó là
- Đục lỗ thẻ : Cử tri bấm lổ bên cạnh lựa chọn của mình trên phiếu bầu
giấy . Loại này chiếm 13,7% tổng số phiếu
- Cần gạt : Cử tri gạt một chiếc cần nhỏ bên cạnh tên của những ứng cử
viên mình chọn . loại này chiếm 14% tổng sô phiếu
- Phiếu scan trên máy tính : Cử tri điền vào lá phiếu trên máy . Hình
thức này chiếm 34,9%
- Thiết bị điện tử ghi nhận trực tiếp : Cử tri chọn ứng cử viên trực tiếp
trên máy loại này chiếm 29,3%
- Phiếu giấy : Cử tri đánh dấu trên giấy và phiếu được kiêm bằng tay .
Loại này chiếm 0,7%
- Hỗn hợp : Các thành phố trong mỗi hạt sử dụng các loại máy khác
nhau .
Trên đây là những hình thức bỏ phiếu trực tiêp hay còn gọi là bỏ
phiếu kín ngoài ra dân Hoa Kỳ còn có quyền không đi bầu nếu họ
không thích cả hai ứng cử viên tồng thống . Tuy nhiên , nếu muốn
dự phần trong cuộc bầu cử dù ở đâu người ta cũng có thể bầu qua
thể thức vắng mặt . Phong bì đã được gữi đên cho từng công dân
Hoa Kỳ đã đăng kí vài tháng trước khi cuôc đua vẫn chưa đên lúc
căng thẳng . Sống ở nước ngoài , công dân Hoa Kỳ chỉ việc gửi
thư của mình về tiểu bang đã đăng kí và chờ kết quả
5. Kiểm phiếu
Hiện nay , có một điều khoảng mới là “ bầu cử sớm” . theo đó . các
máy bầu cử được đặt trong các siêu thị và những nơi công cộng khác
trong vòng 3 tuần trước ngày bầu cử . Các công dân có thể tiện
đường ghé vào để bỏ phiếu . Và tỉ lệ công dân bỏ phiếu trước ngày
bầu cử tăng lên nên nên ngày thứ 3 đâu tien sau ngày thứ 2 đầu tiên
trong tháng 11 có thể được coi là ngày kiểm phiếu . Những lá phiếu
này chỉ được kiểm vào cuối ngày bầu cử nhằm mục đích là đe trước
khi các điểm bỏ phiếu đóng cửa không có thông tin nào được tiết lộ về
ứng cử viên nào đang dẫn điêm hay tụt lại sau
5. Chi phí bầu cử:
Chi phí đắt đỏ của chiến dịch tranh cử ở Mỹ là một vấn đề được thảo
luận rộng rãi. Người ta đã nổ lực kiểm soát phí tổn bằng cách hạn chế
số tiền.
Một nhà tài trợ có thể đóng góp và những cách thức chi tiêu của ứng
cử viên cùng các đảng phái. Các ứng cử viên vào những vị trí tại các
cơ quan chính quyền tại Mỹ thường dựa vào năm nguồn tài chính để
tranh cử:
- Cá nhân công dân trực tiếp quyên góp tiền
- Các đảng chính trị của họ
- Các nhóm lợi ích, thường thông qua các Ủy ban hành động chính trị
- Các nguồn của cá nhân hoặc gia đình họ
- Qũy công-cũng có thể sử dụng trong một số cuộc bầu cử
Trên thực tế, số tiền mà các ứng cử viên chi tiêu chiếm tỉ lệ ngày càng
ít trong tổng số tiền chi ra với mục đích gây ảnh hưởng đến cuộc bầu
cử. Đó là do các Đảng chính trị và các nhóm lợi ích đóng vai trò ngày
càng lớn trong đối thoại trực tiếp với cử tri
Theo truyền thống các đảng chính trị và nhóm lợi ích tập trung nguồn
lực vào việc đóng góp tài chính cho các ứng cử viên. Họ chi tiền tiếp
xúc với cử tri, vừa thuyết phục cử tri thông qua các hoạt động quảng
cáo, thư tín và đảm bảo rằng cử tri sẽ đi bỏ phiếu.
Trong các cuộc bầu cử hiện nay, các Đảng chính trị và nhóm lợi ích
đều đóng góp tiền cho các ứng cử viên được ủng hộ và chi tiền trực
tiếp hơn để tối đa hóa ảnh hưởng của họ đối với kết quả bầu cử. Hiện
tượng này làm cho việc theo dõi luồng tiền tệ trong các cuộc bầu cử
trở nên khó khăn hơn và khiến các nhà hoạch định chính sách gặp
thách thức, đặc biệt để tìm cách kiểm soát nguồn tiền nằm ngoài sự
quản lí trực tiếp của các ứng cử viên.
5. Kết quả:
Số lượng đại cử tri mỗi bang tỷ lệ thuận với dân số. California, bang
có dân số lớn nhất, có 55 đại cử tri. Ngược lại, Delaware, bang có dân
số nhỏ nhất, chỉ có 3 đại cử tri. Tổng số đại cử tri từ 50 bang và thủ đô
Washington là 538. Muốn trở thành tổng thống, ứng cử viên phải
giành tối thiểu 270 phiếu đại cử tri. Người giành phần lớn phiếu phổ
thông của một bang đương nhiên giành toàn bộ phiếu đại cử tri của
bang.
Trong trường hợp mỗi ứng viên đều giành 269 phiếu, Hạ viện Mỹ sẽ
quyết định người sẽ trở thành tổng thống, còn Thượng viện chọn phó
tổng thống. Nhưng trong 56 cuộc bầu cử tổng thống, trường hợp phiếu
đại cử tri bằng nhau chỉ xảy ra đúng một lần vào năm 1800. Khi đó,
Hạ viện chọn Thomas Jefferson làm tổng thống.
Không phải do nội dung trực tiếp bầu tổng thống và phó tổng thống,
được bầu bởi các đại cử tri của các bang tổng thống và phó tổng thống
không được là cư dân cùng một bang.
Kết quả cuộc bầu cử sẽ được chuyển lên chính phủ và trình lên chủ
tịch thượng viện bằng hai bản: một bản là danh sách các ứng cử viên
được bầu chọn vào chức vụ tổng thống, với số phiếu bầu tương ứng.
Bản khác là danh sách các ứng cử viên được bầu chọn chức phó tổng
thống cùng số phiếu bầu tương ứng.
Người có số phiếu bầu cao nhất trong cuộc bầu cử tổng thống và vượt
quá 50% số phiếu của đại cử tri sẽ làm tổng thống.
Các cử tri không trực tiếp bầu ra tổng thống, lá phiếu phổ thông của
họ chỉ có nhiệm vụ chọn ra đại cử tri cho bang của mình.
II. Bầu cử phó tổng thống
Theo từ ngữ gốc của Hiến pháp Hoa Kỳ, các đại cử tri trong đại cử tri đoàn chỉ bầu cho
chức vụ Tổng thống Hoa Kỳ hơn là cho cả hai, Tổng thống và Phó Tổng thống. Mỗi đại cử tri
được phép chọn hai người trong nhiều người cho chức vị tổng thống. Người nào nhận được
số phiếu bầu nhiều nhất (miễn sao con số đó là một đa số phiếu đại cử tri) sẽ trở thành tổng
thống trong khi đó người nhận số phiếu nhiều thứ hai sẽ trở thành phó tổng thống. Nếu
không có ai nhận được đa số phiếu nhiều thứ hai để trở thành Phó Tổng thống thì Hạ viện
Hoa Kỳ sẽ chọn trong số năm người nhận phiếu bầu cao nhất, cùng với mỗi tiểu bang một
phiếu bầu. Trong trường hợp này, người nào nhận được nhiều phiếu nhất nhưng không
được bầu làm tổng thống thì sẽ trở thành Phó Tổng thống. Trong trường hợp vẫn không
chọn được lần thứ hai thì Thượng viện Hoa Kỳ sẽ chọn Phó Tổng thống Hoa Kỳ
Các lá phiếu bầu riêng biệt cho tổng thống và phó tổng thống trở nên một vấn đề đáng bàn
luận sau đó vào thế kỷ 19 khi chúng trở thành thông lệ cho các cuộc bầu cử phổ thông để
chọn đại cử tri đoàn của một tiểu bang. Các đại cử tri được chọn bằng cách này đã phải
tuyên thệ bầu cử cho một ứng cử viên tổng thống hay phó tổng thống nào đó rõ ràng
(thường là theo cùng đảng chính trị của mình). Vì thế trong khi Hiến pháp Hoa Kỳ nói rằng
tổng thống và phó tổng thống phải được bầu lên riêng biệt nhưng trong thực tế thì cả hai
được bầu chung với nhau.
Nếu không có ứng cử viên phó tổng thống nào nhận được đa số phiếu đại cử tri thì Thượng
viện Hoa Kỳ sẽ chọn Phó Tổng thống Hoa Kỳ theo như quy định của Hiến pháp Hoa Kỳ.
Theo lý thuyết này thì dẫn đến tình trạng mà trong đó phó tổng thống hiện tại - với vai trò là
Chủ tịch Thượng viện Hoa Kỳ - sẽ được quyền bỏ lá phiếu quyết định trong trường hợp cả
hai ứng viên đều có cùng số phiếu bầu của Thượng viện. Như vậy phó tổng thống có thể
chính mình quyết định bầu cho chính mình hay cho người kế nhiệm mình. Cuộc bầu cử năm
1836 là cuộc bầu cử duy nhất cho đến nay khi mà chức vụ phó tổng thống được Thượng
viện Hoa Kỳ quyết định. Trong thời gian tranh cử, người đứng chung liên danh bầu cử
với Martin Van Buren là Richard Mentor Johnson bị tố cáo là đã sống chung với một phụ nữ
da đen. 23 đại cử tri của tiểu bang Virginia, trước đó tuyên thệ là sẽ bầu cho Van Buren và
Johnson, đã từ chối bỏ phiếu cho Johnson (nhưng vẫn bầu cho Van Buren). Kết quả bầu cử
được đưa lên Thượng viện Hoa Kỳ và cuối cùng Johnson được bầu với số phiếu 33-17.
III. Thượng viện:
Theo điều I khoảng 3 của hiến pháp Hoa Kỳ
Thượng viện Hoa Kỳ sẽ gồm có hai thượng nghị sĩ của
mỗi bang [do cơ quan lập pháp ở bầu ra] với nhiệm kỳ
6 năm và mỗi thượng nghị sĩ sẽ có một phiếu biểu
quyết. Đầu tiên, Hiến pháp quy định rằng cơ quan lập
pháp mỗi bang nên chọn hai Thượng Nghị sỹ của bang
đó. Điều bổ sung sửa ñổi thứ 17 thay Đổi điều này
bằng cách cho phép cử tri mỗi bang được chọn ra
Thượng Nghị sỹ của mình. Ngay sau khi Thượng viện
được bầu ra và nhóm họp lần ñầu, các thượng nghị sĩ
sẽ được phân chia sao cho đồng đều thành ba cấp.
Thượng nghị sĩ cấp 1 sẽ kết thúc nhiệm kỳ vào cuối
năm thứ hai của nhiệm kỳ, thượng nghị sĩ cấp 2 sẽ kết
thúc nhiệm kỳ vào cuối năm thứ tư, thượng nghị sĩ cấp
3 sẽ kết thúc nhiệm kỳ vào cuối năm thứ 6, sao cho
sau mỗi hai năm có thể bầu lại một phần ba thượng
nghĩ sĩ. [Và khi có chỗ trống do từchức hoặc nguyên
nhân nào khác trong thời gian ngừng họp của cơ quan
lập pháp ở bất cứ bang nào, thì chính quyền ở đó có
thể tạm thời bổ nhiệm cho đến kỳ họp tiếp ñó của cơ
quan lập pháp và khi đó sẽ bổ sung vào chỗ trống].
Thượng viện Mỹ được thiết kế để các thượng nghị sỹ có thể đại diện
cho những khu vực cử tri lớn hơn - toàn bộ bang - và tạo cơ hội đại
diện ngang bằng cho các bang, bất kể dân số của bang đó lớn hay nhỏ.
Như vậy, trong Thượng viện, các bang nhỏ có tầm ảnh hưởng (có hai
thượng nghị sỹ) tương tự như các bang lớn. Ban đầu các thượng nghị
sỹ do cơ quan lập pháp của bang bầu ra. Tuy nhiên, Điều khoản sửa
đổi thứ 17 của Hiến pháp vào năm 1913 đã thay thế bằng chế độ nhân
dân trực tiếp bầu. Theo quy định của Hiến pháp, cứ hai năm một lần
lại tiến hành bầu lại 1/3 tổng số thượng nghị sỹ. Vì vậy, trong mỗi
cuộc bầu cử, các bang chỉ tiến hành bầu một thượng nghị sỹ. Hiện
nay, số thành viên của Thượng viện là 100 đại biểu đại diện cho 50
bang, mỗi bang hai đại biểu, không phân biệt dân số. Ứng cử viên
phải là công dân Mỹ đủ 30 tuổi trở lên, đã có 9 năm mang quốc tịch
Mỹ và cư trú tại bang nơi họ tranh cử. Thượng nghị sỹ đắc cử khi
chiếm đa số phiếu bầu của cử tri đoàn của bang.
IV. Hạ viện:
Theo điêu I khoảng 2 của hiến pháp Hoa kỳ . Hạ viện sẽ gồm có các
thành viên cứ 2 năm một lần được dân chúng ở các bang
bầu ra. Ðại cử tri ở mỗi bang phải có phẩm chất cần thiết
như là phẩm chất của đại cử tri ở bang có cơ quan lập pháp
đông đảo nhất.
Theo ý đồ ban đầu, thành viên của Hạ viện phải là những người gần
gũi với dân chúng, phản ánh mong muốn và nguyện vọng của dân
chúng. Vì vậy, mô hình Hạ viện Mỹ có quy mô tương đối lớn để có
thể phối hợp nhiều thành viên từ các khu vực bầu cử quy mô nhỏ và
tần suất bầu cử ngắn (hai năm một lần). Thành viên Hạ viện do nhân
dân các bang bầu trong cuộc bầu cử phổ thông đầu phiếu. Ứng cử viên
vào Hạ viện phải là công dân Mỹ đủ 25 tuổi trở lên, đã có ít nhất 7
năm mang quốc tịch Mỹ và cư trú tại bang nơi họ ra tranh cử. Số
lượng thành viên Hạ viện là 435 đại biểu đại diện cho 50 bang căn cứ
vào số dân của bang. Căn cứ vào kết quả tổng điều tra dân số được
tiến hành 10 năm một lần, có sự điều chỉnh trong việc phân bổ số đại
biểu cho các bang. Đồng thời, pháp luật quy định không tùy thuộc vào
số dân, mỗi bang được bầu ít nhất một hạ nghị sỹ. Hiện nay, có 6 bang
- Alaska, Delaware, North Dakota, South Dakota, Vermont, Wyoming
- mỗi bang bầu 1 hạ nghị sỹ và bang Caliornia được bầu 45 người theo
tỷ lệ trung bình 1 hạ nghị sỹ đại diện cho khoảng 530.000 dân.
Theo quy định của Hiến pháp, nhiệm kỳ của Hạ viện là hai năm bắt
đầu từ thời điểm Hạ viện tiến hành kỳ họp đầu tiên. Với nhiệm kỳ
ngắn như vậy nên có những khó khăn trong hoạt động của Hạ viện, vì
mỗi nhiệm kỳ Hạ viện phải mất một thời gian để tổ chức bộ máy, các
nghị sỹ vừa trúng cử chưa kịp làm quen với công việc lại phải nghĩ
đến cuộc bầu cử cho nhiệm kỳ mới. Để khắc phục nhược điểm này,
các đảng khi đề cử người làm hạ nghị sỹ thường chọn người có thâm
niên hoạt động lâu năm tại Quốc hội. Theo con số thống kê, trong
khoảng thời gian từ năm 1954 đến 1968, 92% số hạ nghị sỹ tái cử.
C. Tìm hiểu thêm vê Các đạo luật bầu cử ở hoa kì
Đạo luật về quyền bầu cử, còn được gọi là VRA, đã được Quốc hội ban hành trong 1965 (42 USC
1973 để 1973bb-1). Căn cứ VRA, Tổng Chưởng lý cam kết điều tra và kiện tụng trên khắp nước Mỹ
và vùng lãnh thổ của mình, tiến hành rà soát hành chính của những thay đổi trong thực hành biểu
quyết và các thủ tục và giám sát cuộc bầu cử. Các VRA đã được sửa đổi nhiều lần, với những sửa đổi
lớn gần đây nhất trong Đạo luật về quyền bầu cử tái phê chuẩn và việc sửa đổi Đạo luật năm 2006.
Phần 2 của VRA là một lệnh cấm toàn quốc chống thực hành biểu quyết và thủ tục (bao gồm cả kế
hoạch tái phân chia và hệ thống bầu cử lớn, cuộc thăm dò công nhân thuê, và thủ tục đăng ký cử
tri) mà phân biệt đối xử trên cơ sở chủng tộc, màu da hoặc thành viên trong một nhóm thiểu số
ngôn ngữ . Phần 2 cấm không chỉ thực hành cuộc bầu cử liên quan đến thủ tục và giám sát cuộc bầu
cử được dự định là phân biệt chủng tộc phân biệt đối xử, nhưng cũng có những người được hiển thị
để có một kết
Mục 3 và Mục 8 của VRA cho các tòa án liên bang và Tổng chưởng lý, tương ứng, thẩm quyền để
xác nhận các quận trong việc chuyển nhượng của các quan sát liên bang. Quan sát liên bang được
giao cho địa điểm bỏ phiếu để họ có thể theo dõi thực hành cuộc bầu cử ngày để đáp ứng mối quan
tâm về việc tuân thủ các VRA. Nhân viên bộ phận cũng có thể được gửi tới giám sát cuộc bầu cử.
quả phân biệt chủng
Thông tin thêm về giám sát bầu cử
Phần 203 và 4 của VRA đòi hỏi quyền hạn nhất định để cung cấp tài liệu bầu cử bằng văn bản song
ngữ và hỗ trợ bầu cử liên quan đến ngôn ngữ thiểu số được bảo hiểm. Tổng chưởng lý đã công bố
chi tiết hướng dẫn giải thích các yêu cầu ngôn ngữ thiểu số.
tộc phân biệt đối xử
Các Khiếm Luật Bầu cử đồng phục và ở nước ngoài của công dân , cũng được biết đến như
UOCAVA, đã được Quốc hội ban hành năm 1986 (42 USC 1973ff để 1973ff-7). UOCAVA đòi hỏi các
quốc gia và vùng lãnh thổ cho phép công dân Mỹ nào đó khi đang đi từ nhà của họ, bao gồm cả các
thành viên của các dịch vụ mặc đồng phục và biển thương gia, các thành viên gia đình của họ, và
công dân Mỹ, những người đang cư trú ở nước ngoài để đăng ký và bỏ phiếu vắng mặt trong các
cuộc bầu cử liên bang . UOCAVA đã được sửa đổi nhiều lần, với những sửa đổi lớn gần đây nhất
trong quân
Đạo luật Đăng ký quốc gia cử tri , còn được gọi là NVRA hay Đạo Luật cơ Cử tri đã được Quốc hội
ban hành năm 1993 (42 USC 1973gg để 1973gg-10). Các NVRA đòi hỏi các quốc gia để làm cho cơ
hội đăng ký cử tri cho cuộc bầu cử liên bang có sẵn thông qua mail và khi người nộp đơn xin hoặc
nhận được giấy phép lái xe, hỗ trợ công cộng, dịch vụ khuyết tật và các dịch vụ khác của chính
phủ. Các NVRA cũng cung cấp những quy liên quan đến duy trì danh sách đăng ký cử tri cho cuộc
bầu cử liên bang.đội và ở nước ngoài cử tri Empowerment (MOVE) Đạo luật 2009.
ĐẠO LUẬT QUYỀN BẦU CỬ NĂM 1965
Phần 2 của Đạo luật về quyền bầu cử năm 1965 nghiêm cấm việc thực hành bỏ phiếu hoặc các thủ
tục phân biệt đối xử trên cơ sở chủng tộc, màu da, hoặc thành viên trong một trong những nhóm
thiểu số ngôn ngữ được xác định trong mục 4 (f) (2) của Đạo luật. Hầu hết các trường hợp phát sinh
theo Mục 2 kể từ khi ban hành của nó liên quan đến những thách thức để đề án bầu cử tại lớn,
nhưng cấm của phần chống phân biệt đối xử trong cuộc bầu chọn áp dụng toàn quốc để chuẩn bất
kỳ bỏ phiếu, thực hành, hoặc thủ tục có kết quả trong việc từ chối hoặc thu gọn của các bên phải của
bất kỳ công dân đi bỏ phiếu vào tài khoản của chủng tộc, màu da, hoặc thành viên trong một nhóm
ngôn ngữ thiểu số. Phần 2 là vĩnh viễn và không có ngày hết hạn như làm một số quy định khác của
Luật về quyền bầu cử.
. Theo mục 5 , khu vực pháp lý bao phủ bởi những quy định đặc biệt không thể thực hiện bất kỳ
thay đổi ảnh hưởng đến bầu cử cho đến khi Tổng Chưởng lý hoặc Tòa án Quận Hoa Kỳ Quận
Columbia xác định rằng sự thay đổi không có một mục đích phân biệt đối xử và sẽ không có tác
dụng phân biệt đối xử. Ngoài ra, Tổng Chưởng lý có thể chỉ định một quận được bao phủ bởi những
quy định đặc biệt cho việc bổ nhiệm một giám khảo của liên bangđể xem xét trình độ của những
người muốn đăng ký bỏ phiếu. Hơn nữa, trong những quận nơi một người thẩm liên bang đã được
phục vụ, Tổng Chưởng lý có thể yêu cầu các quan sát liên bang giám sát các hoạt động trong phạm
vi địa điểm bỏ phiếu của quận.
ADA Tiêu đề II: Các hoạt động chính phủ tiểu bang và địa phương
Tiêu đề II bao gồm tất cả các hoạt động của Nhà nước và chính quyền địa
phương bất kể kích thước hoặc nhận tài trợ liên bang thực thể chính phủ. Tiêu
đề II đòi hỏi chính quyền bang và địa phương cung cấp cho những người
khuyết tật có cơ hội bình đẳng để được hưởng lợi từ tất cả các chương trình,
dịch vụ của họ, và các hoạt động (ví dụ như giáo dục công cộng, việc làm, giao
thông, giải trí, chăm sóc sức khỏe, dịch vụ xã hội, tòa án, bỏ phiếu, và thị trấn
các cuộc họp).
chính quyền các bang và địa phương được yêu cầu theo tiêu chuẩn kiến trúc cụ
thể trong việc xây dựng mới và sửa đổi của các tòa nhà của họ. Họ cũng phải di
dời chương trình hoặc cung cấp quyền truy cập vào các tòa nhà cũ không thể
tiếp cận và giao tiếp hiệu quả với những người có khuyết tật thính giác, thị
giác, hoặc lời nói. Tổ chức công cộng không cần phải có những hành động đó
sẽ dẫn đến gánh nặng tài chính và hành chính quá mức. Họ được yêu cầu phải
sửa đổi hợp lý để các chính sách, thực hành, và các thủ tục khi cần thiết để
tránh phân biệt đối xử, trừ khi họ có thể chứng minh rằng làm như vậy về cơ
bản sẽ làm thay đổi bản chất của dịch vụ, chương trình, hoặc hoạt động được
cung cấp.
Đạo luật Đăng ký quốc gia cử tri của năm 1993, còn được gọi là "Luật Cử tri
Motor," làm cho nó dễ dàng hơn cho tất cả người Mỹ để thực hiện quyền cơ
bản của họ để bỏ phiếu. Một trong những mục đích cơ bản của luật là để tăng tỷ
lệ đăng ký thấp trong lịch sử của dân tộc thiểu số và người khuyết tật mà là kết
quả của sự phân biệt. Đạo luật Voter tô yêu cầu tất cả các văn phòng của
chương trình vốn Nhà nước mà chủ yếu tham gia trong việc cung cấp dịch vụ
cho người khuyết tật được cung cấp cho tất cả các ứng chương trình với hình
thức đăng ký cử tri, để hỗ trợ họ trong việc hoàn thành các hình thức, và để
truyền tải các hình thức hoàn cho Nhà nước phù hợp chính thức
- Xem thêm -