Sáng kiến kinh nghiệm
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH QUẢNG NAM
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG LÊ QUÝ ĐÔN
--------------------------------- ** -------------------------------
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
*****
TÊN ĐỀ TÀI
NGƯỜI THỰC HIỆN: PHẠM THỊ HỒNG
ĐƠN VỊ: TỔ NGỮ VĂN
NĂM HỌC 2010 – 2011
Phạm Thị Hồng. Trường THPT Lê Quý Đôn
1
Sáng kiến kinh nghiệm
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong lịch sử nhà trường đã tồn tại sai lầm khá lâu là coi học sinh (HS) chủ
yếu như một khách thể, một đối tượng thụ động chịu tác động của giáo viên
(GV). Nhưng trước sự phát triển của xã hội, thời đại, của các khoa học liên
ngành và chuyên ngành, vai trò chủ thể và hoạt động tích cực sáng tạo của HS
trong quá trình dạy học đã được đặc biệt chú ý. Hiện nay, vấn đề phát triển chủ
thể HS đang bùng lên với một sức mạnh mới, trở thành xu thế phổ biến, thu hút
sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà phương pháp, nhà sư phạm học.
Đề cao vai trò chủ thể HS trong quá trình giảng dạy và học tập văn hoá nói
chung, văn học nói riêng chính là tìm một phương hướng cơ bản để nâng cao
hiệu quả dạy học. Phương hướng đó không những phù hợp với yêu cầu của thời
đại khoa học hiện nay mà còn là vấn đề quan điểm nhân văn và nhận thức khoa
học (xây dựng những con người mới tích cực, chủ động, sáng tạo, tự tin vào
năng lực của mình). Chính từ luận điểm này, theo hướng dẫn của Chương trình
ngữ văn trung học phổ thông, Đọc - hiểu văn bản đang được xem là khâu trung
tâm của quá trình dạy học văn, và đổi mới phương pháp dạy học Đọc - hiểu văn
bản văn học là khâu trung tâm của đổi mới phương pháp dạy học văn trong nhà
trường.
CƠ SỞ LÝ LUẬN
TS. Nguyễn Thị Thanh Hương cho rằng: “ Mối quan hệ giữa văn bản - bạn
đọc - học sinh thực chất là mối quan hệ giữa sự tác động của văn bản đến sự
tiếp nhận của bạn đọc”, từ đó xác định GV là “chủ thể tác động và định hướng
quá trình tiếp nhận những tác động thẩm mĩ của một văn bản văn học cho HS”.
“Hoạt động định hướng của GV, theo tác giả là hoạt động hai chiều: định hướng
dạy và định hướng học. Định hướng dạy để dẫn dắt, khêu gợi, định hướng
những rung động thẩm mĩ của HS nhằm giúp các em tiếp nhận các tác động cụ
thể của một văn bản văn học, uốn nắn những sự hiểu sai, hiểu lệch lạc, phát
triển và nâng cao năng lực tiếp nhận của HS. Định hướng học nhằm hoàn thành
tốt ba nhiệm vụ: giáo dục, giáo dưỡng, và phát triển”.
Như vậy, đọc một tác phẩm (TP) văn học, dù ở mức độ nào thì cuối cùng vẫn
phải đi đến mục đích chung là hiểu văn. Khái niệm “hiểu” ở đây không chỉ là
nhận ra kí hiệu và nghĩa của kí hiệu mà còn phán đoán ra ý muốn biểu đạt của
tác giả, tức là đồng cảm và nắm được những thông điệp nghệ thuật mà nhà văn
muốn nói, muốn gửi gắm tới người đọc. Có những lúc nhận ra nghĩa của kí hiệu
và hiểu ý muốn biểu đạt không khó, nhưng trong nhiều trường hợp, để hiểu
đúng văn thật không đơn giản chút nào.
Phạm Thị Hồng. Trường THPT Lê Quý Đôn
2
Sáng kiến kinh nghiệm
CƠ SỞ THỰC TIỄN
Đối với mỗi GV dạy văn, nếu có ý thức nghề nghiệp, sẽ thấy day dứt về tình
trạng dạy văn trong nhiều thập kỷ qua, đặc biệt là những năm gần đây. Thực
trạng HS không học văn, chất lượng môn văn ở trường phổ thông sút kém là bởi
nhiều nguyên nhân, trong đó không thể không nói đến phương pháp dạy học.
Một thực tế là lâu nay chúng ta vẫn quan niệm dạy văn là mô hình “dạy học lấy
thầy giáo làm trung tâm”. Giờ học văn chủ yếu là giờ thầy giảng, trò nghe, trò
ghi chép, học thuộc một cách thụ động. Theo đó, dạy văn là truyền đạt những
điều thầy hiểu về văn cho học trò, ít quan tâm hình thành kỹ năng đọc cho HS,
phát huy suy nghĩ của HS. Đã đến lúc ta phải đổi thay quan niệm dạy học văn,
đổi thay mô hình và phương pháp dạy học văn. Dạy văn hôm nay là dạy HS
Đọc - hiểu văn bản. HS là người chủ động kiến tạo kiến thức văn học trong giờ
học dưới sự tác động của thầy. GS. Trần Đình Sử qua bài viết “Đọc hiểu văn
bản - một khâu đột phá trong nội dung và phương pháp dạy văn hiện nay” đã
nhấn mạnh: “…môn văn trong nhà trường là môn đọc văn. Dạy văn là dạy cho
HS năng lực đọc, kỹ năng đọc để HS có thể đọc - hiểu bất cứ văn bản nào cùng
loại”. Dạy đọc văn theo tác giả, “tức là dạy cho học sinh một hoạt động phải
làm việc với từng con chữ, với câu văn, với dấu phẩy, dấu chấm của văn bản để
hiểu đúng, hiểu sâu văn bản đó”. Đọc - hiểu văn bản là quá trình đối thoại giữa
học sinh, thầy giáo với văn bản. Đó là cuộc đối thoại vượt thời gian, vượt không
gian, vượt chênh lệch lứa tuổi để đến với cái thật, cái đẹp, cái thiện. Muốn dạy
học văn theo phương pháp mới cần phải xây dựng hệ thống kỹ năng đọc - hiểu
văn bản một cách khoa học. Công việc đó đòi hỏi vừa tìm tòi cái mới , vừa kế
thừa mọi yếu tố tích cực trong quá trình dạy học văn truyền thống. Đó là công
việc lâu dài và của đông đảo các nhà giáo dục, chứ không một cá nhân nào có
thể đảm đương được. Tuy vậy, sau hai năm thực hiện hướng dẫn của Chương
trình ngữ văn trung học phổ thông về việc đổi mới phương pháp dạy học văn,
tôi xin mạnh dạn đề xuất các thao tác cơ bản trong hoạt động Đọc - hiểu văn
bản của tiết học Đọc văn (một hoạt động trọng tâm của giờ học) để góp phần
nâng cao hiệu quả của việc dạy và học môn văn.
Phạm Thị Hồng. Trường THPT Lê Quý Đôn
3
Sáng kiến kinh nghiệm
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1/ Tổ chức học sinh tự đọc - hiểu ở nhà
- Tổ chức cho HS tự đọc - hiểu ở nhà là “tạo tiền đề cho việc cảm thụ ở trên lớp”,
góp phần hình thành những cảm xúc, ấn tượng của HS trong bước Đọc - hiểu văn
bản trên lớp ; tự đọc ở nhà là bước “ tập dượt cho sự cảm thụ trên lớp được sâu sắc
hơn”. Trong giờ lên lớp, trên cơ sở những ấn tượng, cảm xúc hình thành được
trong quá trình tự đọc ở nhà của HS, GV “khơi sâu phát triển những ấn tượng đúng
đắn và loại trừ đi những cảm xúc và suy nghĩ ban đầu còn chủ quan lệch lạc về TP,
về tác giả hay về một nhân vật, một chi tiết trong TP”.
- Hoạt động tự đọc ở nhà của HS bao gồm nhiều nội dung hết sức phong phú, đa
dạng đòi hỏi phải có sự định hướng của GV. Ngoài hệ thống câu hỏi đọc hiểu trong
SGK, GV cần phải xây dựng một hệ thống câu hỏi hướng dẫn việc tự đọc hiểu ở
nhà cho HS. Hệ thống câu hỏi này vừa khêu gợi hứng thú, say mê, thích thú, hấp
dẫn HS vừa phải hướng dẫn HS đi vào những vấn đề trung tâm, then chốt của TP,
vừa có tác dụng chuẩn bị cho hoạt động phân tích, khám phá TP của GV và HS
trên lớp.
Ví dụ (giáo án trích ngang): Ở bài học Tam đại con gà, ngoài những câu hỏi đọc
hiểu trong sách giáo khoa, GV hướng dẫn HS về nhà tìm hiểu bài học qua các câu
hỏi sau:
Hoạt động của thầy
Hoạt động của trò
Nội dung
Thầy giáo đặt các câu
hỏi:
- Khái niệm truyện cười. - Truyện cười là những
tác phẩm tự sự dân
gian ngắn, có kết cấu
chặt chẽ, kết thúc bất
ngờ, kể về những sự
việc xấu, trái tự nhiên
trong cuộc sống, có tác
- Những điều kiện tạo ra dụng gây cười, nhằm
tiếng cười trong truyện mục đích giải trí, phê
cười là gì?
phán.
- Cái đáng cười có thể
là một thói xấu (thói
keo kiệt, thói khoe của,
dốt nát…), nhưng chưa
đủ, cần phải tạo ra
hoàn cảnh thích hợp để
hiện tượng mang sẵn
cái đáng cười có điều
kiện tự bộc lộ và bị
Phạm Thị Hồng. Trường THPT Lê Quý Đôn
4
Sáng kiến kinh nghiệm
- Phân loại truyện cười?
HS đào sâu suy nghĩ để
trả lời các câu hỏi trong
quá trình đọc hiểu ở
nhà, nhằm:
- Hiểu được đặc điểm
của văn bản Tam đại
con gà, hiểu được ý
nghĩa sâu xa của vấn đề
qua văn bản…
- Chuẩn bị tâm thế để
tiếp nhận bài ở lớp tốt
hơn.
phát hiện. Trong Tam
đại con gà đặt thầy đồ
dốt vào hoàn cảnh: chữ
kê trong sách Tam
thiên tự (là sách dạy
cho trẻ vỡ lòng) mà
cũng không biết, để
đến nỗi phải bịa đặt
linh tinh.
- Dựa vào mục đích
gây cười, ý nghĩa giáo
dục của truyện cười, ta
có thể chia truyện cười
dân gian Việt Nam ra
làm hai loại:
+ Truyện khôi hài: kể
về những cái đáng cười
do những sai lầm, hớ
hênh, đãng trí hoặc
khuyết tật nào đó của
con người, chủ yếu
nhằm mua vui, giải trí.
+ Truyện trào phúng:
kể về thói hư tật xấu
của con người, ngược
lại điểm đạo đức truyền
thống của nhân dân.
2/ Tổ chức HS đọc - hiểu trên lớp
Tổ chức Đọc - hiểu tác phẩm văn chương trên lớp nhằm giúp HS có thể cắt
nghĩa, lí giải ý nghĩa khách quan của tác phẩm, thâm nhập vào thế giới nghệ thuật,
nắm bắt được thông điệp thẩm mĩ trong tác phẩm. Đồng thời khơi gợi bộc lộ
những tiếp nhận chủ quan của cá nhân HS đối với vấn đề tác giả đặt ra trong tác
phẩm.
a) Đọc diễn cảm
Khi hướng dẫn HS nắm bắt giọng điệu và đọc diễn cảm, GV cần chú ý một số
yêu cầu sau:
- Đảm bảo độ chính xác trong việc nắm bắt giọng điệu và thể hiện bằng giọng đọc
tương ứng. Tránh tình trạng nắm không đúng giọng điệu của bài văn dẫn đến hiểu
không đúng thái độ, tình cảm, tư tưởng của nhà văn.
- Chú ý điều chỉnh, uốn nắn kịp thời những lỗi về ngữ âm, chính tả cho HS trong
quá trình HS đọc diễn cảm.
- Có thể sử dụng những phương tiện kĩ thuật cần thiết để hướng dẫn HS đọc diễn
cảm như: nghe nghệ sĩ ngâm thơ, đọc văn qua máy ghi âm…
Phạm Thị Hồng. Trường THPT Lê Quý Đôn
5
Sáng kiến kinh nghiệm
b) Đọc - hiểu ngôn từ văn bản
So với việc đọc và tìm hiểu chú thích văn bản, việc đọc - hiểu ngôn từ văn bản có
yêu cầu cao hơn. Ở đây chúng ta không chỉ tìm hiểu nghĩa của từng từ riêng lẻ mà
phải hiểu được cách diễn đạt, nắm bắt mạch văn xuyên suốt văn bản, đặc biệt phải
phát hiện ra mạch ngầm văn bản để hiểu được những nét đặc sắc, khác thường, thú
vị trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ của tác giả.
Ví dụ (giáo án trích ngang): Bài học Chiến thắng Mtao-Mxây
Hoạt động của thầy
Thầy giáo cho HS đọc
đoạn: “Đến lúc này
Mtao – Mxây bảo Hơ
Nhị quăng cho hắn
một
miếng
trầu.
Nhưng Đăm Săn đã
đớp được miếng trầu.
Chàng nhai trầu, sức
mạnh chàng tăng lên
gấp bội” (tr.32)
Có thể hiểu: “Đây là
phần thưởng của tình
yêu mà Hơ Nhị tặng
chàng. Do đó khi nhai
trầu, sức mạnh của
Đăm Săn tăng lên, ý
chí chiến đấu trở nên
quyết liệt hơn” được
không?
…
Hoạt động của trò
HS theo dõi.
Nội dung
Hơ Nhị ném trầu cho Mtao-Mxây
chứ không phải cho Đăm Săn.
Đăm Săn chỉ là người đớp được
miếng trầu đó. Vì vậy, không nên
hiểu như thế. Cách hiểu này xa rời
văn bản và dễ dẫn đến ngộ nhận:
Hơ Nhị cũng tích cực góp phần
làm nên chiến thắng của Đăm
Săn.
HS thảo luận và cử
đại diện trả lời câu
hỏi.
…
…
c) Đọc - hiểu hình tượng nghệ thuật
Theo lí thuyết tiếp nhận văn học, đọc là một hoạt động sáng tạo nhưng không
phải là một hoạt động hoàn toàn tự do. Người đọc trước hết bị quy định bởi văn
bản tác phẩm với các mã ngôn từ, mã nghệ thuật. Có những khi, việc đọc - hiểu
một hình tượng nghệ thuật tưởng đơn giản nhưng lại rất phức tạp.
Ví dụ (giáo án trích ngang): Bài học Tấm Cám
Hoạt động của thầy
Hoạt động của trò
Nội dung
Em hãy phát biểu cảm HS thảo luận và phát
nhận của mình về hình biểu ý kiến.
tượng quả thị mà Tấm
hoá thân.
Phạm Thị Hồng. Trường THPT Lê Quý Đôn
6
Sáng kiến kinh nghiệm
…
…
Trong truyện cổ tích
thần kỳ nói chung, mô
típ nhân vật giấu mình
trong vật thiêng vốn là
chi tiết quen thuộc và
mang tính thẩm mĩ cao.
Trong truyện Tấm
Cám, quả thị thể hiện
vẻ đẹp bình dị, không
cao sang quyền quý
nhưng cũng không
nhếch nhác, thể hiện
bước phát triển về nhận
thức của nhân vật (biết
im lặng một cách cần
thiết) chứ không hót
vang như chim vàng
anh, không kẽo kẹt như
chiếc võng hoặc lách
cách như khung cửi.
…
d) Đọc - hiểu tư tưởng tình cảm tác giả
Theo Tiến sĩ, giảng viên Trần Thanh Bình: “Nhà văn sáng tác bao giờ cũng
nhằm thể hiện tư tưởng tình cảm trong tác phẩm. Tư tưởng tình cảm là linh hồn
của tác phẩm”. Vì vậy, Đọc - hiểu văn bản văn học là phải phát hiện được linh hồn
đó. Tuy nhiên tình cảm thường không được tác giả bộc lộ trực tiếp mà được thể
hiện ở giữa lời, ngoài lời.
Việc Đọc - hiểu tư tưởng tình cảm tác giả đòi hỏi phải có năng lực tổng hợp, khái
quát cao. Để phát hiện đúng tư tưởng tình cảm tác giả , người đọc một mặt phải kết
hợp ngôn từ và phương thức thể hiện hình tượng, mặt khác phải từ những phán
đoán về các mối quan hệ giữa các nhân vật, sự kiện, chi tiết…trong tác phẩm.
Ví dụ (giáo án trích ngang): Bài học Tấm Cám
Phạm Thị Hồng. Trường THPT Lê Quý Đôn
7
Sáng kiến kinh nghiệm
Hoạt động của thầy
- Trong truyện cổ tích
Tấm Cám, việc Tấm
chết đi sống lại nhiều
lần, cuối cúng đã tìm
được hạnh phúc mà
không phải đợi đến kiếp
sau như quan niệm về
kiếp luân hồi của nhà
Phật cho thấy quan niệm
của nhân dân ta về hạnh
phúc như thế nào?
- Xây dựng hình tượng
Bụt chỉ hiện lên giúp
Tấm khi Tấm còn là
một cô bé yếu đuối,
nhân dân ta muốn gửi
vào tác phẩm thông điệp
gì?
Hoạt động của trò
HS thảo luận theo
nhóm, cử đại diện trình
bày.
Nội dung
- Quan niệm của nhân dân ta
về hạnh phúc: hạnh phúc
không tồn tại ở đâu xa xôi,
trừu tượng mà tồn tại ở ngay
trong cuộc đời trên cõi trần
thế.
- Chi tiết Bụt chỉ hiện lên giúp
HS thảo luận theo Tấm khi Tấm còn là một cô bé
nhóm đôi và trả lời câu yếu đuối, ngây thơ cho thấy
hỏi.
chính sức sống mãnh liệt của
con người, của cái thiện mới
là nguyên nhân quan trọng
nhất tạo nên chiến thắng cuối
cùng.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Sau nhiều năm học thực hiện phương pháp đổi mới việc dạy học môn văn của
Bộ Giáo dục và Đào tạo, bản thân tôi đã cố gắng tìm tòi, tham khảo các tài liệu về
phương pháp Đọc - hiểu văn bản của các nhà sư phạm, tôi đã chú ý nhấn mạnh các
thao tác trong hoạt động Đọc - hiểu văn bản của tiết Đọc văn (xin được lặp lại,
đây chỉ là các thao tác cơ bản của một hoạt động trong tiết học Đọc văn).
- Với các thao tác này, học sinh đã hiểu sâu về tác phẩm, nắm bắt được những tín
hiệu, thông điệp mà tác giả gửi vào tác phẩm một cách đầy đủ và chính xác hơn, từ
đó mà hình thành và duy trì những ấn tượng nghệ thuật, những rung động mạnh
mẽ về tác phẩm trong HS để HS tiếp tục đi sâu vào những khám phá mới.
- Từ kiến thức về văn bản nói riêng và sự tích hợp về kiến thức giữa các phân môn
Văn - Tiếng Việt - Làm văn nói chung, qua các thao tác của hoạt động Đọc - hiểu
văn bản nói trên, HS sẽ vững vàng và thực hiện tốt các câu hỏi trong đề bài kiểm
tra.
- Sau nhiều năm ứng dụng các thao tác cơ bản trong hoạt động Đọc - hiểu văn
bản của tiết Đọc văn, kết quả về bộ môn văn ở các lớp mà tôi đã dạy đạt được kết
quả khá cao. Trong các học kỳ, đã có nhiều lớp đạt tỷ lệ cao nhất khối
KẾT LUẬN
Phạm Thị Hồng. Trường THPT Lê Quý Đôn
8
Sáng kiến kinh nghiệm
Đọc - hiểu văn bản là hoạt động trung tâm của hoạt động dạy học Văn đổi
mới, bởi vì nội dung trọng tâm của phần Văn trong bài học Ngữ văn là “Đọc hiểu văn bản”. Mục đích của việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ
thông là thay đổi lối dạy học truyền thụ một chiều sang dạy học theo “phương pháp
dạy học tích cực” nhằm giúp HS phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng
tạo, rèn luyện thói quen và khả năng tự học… Muốn đổi mới cách học phải đổi
mới cách dạy, trong đó đổi mới dạy học Văn thông qua hoạt động Đọc - hiểu văn
bản là một biểu hiện cụ thể và trực tiếp.
Hy vọng những vấn đề đổi mới phương pháp dạy học Văn sẽ tiếp tục thu hút
sự quan tâm, chú ý của các thầy cô giáo.
ĐỀ NGHỊ
- Đọc - hiểu văn bản là hoạt động đọc văn một cách nghiêm túc, có nghiền ngẫm,
cảm xúc, tưởng tượng và liên tưởng. Bản chất Đọc - hiểu là tìm hiểu phân tích để
chiếm lĩnh văn bản bằng nhiều biện pháp và hình thức dạy học văn. Như vậy cần
hiểu được Đọc - hiểu văn bản có nội hàm phong phú hơn, sâu sắc hơn các khái
niệm giảng văn, phân tích văn học lâu nay quen dùng.
- Để phát huy cá tính sáng tạo của HS trong hoạt động Đọc - hiểu văn bản, thầy
giáo phải coi trọng cách cảm thụ, thể nghiệm, lí giải chủ quan của HS, từ đó mà
nâng trình độ của HS lên trình độ khoa học. Khích lệ HS nêu thắc mắc, nêu cách
hiểu khác,…để tạo hứng thú trong giờ học. Muốn vậy HS phải chuẩn bị bước Đọc
- hiểu ở nhà thật kỹ và GV cũng phải phát huy cá tính của riêng mình trong giờ
dạy.
- Trong đổi mới phương pháp phải có sự hợp tác của thầy và trò, sự phối hợp hoạt
động dạy với hoạt động học sẽ đem lại kết quả cao trong quá trình dạy học.
- Nâng cao tính khoa học, đối thoại, tư duy, tưởng tượng đều phải dựa vào thực tế
văn bản, không suy diễn tuỳ tiện. Đối thoại từ các vấn đề của văn bản, tạo nên cuộc
trò chuyện thú vị giữa thầy và trò. Sự Đọc - hiểu thông qua quá trình đối thoại mà
được thực hiện. Đọc phải chuẩn xác, đúng đắn: đọc đúng chữ, đúng âm; hiểu đúng
từ ngữ, nắm đúng đại ý. Suy nghĩ về văn bản không thoát ly ngôn từ. Đồng thời
phải biết đọc sáng tạo: HS chủ động, tự mình cảm thụ được ý nghĩa của hình
tượng, cảm nhận được cái hay của ngôn từ, thể nghiệm được tình huống trong tác
phẩm một cách tự do, biết dùng ngôn từ của mình để giải thích cái hay của hình
tượng và ngôn từ trong văn bản.
- Cách dạy quyết định cách học, tuy nhiên thói quen học tập thụ động của HS cũng
ảnh hưởng đến cách dạy của thầy. Do vậy GV cần phải kiên trì cách dạy theo
phương pháp dạy học tích cực.
Nếu được coi trọng bồi dưỡng năng lực đọc - hiểu văn bản thì HS chẳng những
ghi nhớ được kiến thức thầy dạy, mà sẽ phát huy, mở rộng được kiến thức đã học,
tự bồi dưỡng thêm nhiều kiến thức mới.
Phạm Thị Hồng. Trường THPT Lê Quý Đôn
9
Sáng kiến kinh nghiệm
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Trần Thanh Bình
Mấy ý kiến về đọc - hiểu văn bản văn học Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ
văn 10 (chương trình chuẩn), Khoa Ngữ văn, Đại học Quy Nhơn – 30 năm nghiên
cứu và giảng dạy, NXB Giáo dục, năm 2007.
2. ThS. Trần Đình Chung
Tiến tới một quy trình “đọc - hiểu văn bản” trong bài học Ngữ văn mới. Văn
học và tuổi trẻ, NXB Giáo dục, tháng 2 - 2004.
3. GS.TS. Trần Đình Sử
Phạm Thị Hồng. Trường THPT Lê Quý Đôn
10
Sáng kiến kinh nghiệm
Dạy học văn là dạy học sinh đọc - hiểu văn bản. Văn học và tuổi trẻ, NXB Giáo
dục, tháng 9 – 2007.
MỤC LỤC
Trang
1.
2.
3.
4.
5.
6.
Đặt vấn đề …………………………………………………… 1
Cơ sở lý luận ………………………………………………… 1
Cơ sở thực tiễn ………………………………………………. 2
Nội dung nghiên cứu ………………………………………… 3
Kết quả nghiên cứu ………………………………………….. 6
Kết luận ……………………………………………………… 7
Phạm Thị Hồng. Trường THPT Lê Quý Đôn
11
Sáng kiến kinh nghiệm
7.
8.
Đề nghị ……………………………………………………….
Tài liệu tham khảo ……………………………………………
7
9
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
PHIẾU ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Năm học: 2010 - 2011
I. Đánh giá xếp loại của HĐKH Trường THPT Lê Quý Đôn
1. Tên đề tài: Thực hiện các thao tác cơ bản trong hoạt động Đọc - hiểu văn bản của
tiết Đọc văn
2. Họ và tên tác giả: Phạm Thị Hồng
Phạm Thị Hồng. Trường THPT Lê Quý Đôn
12
Sáng kiến kinh nghiệm
3. Chức vụ: Tổ trưởng
Tổ: Ngữ văn
4. Nhận xét của Chủ tịch HĐKH về đề tài:
a) Ưu điểm: ......................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
b) Hạn chế: ......................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
5. Đánh giá, xếp loại:
Sau khi thẩm định, đánh giá đề tài trên, HĐKH Trường (Trung tâm):..................
...........................................................................................................................................
thống nhất xếp loại : .....................
Những người thẩm định:
Chủ tịch HĐKH
(Ký, ghi rõ họ tên)
(Ký, đóng dấu, ghi rõ họ tên)
............................................................
............................................................
............................................................
II. Đánh giá, xếp loại của HĐKH Sở GD&ĐT Quảng Nam
Sau khi thẩm định, đánh giá đề tài trên, HĐKH Sở GD&ĐT Quảng Nam thống
nhất xếp loại: ...............
Những người thẩm định:
Chủ tịch HĐKH
(Ký, ghi rõ họ tên)
(Ký, đóng dấu, ghi rõ họ tên)
............................................................
............................................................
Phạm Thị Hồng. Trường THPT Lê Quý Đôn
13
- Xem thêm -