Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học phổ thông Chuyên đề 10 tổ chức phục vụ sản xuất xây dựng...

Tài liệu Chuyên đề 10 tổ chức phục vụ sản xuất xây dựng

.DOC
92
104
100

Mô tả:

CHUYÊN ĐỀ 10: TỔ CHỨC PHỤC VỤ SẢN XUẤT XÂY DỰNG PGS Lê Kiều soạn và giảng 1. Lập tổng mặt bằng xây dựng 1.1. Các thành tố của tổng mặt bằng xây dựng: Thiết kế tổng mặt bằng xây dựng nhằm đáp ứng các điều kiện phục vụ thi công thuận lợi nhất. Các thành tố cơ bản của tổng mặt bằng là:  Các công trình chính phải thi công  Hệ thống đường xá phục vụ thi công  Hệ thống cung cấp năng lượng, cấp điện cho mọi nhu cầu sản xuất, sinh hoạt và bảo vệ trên công trường  Hệ thống thoát nước cho công trường  Hệ thống cấp nước cho công trường  Hệ thống phòng chống cháy, chống nổ  Hệ thống kho , bãi cất chứa vật liệu  Hệ thống các nhà sản xuất , xưởng gia công phục vụ thi công chính  Bể ngâm tẩm gỗ, nơi nấu bitum, bể tôi vôi  Hệ thống nhà tạm phục vụ các công tác điều hành sản xuất , thi công trên công trường  Hệ thống bảo đảm thông tin liên lạc đối nội và đối ngoại của công trường  Hệ thống nhà phục vụ công nhân sinh hoạt tạm thời khi sản xuất trên công trường.  Hệ thống nhà vệ sinh cho công nhân sử dụng trong lúc sản xuất  Cổng bảo vệ, hàng rào địa giới xây dựng, bảng hiệu bên ngoài, bên trong. 1.2 Các yêu cầu của tổng mặt bằng: Thiết kế tổng mặt bằng phải đáp ứng các yêu cầu sau đây:  Sự sắp xếp các thành tố trên tổng mặt bằng phải phục vụ thi công thuận lợi nhất.  Sự sắp xếp các thành tố tổng mặt bằng phải bảo đảm an toàn tuyệt đối trong quá trình thi công. Không có sự chồng chéo, cản trở lẫn nhau giữa các thành tố. Phải bảo đảm các nguyên tắc về an toàn lao động.  Các thành tố được sắp xếp trên tổng mặt bằng phải được cân nhắc, chỉ đưa vào tổng mặt bằng những thành tố thật cần thiết. Cần tính toán hiệu quả kinh tế khi lựa chọn vị trí, khoảng cách vận chuyển đối ngoại và đối nội khi sắp xếp các thành tố trên tổng mặt bằng. 1.3 Sắp xếp các thành tố của tổng mặt bằng vào vị trí:  Căn cứ vào công trình vĩnh cửu phải xây dựng, căn cứ vào lối trổ ra giao thông đối ngoại , vạch tuyến đường thi công. Đường thi công cần ngắn nhất nhưng đủ phục vụ tốt được quá trình thi công. Thiết kế đường đã trình bày ở mục 3.4.6 .  Căn cứ vào tuyến đường thi công, sắp xếp các thành tố khác như lán trại, kho tàng, đường điện, đường nước, đường liên lạc, đường thoát nước, sân bãi. Gần như mọi thành tố của tổng mặt bằng đều có sự gắn kết chặt chẽ với hệ thống đường. Mọi hệ thống cần cân nhắc trên tổng độ dài của mạng lưới, dựa vào quan điểm tạo thuận lợi nhất khi giao nhận hàng hoá, khi bốc xếp và điều hết sức quan trọng là sản xuất phải bảo đảm an toàn lao động. Trên quan điểm an toàn khi thiết kế tổng mặt bằng cần xem xét kỹ các vấn đề: + Trình tự thi công , các công tác xây dựng bắt buộc phải tuân theo và hết sức chú ý đến những nguyên công hay quy trình có khả năng gây nguy hiểm. + Lối vào công trình hoặc đường vòng tránh nơi nguy hiểm cho công nhân. Lối đi lại phải quang đãng, không có chướng ngại vật, chú ý đến các yếu tố nguy hiểm như vật liệu rơi, máy nâng vật hay xe cộ. Cần làm những thông báo hay chỉ dẫn thích hợp về an toàn. Những nơi để thông báo được đánh dấu trên tổng mặt bằng. Cần bố trí lối vào, ra cho trường hợp khẩn cấp, cấp cứu.Tại những nơi nguy hiểm có rào chắn bảo vệ, biên lan can, cầu thang . Những nơi có độ sâu quá 2 mét phải có rào chắn. + Đường nội bộ cho xe cộ lưu thông nên bố trí 1 chiều và có đường vòng. Tắc nghẽn lối đi hay gây mất an toàn cho công nhân, nhất là khi tài xế thiếu kiên nhẫn khi bốc rỡ hàng. + Cất chứa vật liệu, thiết bị càng gần nơi sản xuất tương ứng càng tốt. Khi diện tích công trường bị hạn chế, lập lịch cung ứng phù hợp. Bài toán dự trữ vật tư đã trình bày ở phần trên. + Bố trí máy thi công phụ thuộc vào công tác cần thiết. Việc lựa chọn vị trí cần xét tới yếu tố sử dụng đồng thời xét đến các yếu tố an toàn. Cần vạch ra phạm vi hoạt động của máy để xác định vùng khả dĩ nguy hiểm cho các hoạt động khác phối hợp hay dưới tầm với của máy móc như cần trục tháp, máy bơm bê tông, máy vận thăng, máy đào đất các loại. + Các xưởng, các bãi sản xuất, gia công cố gắng để có thể lưu giữ xuốt đời công trường. Càng ít di chuyển càng đỡ chi phí xây dựng tạm nhưng cũng không quá câu nệ , không dám di chuyển để ảnh hưởng đến các quá trình thi công khác nhau diễn ra theo nhiều thời gian khác nhau. + Cần chú ý đến những khu vệ sinh, nơi chăm sóc y tế, sức khoẻ của công nhân. Những vị trí này dễ phát hiện nhưng phải ở nơi an toàn và xe cộ ra vào để cấp cứu thuận tiện. + Những nơi sinh bụi như bãi cát, nơi có thể sinh khói, hơi độc hại như nơi ngâm tẩm gỗ, nơi tôi vôi phải chú ý hướng gió. Không để gió hắt những loại bụi, hơi gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ công nhân vào khu vực sản xuất, sinh hoạt của người. Nhất thiết khi thiết kế tổng mặt bằng phải sử dụng hoa gió tại địa phương để sắp xếp vị trí các thành tố của tổng mặt bằng. + Phải đảm bảo ánh sáng cho mọi điểm sản xuất. Nơi nào không bố trí được ánh sáng thiên nhiên, phải bố trí ánh sáng nhân tạo đủ cho sản xuất an toàn. + Hàng rào công trường phải theo đúng các quy định cho từng khu vực xây dựng. Thí dụ khu vực xây dựng là trong đô thị, hàng rào phải cao trên 2 mét. chắc chắn và kín khít để bên trong và bên ngoài công trường không nhìn thấy nhau. Cần chú ý che chắn trên cao , nhất là che chắn để rác xây dựng, gạch, ngói, mẩu gỗ không rơi sang nhà liền kề.  Hoa gió : Hoa gió là cách thể hiện các loại biểu đồ về gió tại một địa phương. Hiện nay sử dụng hai loại hoa gió cơ bản là hoa tần suất gió và hoa tốc độ gió. Từ số liệu thống kê nhiều năm về tần suất gió và về tốc độ gió của từng địa phương mà đưa thành tiêu chuẩn, do các đài khí tượng cung cấp nhiều năm để vẽ thành hoa gió. Hướng gió tới biểu diễn bằng tên của phương vị theo địa lý thổi tới nơi quan trắc. Chẳng hạn, gió từ phương Bắc thổi tới được gọi là gió Bắc, từ hướng Tây tới , được gọi là gió Tây... Để biểu diễn hướng gió ta thường dùng 8 hướng chính gọi tắt bằng chữ cái Việt hay La tinh. Bốn hướng cơ bản là: B-Bắc, Đ-Đông, N-Nam, T- Tây hoặc theo tiếng Anh như : N- North ( Bắc), E- East (Đông), S- South (Nam) và W- West ( Tây). Những hướng tiếp theo là Đông Bắc ( N-E North East ), Đông Nam ( N-E South East), Tây Nam ( S-W South West )và Tây Bắc ( N-W North West). Còn có thể biểu diễn cách khác, đó là biểu diễn bằng độ của vòng tròn chân trời mà lấy hướng Bắc là xuất phát rồi quay theo chiêù kim đồng hồ để tính tiếp. Như thế, Bắc được đồng nghĩa với 0o ( hoặc là 360o) Đông là 90 o Nam là 180 o còn Tây là 270 o. Tốc độ gió đo bằng mét trong một giây ( m/gy) nhưng trong một số trường hợp tốc độ gió được đo bằng kilômét trong một giờ ( km/giờ ). Đôi khi người ta biểu diễn tốc độ gió theo những đơn vị qui ước: cấp gió, bấy giờ người ta gọi tốc độ gió là sức gió. Hoa gió hay dùng phổ biến trên tổng mặt bằng là một dạng biểu đồ thể hiện tần suất gió. Đó là số lần xuất hiện gió theo hướng nào đó thổi tới nơi quan trắc. Còn có dạng hoa gió thể hiện tốc độ gió. Hướng theo phương vị là hướng gió tới. Độ dài tính từ tâm của hoa gió ra theo hướng thể hiện độ lớn của tần suất hay độ lớn của tốc độ gió tuỳ theo hoa gió này thể hiện đại lượng nào. Hiện nay ta đang sử dụng tiêu chuẩn “Số liệu khí hậu dùng trong thiết kế xây dựng tcvn 4088-85 ” là tiêu chuẩn hiện hành về số liệu khí hậu nước ta vẽ thành hoa gió . Thí dụ về hoa gió: Đây là hoa tần suất gió toàn năm vẽ cho khu vực Hà nội , số liệu để vẽ dựa vào tiêu chuẩn số liệu trong TCVN 4088-85. Theo biểu đồ này thì tính bình quân trong năm, số ngày có gió theo hướng Đông Nam nhiều. Tuy nhiên vào mùa Đông, cũng có nhiều ngày gió Đông-Bắc. Bố trí tổng mặt bằng xây dựng cần căn cứ vào biểu đồ hoa gió, tránh sắp xếp tuỳ tiện. B Phải căn cứ vào hoa gió để sắp xếp vị trí các thành tố phục vụ xây dựng như nhà sản xuất, kho bãi vật liệu rời, khu vệ sinh, nơi mà quá trình vận hành sẽ sinh ra chất độc hại như khu vực ngâm tẩm gỗ, nơi nấu bitum, nơi tôi vôi, nơi chứa xăng, dầu, mỡ , khu làm việc, khu phục vụ sinh hoạt của công nhân. Loại nhà phục vụ nào cần thoáng, mát, nơi nào sinh bụi, sinh độc phải căn cứ vào đặc tính để lựa chọn vị trí cho hợp lý, xét theo quan điểm gió thổi. Kết hợp sao để vị trí công trình phục vụ được thuận lợi cho sản xuất đồng thời đáp ứng các yêu cầu về an toàn lao động và vệ sinh, là sự kết hợp rất không đơn giản. Đặt từng công trình phục vụ vào từng vị trí phải xem xét nhiều mặt. Sự dễ dãi sẽ làm mất đi tiện nghi phục vụ sản xuất hay kém đi điều kiện vệ sinh, an toàn là sự thường gặp khi bố trí tổng mặt bằng. Các yêu cầu khi sắp xếp tổng mặt bằng cần được đồng thời nghiên cứu và phải đáp ứng. 2. Nhiệm vụ, nội dung và kế hoạch hoá việc tổ chức cung ứng vật tư 2.1 Nhiệm vụ của công tác cung ứng vật tư Công tác cung ứng vật tư là khâu hết sức quan trọng trong tổ chức sản xuất xây dựng. Công tác cung ứng vật tư có nhiệm vụ đáp ứng các yêu cầu về vật tư phục vụ cho sản xuất của đơn vị. Vật tư phục vụ cho sản xuất phải được đáp ứng đúng chủng loại, có chất lượng theo các yêu cầu của sản xuất, đủ về số lượng, đúng thời gian và dĩ nhiên là giá cả trong phạm vi được phép. Nhiệm vụ của công tác cung ứng vật tư là việc thu mua, vận chuyển, cất chứa và chuyển giao cho sử dụng. 2.2 Nội dung của công tác cung ứng vật tư + Tổ chức thu mua Tổ chức thu mua có thể là công ty nằm trong tổng công ty xây dựng hoặc chỉ là đơn vị phòng trong một công ty. Nếu đơn vị thu mua là một công ty thì công ty này hoạt động như một đơn vị hạch toán độc lập, việc kinh doanh hoàn toàn tự chủ nhưng nhiệm vụ chủ yếu là sản xuất, thu mua vật tư để cung ứng nguồn hàng cho các đơn vị xây lắp thuộc tổng công ty. Đơn vị thu mua vật tư là một phòng của một công ty thì việc hạch toán do công ty đảm nhiệm. Lúc này, nhiệm vụ thu mua cũng là nhiệm vụ của chung của công ty và việc phục vụ cho sản xuất của các bộ phận xây lắp là nhiệm vụ chủ chốt của đơn vị cung ứng vật tư. + Các yêu cầu của công tác thu mua : - Thu mua đúng chủng loại vật tư yêu cầu : vật tư được thu mua đúng loại hàng, đạt các tiêu chí về chất lượng như tính chất cơ lý hoá học, hình dạng, độ kỹ gia công. Vật tư mua phải khớp với mẫu mã chào hàng của nhà sản xuất đã được thoả thuận giữa những người thương thảo và ký kết hợp đồng. Hàng hoá phải có catalogues in ấn chính thức kèm theo. Hàng hoá phải có bao bì hợp cách để tiện cho công tác vận chuyển và bảo quản. Về nguyên tắc người bán phải chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hoá bán, nhưng người mua phải kiểm tra chất lượng cẩn thận trước khi nhận hàng. Hàng hoá phải được người bán tự kiểm tra chất lượng trước khi giao hàng và có chứng thực bằng văn bản đã kiểm tra chất lượng. Khi có nghi ngờ về chất lượng, người mua có quyền chỉ định đơn vị có chức năng kiểm định chất lượng hợp pháp kiểm tra lại chất lượng, chi phí kiểm định này do người bán hàng phải trả. Nếu hàng hoá mà người bán là đại lý bán hàng, người bán phải có văn bản do nhà sản xuất đồng ý cho người đại lý được chính thức bán sản phẩm của họ. Không thu mua hàng trôi nổi trên thị trường mà không có xuất sứ rõ ràng. - Thu mua đủ số lượng vật tư yêu cầu : Hàng hoá giao nhận phải được cân đo theo đúng quy định trong hợp đồng thu mua. Không được áng chừng hoặc có những thoả thuận không được ghi trong văn bản hợp đồng thu mua hàng hoá. Số lượng phải phù hợp với số lượng ghi trong hợp đồng. Đơn giá để thanh toán phải phù hợp với chất lượng đã quy định và khớp với các điều kiện hợp đồng. Khi phát hiện thấy điều kiện chất lượng không khớp với hợp đồng thu mua đã ký kết, cần có văn bản ghi nhận sự khác biệt và có điều chỉnh đơn giá theo thực tiễn. - Giao hàng đúng hạn theo yêu cầu Hàng hoá giao nhận phải đúng hạn. Thời hạn giao nhận hàng đã được tính toán sao cho thời gian cất chứa tại công trường là ngắn nhất. Lưu giữ vật tư lâu ở công trường, chưa đưa vào sử dụng phải chịu chi phí bảo quản tăng, tăng diện tích cất chứa và dễ bị những rủi ro về bảo quản, về lưu giữ. Thời hạn định ra để nhận hàng đã tính toán phục vụ thi công sát ngày. Nếu chậm trễ sẽ gây ra chờ đợi giữa các bộ phận thi công với nhau hoặc nhỡ nhàng trong việc sử dụng máy móc, phương tiện đã bố trí hợp đồng rất ăn khớp trong tiến độ chung. - Vận chuyển an toàn Quá trình vận chuyển vật tư đến giao cho công trường phải đảm bảo thật an toàn. Vận chuyển không an toàn sẽ làm thiếu hụt vật tư đã được trù liệu sát với số lượng sử dụng. Khi thiếu hụt vật tư do vận chuyển không an toàn đem lại sẽ phải mất công đàm phán giữa các bên hữu quan về lượng bổ sung và phải có thời gian để bổ sung vật liệu. Điều này dẫn đến làm chậm trễ thời gian giao nhận, ảnh hưởng đến tiến độ thi công hay sản xuất của doanh nghiệp. Những hàng hoá giao không đúng hạn phải lập biên bản sử lý ngay. Những hàng hoá bị hư hỏng do vận chuyển phải lập hồ sơ và sử lý kịp thời. Nếu thiếu hụt phải được bổ sung ngay. Khi chất lượng thay đổi, phải có giải pháp thích hợp để sử lý, không để ảnh hưởng đến tiến độ thi công vì vật tư thiếu hoặc không đáp ứng yêu cầu. - Giao nhận an toàn Việc giao nhận vật tư, hàng hoá phải căn cứ vào hợp đồng mua sắm và hợp đồng vận chuyển. Trước hết bên nhận phải nhận hồ sơ, chứng từ giao hàng bao gồm phiêú giao hàng, hoá đơn, catalogues. Sau đó phải xem xét tổng thể xe chở đến để có nhận định sơ bộ là hàng hoá còn nguyên đai, nguyên kiện, kẹp chì, khoá, chốt có nguyên vẹn không. Với hàng hoá cồng kềnh, dễ vỡ hay hàng cần có chế độ bảo quản chăm sóc đặc biệt cần hết sức chú ý khâu quan sát tổng thể tình trạng xe đến. Sau đó đến đối chiếu với đơn hàng , kiểm tra chi tiết việc giao nhận. Nếu có nghi ngờ về chất lượng, số lượng cần lập biên bản ngay tại chỗ và có hướng giải quyết tức thời. +. Các hình thức thu mua : *Thu mua qua đấu thầu Khi lượng vật tư mua sắm nhiều, có giá trị lớn, cần tiến hành tổ chức đấu thầu cung cấp nhằm tạo ra sự cạnh tranh, mang đến lợi ích là chất lượng vật tư được cung ứng đảm bảo, số lượng đầy đủ, giá thành hạ. Các phương thức thầu hay được sử dụng trong thu mua vật tư là: - Đấu thầu trọn gói theo hình thức rộng rãi hoặc hạn chế nhà cung cấp: Việc tổ chức đấu thầu theo đúng các bước ghi trong Nghị định 88/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế Đấu thầu và Nghị định số 14/2000/ NĐ-CP ngày 05/5/2000 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế Đấu thầu. - Đấu thầu chào hàng cạnh tranh: Khi số lượng cũng như giá trị thu mua chưa đủ mức đấu thầu, có thể gọi thầu chào hàng cạnh tranh. Chào hàng cạnh tranh, bên thu mua cũng phải lập hồ sơ mời thầu và nêu rõ các yêu cầu chất lượng, số lượng, thời hạn cũng như các ràng buộc khác cho bên chào hàng. Người chào hàng nào đáp ứng các tiêu chí về chất lượng, số lượng , giá phải chăng thì được mời ký kết hợp đồng cung ứng. *Thu mua theo đơn đặt hàng: Đối với hàng hoá đặc chủng, không phổ biến trên thị trường hoặc có các yêu cầu đặc biệt về chất lượng bên thu mua có thể yêu cầu được cung ứng dưới hình thức đơn đặt hàng. Nơi được yêu cầu cung ứng theo đơn đặt hàng thường phải là nơi sản xuất chuyên trách, có sở trường cũng như năng lực cung ứng loại hàng đặc chủng được yêu cầu. Những mặt hàng còn đang trong giai đoạn sản xuất thí điểm hoặc còn đang trải qua giai đoạn thí nghiệm để hoàn chỉnh được khuyến khích cung ứng theo đơn đặt hàng. Cũng có thể có những mặt hàng không sản xuất đại trà vì nhu cầu cung ứng chung của xã hội không lớn nhưng nếu đơn vị sử dụng có yêu cầu, có thể đặt mua theo đơn đặt hàng. Thí dụ như khi cần thi công công trình biển mà đơn vị thu mua cần sử dụng xi măng bền sunphát, có thể yêu cầu nhà máy sản xuất xi măng sản xuất đặc thù một số lượng xi măng như yêu cầu. * Thu mua lẻ Khi khối lượng hoặc giá trị thu mua nhỏ, mặt hàng thu mua đơn chiếc có thể thu mua lẻ. Khi thu mua lẻ cũng phải khảo sát thị trường để nắm được tình hình tồn tại mặt hàng cần tìm có trên địa bàn, cần giá cả hợp lý của mặt hàng để tránh sự thu mua chủ quan. Cần có khâu khảo sát để tìm hiểu thị trường về loại hàng hoá cần thu mua. Chất lượng hàng hoá , sự phù hợp của catalogue với các yêu cầu sử dụng là tiêu chí hàng đầu để quyết định thu mua. Không vì thu mua lẻ mà nhân nhượng các tiêu chí tiêu chuẩn chất lượng sử dụng. Từng món hàng thu mua đúng hoặc thấp hơn giá dự toán thì tổng chi phí cho sản xuất mới không vượt dự toán. Nhân nhượng về giá cả sẽ kéo theo sự vượt dự toán. Tuy nhiên việc quyết định phải cân nhắc trên thế tổng thể và sự việc toàn cục. Cần cân nhắc , không vì một mặt hàng mà làm toàn bộ hay nhiều công việc bị ách tắc. Cân nhắc trên sự tăng giá của một số mặt hàng thu mua làm ảnh hưởng đến toàn cục ra sao. Phải tính được cái giá của thời gian để xem lợi hay hại khi phải quyết định những việc ngoài dự kiến. Câu chuyện Điền Kỵ có Tôn Tẫn là quân sư thi ngựa với vua nước Tề thời Chiến Quốc bên Trung Quốc luôn nhắc nhở người quản lý phải nhìn cái lợi tổng thể khi quyết định chiến thuật sản xuất hay hành động. 2.3 Tổ chức vận chuyển Đặc điểm của sản phẩm xây dựng là kích thước lớn, thời gian thi công dài và gắn liền với mặt đất nên công tác vận chuyển trong công nghiệp xây dựng là hết sức quan trọng. Tổ chức vận chuyển có hiệu quả đem đến lợi ích là giảm chi phí sản xuất và đảm bảo chất lượng hàng hoá, vật tư trong xây dựng. Công tác vận chuyển bao gồm vận chuyển hàng hoá, vật tư từ bên ngoài vào công trường được gọi là vận chuyển đối ngoại và vận chuyển bên trong công trường được gọi và vận chuyển nội bộ. Cả hai loại vận chuyển đều có ý nghĩa quan trọng như nhau. Để vận chuyển vật tư từ bên ngoài vào trong công trường có các hình thức khác nhau tuỳ theo phương thức giao nhận hàng được ký kết trong hợp đồng mua bán. Nếu điều kiện mua bán ghi rõ phương thức giao hàng tại công trường thì việc vận chuyển do người bán hàng chịu trách nhiệm. Nếu điều kiện mua bán ghi rằng người nhận hàng tại nơi bán thì bên thu mua phải tổ chức vận chuyển. Hình thức tổ chức vận chuyển có thể là dạng hợp đồng, có thể là dạng tự vận chuyển. Nếu tổ chức vận chuyển theo dạng hợp đồng, bên thuê phải nêu đầy đủ quy cách và số lượng vật tư được chuyển, phương thức bốc dỡ hàng, phương thức chuyên chở, phương thức giao nhận, trách nhiệm bảo quản hàng hoá khi di chuyển trên đường và khi giao nhận, phương thức thanh toán cũng như trách nhiệm các mặt khác liên quan của bên thuê và bên thực hiện. Nếu vật tư được bên mua tự vận chuyển thì bộ phận chuyên chở phải chịu trách nhiệm từ khâu giao nhận hàng với người bán đến khi đưa hàng về, giao cho thủ kho lưu giữ hoặc cho bộ phận sử dụng ở khâu sản xuất. Về hình thức có thể vận chuyển theo phương tiện chuyên trách như vận chuyển bằng ô tô, vận chuyển bằng tàu hoả, vận chuyển bằng tàu thuyền đường thuỷ... Nếu đường vận chuyển xa , trong vận chuyển cần tính toán sao cho chi phí vận chuyển là thấp nhất kể cả phương thức vận chuyển liên hợp, sử dụng các phương tiện chuyên chở thích hợp với các cung đường. Về tổ chức vận chuyển có thể tổ chức trọn gói từ bốc xếp, di chuyển và hạ hàng, giao nhận. Nếu có cung ứng viên quen thuộc đường xá và nghiệp vụ giỏi có thể tách từng khâu trong tổng thể các công đoạn vận chuyển để giao việc theo từng công đoạn như bốc xếp, di chuyển, xuống hàng. Trong quá trình vận chuyển hàng, có khi phải tổ chức vận chuyển từng công đoạn khi phải chuyển tải, khi phải bốc xếp. Trong tổ chức vận chuyển phải luôn luôn đề phòng các sự cố trong quá trình vận chuyển . Khi lập phương án vận chuyển , phải nêu ra các khả năng làm ách tắc vận chuyển và đề ra phương án đối phó với những ách tắc này. Những khả năng hay xảy ra trong công tác vận chuyển thường là: + Không đủ hàng để chuyên chở. + Phương tiện bốc xếp không đáp ứng thời gian. + Đường sá xấu, không bảo đảm tốc độ di chuyển. Đường sá bị ngập, lụt cục bộ và các sự cố về đường sá đột ngột, không lường trước được như mưa gió, xạt lở đường bất ngờ. + Mất mát hàng hoá giữa đường. + Xe bị hỏng khi đang di chuyển. + Tai nạn giao thông khi xe đang di chuyển. + Xe bị giữ do vi phạm luật lệ giao thông trong quá trình di chuyển. Ngay khi lập phương án vận chuyển cần có các giải pháp ứng phó với từng sự cố khả dĩ xảy ra trong quá trình vận chuyển. Thí dụ như với sự cố thiếu hàng chuyên chở, giải pháp đối phó là kết hợp nhiều nguồn hàng để khi thiếu hàng, phải chuyên chở kết hợp cho đủ chuyến xe. Với sự thiếu phương tiện bốc xếp, cho phép bốc xếp ngoài giờ hoặc kết hợp bốc cơ giới với thủ công, sao cho thời gian bốc xếp hàng lên xe là nhanh nhất. Để đối phó với khả năng bị mất hàng khi đi đường, phải để hàng trong thùng xe có lưới bảo vệ, lưới này quây kín và có khoá bảo vệ hàng. Lường trước khả năng khó khăn và biện pháp đối phó sẽ tránh được đến mức tối đa sự cố trong vận chuyển hàng hoá. Cần lập bản đồ di chuyển để theo dõi lộ trình di chuyển cho từng xe, từng đoàn xe. Phải bố trí phương tiện liên lạc như điện thoại di động và các quy ước liên lạc để nắm chặt chẽ quá trình di chuyển của từng xe. 2.4. Tổ chức cất chứa Tuỳ theo loại hàng hoá, tuỳ theo phương thức tổ chức vận chuyển , có các phương thức cất chứa là: + Cất chứa trung gian: Quá trình vận chuyển hàng hoá có số lượng nhiều, phải qua nhiều chủng loại phương tiện chuyên chở, có thể phải tổ chức cất chứa trung gian. Cất chứa trung gian thường kho chứa nằm ngoài công trường, thường là kho tại đầu mối bốc rỡ hàng. Kho trung gian nên lựa chọn là kho của cơ sở chuyên cất chứa như kho trong cảng, kho trong nhà ga...Thí dụ nhận hàng từ tầu thuỷ với số lượng lớn, trong khi nhận hàng từ tầu dỡ lên mà chưa tổ chức di chuyển khỏi kho của cảng, cần cất chứa trung gian tại kho cảng. + Cất chứa tại công trường: Cần tổ chức kho, bãi, tại công trường để tiếp nhận hàng hoá chưa sử dụng ngay hoặc hàng hoá có số lượng lớn, chứa tạm trên công trường để sử dụng dần. Các loại kho này sẽ đề cập ở phần dưới. 2.5. Tổ chức giao ra sản xuất + Giao nhận tại kho: Nếu hàng hoá được cất chứa tại kho công trường, khi có yêu cầu sử dụng, người sử dụng lập yêu cầu bằng văn bản ( dạng phiếu đề nghị ), qua các cấp duyệt y và làm các thủ tục là phiếu xuất và được thủ kho giao hàng. Thủ tục đề nghị xuất hàng và xét duyệt là cần thiết để vật tư, hàng hoá mua sắm cho việc gì được sử dụng đúng vào việc đó. Việc lập phiếu xuất kho là thủ tục kế toán để quản lý hàng hoá nhập và thông qua kho. Hàng hoá, vật tư là vật phẩm có giá trị cao để tạo ra sản phẩm xây dựng. Nếu sử dụng tuỳ tiện, không đúng định mức được phép, không phù hợp với yêu cầu sử dụng sẽ gây ra lãng phí, tạo nên sự đội giá sản phẩm xây dựng. Vật tư là dạng tiền nằm dưới dạng vật chất. Quản lý không chặt chẽ khâu vật tư là tạo ra kẽ hở cho tham ô, lãng phí. Việc giao nhận phải đảm bảo đúng chủng loại vật tư ghi trong phiếu đề nghị và phiếu xuất kho. Cần có phương tiện cân đong, đo đếm cho đúng số lượng vật tư được giao. Phấn đấu để không bị hao hụt quá mức và giảm tỷ lệ hao hụt là phương hướng nhằm hạ giá thành sản xuất xây dựng. Đối với những loại vật tư nhập theo bao bì như xi măng, ventonite, bitum, hộp sơn có thể giao nhận theo số lượng ghi trên bì. Tuy nhiên cũng cân theo xác suất một số bao để thấy số lượng bên đóng bao cung cấp. Việc giao theo số lượng ghi trên bao bì chỉ thực hiện khi bao bì còn nguyên vẹn. Nếu bao bì đã bị mở, bung , rách, hỏng, phải kiểm tra bằng cân thực tế. + Nhận tại nơi sử dụng: Khâu bảo quản vật tư, hàng hoá trong kho cần thiết phải chi phí một khoản tiền, khoản này sẽ được phân bổ vào giá thành xây dựng. Giảm được chi phí cất chứa vật liệu , hàng hoá trong kho góp phần vào việc hạ giá thành sản phẩm. Một trong biện pháp hạ chi phí bảo quản kho có thể tổ chức theo hình thức là bên cung ứng vật tư giao hàng hoá tại hiện trường sử dụng. Hình thức này được thực hiện theo cách là bên cung ứng nhận hàng trực tiếp từ nơi bán hàng và giao ngay tới nơi cần sử dụng. Thực hiện phương thức này hàng hoá không qua kho mà giao thẳng từ khâu thu mua về nơi sử dụng. Điều này đòi hỏi khâu thủ tục xuất nhập vật tư cần ghi chép đầy đủ, làm đầy đủ các chứng từ. Trước khi sử dụng cần lập phiếu yêu cầu và cấp có thẩm quyền phê duyệt cho phép sử dụng. Sau đó phải qua kế toán vật tư làm thủ tục xuất hàng. Khâu thu mua cũng phải làm phiếu nhập hàng để hợp pháp hoá khâu xuất hàng cho sử dụng. 3. Kế hoạch cung ứng vật tư 3.1. Cơ sở để thiết lập kế hoạch cung ứng vật tư : Kế hoạch cung ứng vật tư được lập theo nhu cầu của sản xuất của doanh nghiệp: Nhu cầu vật tư phải căn cứ vào kế hoạch sản xuất của doanh nghiệp. Kế hoạch này được lập theo tiến độ triển khai các dự án sản xuất, được xác định cụ thể cho năm , quý và tháng kế hoạch. Kế hoạch triển khai thi công cho từng dự án được lập theo chương trình Microsolf Project. Phần mềm Microsolf Project đã được đưa chính thức vào hệ chương trình Window từ Window 98 trở lại đây. Hiện nay đã có chương trình phần mềm Microsolf Project 2002 sử dụng để lập và theo dõi tiến độ sản xuất của các doanh nghiệp. Để xác định được biểu đồ nhu cầu vật tư theo thời gian thi công, khi nhập các công việc trong tiến độ, cần tính toán lượng vật tư cần sử dụng cho từng công việc. Sau khi đã nhập các loại vật tư với tên danh mục vật tư, số lượng vật tư vào từng việc trong bảng tiến độ, phần mềm Microsolf Project sẽ lập cho ta bảng nhu cầu vật tư theo tiến độ sản xuất. Căn cứ vào bảng nhu cầu từng loại vật tư, ta định kế hoạch cung ứng. Xác định thời gian cung ứng theo yêu cầu sử dụng : Tuỳ theo khả năng hàng hoá, vật tư của thị trường, tuỳ theo thời tiết, khả năng chuyên chở, điều kiện cất chứa của kho, bãi mà định kế hoạch cung ứng vật tư. Vật tư có thể đưa về công trường trước ngày sử dụng một số ít ngày, cũng có thể cất chứa trong kho công trường lâu hơn nếu khả năng cung ứng của thị trường không ổn định. Nguyên tắc bao quát là không để sản xuất thiếu vật tư nhưng cũng không để chi phí lưu kho, lưu bãi lớn, hoặc vật tư bị giảm chất lượng do cất chứa lâu ngày hoặc bị ảnh hưởng do điều kiện bảo quản kém. Khi khả năng cung ứng vật tư của thị trường không ổn định thì thời gian phải mua hàng đưa về công trường sớm. Khi vật tư ở thị trường sẵn thì thời gian cất chứa vật tư ở công trường ít hơn. Thời tiết tốt, khả năng ảnh hưởng đến sự chuyên chở ít thì không cần quá vội vàng mua và chứa vật tư. Nếu thời tiết luôn đe doạ đến sự an toàn vận chuyển thì phải chủ động mua sắm vật tư để ít chịu ảnh hưởng của thời tiết khi thu mua và vận chuyển vật liệu. Tuỳ thuộc phương tiện chuyên chở vật tư mà quyết định thời gian bắt đầu thu mua vật tư hoặc chuyên chở vật tư về công trường. Nếu phương tiện ít thì phải mua hàng sớm, với phương tiện vận chuyển bị hạn chế, túc tắc chuyên chở dần. Nếu lực lượng chuyên chở mạnh, khi cần bao nhiêu xe có chừng ấy, thì không nên thu mua hàng sớm để tốn chi phí lưu giữ, cất chứa. Nếu khả năng cất chứa tại công trường không dồi dào thì giảm lượng cất chứa, coi như kho của người bán là kho của công trường. Cần thương lượng mua bán sớm để chủ động nguồn hàng và thời gian cần hàng. Khi điều kiện kho bãi ở công trường, nếu cất chứa hàng với lượng nhiều sẽ làm cho hàng hoá bị giảm chất lượng thì cân nhắc và liệu định sao cho số lượng cất chứa tại công trường, trên nguyên tắc, sự cất chứa không được làm giảm chất lượng hàng hoá. Thời gian bắt đầu nhập hàng phải là thời gian được cân nhắc kỹ càng , đạt được sự tối ưu. Sự kịp thời và đáp ứng yêu cầu của sản xuất là mục tiêu để lựa chọn phương án tập kết vật tư. Không để thiếu và chậm trễ khâu cung ứng vật tư nhưng cũng không để phải cất chứa quá nhiều và lưu giữ vật tư lâu làm tăng chi phí bảo quản vật tư là điều cần tránh. 3.2. Định mức vật tư sử dụng : Việc sử dụng vật tư phải theo định mức. Số liệu định mức của Viện Kinh tế Bộ Xây dựng đưa ra nhằm định hướng sử dụng vật tư. Tuy nhiên, trong thực tế sản xuất, kỹ sư thi công căn cứ điều kiện cụ thể của chất lượng vật tư thành phần và do yêu cầu cụ thể của chất lượng sản phẩm để thiết kế thành phần vật tư trong sản phẩm xây dựng. Định mức đưa vật tư vào sản xuất phải do kỹ sư kỹ thuật điều hành sản xuất cụ thể quyết định. Người kỹ sư này cần căn cứ các yêu cầu chất lượng ghi trong bộ hồ sơ mời thầu để thiết kế vật tư sử dụng. Các tiêu chí chất lượng sản phẩm không được vượt quá các yêu cầu chất lượng của bộ hồ sơ mời thầu nhưng cũng không được sử dụng thấp hơn các yêu cầu ghi trong hồ sơ mời thầu. Định mức vật tư do Viện Kinh tế Bộ Xây dựng đưa ra là tài liệu quan trọng khi đưa vật tư vào sản xuất. Định mức này giúp cho kỹ sư quyết định vật tư sử dụng vì định mức Bộ Xây dựng đưa ra thường được dùng làm dữ liệu tham khảo chính khi quyết định giá thành sản phẩm. Định mức hao hụt là sự khống chế lượng vật tư được phép hao hụt trong quá trình vận chuyển, cất chứa vật tư trong kho và khi sử dụng tại hiện trường. Phấn đấu hạ mức hao hụt vật tư là phương hướng cho tất cả các khâu tham gia trong quản lý vật tư. Hạ thấp mức hao hụt vật tư thực tế là biện pháp hạ giá thành sản phẩm một cách chính đáng và có trí tuệ. Những biện pháp giảm hao hụt chủ yếu: * Làm bãi đổ cát, đá, sỏi có lớp láng mặt và nền đủ cứng chịu được lực nén của bánh ô tô. * Khi nhập hàng cát, đá, sỏi phải đánh đống và đo chính xác. Cách đo đại khái dẫn đến nhận không đủ hàng. Công thức để đo đống cát như sau: V  H  a.b  (a  c)(b  d )  c.d  6 Nhiều trường hợp, người thủ kho khi nhận đống cát thường hay giản đơn phép đo và chỉ với phép đo cạnh giữa thân đống cát, sỏi và chiều cao thì cách tính như sau: V  H  (a  c)(b  d ) 2 Tính như thế khối lượng theo tính toán sẽ lớn hơn khối lượng thực là: H  b.c  a.d  3 Hàng năm, nếu chúng ta phải nhập hàng vạn khối cát , đá, sỏi thì khối lượng hàng không có thực phải trả khá lớn, số thực có thể đến hàng ngàn mét khối. *Khi cần pha cắt thép thanh trong việc cắt các thanh thép theo thiết kế để đưa vào kết cấu bê tông cốt thép hay pha tấm tôn để cắt theo các hình yêu cầu, cần tính toán sao cho lượng thép phế, thép đầu mẩu là ít nhất. Đã có bài toán quy hoạch tuyến tính để tìm lời đáp cho phương án triển khai cắt sao cho lượng phế liệu là ít nhất. Thí dụ: Phải cắt thanh thép có đường kính nào đó thành 40 đoạn 2,5 m và 60 đoạn dài 1,6 m. Thép trong kho chỉ có loại độ dài thống nhất 6 mét. Nếu làm bình thường, ta lấy các thanh 6 m ấy cắt cho đủ 40 đoạn 2,5 m và sau đó cắt đến các thanh 1,6 m. Như thế, phải dùng 20 thanh để cắt cho 40 đoạn 2,5 m ( kiểu cắt 1 ), mỗi thanh được 2 đoạn 2,5 m và thừa 20 đầu mẩu 1 m. Sau đó dùng 20 thanh để cắt 60 đoạn 1,6 m ( cắt kiểu 2 ) và mỗi thanh được 3 đoạn sản phẩm và mỗi thanh có đoạn thừa 1,2 m. Cắt kiểu này , sử dụng vật liệu đạt 82%. Nếu chọn phương án một thanh cắt lấy 2 đoạn 2,5 m ( kiểu 1 ) và thanh khác cắt lấy 1 đoạn 2,5 m và 2 đoạn 1,6 m ( kiểu 3 ) thì mẩu thừa chỉ có 0,3 m. Khi này, cách cắt được lựa chọn là lấy 5 thanh cắt theo kiểu 1 và 30 thanh theo kiểu 3 thì vẫn đáp ứng yêu cầu và sử dụng được 93% vật liệu. Hình vẽ minh hoạ như sau: Kiểu cắt 1 : 2,5 2,5 1 Kiểu cắt 2 : 1,6 Kiểu cắt 3 : 1,6 2,5 1,6 1,6 1,2 1,6 Gọi x,y,z > 0 là số thanh cần cắt theo các kiểu 1,2,3 thì : (1) 2x + z = 40 ( số đoạn 2,5 m ) (2) 3y + 2z = 60 ( số đoạn 1,6 m ) 0,3 Muốn số thanh lấy ra dùng là ít nhất hay là tiết kiệm nhất số thanh thép được lấy ra nên phải chọn số x,y,z là ít nhất sao cho x + y + z nhỏ nhất có thể được. Cộng từng vế của (1) và (2) ta có : 2x + 3y + 3z = 100 3( x + y + z) = 100 + x Muốn x + y + z nhỏ nhất thì x cũng phải nhỏ nhất. y  0 nên theo (2) ta có : 3y = 60 – 2z  0 nên : z ≤ 30 theo (1) thì z = 40 – 2x nên : 40 – 2x ≤ 30 hay : x 5 Như thế x + y + z nhỏ nhất khi x  5. Từ đó suy ra : z = 30 , y = 0. Kết luận : Cắt 5 thanh kiểu 1 và 30 thanh kiểu 3. Phương pháp để tính là lập các phương án khả dĩ để cắt. Sau đó thiết lập các phương trình tuyến tính và giải bài toán tuyến tính theo kiểu hệ phương trình phải đáp ứng hàm mục tiêu là sử dụng vật liệu ít nhất hoặc sử dụng sao cho vật liệu phế là ít nhất. Bài toán này khá phổ biến trong quy hoạch toán học. 3.3. Bảng nhu cầu vật tư
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan