Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Lịch sử đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến chống mỹ, cứu nước...

Tài liệu đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến chống mỹ, cứu nước

.DOC
16
1386
71

Mô tả:

ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC MỞ ĐẦU Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở MN là nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi trên chiến trường, làm cơ sở cho thắng lợi trên mặt trận ngoại giao. Tuy nhiên, đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động vào thắng lợi chung của cuộc kháng chiến. Để hiểu rõ và nhận thức đúng vị trí vai trò, giá trị lịch sử và hiện thực của đấu tranh ngoại giao trong cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, chúng ta nghiên cứu chủ đề: Đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. NỘI DUNG I. Vị trí, vai trò, chức năng của đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1. Thuận lợi, khó khăn Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam diễn ra vào thời kỳ cao điểm của Chiến tranh lạnh. Thế giới hình thành hai phe chống đối nhau gay gắt bằng Chiến tranh lạnh và chạy đua vũ trang. Mỹ xâm lược Việt Nam vì lợi ích chiến lược toàn cầu. Liên Xô luôn theo đuổi mục tiêu cân bằng chiến lược với Mỹ. Trung Quốc nhằm mục tiêu vươn lên thành cường quốc thứ ba. Liên Xô, Trung Quốc vừa giúp Việt Nam vừa sử dụng vấn đề Việt Nam để chống hai nước lớn kia. Chiến tranh Việt Nam, về mặt quốc tế, luôn nằm trên trục chuyển động của ba cặp quan hệ Mỹ - Xô, Mỹ - Trung, Xô - Trung. Thất bại ở Việt Nam, Mỹ hòa hoãn với Liên Xô, Trung Quốc và hòng cùng hai nước này dàn xếp vấn đề Việt Nam, hình thành “Tam giác chiến lược Mỹ - Xô - Trung”, tác động mạnh mẽ tới diễn biến chiến tranh. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, phong trào giải phóng dân tộc lên cao, đưa tới việc hình thành lực lượng thứ ba. Năm 1961 chính thức ra đời Phong trào Không liên kết. Năm 1963, Tổ chức Thống nhất châu Phi và năm 1966, Tổ chức Đoàn kết ba châu ra đời. Thời kỳ này, phong trào đấu tranh cho hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới lên mạnh. Thông tin bùng nổ, lương tri loài người thức tỉnh. Các tầng lớp nhân dân, các tổ chức chính trị, xã hội, tôn giáo của các nước đều ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa của các dân tộc. Đó là những thuận lợi cho ta trên bình diện quốc tế. Bên cạnh những thuận lợi, bối cảnh quốc tế cũng có những phức tạp, khó khăn cho Việt Nam: - Mỹ rất mạnh về tiềm lực, có liên minh quân sự khắp nơi; Mỹ khống chế Liên hợp quốc, kéo Liên hợp quốc vào Triều Tiên, dùng Liên hợp quốc can thiệp nhiều nơi. Tâm lý phục Mỹ, sợ Mỹ còn khá phổ biến trên thế giới. - Phong trào cách mạng thế giới cũng trải qua những thăng trầm. Phong trào xã hội chủ nghĩa khủng hoảng về đường lối, không thống nhất quan điểm, sách lược đấu tranh. Phong trào Không liên kết thời kỳ đầu không nhất trí về mục tiêu và phương hướng hành động. - Nổi cộm nhất là mâu thuẫn Xô - Trung, hai đồng minh chiến lược của Việt Nam. Mâu thuẫn và đối chọi nhau ngay cả trên vấn đề Việt Nam và giúp Việt Nam. Mâu thuẫn lợi ích đưa đến xung đột vũ trang trên biên giới giữa hai nước. 2. Vị trí, vai trò, chức năng của đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đấu tranh chính trị, quân sự và ngoại giao có mối quan hệ chặt chẽ, góp phận làm nên chiến thắng chung của cả dân tộc. Đấu tranh quân sự và chính trị diễn ra ngay từ đầu, còn đấu tranh ngoại giao chỉ bắt đầu khi có điều kiện. Đặc điểm lớn nhất của cuộc chiến tranh là tương quan giữa hai bên tham chiến. Mỹ là nước giàu mạnh, Việt Nam là nước yếu nghèo. Chỉ tính riêng về sự giàu có, về tiềm lực quân sự, kinh tế, đúng là Mỹ hơn Việt Nam gấp bội. Việt Nam có chỗ mạnh áp đảo về chính trị, chiến đấu vì độc lập dân tộc. Mỹ làm chiến tranh phi nghĩa, chỗ yếu cơ bản của Mỹ là về chính trị. Do đặc điểm của thời đại, Mỹ dùng ngoại giao để khắc phục chỗ yếu về chính trị. Mỹ đặt ngoại giao thành một bộ phận của chiến lược chiến tranh. Trong một cuộc họp tại Nhà Trắng ngày đầu chiến tranh, Giônxơn nói: “Cuộc chiến tranh này giống như một trận đấu ăn giải. Tay phải ta nắm lực quân sự, song tay trái cần có các đề nghị hòa bình”. Chính vì vậy mà thời kỳ Mỹ leo thang (1965-1966), Mỹ mở nhiều “chiến dịch hòa bình” và không ngớt đòi Việt Nam “thương lượng không điều kiện” với Mỹ. Rồi suốt cuộc chiến tranh, Mỹ đều dùng ngoại giao và đàm phán trên thế mạnh để che chắn cho quân Mỹ ở chiến trường. Tính chất thời đại và đặc điểm cuộc chiến như đã nói trên quyết định vai trò và nhiệm vụ của ngoại giao. Từ rất sớm, ngoại giao Việt Nam đã giương cao ngọn cờ hòa bình, thi hành Hiệp định Giơnevơ. Mặt trận dân tộc giải phóng ra đời, có ngoại giao hòa bình, trung lập. Đi vào chiến tranh lớn, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định đường lối đấu tranh trên ba mặt trận. Các nghị quyết Trung ương 11, 12 (1965) đề ra phương hướng ngoại giao phục vụ đấu tranh quân sự, chính trị. Nghị quyết Trung ương 12 nêu rõ: “Trong quá trình chiến đấu chống Mỹ, cứu nước, ta phải giữ vững quyết tâm chiến lược, đồng thời áp dụng sách lược đấu tranh chính trị - ngoại giao khôn khéo để phối hợp với đấu tranh quân sự, chủ động tiến công địch, nêu cao ngọn cờ độc lập, hòa bình nhằm tranh thủ rộng rãi dư luận thế giới và cô lập hơn nữa đế quốc Mỹ” 1. Nghị quyết Trung ương 13 (1-1967) đưa ra khẩu hiệu đấu tranh mới, kéo Mỹ xuống thang. Từ năm 1968 đến năm 1973, ta vận dụng phương thức “vừa đánh vừa đàm”. Nhìn tổng quát, suốt cuộc chiến tranh, ngoại giao đóng vai trò là một mặt trận đấu tranh tầm cỡ chiến lược với ba chức năng lớn: - Phối hợp và hỗ trợ chiến trường, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đảm bảo cho ta càng đánh càng mạnh, làm cho địch suy yếu và thất bại. - Tăng cường hậu phương quốc tế của ta, gắn Việt Nam với thế giới, tạo cho ta sức mạnh tổng hợp, làm suy yếu hậu phương quốc tế của Mỹ, làm cho Mỹ vấp nhiều khó khăn trên thế giới và ngay trong nước Mỹ. - Giải quyết vấn đề thắng thua, ta thắng, địch thua, kết thúc chiến tranh. Ta thắng đến đâu, buộc Mỹ thua đến đâu, giành thắng lợi từng bước thế nào, đẩy Mỹ ra khỏi miền Nam như thế nào? Từ ba chức năng chiến lược này, qua từng thời kỳ, tùy theo yêu cầu của đấu tranh quân sự, chính trị và tình hình quốc tế mà Đảng đề ra những chủ trương, biện pháp ngoại giao thích hợp. II. Những chặng đường – những thắng lợi của ta trên mặt trận đấu tranh ngoại giao. 1. Ngoại giao đấu tranh thực hiện Hiệp định Geneve: giai đoạn 1954 – 1959 Thắng lợi lịch sử của chiến dịch Điện Biên Phủ đã đưa đến việc ký kết Hiệp định Geneve (7/1954) về lập lại hòa bình ở Đông Dương. Tuy nhiên, trong khi ta nghiêm túc thi hành Hiệp định Geneve, mong muốn “hòa bình thống nhất” và kiên trì đấu tranh để tổ chức tổng tuyển cử thì đế quốc Mỹ không chấp nhận các điều khoản của Hiệp định, thúc đẩy kế hoạch thay thế thực dân Pháp ở miền Nam, hậu thuẫn ngụy quyền tay sai ra sức phá hoại Hiệp định. Trong giai đoạn này, nhiệm vụ của ngoại giao là vừa phục vụ việc đấu tranh thi hành Hiệp định Geneve, vừa phục vụ công cuộc phục hồi kinh tế ở miền Bắc. Các đoàn đại biểu Chính phủ của ta đã lần lượt tiến hành các chuyến thăm Liên Xô, Trung Quốc, các nước XHCN anh em khác. Qua các chuyến thăm này, các nước bạn đã giúp ta khôi phục và tăng cường các cơ sở, xí nghiệp sản xuất, góp phần phục hồi kinh tế ở miền Bắc. Đối với việc đấu tranh thi hành Hiệp định Geneve, ngoại giao của ta tập trung vào các điểm chính: Tố cáo trước dư luận thế giới việc Mỹ - Diệm phá hoại việc thi hành Hiệp định Geneve; Chính phủ ta nhiều lần gửi thư cho Ngô Đình Diệm đề nghị mở hội nghị hiệp thương chuẩn bị tổng tuyển cử, vận động Ủy ban quốc tế gồm Ấn Độ, Ba Lan và Canada thúc đẩy việc thi hành Hiệp định. Tuy nhiên, với dã tâm chia cắt đất nước ta, áp đặt chủ nghĩa thực dân mới lên miền Nam, Mỹ - Diệm đã thẳng thừng bác bỏ Hiệp định Geneve, khước từ khả năng thống nhất nước nhà bằng con đường hiệp thương hòa bình. 2. Ngoại giao chống sự can thiệp của Mỹ: giai đoạn 1959 – 1964 Sau khi nước ta phải tạm thời chia làm hai miền, ta đồng thời tiến hành hai nhiệm vụ cách mạng: Cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Được sự giúp đỡ của các nước trong khối XHCN, đến cuối năm 1957, miền Bắc đã căn bản hoàn thành nhiệm vụ khôi phục kinh tế. Trong khi đó, ở miền Nam, tháng 5/1957, Ngô Đình Diệm sang Hoa Kỳ gặp Tổng thống Aixenhao, ra thông cáo chung khẳng định Mỹ ủng hộ Diệm, lập phái đoàn cố vấn và viện trợ quân sự (MAAG) nhằm đẩy mạnh xây dựng quân đội Sài Gòn thành một lực lượng đủ mạnh để chống phá, đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân miền Nam. Tháng 5/1959, Diệm ban hành luật 10/59 dùng tòa án quân sự đặc biệt xét xử những người yêu nước, lê máy chém đi khắp miền Nam đàn áp các chiến sỹ cách mạng. Trước những hành động phá hoại, đàn áp của chính quyền Diệm và sự can thiệp của Mỹ, cách mạng miền Nam đã gặp phải nhiều tổn thất. Nhiều tổ chức cơ sở Đảng bị phá vỡ, nhiều đồng chí cán bộ theo kháng chiến bị bắt, bị đàn áp, giết hại. Đến giữa năm 1961, lần lượt Phó Tổng thống Johnson và các tướng lĩnh của Mỹ sang miền Nam, vạch ra kế hoạch Stanley – Taylor, dự kiến bình định miền Nam trong 18 tháng, củng cố tiềm lực cho ngụy quyền, sau đó sẽ tiến công miền Bắc. Trên cơ sở kế hoạch này, Mỹ tăng cường viện trợ tài chính và quân sự cho chính quyền Sài Gòn, dồn dân vào các ấp chiến lược, đẩy mạnh càn quét, bình định các tỉnh miền Nam. Trước tình hình đó, với ý chí độc lập tự chủ, xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam và thế giới, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư Xứ ủy Nam Bộ đã khởi thảo bản Đề cương cách mạng miền Nam. Trên tinh thần cốt lõi của bản đề cương, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 15 (1/1959) đã hoàn chỉnh đường lối cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới, chỉ ra phương pháp kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, tiến lên giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Dưới ánh sáng của nghị quyết 15, cách mạng miền Nam đã chuyển sang giai đoạn mới, “từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công.” Phong trảo Đồng khởi đã giáng một đòn bất ngờ vào chiến lược can thiệp của Aixenhao. Ngày 20/11/1960, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời, đánh dấu sự kiện quan trọng trong phong trào đấu tranh chống Mỹ - Diệm. Mặt trận chủ trương thực hiện chính sách ngoại giao hòa bình, trung lập, lập lại quan hệ bình thường giữa hai miền tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc, chống chiến tranh xâm lược, tích cực bảo vệ hòa bình thế giới, nhờ đó ngày càng được thế giới công nhận và ủng hộ. Trong giai đoạn này, ngoại giao ta tích cực đấu tranh chống chính sách độc tài của chính quyền Ngô Đình Diệm, chống sự can thiệp của Mỹ. Ta chú ý vận động dư luận trong nước và quốc tế. Ngày 18/2/1962, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra tuyên bố về việc Mỹ tăng cường can thiệp và xâm lược miền Nam Việt Nam . Các nước Liên Xô, Trung Quốc, Ủy ban đoàn kết Á – Phi, Hội đồng hòa bình thế giới, Hội luật gia dân chủ quốc tế… đều lên tiếng phản đối Mỹ can thiệp vào miền Nam, ủng hộ Việt Nam. Cũng trong giai đoạn này, ta còn tính đến khả năng trung lập hóa miền Nam. Thực tế lúc đó, ở Đông Dương, trong những điều kiện lịch sử khác nhau, các Chính phủ ở cả Lào và Campuchia đều đi theo con đường trung lập. Ở miền Nam, khủng hoảng chính trị diễn ra triền miên, đã có sự xuất hiện của “lực lượng thứ ba” đấu tranh chống chính quyền Mỹ - Diệm, đòi các quyền dân sinh dân chủ. Trước tình hình mới, ta tính đến khả năng đấu tranh lập một chính phủ liên hiệp thi hành chính sách đối ngoại trung lập, yêu cầu Mỹ rút quân và từ đó hoàn thành thống nhất đất nước. Trong “Thư vào Nam ” đồng chí Lê Duẩn đã nói rõ về khả năng này. Chính sách đấu tranh để xây dựng một chính quyền trung lập ở miền Nam vừa nhằm khoét sâu mâu thuẫn giữa các phe phái trong chính quyền Sài gòn và tập hợp quần chúng miền Nam, vừa nhằm đẩy Mỹ vào thế bị động: Một khi chính phủ trung lập ở miền Nam được lập nên, chính phủ đó sẽ yêu cầu Mỹ rút lực lượng quân sự khỏi miền Nam và hai miền sẽ bàn về cách thức thống nhất đất nước trong hòa bình. Nhiều chính khách của Mỹ và quốc tế như Tổng thống Pháp De Gaulle, Thượng nghị sỹ Mỹ Mike Mansfield đã nêu vấn đề thúc đẩy một Đông Nam Á trung lập thông qua một kiểu đình chiến hoặc dàn xếp nào đó. Tuy nhiên, Nhà Trắng đã đưa ra thuyết “domino” để tạo sức ép theo hướng tăng cường can thiệp của Mỹ vào miền Nam Việt Nam . Các quan chức trong chính quyền Mỹ, bao gồm Ngoại trưởng Dean Rusk, cố vấn an ninh quốc gia Bundy và Bộ trưởng quốc phòng Mc Namara đều cho rằng ý tưởng trung lập hóa miền Nam Việt Nam sẽ gây hậu quả hết sức nghiêm trọng đối với Mỹ và phương Tây. Chính quyền Johnson do đó kiên quyết can thiệp vào Việt Nam , dự thảo một nghị quyết của Quốc hội Mỹ cho phép mở rộng các hoạt động quân sự ở Đông Dương, được thông qua sau “sự kiện Vịnh Bắc Bộ” do Mỹ dàn dựng vào tháng 8/1964. 3. Ngoại giao đấu tranh chống chiến tranh cục bộ: giai đoạn 1965-1967 Tháng 2/1965, Mỹ bắt đầu cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân chống miền Bắc. Tháng 3/1965, Mỹ ồ ạt đưa quân vào miền Nam, bắt đầu cuộc chiến tranh cục bộ. Để che đậy bản chất phi nghĩa và tính chất tàn bạo của các hành động chiến tranh, Mỹ ráo riết tung ra nhiều thủ đoạn ngoại giao: Ra sách trắng “Vì đâu có vấn đề Việt Nam” nhằm đổ lỗi cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; thông báo cho Liên hợp quốc rằng Mỹ sẵn sàng rút hết các đơn vị quân sự của họ trong trường hợp “Bắc Việt Nam chấm dứt xâm lược Nam Việt Nam”. Ngày 7/4/1965, Tổng thống Johnson đọc diễn văn tại trường Đại học Johns Hopkins vu cáo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tấn công một quốc gia độc lập và Mỹ có trách nhiệm bảo vệ tự do cho đồng minh của mình, chìa “củ cà rốt”: Mỹ sẵn sàng bỏ ra 1 tỷ đôla góp vào sự phát triển ở Đông Nam Á, kể cả Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Mỹ mở nhiều đợt vận động ngoại giao cho cái gọi là “sáng kiến hòa bình,” thông qua các kênh khác nhau tiếp xúc với ta để thăm dò quan điểm, phái nhiều nhà ngoại giao đến Paris, Tokyo, Moscow, New Dehli... tạo nên chiến dịch ngoại giao rầm rộ mang mật hiệu “Pinta” nhằm vận động cho “sáng kiến hòa bình,” đồng thời đe dọa khả năng sẽ đánh phá miền Bắc mạnh hơn nữa để buộc ta phải đàm phán. Chống lại các thủ đoạn và luận điệu ngoại giao của Mỹ, ta đã tiến hành nhiều hoạt động ngoại giao và vận động quốc tế nhằm đề cao chính nghĩa dân tộc, thể hiện quyết tâm của nhân dân Việt Nam quyết đánh và quyết thắng cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ; lên án cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ, các hành động leo thang chiến tranh và các tội ác của Mỹ trên cả hai miền, mạnh mẽ bác bỏ các luận điệu về “đàm phán không điều kiện” và “hai bên cùng rút quân.” Ngày 22/3/1965, Mặt trận dân tộc giải phóng ra tuyên bố 5 điểm biểu thị mạnh mẽ lập trường, mục tiêu chiến đấu và quyết tâm của nhân dân miền Nam chống xâm lược cho đến thắng lợi cuối cùng. Ngày 8/4/1965, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra tuyên bố 4 điểm nêu rõ lập trường và những nguyên tắc lớn của một giải pháp thỏa đáng để chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam. Hai bản tuyên bố này là cơ sở vững chắc cho đấu tranh ngoại giao của ta. Ta đã đón tiếp nhiều vị khách quốc tế đến làm “trung gian hòa giải,” qua đó nói rõ lập trường của chính phủ ta, vạch trần bản chất xâm lược và hoạt động ngoại giao nhằm che đậy các hành động chiến tranh phi nghĩa của Mỹ. Qua các cuộc đón tiếp Thứ trưởng Ngoại giao Ba Lan Mikhailovsky; nhà ngoại giao Ronning, đại diện chính phủ Canada; chính khách Sainteny, đại diện Pháp và cả các vị khách Mỹ là các nhà báo, nhà hoạt động tôn giáo... tới Hà Nội; qua các bức thư trả lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với De Gaulle, với Johnson; trả lời phỏng vấn báo chí quốc tế; thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 24/1/1966 gửi đến người đứng đầu nhà nước và chính phủ của gần 70 nước... ta đã đề cao chính nghĩa dân tộc và ý chí sắt đá của nhân dân Việt Nam, phản bác lại các thủ đoạn ngoại giao của Mỹ, đẩy Mỹ vào thế phải đối phó với dư luận trong và ngoài nước đòi chấm dứt các hành động chiến tranh phi nghĩa. 4. Ngoại giao kết hợp “đánh - đàm”: giai đoạn 1967 – 1973 Chính vào lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta bước vào giai đoạn quyết liệt nhất, tháng 12/1965, Đảng ta ra Nghị quyết Trung ương 12, trong đó chỉ rõ “đánh đến một lúc nào đó sẽ vừa đánh vừa đàm” nhưng nhận định “tình hình chưa chín muồi cho một giải pháp.” Đến tháng 1/1967, sau những thắng lợi của quân và dân hai miền, Nghị quyết Trung ương 13 đã quyết định mở mặt trận ngoại giao để tạo cục diện đánh - đàm và kéo Mỹ xuống thang chiến tranh. Đảng đã xác định vai trò của ngoại giao là một mặt trận có ý nghĩa chiến lược với chức năng phối hợp với đấu tranh quân sự, chính trị, đồng thời khẳng định: “...đấu tranh ngoại giao không chỉ đơn thuần phản ánh cuộc đấu tranh trên chiến trường mà trong tình hình quốc tế hiện nay với tính chất cuộc đấu tranh giữa ta và địch, đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động.” Để tăng sức mạnh tấn công, ngày 27/1/1967, ta đưa ra khẩu hiệu sách lược: “Chỉ sau khi Hoa Kỳ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với Mỹ có thể nói chuyện được.” Tuyên bố này vừa tỏ rõ thiện chí, vừa phù hợp với đạo lý nên được dư luận thế giới hưởng ứng và ủng hộ mạnh mẽ. Trong khi đó, Mỹ trở nên bị động về ngoại giao và đối phó lúng túng. Trước sức ép của dư luận, đặc biệt là phong trào nhân dân Mỹ, ngày 29/9/1967, trong diễn văn đọc tại San Antonio, Tổng thống Johnson phải công khai tuyên bố: “Mỹ sẵn sàng ngưng ngay việc bắn phá miền Bắc Việt Nam của máy bay và tàu chiến Mỹ khi việc làm này dẫn tới cuộc thảo luận có kết quả và không bị lợi dụng.” Rõ ràng tuyên bố này là một bước lùi của Mỹ, có phần mềm dẻo hơn các tuyên bố trước đây. Tuy nhiên, Mỹ vẫn giữ lập trường “ngừng ném bom có điều kiện” và “có đi có lại,” điều ta kiên quyết bác bỏ. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, “ gây ra một chấn động mạnh trên toàn nước Mỹ.” Nội bộ chính giới Mỹ rối ren, dao động, ý chí xâm lược bị lung lay mạnh mẽ. Dưới sức ép của dư luận Mỹ, Tổng thống Johnson đã phải bác bỏ kế hoạch tăng quân, chấp nhận chuyển hướng chiến lược, tìm giải pháp đàm phán. Ngày 31/3/1968, Johnson tuyên bố đơn phương chấm dứt ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra; Mỹ sẵn sàng cử đại diện thảo luận biện pháp chấm dứt chiến tranh, đồng thời tuyên bố không ra tranh cử nhiệm kỳ mới. Tuyên bố của Johnson đã đánh dấu sự thừa nhận thất bại của Mỹ trong chiến lược chiến tranh cục bộ, đánh dấu một bước thay đổi lớn, xuống thang chiến tranh, tìm kiếm giải pháp hòa bình. Cục diện “đánh – đàm” đã được mở ra. Đáp lại tuyên bố trên, ngày 3/4/1968, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra tuyên bố: “Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố sẵn sàng cử đại diện của mình tiếp xúc với đại diện Mỹ nhằm xác định với phía Mỹ việc Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và các hoạt động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để có thể bắt đầu cuộc nói chuyện.” Cuộc tiếp xúc song phương Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Hoa Kỳ bắt đầu ngày 13/5/1968. Suốt 4-5 tháng, ta vận dụng tiếp xúc để hỗ trợ chiến trường, lên án và tố cáo tội ác chiến tranh của Mỹ, tranh thủ dư luận quốc tế và dư luận Mỹ. Ta kiên trì đòi Mỹ chấm dứt hoàn toàn ném bom miền Bắc mới nói chuyện về các vấn đề khác; mạnh mẽ bác bỏ các điều kiện do Mỹ đưa ra, như khôi phục khu phi quân sự, chấm dứt xâm nhập và tiếp tế từ miền Bắc vào miền Nam... Theo chỉ đạo của Bộ Chính trị, ngoại giao vận dụng sách lược đạt tới thỏa thuận Mỹ chấm dứt hoàn toàn ném bom miền Bắc, sau đó sẽ họp Hội nghị bốn bên gồm Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Mặt trận dân tộc giải phóng, Hoa Kỳ và chính quyền Sài Gòn. Ngày 31/10/1968, Tổng thống Johnson tuyên bố chấm dứt hoàn toàn ném bom miền Bắc. Buộc Mỹ chấm dứt hoàn toàn việc ném bom bắn phá miền Bắc là một thắng lợi có ý nghĩa chiến lược, là thắng lợi của sự phối hợp giữa đấu tranh quân sự và đấu tranh ngoại giao, tạo điều kiện củng cố hậu phương, tạo niềm tin mạnh mẽ cho nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế. Từ đầu năm 1969 là thời gian bắt đầu hội nghị bốn bên tại Paris. Ta bước vào giai đoạn đấu tranh mới với một tình hình khá phức tạp. Nixon bắt đầu chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh,” xây dựng quân đội Sài Gòn mạnh để thay dần quân Mỹ, mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương. Mỹ đồng thời hòa hoãn với Liên Xô, Trung Quốc, âm mưu dàn xếp vấn đề Việt Nam trên lưng Việt Nam. Sau đợt tổng tiến công năm 1968, lực lượng của ta bị suy yếu, vùng giải phóng bị thu hẹp, “lực lượng trên chiến trường thay đổi, địch ưu thế hơn ta, từ thế bị động nay địch giành lại thế chủ động.” Thấy rõ cuộc chiến chống Mỹ sẽ còn lâu dài, gian khó, từ đầu năm 1969, Bộ Chính trị đề ra cho ngoại giao và đoàn đàm phán Paris một số nhiệm vụ chủ yếu: Đẩy địch xuống thang một bước trên chiến trường chính, ép Hoa Kỳ đơn phương rút một bộ phận quân Mỹ; khoét sâu khó khăn nội bộ Mỹ, nội bộ ngụy, mâu thuẫn Mỹ - ngụy, đề cao vị trí quốc tế của Mặt trận dân tộc giải phóng, tranh thủ các nước xã hội chủ nghĩa tiếp tục ủng hộ và giúp đỡ, tranh thủ sự giúp đỡ mạnh mẽ của phong trào nhân dân thế giới bao gồm cả nhân dân Mỹ đấu tranh đòi Mỹ rút nhanh, rút hết và không điều kiện khỏi miền Nam Việt Nam...” Ta xác định n hiệm vụ của ngoại giao là: T rên trường quốc tế ra sức tranh thủ đồng minh, thêm bạn bớt thù, tiến công địch, phục vụ cuộc chống Mỹ, cứu nước và sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ; đồng thời góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Thực hiện các nhiệm vụ trên, ngoại giao đã vận dụng diễn đàn Hội nghị bốn bên lên án Mỹ kéo dài chiến tranh, rút quân nhỏ giọt, tranh thủ dư luận, không cho Mỹ dùng việc rút dần quân để chuyển sức ép về phía ta. Đánh vào chỗ yếu là Mỹ không định được thời hạn rút hết quân, ngày 14/9/1970, đại biểu Chính phủ cách mạng lâm thời đưa ra đề nghị hòa bình, đòi Mỹ định thời hạn rút hết quân trước ngày 30/6/1970. Sau chiến thắng Đường 9 - Nam Lào (3/1971), ngày 1/7/1971, ta đưa ra đề nghị Mỹ định thời hạn rút hết quân Mỹ trước ngày 31/12/1971, nêu rõ “thời hạn rút hết quân Mỹ cũng là thời hạn thả hết tù binh”. Dư luận Mỹ rất quan tâm đến việc thả tù binh vì số phi công Mỹ bị bắt đều là con em các gia đình có thế lực ở Mỹ. Bởi vậy, đề nghị 1/7/1971 có sức tấn công mạnh, dư luận ở Mỹ và trên thế giới đều đòi phía Mỹ đáp ứng để sớm có hòa bình. Kết hợp với diễn đàn công khai, cuối năm 1970 và giữa năm 1971, ta có những cuộc gặp riêng với phía Mỹ (Lê Đức Thọ, Xuân Thủy với Kítxinhgiơ) nhằm thăm dò và tác động thêm đối với phía Mỹ. Bên cạnh đó, ta tiếp tục tranh thủ được sự ủng hộ, giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc, các nước trong khối XHCN, các nước Đông Dương đối với cuộc kháng chiến của ta; hình thành phong trào nhân dân rộng lớn, kể cả ngay trong lòng nước Mỹ, ủng hộ Việt Nam, đòi Mỹ chấm dứt chiến tranh. 5. Đàm phán Hiệp định Paris: 1968 - 1973 Kéo dài 4 năm, 8 tháng, 14 ngày, trải qua 202 phiên họp công khai và 45 cuộc gặp riêng giữa Việt Nam và Mỹ, Hội nghị Paris là cuộc đấu trí tuệ, bản lĩnh quyết liệt giữa nền ngoại giao non trẻ với nền ngoại giao lão luyện của một siêu cường hàng đầu thế giới. Cuộc đàm phán Paris trải qua ba giai đoạn. Giai đoạn một bắt đầu từ ngày 13/5/1968 đến 31/10/1968, ta đấu tranh buộc Mỹ phải chấp nhận chấm dứt mọi hành động chiến tranh chống Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; chấp nhận việc triệu tập hội nghị về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam gồm 4 bên với sự tham gia của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam. Giai đoạn hai từ ngày 25/1/1969 đến giữa năm 1972, ta kiên quyết đòi Mỹ chấm dứt chiến tranh xâm lược, rút hết quân đội và vũ khí ra khỏi miền Nam Việt Nam, xóa bỏ chính quyền Sài Gòn, tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam. Mỹ muốn chấm dứt chiến tranh nhưng đòi miền Bắc và Mỹ cùng rút quân, đòi duy trì khu phi quân sự và duy trì chính quyền Sài Gòn. Giai đoạn cuối cùng từ tháng 7/1972 sau khi Mỹ buộc phải quay lại bàn đàm phán sau các thất bại ở cả hai miền Nam - Bắc. Tuy vậy, Mỹ vẫn nuôi hy vọng đạt được một thỏa thuận trên thế mạnh. Cuối tháng 12/1972, khi con át chủ bài cuối cùng của Mỹ - dùng B52 đánh phá hủy diệt Hà Nội và các thành phố lớn của miền Bắc - đã bị quân và dân ta đánh gục trong chiến thắng vang dội "Điện Biên Phủ trên không," Mỹ mới chấp nhận ký Hiệp định ngày 27/1/1973. Hiệp định Paris có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng, thống nhất đất nước của dân tộc ta. Hiệp định là văn bản pháp lý toàn diện, đầy đủ nhất công nhận các quyền cơ bản của dân tộc ta, trong đó Mỹ buộc phải cam kết “tôn trọng độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam”. Hội nghị Paris và Hiệp định Paris đã góp phần quan trọng vào nỗ lực tạo nên bước chuyển chiến lược của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc, từng bước buộc Mỹ phải đi vào giải pháp, chấm dứt ném bom miền Bắc, rút toàn bộ quân Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam, hoàn thành mục tiêu chiến lược “đánh cho Mỹ cút.” Với việc buộc Mỹ phải rút hết trong khi ta duy trì được hoàn toàn lực lượng, Hiệp định mở ra một cục diện mới, so sánh lực lượng trên chiến trường nghiêng hẳn về ta để ta tiến lên “đánh cho ngụy nhào,” hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam , thống nhất đất nước. 6. Đấu tranh ngoại giao sau Hiệp định Paris: giai đoạn 1973-1975 Sau khi ký kết Hiệp định Pari, cuộc đấu tranh của ta chuyển sang giai đoạn đấu tranh thi hành Hiệp định và tập trung giải phóng hoàn toàn miền Nam , thống nhất đất nước. Trong giai đoạn này, n goại giao tiếp tục giương cao ngọn cờ hòa bình, đấu tranh đòi Mỹ - Ngụy thi hành Hiệp định; phối hợp với mặt trận quân sự, chính trị, tạo thời cơ chiến lược cho cuộc Tổng tiến công mùa xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất Tổ quốc. Một mặt, ta nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định ngừng bắn trên toàn chiến trường, trao trả tù binh Mỹ. Mặt khác, ta tích cực, chủ động dùng ngoại giao phát huy thế thắng ở chiến trường, vận dụng cơ sở chính trị, cơ sở pháp lý của Hiệp định, phối hợp với mặt trận quân sự, chính trị buộc Mỹ, ngụy thi hành Hiệp định. Sau hiệp định Paris, hàng loạt nước đã công nhận Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong năm 1973. Cho đến 6/10/1973, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã có 34 nước công nhận và lập quan hệ ngoại giao. Ngày 29/3/1973, tại thủ đô Thụy Điển đã diễn ra Hội nghị quốc tế đoàn kết với nhân dân Việt Nam, đòi Mỹ, ngụy quyền Sài gòn thi hành nghiêm chỉnh và triệt để Hiệp định. Từ cuối năm 1974, tình hình chiến trường cũng như tình hình nước Mỹ và quốc tế có lợi cho ta. Vụ bê bối Watergate đã triệt tiêu khả năng Mỹ can thiệp quân sự trở lại. Đầu năm 1975, trước thời cơ lịch sử, Đảng ta đã hạ quyết tâm chiến lược giải phóng hoàn toàn miền Nam , thống nhất Tổ quốc bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975. Chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Huế - Đà Nẵng và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã hoàn thành sự nghiệp giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. III. Nguyên nhân thành công, ý nghĩa lịch sử, bài học kinh nghiệm của đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước. 1. Nguyên nhân thành công Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, ngoại giao đã có những đóng góp xứng đáng vào thắng lợi chung của dân tộc. Những nguyên nhân thành công chủ yếu là: - Đảng đã xác định đúng vai trò của ngoại giao là một mặt trận có ý nghĩa chiến lược với những chức năng phối hợp với đấu tranh quân sự, chính trị rất rõ ràng. Nghị quyết Trung ương 13 (1-1967) khẳng định: “... đấu tranh ngoại giao không chỉ đơn thuần phản ánh cuộc đấu tranh trên chiến trường mà trong tình hình quốc tế hiện nay với tính chất cuộc đấu tranh giữa ta và địch, đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động”9. - Trong quá trình chỉ đạo đấu tranh, dù ở tầm chiến lược hay ở mức chiến thuật, Trung ương và Bộ chính trị đều nắm chắc yêu cầu của chiến trường kết hợp với tình hình quốc tế để chỉ đạo những chủ trương, bước đi lớn cho đến các vấn đề cụ thể như một đề nghị hòa bình, một điều khoản của Hiệp định. Nhờ vậy, ngoại giao và đàm phán ứng xử được kịp thời, đúng hướng. - Trong chống Mỹ, ngành ngoại giao có bước trưởng thành vượt bậc. Cán bộ ngoại giao được tăng cường, trình độ hiểu biết thế giới, tầm nhìn chiến lược cho đến các kiến thức nghiệp vụ đều được nâng cao. Bộ máy ngoại giao được mở rộng gồm bộ phận tham mưu nghiệp vụ trong nước, bộ phận tham gia hai đoàn đàm phán và các cơ quan đại diện ở nước ngoài. Các lực lượng này phối hợp với ngoại giao Đảng, ngoại giao nhân dân, dưới sự chỉ đạo tập trung thống nhất của Đảng phát huy được sức mạnh và hiệu quả của mặt trận ngoại giao. 2. Ý nghĩa lịch sử Sau gần 5 năm, kiên trì đàm phán cùng cả quá trình đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến chống Mỹ, thắng lợi đã thuộc về nhân dân ta. - Những thắng lợi trên mặt trận đấu tranh ngoại giao đã tạo điều kiện vững chắc cho quân và dân ta giành thắng lợi quyết định trên chiến trường - Nâng cao vị thế VN trên trường quốc tế, cô lập Mỹ giúp nhân dân thế giới ngày càng hiểu rõ cuộc chiến tranh chính nghĩa của nhân dân ta - Thắng lợi của đấu tranh ngoại giao khẳng định vai trò, vị trí của đấu tranh ngoại giao, đây là mốc son chói lọi đánh dấu sự trưởng thành của Đảng và nhân dân ta. - Thắng lợi này có ý nghĩa quốc tế, mở ra một thời kỳ mới đấu tranh cho độc lập dân tộc và CNXH; mở ra thời đại mới của cách mạng VN: đánh thắng Mỹ, tạo ra “Hội chứng VN”. 3. Bài học kinh nghiệm Qua đấu tranh quyết liệt với kẻ thù, ngoại giao rút được nhiều bài học lớn. Dưới đây xin nêu mấy bài học chủ yếu nhất góp phần làm rõ bản lĩnh và trí tuệ trên mặt trận ngoại giao. - Bài học thứ nhất cũng là thành công quan trọng nhất là từ đầu, Đảng đã chủ trương đấu tranh trên ba mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao. Với sự phối hợp đó, ta đã thực hiện tốt phương châm gắn Việt Nam với thế giới, phát huy sức mạnh tổng hợp, kiềm chế, tấn công, bủa vây kẻ địch, gây khó khăn cho chúng ở chiến trường, trên quốc tế và cả trong nước Mỹ, góp phần tạo so sánh lực lượng và thế trận ngày càng có lợi cho ta. Đảng đã khéo chọn phương thức tốt nhất để phối hợp ba mặt trận là vận dụng “vừa đánh vừa đàm”. Khác với thời chống Pháp, thời chống Mỹ ta “vừa đánh vừa đàm”, hầu như suốt cuộc chiến. Nhờ đánh đàm, ta phát huy thế mạnh chính nghĩa dân tộc, đánh mạnh vào chính sách xâm lược của Mỹ, kịp thời phát huy thắng lợi ở chiến trường, khai thác khó khăn của chúng để từng bước đẩy lùi chúng. Đánh đàm cũng là phương thức tốt nhất để tranh thủ dư luận: lấy chiến thắng và lòng dũng cảm của quân dân để cảm hóa lương tri loài người; lấy các đề nghị hòa bình thiện chí và các lập luận sắc bén trên bàn đàm phán để thu hút dư luận về phía ta. Thực tế chứng tỏ thắng lợi trên chiến trường đóng vai trò quyết định thì ngoại giao và đàm phán góp phần tác động chiến trường và phát huy thắng lợi ở mặt trận để giành thắng lợi lớn hơn. - Bài học thứ hai là ngoại giao phát huy thế mạnh chính nghĩa dân tộc và thế thắng ở chiến trường góp phần có tính chất quyết định trong việc tập hợp lực lượng quốc tế, tranh thủ đồng minh, tác động nội bộ địch, đưa tới hình thành mặt trận nhân dân thế giới vĩ đại ủng hộ Việt Nam. Sự ủng hộ và giúp đỡ của quốc tế cũng là một trong những nguyên nhân thắng lợi của nhân dân ta. Để làm việc này, chúng ta đã kết hợp vận động chính trị, vận động báo chí với đấu tranh trên bàn đàm phán. Chúng ta duy trì hai diễn đàn, tận dụng diễn đàn công khai với những bài phát biểu có tính chính luận, những cuộc họp báo có sức thuyết phục. Chúng ta khai thác địa bàn Pari là một trung tâm báo chí, đầu mối thông tin quốc thế để tranh thủ dư luận được rộng khắp. Có thể nói tại diễn đàn Pari, Việt Nam ở vào thế lợi và thế mạnh áp đảo so với đối phương. Cùng với diễn đàn Pari, ngoại giao Đảng, Nhà nước, các đoàn thể nhân dân nhằm vào các đối tượng trọng yếu nhất, như Liên Xô, Trung Quốc, các nước xã hội chủ nghĩa, các nước Tây Bắc Âu - nơi có phong trào ủng hộ Việt Nam sôi động nhất. Ngoài giới công nhân và thanh niên, chúng ta rất coi trọng tầng lớp trí thức, các nhà bác học, giáo sư, học giả, văn nghệ sĩ tên tuổi, quy thành hàng trăm tổ chức, hàng trăm cuộc tập hợp, đại hội, hội thảo ủng hộ Việt Nam, có tác động lớn. Tòa án quốc tế Béctơrăng Rútxen (Bertrand Russel) là điển hình của phong trào trí thức, tiêu biểu cho tình cảm, lương tri loài người ủng hộ Việt Nam. - Bài học thứ ba là suốt cuộc kháng chiến, chúng ta kiên trì quan điểm độc lập tự chủ của Đảng. Cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam diễn ra trong hoàn cảnh Chiến tranh lạnh đang diễn ra gay gắt trên thế giới, nó liên quan đến nhiều nước, trước hết là ba nước lớn Mỹ - Xô - Trung đều dính líu trực tiếp. Nước Mỹ đang thời hưng thịnh, quyết “không để mất” Nam Việt Nam. Liên Xô, Trung Quốc hết lòng giúp Việt Nam nhưng cũng tìm cách tác động vì lợi ích chiến lược của mình. Liên Xô, Trung Quốc mâu thuẫn nhau ngay trong vấn đề Việt Nam và giúp Việt Nam. Đó là những khó khăn lớn cho ta. Quan điểm của ta là chân thành đoàn kết với Liên Xô, Trung Quốc, quý trọng sự giúp đỡ của bạn, coi trọng vị trí của bạn trong vấn đề Việt Nam. Ta coi trọng thông báo cho bạn tình hình và chủ trương đánh đàm của ta. Ngày 8-10-1972 khi ta trao cho Mỹ đề nghị hòa bình quyết định - Dự thảo Hiệp định, thì đồng thời ta cũng trao văn bản đó cho lãnh đạo Đảng hai nước đồng minh. Chúng ta ứng xử với hai nước khôn khéo, cân bằng, không đứng về bên này chống bên kia, không bên nặng, bên nhẹ. Khó khăn nhất là khi Việt Nam đi vào nói chuyện với Mỹ; Liên Xô thúc đẩy để sớm có thỏa hiệp, tích cực làm trung gian. Trái lại Trung Quốc phản đối, cho “miền Bắc bỏ rơi miền Nam”, “mắc mưu xét lại”... Việt Nam giữ vững lập trường, tiếp xúc với Mỹ là để phục vụ chiến trường. Ta kiên trì trao đổi, thuyết phục, cuối cùng, bằng thực tế, cả hai nước đều đồng tình với bước đi và bài bản đánh đàm của lãnh đạo Việt Nam. Việt Nam vượt qua mọi sức ép, đoàn kết được với cả Liên Xô, Trung Quốc, làm thất bại âm mưu của Mỹ chia rẽ Việt Nam với các đồng minh. Ta tự chủ được vững vàng là do rút được kinh nghiệm thời chống Pháp và thời kỳ đầu sau Hiệp định Giơnevơ. Quan trọng hơn cả là do thực lực ta khác trước, bản lĩnh, tư duy cũng vững vàng hơn trước. - Bài học thứ tư là ngoại giao Việt Nam luôn quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, dĩ bất biến ứng vạn biến”, vững vàng về nguyên tắc nhưng hết sức linh hoạt về sách lược. Đối phó với kẻ địch mạnh, với chính sách ngoại giao trên thế mạnh, trước hết ngoại giao phải giữ vững lập trường, mục đích chiến đấu của nhân dân. Ta khẳng định yêu cầu nguyên tắc là Mỹ phải chấm dứt hoàn toàn ném bom miền Bắc, phải rút hết quân Mỹ khỏi miền Nam mà không được đòi điều kiện gì. Ta kiên trì nguyên tắc Mỹ rút hết nhưng ta giữ nguyên lực lượng chính trị vũ trang ở miền Nam. Nhưng đánh một kẻ thù mạnh, ta phải có nghệ thuật vận dụng sách lược khôn khéo, mềm dẻo để đẩy lùi địch từng bước, giành thắng lợi từng bước. Vận dụng sách lược là một lĩnh vực đòi hỏi tầm trí tuệ cao và tư duy năng động. Suốt mấy năm chống Mỹ, ta đã vận dụng sách lược phong phú, khó kể hết. Dưới đây xin nêu vài ví dụ: Ví dụ thứ nhất: Suốt mấy năm đàm phán, Mỹ luôn đòi “hai bên cùng rút quân”, “quân miền Bắc phải rút khỏi miền Nam”... Phiên họp nào Mỹ cũng lặp lại yêu sách này và cũng ít nhiều gây khó khăn cho ta trước dư luận. Tháng 5-1969, ta đưa ra đề nghị hòa bình 10 điểm, trong đó điểm 3 nêu “Vấn đề các lực lượng vũ trang ở miền Nam Việt Nam sẽ do các bên Việt Nam giải quyết”. Luận điểm sách lược này trước mắt là nhằm bác bỏ yêu sách của Mỹ, không cho phía Mỹ được quyền dính líu vào vấn đề lực lượng vũ trang Việt Nam. Về lâu dài, ta cũng hướng vào giải quyết vấn đề này theo cách đó là thuận cho ta nhất. Ta kiên trì sách lược này suốt bốn năm. Cuối cùng nó được hai bên thỏa thuận thành một điều khoản của Hiệp định. Điều 13 của Hiệp định ghi: “Vấn đề lực lượng vũ trang Việt Nam ở miền Nam sẽ do hai bên miền Nam Việt Nam giải quyết”. Đây là một kỳ công về sách lược và nghệ thuật đàm phán, đưa lại thành công lớn. Ví dụ thứ hai: Đàm phán có hai loại vấn đề: quân sự và chính trị. Đi vào đàm phán thực chất, suốt mấy tháng Mỹ vẫn không chịu bàn các vấn đề chính trị. Chúng muốn giữ nguyên chế độ Sài Gòn. Đàm phán không tiến triển và có nguy cơ bế tắc. Cuối tháng 9-1972, Bộ Chính trị tính toán, cần gỡ bế tắc nên phải điều chỉnh yêu cầu đàm phán và chỉ thị cho đoàn Pari “... tranh thủ chấm dứt chiến tranh trước bầu cử Mỹ, ép Mỹ ký Hiệp định chính thức gồm có ngừng bắn, rút quân, thả tù binh”10. Ta tạm gác các vấn đề chính trị gai góc khó thỏa thuận mà tập trung giải quyết các vấn đề quân sự buộc Mỹ chấm dứt chiến tranh - rút hết quân - ta đặt yêu cầu “đánh cho Mỹ cút”. Đây là một sách lược lớn, dũng cảm, tài tình, hiệu lực. Nhờ sách lược lớn này mà lập trường hai bên gần nhau và chỉ trong vòng 12 ngày đạt được thỏa thuận Hiệp định (Văn bản ngày 20-10-1972). Vận dụng sách lược là nghệ thuật tinh tế nhất của ngoại giao và đàm phán. Bài học bao quát nữa là: Biết nắm thời cơ giành thắng lợi từng bước, tiến lên giành thắng lợi quyết định để đi tới thắng lợi cuối cùng. Chống kẻ thù mạnh, ngay từ đầu chúng ta đã phải trù tính thắng địch như thế nào, buộc địch thua đến đâu thì chúng có thể chịu; ta thắng đến đâu là phù hợp khả năng của ta. Bởi vậy phương châm giành thắng lợi từng bước là con đường tất yếu của ta để đi đến thắng lợi. Nắm thời cơ là nhân tố hàng đầu để giành một bước thắng lợi. Thời cơ gồm ba nhân tố chính: tình hình chiến trường, tình hình nội bộ địch và tác động của quốc tế. Năm 1967, trên chiến trường ta đã chế ngự được địch, Mỹ sa lầy, nội bộ Mỹ rạn nứt, quốc tế lên án Mỹ mạnh mẽ. Ta nắm thời cơ bắt đầu đòi Mỹ xuống thang trên miền Bắc. Ta đi từng bước, buộc Mỹ hạn chế ném bom (3-1968) và chấm dứt hoàn toàn (10-1968) Sau cuộc Tổng tiến công Xuân Hè 1972, Trung ương và Bộ Chính trị nghiên cứu tổng hợp các nhân tố: “Việt Nam hóa” của Níchxơn đã thất bại nghiêm trọng; thế và lực cách mạng trên toàn Đông Dương đã mạnh hơn địch; Níchxơn chịu nhiều sức ép phải chấm dứt chiến tranh trước bầu cử. Mặt khác Xô, Trung đã đi vào hòa hoãn với Mỹ. Tổng hợp các nhân tố đó, Bộ Chính trị đánh giá ta có thời cơ kết thúc chiến tranh. Từ đó Bộ Chính trị chủ trương đưa đàm phán đi vào thực chất, giành thắng lợi một bước quan trọng, buộc Mỹ chấp nhận một giải pháp kết thúc chiến tranh. Với tư tưởng chiến lược đó, ta ép Mỹ thỏa thuận Hiệp định Pari phù hợp thời cơ ta tính toán. Hiệp định Pari ngày 27-1-1973 cũng là thắng lợi một bước nhưng là một bước lớn, có ý nghĩa quyết định, buộc Mỹ rút hết, tạo nên so sánh lực lượng và thế trận rất có lợi cho ta để hai năm sau ta giành thắng lợi cuối cùng, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. KẾT LUẬN Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, đấu tranh trên mặt trận ngoại giao đã góp phần quan trọng, cùng với những thắng lợi trên mặt trận đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị làm nên thắng lợi to lớn của cuộc kháng chiến. Ngày nay, những bài học kinh nghiệm về đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vẫn giữ nguyên giá trị, có thể vận dụng vào hoạt động ngoại giao trong thời kỳ mới của cách mạng nước ta.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan