Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giải quyết tranh chấp thương mại trong khuôn khổ WTO...

Tài liệu Giải quyết tranh chấp thương mại trong khuôn khổ WTO

.PDF
94
570
79

Mô tả:

đ ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ HỒNG HẢI GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI TRONG KHUÔN KHỔ WTO Chuyên ngành: Luật quốc tế Mã số: 60 38 60 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Hoàng Phước Hiệp HÀ NỘI - 2009 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục từ viết tắt Danh mục các bảng Danh mục các biểu đồ MỞ ĐẦU Chương 1: 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH 4 CHẤP THƯƠNG MẠI TRONG KHUÔN KHỔ WTO 1.1. Tổng quan quá trình hình thành và phát triển chế định giải quyết tranh chấp thương mại của WTO 4 1.1.1. Khái niệm tranh chấp thương mại trong khuôn khổ WTO 4 1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển chế định giải quyết tranh chấp thương mại của WTO 7 1.1.2.1. Giai đoạn từ 1948 - 1995 7 1.1.2.2. Giai đoạn từ 1995 đến nay 9 1.2. Hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO 10 1.2.1. Mục tiêu của hoạt động giải quyết tranh chấp của WTO 10 1.2.2. Các nguyên tắc cơ bản của hoạt động giải quyết tranh chấp của WTO 15 1.2.3. Quyền tài phán của WTO 17 1.2.3.1. Phạm vi quyền tài phán chung 17 1.2.2.2. Quyền tài phán bắt buộc 18 1.2.4. Các bên nguyên đơn, bị đơn và bên thứ ba DSMWTO 18 1.2.5. Các loại đơn kiện và những lập luận cần có trong quá trình giải quyết tranh chấp tại WTO 19 1.2.6. Các thiết chế tham gia hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO và Quy tắc đạo đức nghề nghiệp 21 1.2.7. Các phương pháp giải quyết tranh chấp và trình tự, thủ tục tố tụng tại WTO 23 1.2.7.1. Các phương pháp giải quyết tranh chấp 23 1.2.7.2. Trình tự, thủ tục tố tụng tại WTO 27 1.2.8. Các thành viên là nước đang phát triển trong DSM/WTO 30 1.2.9. Vòng đàm phán Đôha và tiến trình phát triển hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO 33 Chương 2: THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA WTO 36 2.1. Tổng quan về thực tiễn giải quyết tranh chấp của WTO 36 2.1.1. Thực tiễn giải quyết tranh chấp theo lĩnh vực 37 2.1.1.1. Tranh chấp trong lĩnh vực thương mại hàng hóa 38 2.1.1.2. Tranh chấp trong lĩnh vực thương mại dịch vụ 42 2.1.1.3. Tranh chấp trong lĩnh vực thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ 45 2.1.2. Thực tiễn các nước đang phát triển tham gia vào DSM/WTO 46 2.1.3. Kháng cáo và thực hiện phán quyết của DSB 49 2.2. Đánh giá thực tiễn giải quyết tranh chấp của WTO 51 2.2.1. Ưu điểm 51 2.2.2. Hạn chế 55 2.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ thực tiễn giải quyết tranh chấp của WTO 60 Chương 3: HỆ THỐNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA WTO 62 VÀ NHỮNG CƠ HỘI, THÁCH THỨC ĐỐI VỚI VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH THỰC THI QUY CHẾ THÀNH VIÊN WTO 3.1. Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam khi gia nhập WTO và tham gia giải quyết tranh chấp của WTO 62 3.1.1. Cơ hội 62 3.1.2. Thách thức 67 3.2. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện chính sách và pháp luật Việt Nam để nâng cao hiệu quả sử dụng DSM/WTO 72 3.2.1. Phương hướng hoàn thiện chính sách và pháp luật Việt Nam để nâng cao hiệu quả sử dụng DSM/WTO 72 3.2.2. Một số giải pháp hoàn thiện chính sách và pháp luật Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng DSM/WTO 74 3.2.2.1. Giải pháp về xây dựng pháp luật 74 3.2.2.2. Giải pháp về tổ chức bộ máy 77 3.2.2.3. Giải pháp tăng cường nguồn nhân lực 78 3.2.2.4. Tuyên truyền và phổ biến kiến thức về WTO 80 3.2.2.5. Nghiên cứu, vận dụng thành công những ưu đãi và bài học kinh nghiệm của WTO dành cho các nước đang phát triển 81 3.2.2.6. Tích cực theo kiện và chuẩn bị tốt tài liệu tố tụng 81 3.2.2.7. Chuẩn bị tốt về tài chính khi theo kiện 82 KẾT LUẬN 84 TÀI LIỆU THAM KHẢO 86 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á DSB Cơ quan giải quyết tranh chấp DSM Cơ chế giải quyết tranh chấp DSU Thỏa thuận về các quy tắc và thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp GATS Hiệp định chung về thương mại dịch vụ GATT Hiệp định chung về thuế quan và thương mại Hiệp định WTO Hiệp định Marrakesh thành lập Tổ chức Thương mại thế giới SCM Trợ cấp và các biện pháp đối kháng SPS Các biện pháp kiểm dịch động thực vật TRIPS Các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ UNCITRAL Ủy ban Luật thương mại quốc tế Liên hợp quốc WTO Tổ chức Thương mại thế giới danh môc c¸c b¶ng sè hiÖu b¶ng Tªn b¶ng Trang 1.1 Khung thời gian cho một quy trình tố tụng thông thường 29 danh môc c¸c biÓu ®å sè hiÖu biÓu ®å Tªn biÓu ®å Trang 1.1 Số lượng vụ tranh chấp đã giải quyết của WTO 37 2.2 Những lĩnh vực tranh chấp chủ yếu WTO tập trung giải quyết 38 2.3 Tỷ lệ tham gia DSM với tư cách nguyên đơn của các nước đang phát triển 47 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Hội nhập kinh tế quốc tế là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Điều này đã được thể hiện qua nhiều văn kiện quan trọng, trong đó, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 05/02/2007 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương đã đưa ra những đánh giá về tình hình mới sau khi Việt Nam gia nhập WTO, nhấn mạnh những cơ hội, thách thức và đặt ra một số chủ trương, chính sách lớn của Việt Nam trong giai đoạn khi Việt Nam là thành viên của WTO. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về cải cách tư pháp của Bộ Chính trị cũng đặt ra những nhiệm vụ tăng cường tìm hiểu luật lệ thương mại quốc tế. Tranh chấp thương mại quốc tế là vấn đề khó tránh khỏi đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập. So với nhiều nước, kể cả các nước trong khu vực thì Việt Nam tham gia vào thương mại toàn cầu khi các quy tắc và chuẩn mực thương mại quốc tế về cơ bản đã được hình thành và phát triển. Vì vậy, đối với Việt Nam, một vấn đề rất quan trọng là ngay từ khi bắt đầu tham gia hội nhập kinh tế thế giới cần phải nghiên cứu, tìm hiểu những luật lệ thương mại quốc tế để tận dụng tốt cơ hội đồng thời tránh những rủi ro pháp lý không đáng có. Ngày 11/01/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Bước vào "sân chơi chung" WTO, tất yếu chúng ta phải nghiên cứu, tìm hiểu các luật lệ, quy tắc của WTO, trong đó có các quy định về giải quyết tranh chấp thương mại nhằm chủ động tham gia thương mại quốc tế, hạn chế rủi ro và bảo vệ tốt hơn quyền lợi của Việt Nam. Vì những lý do trên, vấn đề: "Giải quyết tranh chấp thương mại trong khuôn khổ WTO" là một hướng nghiên cứu có ý nghĩa về lý luận và 1 thực tiễn trong bối cảnh hiện nay tại Việt Nam. Do vậy, em đã chọn vấn đề này làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm gần đây, vấn đề giải quyết tranh chấp trong WTO đã có một số công trình nghiên cứu: Ở trong nước có Dự án Hỗ trợ thương mại đa biên (MUTRAP) do Liên minh Châu Âu tài trợ, Bộ Công thương phối hợp thực hiện; Dự án hỗ trợ cải cách pháp luật Việt Nam (LERAP) của Cơ quan hợp tác phát triển quốc tế Canada (CIDA), Bộ Tư pháp phối hợp thực hiện; Dự án Hỗ trợ Thúc đẩy Thương mại (STAR) là dự án hỗ trợ kỹ thuật do Cơ quan Hỗ trợ Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tài trợ. Các dự án này đều có nhiều hoạt động, nghiên cứu, đào tạo liên quan đến các quy định của WTO, trong đó có chế định giải quyết tranh chấp thương mại của WTO. Ngoài ra có một số công trình, luận văn thạc sĩ như: "Các nước đang phát triển với cơ chế giải quyết tranh chấp của Tổ chức Thương mại Thế giới", của TS Nguyễn Vĩnh Thanh, ThS. Lê Thị Hà, Nxb Lao động xã hội, 2006; "Vài nét về các quy tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp theo WTO", của Trần Mai Hùng, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, (số chuyên đề), 2004; "Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO với các nước đang phát triển", Luận văn thạc sĩ Luật học của Phạm Thị Hường;… Các công trình và những bài viết nêu trên có đề cập đến những khía cạnh khác nhau về cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế của WTO. Tuy nhiên, chưa có một công trình nào nghiên cứu sâu về thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại trong khuôn khổ WTO và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Ở nước ngoài, các tài liệu về giải quyết tranh chấp của WTO có tương đối nhiều và phổ biến nhưng hầu hết đều được viết bằng tiếng nước ngoài. Vì vậy, trong xu thế hội nhập hiện nay, việc nghiên cứu một cách có hệ thống về vấn đề này mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. 2 3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Luận văn tập trung nghiên cứu thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại trong khuôn khổ pháp luật WTO và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Luận văn không tập trung nghiên cứu vấn đề tác nghiệp trong giải quyết tranh chấp, quy tắc đạo đức nghề nghiệp và thực tiễn thi hành quyết định giải quyết tranh chấp của Ban hội thẩm, Cơ quan phúc thẩm. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Để làm rõ vấn đề trên, chúng tôi sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu so sánh. Các phương pháp cụ thể này được thực hiện trên nền tảng của phương pháp biện chứng, trên cơ sở các quan điểm, đường lối kinh tế của Đảng về chính sách đối ngoại và quan điểm hợp tác, hội nhập kinh tế quốc tế, gắn với mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 5. Những đóng góp của luận văn Là một đề tài về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, qua nghiên cứu, phân tích hệ thống giải quyết tranh chấp thương mại của WTO luận văn góp phần khái quát hóa và giới thiệu hệ thống giải quyết tranh chấp thương mại của WTO hiện nay; nhận định, đánh giá, phân tích, so sánh, từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng hệ thống giải quyết tranh chấp này đối với Việt Nam. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về giải quyết tranh chấp thương mại trong khuôn khổ WTO. Chương 2: Thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại của WTO. Chương 3: Hệ thống giải quyết tranh chấp thương mại của WTO và những cơ hội, thách thức đối với Việt Nam trong quá trình thực thi quy chế thành viên WTO. 3 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI TRONG KHUÔN KHỔ WTO 1.1. TỔNG QUAN QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CHẾ ĐỊNH GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI CỦA WTO 1.1.1. Khái niệm tranh chấp thƣơng mại trong khuôn khổ WTO Thuật ngữ "tranh chấp" được hiểu theo nghĩa thông thường là bất đồng, xung đột, tranh cãi về quyền hoặc nghĩa vụ mà trong đó việc khẳng định quyền của một bên được đáp lại bằng sự từ chối, phủ nhận hay yêu cầu ngược lại của phía bên kia. Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, do Hoàng Phê chủ biên thì tranh chấp là đấu tranh, giằng co khi có ý kiến bất đồng, thường là trong vấn đề quyền lợi giữa hai bên [31]. Khái niệm thương mại quốc tế, theo định nghĩa của UNCITRAL được hiểu theo nghĩa rất rộng, bao gồm mọi hoạt động kinh doanh trên thị trường quốc tế, tức là bao gồm mọi hoạt động thương mại quốc tế và đầu tư quốc tế từ mua bán hàng hóa hữu hình đến các dịch vụ như bảo hiểm, tài chính, tín dụng, chuyển giao công nghệ, thông tin, vận tải, du lịch… [16]. Theo định nghĩa này, có thể thấy phạm vi hoạt động của thương mại bao quát hầu hết các lĩnh vực hoạt động kinh tế, trong đó hoạt động mua bán hàng hóa và dịch vụ chỉ là một phạm vi rất nhỏ trong thương mại. WTO với cách quan niệm hiện đại về thương mại thì cho rằng các hoạt động thương mại là tất cả các hoạt động nhằm mục đích sinh lời, bất kể đó là hàng hóa, dịch vụ hay đầu tư... WTO được thành lập ngày 01/01/1995 theo Hiệp định Marrakesh. Cùng với việc thành lập WTO, chế định giải quyết tranh chấp thương mại 4 của tổ chức này được kế thừa và phát triển. Trong đó, WTO quan niệm "tranh chấp thương mại" là tranh chấp ở phạm vi quốc tế, được dùng để chỉ các bất đồng giữa các nước thành viên WTO khi một nước cho rằng quyền lợi của mình theo một hiệp định nào đó của WTO bị triệt tiêu đi hay bị xâm hại do việc một nước thành viên khác áp dụng một biện pháp thương mại hoặc không thực hiện một nghĩa vụ (khiếu kiện vi phạm); hoặc khi việc đạt được mục tiêu của hiệp định bị cản trở, triệt tiêu hoặc suy giảm quyền lợi thương mại do biện pháp thương mại của một thành viên bất kể là biện pháp này có trái với nghĩa vụ thành viên hay không (khiếu kiện không có vi phạm); hoặc khi có bất kỳ tình tiết nào đem lại thiệt hại về quyền lợi hay cản trở đạt mục tiêu hiệp định (khiếu kiện tình huống). Hơn nữa, một bất đồng chỉ trở thành một tranh chấp của WTO khi nó được chính thức thông báo cho Ban thư ký WTO [16, tr. 270]. Như vậy, trong khuôn khổ WTO, tranh chấp thương mại được hiểu là bất đồng giữa các thành viên WTO liên quan đến việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo các Hiệp định và thỏa thuận của WTO và bất đồng này được thông báo chính thức cho Ban thư ký WTO. Từ định nghĩa trên, có thể rút ra một số đặc điểm của tranh chấp thương mại trong khuôn khổ WTO như sau: Thứ nhất, tranh chấp thương mại trong khuôn khổ WTO là tranh chấp thương mại quốc tế liên quốc gia, liên chính phủ; Thứ hai, các bên tranh chấp là thành viên WTO. Các tổ chức quốc tế, các cá nhân, pháp nhân… không thể là một bên của tranh chấp; Thứ ba, khách thể của tranh chấp luôn liên quan đến việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo các Hiệp định và thỏa thuận của WTO; Thứ tư, tranh chấp phải được giải quyết theo cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO (DSM). 5 Tranh chấp thương mại là một trong những hệ quả của hoạt động thương mại, đặc biệt là trong thương mại quốc tế (do xung đột pháp luật, bất đồng ngôn ngữ…). Vì vậy, giải quyết tranh chấp phát sinh là một nhu cầu tất yếu khách quan. Giải quyết tranh chấp thương mại trong khuôn khổ WTO theo nghĩa chung nhất có thể hiểu là cách thức, phương pháp hoặc các hoạt động của WTO để điều chỉnh các bất đồng, các xung đột giữa các thành viên WTO liên quan đến việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo các Hiệp định và thỏa thuận của WTO nhằm khắc phục và loại trừ các tranh chấp đã phát sinh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên. Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về hội nhập kinh tế quốc tế, bên cạnh việc đẩy mạnh các quan hệ kinh tế song phương, Việt Nam đã tham gia vào các tổ chức quốc tế đa phương như Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), WTO… Việc giải quyết tranh chấp thương mại của WTO có nhiều ưu việt hơn giải quyết tranh chấp của các tổ chức quốc tế khác. Giải quyết tranh chấp thương mại trong ASEAN chủ yếu được quy định trong nghị định thư về cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại (Nghị định thư ASEAN). Các quy định của Nghị định thư ASEAN được thể hiện đơn giản, ngắn gọn và khác với cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO ở một số điểm như: Cơ quan xem xét phúc thẩm là Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế các nước ASEAN (bao gồm các chính trị gia), thay vì là các học giả, chuyên gia pháp luật, thương mại quốc tế nổi tiếng; việc thông qua phán quyết hay khuyến nghị trong Nghị định thư ASEAN theo nguyên tắc quá bán; việc thi hành các phán quyết và khuyến nghị, theo nghị định thư ASEAN chưa được quy định rõ. DSM của ASEAN được tồn tại để giải quyết các tranh chấp thương mại. Tuy nhiên, cơ chế này cho đến nay vẫn chưa được thử nghiệm trên thực tế nên khó có thể có một đánh giá chính xác. Nhưng theo đánh giá của nhiều nhà 6 bình luận quốc tế, so với DSM của ASEAN, chế định giải quyết tranh chấp thương mại của WTO có nhiều ưu việt hơn. DSM của WTO không chỉ bao gồm Điều 22 và 23 của GATT mà còn có cả Thỏa thuận về các Quy tắc và Thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp - DSU (Dispute Settlement Understanding), được biết đến như là phụ lục 2 của Hiệp định thành lập WTO, gồm 27 điều và 4 phụ lục. Ngoài ra, trong các tranh chấp liên quan đến một số vấn đề thương mại cụ thể, còn có các hiệp định đặc biệt hay bổ sung được quy định tại một số hiệp định liên quan (được liệt kê tại phụ lục 2 của DSU). Các quy định đặc biệt hay bổ sung có giá trị ưu tiên áp dụng trong trường hợp có sự khác nhau giữa các quy định này với các quy định của DSU (Điều 1.2 của DSU). Tuy nhiên, các quy định của DSU vẫn được coi là xương sống của cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. DSU quy định các phương pháp, trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp, bảo đảm tính công bằng, thống nhất, khách quan, đồng thời cũng đưa ra các biện pháp bảo đảm thi hành các khuyến nghị, phán quyết của cơ quan giải quyết tranh chấp. 1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển chế định giải quyết tranh chấp thƣơng mại của WTO Hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO là sự đổi mới và kế thừa các quy định về giải quyết tranh chấp của hệ thống thương mại đa phương trước đó trên cơ sở của GATT 1947. Quá trình hình thành và phát triển chế định giải quyết tranh chấp thương mại của WTO có thể chia làm hai giai đoạn là giai đoạn từ 1948-1995 và từ 1995 đến nay. 1.1.2.1. Giai đoạn từ 1948 - 1995 Tuy GATT 1947 thất bại trong việc lập ra Tổ chức thương mại quốc tế (ITO) và không đặt ra việc soạn thảo cơ chế giải quyết tranh chấp nhưng trên thực tế có Điều XXII và Điều XXIII quy định tổng quan về vấn đề này. 7 Những nguyên tắc đầu tiên trong Điều XXIII:2 của GATT 1947 quy định rằng, bản thân các bên ký kết phải với tư cách là tập thể để giải quyết bất kỳ tranh chấp nào giữa các bên ký kết. Vì vậy, các tranh chấp trong những năm đầu được Chủ tịch Hội đồng GATT đưa ra phán quyết. Sau này, các tranh chấp được chuyển đến các Ban công tác (Working Party) gồm đại diện của tất cả các bên ký kết có liên quan, bao gồm cả các bên tranh chấp. Những ban công này thông qua báo cáo trên cơ sở quyết định đồng thuận. Ban công tác sớm bị thay thế bởi Ban Hội thẩm gồm từ 3 - 5 chuyên gia độc lập của các nước thành viên GATT. Ban Hội thẩm làm báo cáo gửi Hội đồng GATT và phải được tất cả các thành viên của GATT đồng ý thì báo cáo mới được thông qua (nguyên tắc đồng thuận tuyệt đối). Vì vậy, thủ tục giải quyết tranh chấp giai đoạn này mang tính ngoại giao là chính. Những quyết định và thỏa thuận quan trọng nhất trước Vòng Urugoay gồm: Quyết định ngày 05/4/1966 về các thủ tục theo Điều XXIII; Thỏa thuận về thông báo, tham vấn, giải quyết tranh chấp và giám sát, được thông qua ngày 28/11/1979; Quyết định về giải quyết tranh chấp, trong Tuyên bố Bộ trưởng ngày 29/11/1982; Quyết định về giải quyết tranh chấp ngày 30/11/1984 [23]. Từ năm 1983, Phòng pháp luật GATT phối hợp Ban Hội thẩm soạn thảo các báo cáo về giải quyết tranh chấp (case by case). Trước đó, báo cáo về giải quyết tranh chấp được Ban Hội thẩm sau áp dụng rộng rãi như là các "án lệ" thương mại quốc tế, Ban Hội thẩm bắt đầu sử dụng các quy tắc tập quán trong giải thích công pháp quốc tế. Như vậy, trong giai đoạn từ 1948-1995, chế định giải quyết tranh chấp đi từ "tài phán ngoại giao (diplomat’s jurisprudence) sang chế định giải quyết tranh chấp dựa trên hệ thống tài phán bán tư pháp (Rules - based system of dispute settlement through adjudication). 8 Nhìn nhận về giai đoạn này, nhiều nhà bình luận quốc tế cho rằng, trong gần 50 năm tồn tại, chế định giải quyết tranh chấp của GATT 1947 cũng đã góp phần xử lý tranh chấp thương mại quốc tế, thỏa mãn trong một mức độ các yêu cầu của các bên (giải quyết được hơn 100 vụ việc). Tuy nhiên, chính nguyên tắc đồng thuận tuyệt đối đã làm cho GATT 1947 có nhiều hạn chế. Bởi vì, theo đó toàn bộ hệ thống giải quyết tranh chấp của GATT được đặt trên cơ sở ra quyết định đồng thuận. Chẳng hạn, trong Hội đồng GATT cần có sự đồng thuận để chuyển một tranh chấp tới Ban Hội thẩm, nghĩa là không có sự phản đối từ bất kỳ bên ký kết nào đối với quyết định đó. Nói cách khác, bên bị khiếu nại có thể cản trở việc thành lập Ban Hội thẩm, xác định những điều kiện tham chiếu, chỉ định thành viên Ban Hội thẩm, thông qua phán quyết và cho quyền trả đũa. Đây là nguyên nhân gây chậm trễ hoặc bế tắc trong việc thông qua Báo cáo của Ban Hội thẩm, bởi bất kỳ một bên ký kết nào, kể cả bên tranh chấp cũng có quyền trì hoãn những việc làm này. Vì vậy, trên thực tế đã có nhiều tranh chấp không được đưa ra trước GATT vì bên khiếu kiện nghi ngờ rằng bên bị khiếu kiện sẽ thực hiện quyền phủ quyết. Do đó, rủi ro trong việc thực hiện quyền phủ quyết đã làm suy yếu hệ thống giải quyết tranh chấp của GATT 1947. 1.1.2.2. Giai đoạn từ 1995 đến nay Vòng đàm phán Uruguay diễn ra từ năm 1986 đến năm 1994. Trong đó, năm 1989 các thành viên WTO đã thỏa thuận được một số quy định về việc cải thiện chế định giải quyết tranh chấp thương mại theo hướng: - Thừa nhận quyền của Panels trong tố tụng; - Thông qua gần như là tự động (the quasi-automatic adoption) các vấn đề như yêu cầu thành lập Panels, Báo cáo giải quyết tranh chấp và các yêu cầu cho phép dừng thực thi nhượng bộ; - Quy định khung thời gian chặt chẽ về các giai đoạn, các bước khác nhau của quy trình giải quyết tranh chấp; 9 - Có khả năng xử phúc thẩm lại Báo cáo của Panels. Như vậy, một trong những thành công của Vòng đàm phán Uruguay là việc hoàn thiện chế định giải quyết tranh chấp mà "xương sống" là DSM/WTO gồm Thỏa thuận về các Quy tắc và Thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp - DSU (Dispute Settlement Understanding), được biết đến như là phụ lục 2 của Hiệp định thành lập WTO, với 27 điều và 4 phụ lục. Tính đến tháng 9/2009 đã có gần 400 vụ tranh chấp được đưa ra WTO, trong đó hơn 360 vụ có kết luận của Cơ quan giải quyết tranh chấp. Giáo sư Ernsr - Ulrich Petersmann, một trong những chuyên gia hàng đầu của thế giới về GATT/WTO đã nhận xét: Cơ chế đó không chỉ đơn thuần giải quyết êm thấm các tranh chấp mà còn là công cụ bảo đảm sự tin cậy về mặt pháp lý đối với các cam kết của các Chính phủ và quan trọng hơn cả đó là một vũ khí dùng để răn đe những nước chủ trương chính sách ngoại giao thương mại dựa trên sức mạnh… [28]. Với thủ tục giải quyết tranh chấp mang tính cố định và bắt buộc của DSM/WTO, các nước trên thế giới dù lớn hay nhỏ, dù nghèo hay giàu, dù là nước phát triển hay đang phát triển cũng đều phải tuân thủ"luật chơi chung" của WTO. 1.2. HỆ THỐNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA WTO 1.2.1. Mục tiêu của hoạt động giải quyết tranh chấp của WTO Một hiệp định quốc tế sẽ không có nhiều giá trị nếu các bên ký kết không tuân thủ các nghĩa vụ của hiệp định này. Do đó, để tăng giá trị thực tiễn của các cam kết mà các bên ký kết đã chấp thuận trong hiệp định quốc tế, chế định giải quyết tranh chấp của WTO được xây dựng để hướng tới các mục tiêu sau: 10 * Bảo toàn các quyền và nghĩa vụ của các thành viên WTO (Điều 3.2 DSU) Bất kỳ thành viên WTO nào có lợi ích bị xâm hại do biện pháp hoặc chính sách thương mại của thành viên khác thì đều được phép viện dẫn đến các điều khoản và thủ tục của hệ thống giải quyết tranh chấp để chính thức phản đối lại biện pháp hoặc chính sách thương mại đó. Nếu các bên tranh chấp thương lượng không thành thì tranh chấp được bảo đảm giải quyết bằng một quy trình dựa trên nguyên tắc mà theo đó tính đúng đắn của đơn kiện sẽ được xem xét bởi một cơ quan độc lập (Ban Hội thẩm hoặc Cơ quan Phúc thẩm). Như vậy, hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO nhằm bảo đảm các quyền các thành viên theo Hiệp định WTO được thực hiện. Hệ thống này cũng quan trọng đối với cả bên bị khiếu kiện để họ tự bảo vệ mình nếu họ không đồng ý với lời cáo buộc của bên khiếu kiện. Trong trường hợp này, hệ thống giải quyết tranh chấp đóng vai trò bảo vệ quyền và nghĩa vụ của thành viên theo Hiệp định WTO. Các quyết định của các cơ quan liên quan nhằm mục tiêu phản ánh và thực thi một cách đúng đắn các quyền và nghĩa vụ như được quy định tại Hiệp định WTO. * Làm rõ quyền lợi và nghĩa vụ thông qua giải thích (Điều 17.6 DSU và IX: 2 Hiệp định WTO) Trong một số trường hợp, phạm vi chính xác của quyền và nghĩa vụ được nêu trong Hiệp định WTO không hoàn toàn được rõ ràng ngay nếu chỉ đọc văn bản hiệp định. Các điều khoản pháp lý thường được viết ra theo ngôn ngữ chung để có thể áp dụng chung và bao trùm một số lượng lớn các trường hợp, tình huống cụ thể. Với nhiều trường hợp, nội hàm của quy phạm chỉ có thể được tìm thấy sau khi giải thích được các nội dung của quy định liên quan. Thêm vào đó, các quy định pháp lý trong các hiệp định quốc tế đôi khi thiếu sự rõ ràng bởi câu chữ của chúng là kết quả của sự thỏa hiệp sau các 11 vòng đàm phán đa phương. Những thành viên khác nhau tham gia vào quá trình đàm phán thường phải dung hòa các quan điểm khác nhau thông qua việc thống nhất nội dung của văn kiện sao cho có thể hiểu theo nhiều cách để vẫn thỏa mãn được yêu cầu của các nhóm có quyền lợi kinh tế khác nhau. Các nhà đàm phán cũng có thể nhờ đó mà hiểu những quy định cụ thể theo các khác nhau. Vậy nên, DSU chỉ ra một cách rõ ràng rằng hệ thống giải quyết tranh chấp có mục tiêu làm rõ các quy định của Hiệp định WTO "phù hợp với những quy tắc về tập quán trong giải thích công pháp quốc tế". Như vậy, DSU đã công nhận sự cần thiết phải làm rõ các quy định của WTO và yêu cầu bắt buộc rằng việc làm rõ này phải theo đúng quy tắc có tính tập quán về giải thích. Thêm vào đó, Điều 17.6 của DSU đã ngầm công nhận rằng các Ban Hội thẩm được phép phát triển các giải thích pháp lý. Do đó, "thẩm quyền duy nhất" theo Điều IX:2 của Hiệp định WTO phải được hiểu là khả năng thông qua những giải thích "chính thức", có hiệu lực chung đối với tất cả các thành viên WTO. Điều này khác với cách giải thích của các Ban Hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm là chỉ áp dụng cho các bên tranh chấp và cho một tranh chấp cụ thể. Về phương pháp giải thích, DSU dẫn chiếu đến các "quy tắc về tập quán trong giải thích công pháp quốc tế (Điều 3.2 của DSU). Tuy nhiên, các quy tắc của pháp luật tập quán quốc tế thường không được viết thành văn bản, nhưng đã có một số công ước quốc tế pháp điển hóa một số quy tắc của pháp luật tập quán về giải thích điều ước quốc tế. Đáng chú ý là các Điều 31 (Quy định chung về giải thích); Điều 32 (Phương tiện bổ sung cho giải thích) và Điều 33 (Giải thích điều ước được chứng thực bằng hai hay nhiều ngôn ngữ) của Công ước Viên năm 1969 về Luật các điều ước quốc tế đã hàm chứa nhiều quy tắc có tính tập quán về giải thích công pháp quốc tế. Do vậy, việc giải thích Hiệp định WTO cần được tiến hành phù hợp với quy định liên quan, được cân nhắc trong bối cảnh cụ thể và theo mục đích và đối tượng của hiệp định. 12 * Giải pháp ưu tiên là thương lượng trực tiếp (Điều 11 DSU) Mặc dù hệ thống giải quyết tranh chấp được sử dụng để bảo toàn các quyền của các thành viên bị xâm phạm và để làm rõ phạm vi các quyền và nghĩa vụ mà những quyền và nghĩa vụ này đã dần đạt được ở mức cao hơn về tính an toàn và dự báo trước, nhưng mục tiêu hàng đầu của hệ thống này không phải là để đưa ra các phán quyết hay để phát triển án lệ. Giống như các hệ thống pháp luật khác, nó ưu tiên giải quyết tranh chấp với mong muốn thông qua giải pháp được các bên tự dàn xếp, thương lượng, thỏa thuận phù hợp với Hiệp định WTO. Việc xét xử chỉ được sử dụng khi các bên không thể đưa ra được giải pháp này. Với tư cách là giai đoạn đầu tiên của mỗi tranh chấp, DSU yêu cầu các bên tham vấn chính thức đưa ra một khuôn khổ mà theo đó các bên tranh chấp phải ít nhất là cố gắng đàm phán để đạt được hòa giải. Ngay cả khi vụ kiện đến giai đoạn xét xử, các bên vẫn có thể tự dàn xếp với nhau và luôn được khuyến khích nỗ lực theo hướng này. * Giải quyết tranh chấp nhanh chóng (Điều 4.3 và Điều 6.1 DSU) DSU nhấn mạnh rằng giải quyết tranh chấp nhanh chóng là rất quan trọng nếu WTO muốn hoạt động hiệu quả và sự cân bằng các quyền và nghĩa vụ giữa các thành viên được duy trì. DSU đưa ra các thủ tục cụ thể về thời gian tương ứng phải tuân thủ trong giải quyết tranh chấp. Nếu vụ kiện được xét xử thì nó có thể cần không quá 12 tháng để Ban Hội thẩm đưa ra phán quyết và không quá 15 tháng trong trường hợp vụ kiện được phúc thẩm. Tuy nhiên, các cuộc tranh chấp trong WTO thường rất phức tạp cả về tình tiết và pháp luật áp dụng. Các bên thường đưa ra nhiều số liệu và tài liệu liên quan đến tranh chấp cùng những căn cứ pháp lý rất cụ thể. Các bên cần thời gian để chuẩn bị những lý lẽ về thực tế và về pháp lý để trả lời cho những lập luận mà bên đối lập đưa ra. Ban Hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm được bổ nhiệm để giải quyết vấn đề sẽ phải xem xét tất cả các bằng chứng và lý lẽ, có 13 thể phải nghe chuyên gia và đưa ra lập luận chi tiết để kết luận. Nếu tính đến tất cả các khía cạnh này, hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO hoạt động tương đối nhanh và trong mọi trường hợp, nhanh hơn nhiều so với các hệ thống tòa án của nước thành viên hoặc hệ thống tài phán quốc tế khác [23]. * Cấm quyết định đơn phương (Điều 23 DSU) Các thành viên WTO đã đồng ý sử dụng hệ thống đa phương để giải quyết các tranh chấp thương mại trong WTO thay vì sử dụng đến hành động đơn phương. Điều này có nghĩa là tuân thủ các thủ tục đã được thống nhất và tôn trọng các phán quyết khi được đưa ra và không được đơn phương áp dụng pháp luật. Nếu một thành viên khiếu kiện thành viên khác là đã vi phạm các quy tắc WTO và hành động một cách đơn phương là áp dụng biện pháp đối kháng thì có nghĩa thành viên đó cũng vi phạm nghĩa vụ. Thành viên đó có thể lập luận rằng mình đã hành động đúng luật vì sự vi phạm của họ được lý giải với tư cách là biện pháp đối kháng với sự vi phạm trước đó của thành viên khác. Tuy nhiên, nếu thành viên bị khiếu kiện không đồng ý rằng biện pháp của họ là vi phạm nghĩa vụ của WTO thì họ cũng sẽ không chấp nhận lý lẽ về biện pháp đối kháng mà thành viên khiếu kiện đưa ra. Do vậy, thành viên bị khiếu kiện có thể cho rằng biện pháp đối kháng đó là bất hợp pháp và họ có lý do chính đáng để áp dụng một biện pháp đối kháng để chống lại. Bên khiếu kiện ban đầu dựa trên quan điểm pháp lý của mình có thể sẽ lại không đồng ý và tiếp tục đưa ra một biện pháp đối kháng khác. Sự việc có thể gia tăng căng thẳng ngoài tầm kiểm soát và nếu như không có một bên rút lui thì nguy cơ hạn chế thương mại giữa các bên sẽ ngày càng leo thang và điều này có thể dẫn đến "chiến tranh thương mại". Để ngăn chặn mâu thuẫn gia tăng như vậy, DSU yêu cầu bắt buộc các thành viên phải sử dụng hệ thống đa phương để giải quyết tranh chấp khi họ muốn một thành viên khác "sửa sai". "Khi các nước thành viên muốn xử lý một tranh chấp... thì những nước thành viên này phải dựa vào và tuân thủ 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan