Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giải quyết tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ quốc gia bằng biện pháp trọng tài tr...

Tài liệu Giải quyết tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ quốc gia bằng biện pháp trọng tài trong luật quốc tế

.PDF
112
394
143

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM THANH BÌNH GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ CHỦ QUYỀN LÃNH THỔ QUỐC GIA BẰNG BIỆN PHÁP TRỌNG TÀI TRONG LUẬT QUỐC TẾ LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội - 2014 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM THANH BÌNH GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ CHỦ QUYỀN LÃNH THỔ QUỐC GIA BẰNG BIỆN PHÁP TRỌNG TÀI TRONG LUẬT QUỐC TẾ Chuyên ngành: Luật Quốc tế Mã số: 60 38 01 08 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn: PGS. TS Nguyễn Bá Diến Hà Nội - 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Phạm Thanh Bình MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN LÃNH THỔ QUỐC GIA BẰNG BIỆN PHÁP TRỌNG TÀI .. 1 1.1. Khái niệm chủ quyền lãnh thổ quốc gia .................................................. 1 1.1.1. Khái niệm chủ quyền lãnh thổ quốc gia............................................... 1 1.1.2. Khái niệm giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ quốc gia ............ 8 1.2. Biện pháp trọng tài - một phương thức quan trọng của việc giải quyết tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ................................................................... 9 1.2.1. Khái niệm phương thức trọng tài ......................................................... 9 1.2.2. Phân loại trọng tài quốc tế.................................................................... 14 1.2.3. Vai trò của phương thức trọng tài trong việc giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ quốc gia ................................................................................. 18 1.3. Cơ sở pháp lý của việc giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ quốc gia bằng biện pháp trọng tài ................................................................................. 20 CHƢƠNG 2. PHƢƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG VÀ CÁC NGUYÊN TẮC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN LÃNH THỔ BẰNG TRỌNG TÀI ................................................................................................................. 22 2.1. Toà trọng tài thường trực LaHaye (PCA) ............................................... 22 2.1.1. Quá trình thành lập của PCA ............................................................... 22 2.1.2. Cơ cấu tổ chức của PCA ...................................................................... 27 2.1.3. Thẩm quyền của PCA .......................................................................... 29 2.1.4. Thực tiễn giải quyết của PCA ............................................................... 36 2.1.5. Những ưu điểm, nhược điểm của PCA trong việc giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ ......................................................................................... 57 2.2. Tòa trọng tài luật biển theo Phụ lục VII Công ước Luật biển 1982 .............. 61 2.2.1. Thẩm quyền của Tòa Trọng tài ............................................................ 62 2.2.2. Cơ cấu tổ chức của Tòa Trọng tài ........................................................ 63 2.2.3. Thủ tục xét xử ...................................................................................... 64 2.2.4. Thực tiễn xét xử ................................................................................... 65 2.3. Trọng tài quốc tế đặc biệt theo phụ lục VIII của Công ước Luật Biển năm 1982. ............................................................................................................... 78 2.3.1. Thẩm quyền của Trọng tài đặc biệt ...................................................... 78 2.3.2. Cơ cấu của Tòa Trọng tài đặc biệt ....................................................... 78 2.3.3.Thủ tục xét xử của Tòa trọng tài đặc biệt ............................................. 79 2.3.4. Thực tiễn xét xử ................................................................................... 82 CHƢƠNG 3. VẬN DỤNG PHƢƠNG THỨC TRỌNG TÀI TRONG VIỆC ĐẤU TRANH, BẢO VỆ CHỦ QUYỀN LÃNH THỔ CỦA VIỆT NAM TRÊN BIỂN ĐÔNG .......................................................................... 83 3.1. Tình hình về tranh chấp trên biển Đông giữa Việt Nam và các nước .............. 83 3.1.1. Tranh chấp chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa giữa Việt Nam và Trung Quốc, tranh chấp chủ quyền trên quần đảo Trường Sa giữa 5 nước, gồm Việt Nam, Trung Quốc, Malaysia, Philipin, Đài Loan và Brunei ............................ 84 3.1.2. Phân định ranh giới các vùng biển theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 ........................................................................................ 89 3.1.3. Lập trường của Việt Nam và đề xuất biện pháp giải quyết các tranh chấp trên Biển Đông....................................................................................... 90 3.2. Giải pháp cho Việt Nam khi sử dụng các cơ quan tài phán PCA; phụ lục VII và phụ lục VIII của Công ước Luật biển năm 1982 ................................ 91 3.2.1. Đối với trình tự, thủ tục đưa vụ việc ra PCA ...................................... 91 3.2.2. Đối với việc sử dụng các cơ quan tài phán quốc tế theo phụ lục VII, VIII Công ước Luật biển 1982 ....................................................................... 94 3.3. Các đề xuất liên quan đến việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia trên biển trong thời gian tới ................................................................................... 97 KẾT LUẬN ................................................................................................. 101 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT LHQ Liên hợp quốc UNCLOS 1982 Công ước luật biển 1982 PCA Tòa trọng tài thường trực Lahaye DOC Tuyên bố của các bên về ứng xử trên Biển Đông COC Bộ quy tắc ứng xử Biển Đông ITLOS Tòa án quốc tế về Luật biển ICJ Tòa án công lý quốc tế của Liên hiệp quốc ICC Tòa hình sự quốc tế UNCITRAL Ủy ban Liên Hiệp Quốc về Luật Thương mại quốc tế CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN LÃNH THỔ QUỐC GIA BẰNG BIỆN PHÁP TRỌNG TÀI 1.1. Khái niệm chủ quyền lãnh thổ quốc gia 1.1.1. Khái niệm chủ quyền lãnh thổ quốc gia Khái niệm chủ quyền lãnh thổ thường gắn liền với khái niệm quốc gia. Trong lịch sử có nhiều quan điểm khác nhau về quốc gia, cho đến nay vẫn chưa có khái niệm thống nhất về quốc gia. Tuy nhiên, các nhà khoa học pháp lý quốc tế truyền thống và hiện đại đã cơ bản thừa nhận: Để được coi là quốc gia thì chủ thể đó phải bao gồm bốn yếu tố cơ bản như: (1) Dân cư thường xuyên; (2) Lãnh thổ được xác định; (3) Chính phủ; (4) Năng lực tham gia vào các quan hệ với các chủ thể quốc tế khác (Điều 1 Công ước Montevideo năm 1933 về quyền và nghĩa vụ quốc gia). Theo đó: (1) Dân cư là một bộ phận quan trọng cấu thành nên quốc gia - chủ thể cơ bản của luật quốc tế. Dân cư là tổng hợp những người sinh sống, cư trú trên lãnh thổ của quốc gia nhất định và chịu sự điều chỉnh của pháp luật quốc gia đó. Mỗi quốc gia đều có thẩm quyền riêng biệt xác định địa vị pháp lý cho từng bộ phận dân cư của nước mình, các quốc gia khác không có quyền can thiệp. (2) Lãnh thổ quốc gia - một trong những yếu tố cấu thành không thể thiếu được của quốc gia. Lãnh thổ quốc gia được hiểu là một phần trái đất, bao gồm vung đất, vùng nước, vùng trời trên chúng và lòng đất dưới chúng thuộc về chủ quyền một quốc gia nhất định.Hay nói một cách khác thì Lãnh thổ quốc gia là một phần trái đất bao gồm đất liền, hải đảo, vùng nước nội địa, vùng nội thuỷ, lãnh hải và vùng trời trên chúng cũng như lòng đất dưới chúng thuộc về chủ quyền một quốc gia nhất định. 1 Các quốc gia tồn tại trong mối liên hệ gắn bó chặt chẽ với lãnh thổ của chính quốc gia đó. Lãnh thổ là một khái niệm cơ bản của Luật quốc tế. Lãnh thổ quốc gia thuộc chủ quyền hoàn toàn và riêng biệt của quốc gia. Do đó chủ quyền lãnh thổ của quốc gia- một bộ phận của chủ quyền quốc gia là quyền lực tối cao, hoàn toàn và riêng biệt của quốc gia đối với lãnh thổ và trên lãnh thổ. Quốc gia là chủ thể duy nhất và thực sự có quyền chiếm giữ, sử dụng và định đoạt một cách hoàn toàn độc lập lãnh thổ của mình. (3) Chính phủ là một chủ thể có quyền lực để thi hành luật pháp trong một quốc gia hay một nhóm người ở tầm quốc gia, chính phủ hình thành chủ yếu theo ý chí của người đứng đầu nhà nước. Thông thường người đứng đầu nhà nước thường thành lập ra một hệ thống cơ quan quyền lực thay mặt quốc gia để thực thi quyền lực nhà nước. Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước; bảo đảm hiệu lực của bộ máy Nhà nước; bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành luật pháp quốc gia. (4) Năng lực tham gia vào các quan hệ với các chủ thể quốc tế khác. Quốc gia tự do có quyền lựa chọn và quyết định quan hệ với các quốc gia khác, quyền được trở thành thành viên của tổ chức quốc tế phổ biến, không chịu sự can thiệp của bất kỳ quốc gia nào khác. Như vậy, nói đến quốc gia là nói đến bốn yếu tố cấu tạo nên quốc gia đó và lãnh thổ quốc gia là yếu tố vật chất cơ bản, nền tảng cấu thành nên quốc gia. Chủ quyền quốc gia gồm 2 nội dung cơ bản đó là: quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình; quyền độc lập của quốc gia trong quan hệ quốc tế. Trong cuốn từ Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam thì Chủ quyền quốc gia là thuộc tính chính trị - pháp lí không thể tách rời của quốc gia. Nội dung của chủ quyền quốc gia gồm quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình và quyền độc lập của quốc gia trong quan hệ quốc 2 tế. Quyền tối cao của quốc gia ở trong nước thể hiện ở quyền lực đầy đủ để giải quyết mọi vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá... không có sự can thiệp từ phía các quốc gia khác và các tổ chức quốc tế. Quyền độc lập của quốc gia trong quan hệ quốc tế thể hiện ở chỗ không có một quyền lực nào, một cơ quan nào, một tổ chức quốc tế nào đứng trên các quốc gia; tất cả các quốc gia tham gia quan hệ quốc tế với tư cách là những chủ thể bình đẳng và hoàn toàn độc lập, tự quyết định các vấn đề đối nội và đối ngoại của mình. Hai nội dung của chủ quyề n quố c gia g ắn bó chặt chẽ với nhau và là tiền đề cho nhau. Những nội dung này được khẳng định trong pháp luật của từng quốc gia và trong các văn bản pháp lí quốc tế. Việc tôn trọng chủ quyề n quố c gia ngày nay trở thành một nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế hiện đại.. Như vậy, nếu như chủ quyền quốc gia là khái niệm rộng, thường được hiểu là quyền tự quyết các vấn đề của quốc gia đó, quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình và quyền độc lập của quốc gia trong quan hệ quốc tế thì chủ quyền lãnh thổ quốc gia là khái niệm hẹp hơn so với khái niệm chủ quyền quốc gia, cụ thể: Chủ quyền lãnh thổ quốc gia là quyền tối cao, tuyệt đối, hoàn toàn và riêng biệt của quốc gia trên lãnh thổ của mình. Nội dung chủ quyền lãnh thổ quốc gia bao gồm: - Quốc gia có quyền tự do lựa chọn chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, XH phù hợp với nguyện vọng của cộng đồng dân cư sống trên lãnh thổ mà không có sự can thiệp, áp đặt dưới bất kì hình thức nào từ bên ngoài; - Quốc gia tự quy định chế độ pháp lí đối với từng vùng lãnh thổ quốc gia; - Quốc gia có quyền sở hữu hoàn toàn đối với tất cả tài nguyên thiên nhiên trong lãnh thổ của mình; - Quốc gia thực hiện quyền tài phán (quyền xét xử) đối với mọi công dân, tổ chức, kể cả cá nhân, tồ chức nước ngoài trong phạm vi lãnh thổ quốc 3 gia (trừ nhữngtrường hợp quốc gia, hoặc điều ước quốc tế mà quốc gia đó là thành viên có quy định khác); - Quốc gia có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế thích hợp, có quyền điều chỉnh, kiểm soát các hoạt động của công ty đa quốc gia, sở hữu cả người nước ngoài cũng như hoạt động của các tổ chức tương tự, kể cả trường hợp quốc hữu hóa, tịch thu, trưng thu tài sản cuả tổ chức, cá nhân nước ngoài có bồi thường hoặc không bồi thường; - Quốc gia có quyền và nghĩa vụ bảo vệ, cải tạo lãnh thổ quốc gia theo những nguyên tắc chung của pháp luật quốc tế; có quyền định sử dụng thay đổi lãnh thổ phù hợp với pháp luật và lợi ích của cộng đồng dân cư sống trên lãnh thổ đó; Mỗi quốc gia có chủ quyền hoàn toàn, đầy đủ và tuyệt đối với lãnh thổ của mình. Chủ quyền đó được gọi là quyền tối cao của quốc gia đối với lãnh thổ. Quyền tối cao của quốc gia đối với lãnh thổ được thể hiện ở hai phương diện cơ bản: * Phương diện quyền lực: Đây là sự tồn tại và phát triển của hệ thống cơ quan nhà nước với các hoạt động nhằm thực hiện quyền lực bao trùm lên tất cả các lĩnh vực của đời sống của một quốc gia. Quyền lực này mang tính hoàn toàn, riêng biệt, không chia xẻ với bất cứ quốc gia nào khác và là chủ quyền thiêng liêng của từng quốc gia. Tất cả cộng đồng dân cư và mọi hoạt động diễn ra trên lãnh thổ quốc gia đều thuộc về quyền lực này. - Quốc gia thực hiện quyền tài phán của mình đối với người và tài sản trong phạm vi lãnh thổ một cách không hạn chế (trừ một số trường hợp vì lợi ích của toàn thể cộng đồng hay vì lợi ích của một số quốc gia nhất định và ý chí chủ quyền của nhân dân) - Trên phạm vi lãnh thổ quốc gia được quyền tiến hành mọi hoạt động với điều kiện các hành vi đó không bị pháp luật quốc tế cấm. Tuy nhiên việc 4 tiến hành thể hiện chủ quyền của quốc gia không được làm thiệt hại đến chủ quyền lãnh thổ của quốc gia khác, đây là tập quán quốc tế đã được ghi nhận. - Trên lãnh thổ của mình, quốc gia chỉ không áp dụng pháp luật của nước mình đối với các công dân nước ngoài trên lãnh thổ nước mình (viên chức ngoại giao – lãnh sự) hoặc không loại bỏ hiệu lực của luật nước ngoài trên phạm vi lãnh thổ của mình nếu điều này được quy định trong luật quốc gia cũng như trong điều ước quốc tế. Ngược lại, hiệu lực pháp luật quốc có thể được mở rộng ra ngoài phạm vi lãnh thổ quốc gia nếu luật nước sở tại và điều ước quốc tế hữu quan cho phép. - Quốc gia có nghĩa vụ tôn trọng và bảo đảm quyền bất khả xâm phạm lãnh thổ của quốc gia khác như: Cấm đe doạ dừng cũ lực hoặc sử dụng vũ lực để chống lại sự toàn vẹn lãnh thổ; Biên giới quốc gia là ổn định và bất khả xâm phạm; không sử dụng lãnh thổ quốc gia khi không có sự đồng ý của quốc gia đó; không cho quốc gia khác sử dụng lãnh thổ của mình để chống lại nước thứ ba. * Phương diện vật chất Chủ quyền lãnh thổ quốc gia được giới hạn bởi đường biên giới quốc gia. Quốc gia có quyền sở hữu một cách đầy đủ, trọn vẹn trên cơ sở phù hợp với lợi ích của cộng đồng dân cư sống trên vùng lãnh thổ đó và phù hợp với quyền dân tộc cơ bản, mọi sự thay đổi hoặc định đoạt liên quan đến số phận của một vùng đất nào đó của lãnh thổ quốc gia phải dựa trên nguyên tắc quyền dân tộc tự quyết mới được coi là hợp pháp. Trường hợp cho thuê lãnh thổ quốc gia thì vùng lãnh thổ cho thuê vẫn là một bộ phận lãnh thổ quốc gia của nước cho thuê. Quốc gia thuê lãnh thổ có quyền áp dụng quyền tài phán của mình (không phải là chủ quyền) phù hợp với thoả thuận được ghi nhận giữa hai bên. 5 * Quy chế pháp lý của lãnh thổ quốc gia: Nội dung quy chế pháp lý của lãnh thổ quốc gia thể hiện qua các văn bản pháp luật quốc gia gồm: - Quyền tự do lựa chọn chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội phù hợp với nguyện vọng của cộng đồng dân cư sống trên lãnh thổ mà không có sự can thiệp từ bên ngoài, dưới bất kỳ hình thức nào; - Quyền tự do lựa chọn phương hướng phát triển đất nước, thực hiện những cải cách kinh tế - xã hội phù hợp với các đặc điểm của quốc gia. Các quốc gia có nghĩa vụ tôn trọng lựa chọn này; - Quyền tự quy định chế độ pháp lý đối với từng vùng lãnh thổ của quốc gia; - Quyền sở hữu hoàn toàn đối với tất cả tài nguyên thiên nhiên trong lãnh thổ của mình; - Thực hiện quyền tài phán đối với mọi công dân, tổ chức, kể cả các cá nhân, tổ chức nước ngoài trong phạm vi lãnh thổ quốc gia; - Quyền của quốc gia áp dụng các biện pháp cưỡng chế, điều chỉnh, kiểm soát hoạt động của các pháp nhân và người nước ngoài, kể cả các trường hợp quốc hữu hoá, quốc tịch, trưng thu tài sản của tổ chức, cá nhân nước ngoài có bồi thường hoặc không có bồi thường; - Quyền quyết định sử dụng, thay đổi lãnh thổ phù hợp với pháp luật và lợi ích của cộng đồng dân cư sống trên phần lãnh thổ đó. Chủ quyền quốc gia nói riêng và chủ quyền lãnh thổ quốc gia nói chung có vai trò quan trọng, thể hiện sự tồn tại của mỗi quốc gia vì trong phạm vi lãnh thổ quốc gia của mình quốc gia có toàn quyền quyết định các vấn đề cơ bản của mình từ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Mỗi quốc gia là một tác nhân của cộng đồng quốc tế, bình đẳng với các nước khác và có toàn quyền tự chủ trong những sinh hoạt phục vụ lợi ích của mình. Mỗi nước có 6 toàn quyền định đoạt mọi việc trên lãnh thổ của mình và không được can thiệp vào nội bộ nước khác. Và để được các nước khác công nhận chủ quyền của mình, mỗi nước cũng phải công nhận chủ quyền của nước khác và chấp nhận sự giới hạn chung của pháp luật quốc tế. Cũng như chấp nhận những giới hạn khác của pháp luật quốc tế, phải đảm nhận khi thoả hiệp với nước khác hay tham gia vào một hình thức tập hợp đa quốc gia. Từ khi các tập thể xã hội tổ chức thành quốc gia sống chung với nhau, lúc chiến tranh lúc hoà bình, sự tiến bộ trong suy nghĩ và hành động của con người, cho đến nay. Chỉ vài chục năm, cục diện của thế giới và đời sống xã hội của nhiều nước đã thay đổi sâu sắc. Mỗi quốc gia có chỗ đứng, vị trí, vai trò nhất định trong cộng đồng quốc tế, bên cạnh sự chịu điều chỉnh của pháp luật quốc gia, quốc gia còn chịu sự điều chỉnh của luật pháp quốc tế mà luật quốc tế giới hạn khá nhiều quyền tự chủ quốc gia. Có thể hiểu cộng đồng quốc tế không phải là từ hành tinh nào đến mà là tổng thể các quốc gia, và đối với luật quốc tế, các quốc gia vừa là khách thể, vì chịu sự chi phối và ràng buộc của pháp luật quốc tế, vừa là chủ thể vì thiết lập và thực thi các quy định của nó. Cho tới nay, luật quốc tế hầu như chỉ công nhận một đối tượng là nhà nước ( quốc gia) là chủ thể của quan hệ pháp luật quốc tế. Từ đó ta có thể thấy vấn đề chủ quyền, hay quyền tự chủ của quốc gia có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định tư cách chủ thể của các quốc gia khi tham gia vào mối quan hệ với cộng đồng quốc tế vì chủ quyền quốc gia chính là khả năng tự quyết của mỗi quốc gia liên quan đến các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội. Đồng thời, mỗi quốc gia khi tham gia vào cộng đồng quốc tế thì được sự thừa nhận của các quốc gia độc lập khác, cách bảo tồn chủ quyền quốc gia tốt nhất là tham gia vào hệ thống pháp lý và quản trị đa phương. Chỉ một khi đã hội nhập vào hệ thống đa phương, một quốc gia mới 7 được thừa nhận như một thực thể độc lập, có chủ quyền pháp lý ngang hàng với các nước khác. Và chỉ khi vừa là thành viên, vừa là chủ thể trong một hệ thống quản trị quốc tế, một quốc gia mới có thể khắc phục được những vấn đề vượt quá biên giới lãnh thổ của mình, bảo vệ quyền lợi của dân tộc và đáp ứng định nghĩa của chủ quyền thực tiễn. Từ những nội dung trên, việc nghiên cứu vấn đề liên quan đến chủ quyền lãnh thổ quốc gia có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với mỗi quốc gia, để thực hiện được quyền năng chủ thể của mình đối với cộng đồng quốc tế các quốc gia cần phải được các quốc gia khác công nhận là quốc gia có chủ quyền. 1.1.2. Khái niệm giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ quốc gia Hiện nay, hợp tác cùng phát triển trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là xu hướng tất yếu mà các quốc gia lựa chọn. Tuy nhiên, sự gia tăng của các quan hệ hợp tác quốc tế lại tiềm ẩn nguy cơ nảy sinh các mâu thuẫn, bất đồng và có thể hiểu đó là các tranh chấp quốc tế. Tranh chấp quốc tế là hoàn cảnh thực tế mà trong đó các chủ thể tham gia có những quan điểm trái ngược hoặc mâu thuẫn nhau. Đó là sự không thoả thuận được với nhau về quyền hoặc sự kiện, đưa đến sự mâu thuẫn, đối lập nhau về quan điểm pháp lý hoặc quyền giữa các bên chủ thể luật quốc tế với nhau. Tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ là một dạng của tranh chấp quốc tế. Tranh chấp lãnh thổ quốc gia là một trong những tranh chấp phổ biến và vô cùng phức tạp trong quan hệ giữa các nước và cũng là nguyên nhân chủ yếu gây nên các xung đột và chiến tranh giữa các quốc gia. Giải quyết tranh chấp về lãnh thổ hết sức phức tạp, cần phải nắm vững một số nội dung sau: - Xác định rõ nguyên nhân của tranh chấp: do yếu tố lịch sử, chính trị, kinh tế, xã hội … 8 - Nắm chắc tình hình thực tế (địa hình, cơ sở pháp lý, lịch sử, hiện tại do bên nào quản lý…) - Quan điểm của các bên liên quan đối với tranh chấp - Đánh giá khả năng và mức độ ảnh hưởng đến mọi khía cạnh khi giải quyết tranh chấp - Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp. Điều này rất quan trọng vì nó quyết định kết quả giải quyết tranh chấp. Điều 2 khoản 3 Hiến chương Liên hợp quốc và các văn kiện pháp lý quan trọng khác đều quy định rõ các quốc gia phải có nghĩa vụ giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, bằng các hình thức thương lượng do các quốc gia lựa chọn, phù hợp với các quy định và thông lệ quốc tế. Ngoài ra, nguyên tắc này còn được ghi nhận phổ biến trong các Điều ước quốc tế song phương về biên giới lãnh thổ. 1.2. Biện pháp trọng tài - một phƣơng thức quan trọng của việc giải quyết tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ 1.2.1. Khái niệm phương thức trọng tài Một trong số các phương thức giải quyết tranh chấp quốc tế hiện nay là sử dụng hình thức tài phán quốc tế. Các tranh chấp quốc tế được giải quyết bằng nhiều biện pháp khác nhau và một trong số các biện pháp đó là việc sử dụng hình thức tài phán quốc tế. Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, tài phán được hiểu là toàn bộ các hoạt động, hành vi của tổ chức, cơ quan hay cá nhân có thẩmquyền theo luật định trong việc giải quyết các vụ việc tranh chấp pháp lý. Quyền tài phán là quyền năng theo pháp luật, phù hợp với pháp luật và được pháp luật đặt ra và bảo hộ. Cũng có thể đó là quyền tài phán không phải được pháp luật trực tiếp lập ra nhưng được quy phạm pháp luật cho phép các cá nhân, tổ chức có thẩm quyền lập ra. Tuy nhiên, về bản chất, tài phán quốc tế là cách thức hoà bình giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng phương pháp, thủ tục tư pháp do các quốc gia tự lựa chọn. Như vậy, trong quan hệ 9 quốc tế, thẩm quyền của các cơ quan tài phán quốc tế thường phụ thuộc vào ý chí của các bên tranh chấp trong việc chấp nhận trao cho những thiết chế đó quyền giải quyết vụ việc xảy ra. Cơ quan tài phán quốc tế là những cơ quan hình thành trên cơ sở thoả thuận hoặc thừa nhận của các chủ thể luật quốc tế nhằm thực hiện chức năng giải quyết bằng trình tự, thủ tục tư pháp các tranh chấp nảy sinh trong quá trình các chủ thể thực thi, tuân thủ luật quốc tế [1]. Trong lịch sử hoạt động, hình thức tài phán quốc tế đầu tiên tồn tại dưới dạng trọng tài quốc tế. Người ta không biết chính xác phương thức trọng tài bắt đầu xuất hiện từ khi nào, nhưng có thể khẳng định đây chính là hình thức tiền thân của việc hình thành các tòa án sau này. Tòa trọng tài là một trong những phương thức cổ xưa nhất để giải quyết bất hòa giữa người với người, giữa quốc gia với quốc gia. Người Hy Lạp và La Mã cổ đại đã biết sử dụng phương thức này để giải quyết tranh chấp. Quy định sơ khai về trọng tài trong luật mua bán hàng hóa cho phép các lái buôn được tự phân xử bất hòa của mình không cần có sự can thiệp của Nhà nước. Về sau Luật La Mã cho phép mở rộng phạm vi tranh chấp, không chỉ trong biên giới lãnh thổ, mà còn ở những nước La Mã có trao đổi hàng hóa, có nghĩa là trải rộng trên hầu khắp lục địa Châu Âu. Trước thế kỷ XX, hình thái của cơ quan tài phán quốc tế là các trọng tài vụ việc (ad hoc). Công ước Lahaye 1899 lần đầu tiên đã trù định việc thành lập một cơ quan tài phán quốc tế thường trực, theo đó Toà án trọng tài thường trực được thành lập năm 1900 và đi vào hoạt động từ năm 1902 [12]. Tuy nhiên, đây chỉ là một danh sách các trọng tài viên thường trực, có thể được các quốc gia lựa chọn khi giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng việc sử dụng biện pháp này. Các cơ quan tài phán quốc tế thực chất là loại hình tài phán do các chủ thể luật quốc tế thành lập và lựa chọn sử dụng với tính chất là công cụ pháp lý khi nhu cầu bảo vệ lợi ích được đặt ra, vai trò của các cơ quan tài 10 phán quốc tế trong hoạt động thực tế thường bị tác động bởi ý chí chủ quan của chủ thể tranh chấp trong việc viện dẫn đến thẩm quyền của thiết chế cụ thể nào đó. Một cơ quan tài phán không có thẩm quyền đương nhiên theo Quy chế hoạt động mà trước hết phụ thuộc vào sự thoả thuận của chủ thể có liên quan đến tranh chấp xảy ra. Sự thoả thuận này có thể xuất hiện trước khi có tranh chấp hoặc có thể lựa chọn sau khi tranh chấp xảy ra. Hoạt động xét xử của thiết chế cụ thể thể hiện ở các kết quả của quá trình vận dụng các quy định pháp luật quốc tế, sự công bằng, công lý để xác định tính chất và phân xử vụ việc với ý nghĩa để chủ thể tranh chấp tự nguyện chấp nhận sự phán quyết của cơ quan tài phán. Giá trị pháp lý của phán quyết đó được các chủ thể tranh chấp thừa nhận và bảo đảm thi hành trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế mà không thông qua trình tự cưỡng chế. Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp ngoài tòa án. Các bên tham gia tranh chấp thống nhất tranh chấp phát sinh nếu có sẽ do một hoặc một số người (“trọng tài viên”, “Ủy ban trọng tài”) giải quyết, và quyết định của một hoặc một số người đó (“phán quyết”) có tính chất bắt buộc thực hiện. Có thể hiểu trọng tài một cách đơn giản là một biện pháp giải quyết tranh chấp mang tính pháp lý, giống như việc kiện tụng ở tòa án và hoàn toàn khác biệt với nhóm các biện pháp không mang tính bắt buộc về mặt pháp lý như đàm phán, trung gian, thẩm tra và hòa giải. Trong hệ thống luật của Anh, văn bản pháp luật đầu tiên về trọng tài phải kể đến Luật Trọng tài 1697, nhưng vào thời điểm luật được thông qua, đây đã là một phương thức rất phổ biến (phán quyết đầu tiên của trọng tài ở Anh được đưa ra vào năm 1610). Tuy nhiên các quy định sơ khai về trọng tài trong hệ thống luật common law thể hiện một hạn chế cơ bản là bất cứ bên tham gia tranh chấp nào cũng có thể khước từ việc thực hiện phán quyết của 11 trọng tài nếu thấy phán quyết đó bất lợi cho mình. Hạn chế này đã được khắc phục trong Luật năm 1697. Trong Hiệp ước Jay năm 1794, Anh và Mỹ đã thống nhất đưa các vấn đề còn đang tranh chấp liên quan đến các khoản nợ và biên giới ra giải quyết ở trọng tài. Việc giải quyết tranh chấp này kéo dài 7 năm, và được coi là kết thúc thành công. Từ đầu thế kỷ XX, các nước (trong đó có Pháp và Mỹ) bắt đầu thông qua các đạo luật quy định và khuyến khích việc phân xử ở cấp trọng tài thay cho kiện tụng ở tòa án vốn được cho là kém hiệu quả hơn. Trong quan hệ quốc tế, tòa trọng tài giải quyết tranh chấp phát sinh từ các quan hệ mang tính liên quốc gia là một trong số thiết chế tài phán, thuộc sự lựa chọn của các quốc gia. Tòa trọng tài là cơ quan tài phán quốc tế được các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế thỏa thuận thành lập, trên cơ sở điều ước quốc tế (hoặc điều khoản) về trọng tài nhằm giải quyết tranh chấp phát sinh giữa các bên. Như vậy, tòa trọng tài không có thẩm quyền đương nhiên. Cơ sở xác định thẩm quyền của trọng tài là sự nhất trí của các bên tranh chấp về việc đưa vụ tranh chấp ra giải quyết tại tòa trọng tài. Sự nhất trí này phải được thể hiện một cách rõ ràng, minh bạch trong một điều ước quốc tế về trọng tài. Điều ước quốc tế về trọng tài có thể là điều ước quốc tế song phương hoặc đa phương. Ngoài việc thể hiện rõ ràng sự nhất trí của các bên về việc giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài, nội dung của các điều ước quốc tế này đồng thời xác định thẩm quyền, trình tự thành lập tòa trọng tài, đối tượng tranh chấp, thủ tục xét xử, nguồn luật được tào trọng tài áp dụng, thủ tục đưa ra phán quyết và nghĩa vụ của các bên phảI tuân thủ phán quyết trọng tài. Trong một số trường hợp, sự nhất trí về việc thành lập tòa trọng tài để giải quyết 12 tranh chấp có thể được ghi nhận trong những điều khoản đặc biệt (được gọi là điều khoản trọng tài) của các điều ước quốc tế ký kết giữa các bên. Tòa trọng tài được thành lập tùy thuộc vào sự thỏa thuận của các bên với thành phần có thể là một cá nhân hoặc một hội đồng. Nếu tòa trọng tài được thành lập với một trọng tài viên duy nhất thì người duy nhất này phải là công dân có uy tín của một nước thứ ba. Nếu là hội đồng trọng tài thì các bên có thể thỏa thuận về số lượng trọng tài viên tham gia hội đồng tùy thuộc vào từng tranh chấp cụ thể nhưng phải đảm bảo nguyên tắc công bằng, cụ thể: Số lượng trọng tài viên tham gia hội đồng phải là số lẻ (ba hoặc năm) để đảm bảo việc lựa chọn chủ tịch hội đồng trọng tài và thông quan phán quyết của hội đồng trọng tài theo nguyên tắc đa số. Trong thành phần hội đồng trọng tài, mỗi bên tranh chấp có quyền chỉ định một số lượng trọng tài viên ngang nhau là công dân của nước mình hoặc nước thứ ba. Các trọng tài viên này (hoặc các bên tranh chấp) có thể tiếp tục thỏa thuận để chỉ định một trọng tài viên khác làm chủ tịch hội đồng trọng tài. Chủ tịch hội đồng trọng tài bắt buộc phải là công dân của nước thứ ba không liên quan đến vụ tranh chấp. Thủ tục tố tụng trọng tài do các bên tranh chấp thoả thuận quy định. Nếu không thoả thuận được, các bên phải tuân theo thủ tục tố tụng đã được quy định tại Công ước LaHaye 1899 và 1907 về giải quyết hoà bình các tranh chấp quốc tế. Thủ tục tố tụng trọng tài cũng đã được quy định trong Quy chế mẫu về thủ tục trọng tài do Uỷ ban luật quốc tế của Liên hợp quốc soạn thảo và được thông qua tại Đại hội Liên hợp quốc năm 1958. Luật áp dụng để giải quyết các tranh chấp tại toà trọng tài là các nguyên tắc và quy phạm của luật quốc tế, cụ thể là các điều ước quốc tế mà các bên ký kết hoặc tham gia và tập quán quốc tế. Các điều ước và tập quán này là cơ sở pháp lý để xác định mức độ vi phạm nghĩa vụ đã cam kết của các bên. Trên cơ sở đó toà trọng tài sẽ ra phán quyết để dàn xếp tranh chấp. 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan