Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Y tế - Sức khỏe Y học Giáo trình điều dưỡng thảm hoạ (disaster nursing)...

Tài liệu Giáo trình điều dưỡng thảm hoạ (disaster nursing)

.PDF
113
1
134

Mô tả:

International Cooperation Initiative Programme Ministry of Education, Culture, Sports, Science and Technology, Japan Disaster Nursing The Japanese Red Cross Kyushu International College of Nursing in cooperation with The Nam Dinh University of Nursing Chương 1: Quản lý thảm hoạ Tomoko Uemura, Etsuko Kita Japanese Red Cross Kyushu International College of Nursing Quản lý thảm hoạ là quá trình mang tính hệ thống, tận dụng nguồn lực có được từ chính sách gồm cả khả năng thích ứng của khu vực và từng cá nhân, kể cả mọi hoạt động có thể có để giảm thiểu thiệt hại. Ngay từ đầu quản lý thảm hoạ vốn dĩ là lĩnh vực thuộc phạm vi rộng nhưng tiêu điểm trong cuốn sách này chúng tôi đề cập chủ yếu vào việc điều trị, điều dưỡng trong thảm hoạ. Để hiểu rõ vai trò của điều dưỡng khi thảm hoạ và và hoàn tất vai trò đó thì việc biết và lường trước được đặc tính cuả thảm hoạ rất quan trọng. I. Thảm hoạ là gì? 1. Định nghĩa về thảm hoạ Hễ nói đến thảm hoạ thì nhiều người nghĩ ngay đến các thảm hoạ thiên nhiên như động đất, bão tố … nhưng không phải hiện tượng thiên nhiên = thảm hoạ. Không hẳn cứ động đất xảy ra là phát sinh thảm hoạ. Các hiện tượng thiên nhiên như động đất … là nguyên nhân gây ra thảm hoạ còn bản thân nó không phải là thảm hoạ. Người ta gọi các hiện tượng, tình trạng trở thành nguyên nhân của thảm hoạ là hiểm hoạ (Hazard). Ngoài các hiện tượng thiên nhiên như động đất, bão kèm theo mưa lớn thì thảm hoạ còn bao gồm cả các vụ hoả hoạn ở quy mô lớn, tai nạn cháy nổ, tai nạn tàu hoả, tai nạn máy bay…. Ngoài ra, các cuộc chiến tranh, xung đột, các hành động khủng bố, cùng với các bệnh truyền nhiễm dẫn tới các nạn dịch có quy mô toàn cầu HIV- AIDS, hội chứng hô hấp cấp tính nặng (Sars), cúm gia cầm xảy ra ở nơi này nơi kia trên thế giới cũng được coi là hiểm hoạ. Mối hiểm hoạ được Liên hiệp quốc định nghĩa: “các hiện tượng thiên nhiên bất thường, hiếm có, tình trạng mang tính hành vi của con người trở thành nguyên nhân của thảm hoạ làm ảnh hưởng xấu đến tính mạng, tài sản, xã hội.”1 Còn thảm hoạ được định nghĩa như thế nào? Tại Nhật Bản, trong “Luật căn bản đối sách thảm hoạ” - bộ luật làm nền tảng đối phó với thảm hoạ - thì thảm hoạ được định nghĩa là “các thiệt hại sinh ra do các nguyên nhân được quy định theo sắc lệnh3 của chính quyền tương ứng với các hiện tượng tự nhiên bất thường2 như bão, siêu bão, mưa lớn, bão tuyết, lụt lội, thuỷ triều dâng, động đất, sóng thần, núi lửa… hoặc các vụ hoả hoạn ở quy mô lớn, các vụ nổ tuỳ ở mức độ thiệt hại mà chúng gây ra. Định nghĩa về thảm hoạ được sử dụng trên quy mô toàn cầu - theo S.W.E.Gunn4­­  ­: đó là tình trạng thảm khốc đột ngột phát sinh với quy mô tới mức mà khu vực bị thảm hoạ cần những nỗ lực phi thường để đối phó với nó và cần sự viện trợ từ những khu vực ngoài vùng thiệt hại”. Ngoài ra Liên hiệp quốc với tư cách là cơ quan tiến hành nghiên cứu và điều tra các thảm hoạ thì định nghĩa “thảm hoạ là sự tàn phá trầm trọng vượt quá năng lực đối phó nếu chỉ bằng nguồn lực tự có ở khu vực bị thiệt hại, là sự tàn phá nghiêm trọng vận hành xã hội mang đến những tổn thất lớn về người, về của, về môi trường trên phạm vi rộng”5. Còn tổ chức sức khoẻ thế giới (WHO) định nghĩa “thảm hoạ là hiện tượng đột nhiên, gây ra thiệt hại nặng nề đối với môi trường sống, cần có sự trợ giúp từ các khu vực ngoài vùng thảm hoạ”6. Có thể nói nhìn từ các định nghĩa như trên thì Thảm hoạ là các hiện tượng tự nhiên dị thường hoặc những sự kiện mà hành vi của con người là nguyên nhân, là tình trạng phát sinh các thiệt hại mang lại những ảnh hưởng to lớn đến sinh mạng, hoặc sức khoẻ, cuộc sống của mọi người, ngoài ra còn làm ảnh hưởng đến tinh thần con người. Đối với những thiệt hại này thì Chương 1 6 việc khu vực gặp thiệt hại tự đối phó thì sẽ gặp khó khăn nên cần những chi viện từ những vùng khác không bị thiệt hại. Nói tóm lại thảm hoạ là gì? Là các hiện tượng tàn phá khủng khiếp hệ sinh thái ở mức độ khủng khiếp không có gì so sánh được vượt quá khả năng đối phó của vùng gặp thiệt hại và cần có sự chi viện ở bên ngoài. 2. Thảm hoạ và mối nguy hiểm Mối nguy hiểm trở thành nguyên nhân của thảm hoạ. Nhưng không hẳn là cứ tồn tại mối nguy hiểm là sẽ phát sinh thảm hoạ(tuy vậy có mối nguy hiểm thì thảm hoạ sẽ phát sinh). Ví dụ: cùng một cơn bão có cường độ mạnh hay mưa to gió lớn xảy ra ở khu vực không có con người sinh sống nó không ảnh hưởng đến cuộc sống và sinh hoạt của mọi người. Trường hợp này không được coi là thảm hoạ. Như vậy, thảm hoạ phát sinh phụ thuộc vào mối quan hệ của các yếu tố mối nguy hiểm và địa điểm phát sinh mối nguy hiểm đó xảy ra ở nơi mọi người sinh sống. Vấn đề là ở chỗ tính chất dễ bị tổn thương, dễ bị nguy hiểm ở nơi mà con người sinh sống và cộng đồng xã hội. Tính dễ bị tổn thương của cộng đồng xã hội là cộng đồng xã hội chuẩn bị đối phó ở mức độ nào đối với các tình huống trở thành nguyên nhân thảm hoạ. Hỉnh 1. Mối nguy hiểm và thảm hoạ 1) Tính dễ bị tổn thương của xã hội Có hai nhân tố trong tính dễ bị tổn thương (Tham khảo bảng 1). Một là nhân tố mang tính tự nhiên. Hai là nhân tố mang tính xã hội (1) Nhân tố mang tính tự nhiên Nhân tố mang tính tự nhiên là gì? là tình trạng thảm hoạ dễ phát sinh do các điều kiện tự nhiên như địa hình, địa chất, khí tượng, khí hậu… Ví dụ: Nhật Bản nằm trên vành đai núi lửa Thái Bình Dương và nằm trên đường ranh giới của các mảng kiến tạo Thái Bình Dương vì thế Nhật Bản là nước thường xuyên xảy ra động đất. Khi thì động đất do các mảng kiến tạo chìm xuống, khi thì động đất do các mảng kiến tạo dịch chuyển dẫn đến sự đứt gãy gây ra. Mối nguy hiểm (Hazard) là các hiện tượng thiên nhiên hoặc là các tình huống do con người gây ra đe doạ đến tính mạng, tài sản, môi trường sống của con người. Tính dễ bị tổn thương (Vulunnerability) là mức độ bất lợi về sinh mạng và cuộc sống khi mối nguy hiểm phát sinh. Tính dễ bị tổn thương có thể giảm nhẹ bằng việc tăng cường năng lực đối phó của con người và xã hội. Hỉnh 2 - Bản đồ mảng kiến tạo và động đất trên thế giới (Website về phòng chống thảm họa Phủ nội các: Động đất tại đất nước chúng ta http://www.bousai.go.jp/jishin/chubou/taisaku_ gaiyou/pdf/hassei-jishin.pdf) Quản lý Thảm họa (2) Nhân tố mang tính xã hội Nhân tố mang tính xã hội là việc dễ bị tổn thương sinh ra do các hành động của con người. Hành vi của con người dưới một hình thức nào đó tác động vào quá trình phát sinh thảm hoạ. Ví dụ: Tại Nhật Bản con người sinh sống trên một đất nước chật hẹp nhà cửa được xây dựng trên mảng kiến tạo dịch chuyển. Mảng kiến tạo dịch chuyển là nhân tố tự nhiên. Việc con người xây dựng nhà cửa và sinh sống trên vùng đó là nhân tố xã hội của tính dễ tổn thương. Ngoài ra những vùng lấn biển có nền đất yếu. Người ta cho rằng chính những hoạt động của con người sinh ra nhân tố xã hội dẫn đến tính dễ tổn thương khi có thảm hoạ. Hơn nữa các vấn đề mà xã hội con người đang gặp phải cũng liên quan tới tính dễ bị tổn thương. Trong một xã hội mà Đại gia đình nhiều thế hệ bị phá vỡ, gia đình hạt nhân tăng, số hộ chỉ toàn những người cao tuổi cũng tăng thì mối liên kết đồng loại trở nên mỏng manh dẫn đến chức năng tương trợ giúp đỡ lẫn nhau bị suy giảm. Với xã hội như vậy dễ dẫn đến tình trạng thiệt hại lan rộng. Người ta thấy rõ điều này qua trải nghiệm của các thảm hoạ gần đây. Đó cũng là nhân tố mang tính xã hội ảnh hưởng tính dẽ bị tổn thương. Tại Châu á, Châu Phi – những nơi xảy ra nhiều thảm hoạ cùng với các nhân tố mang tính tự nhiên như địa chất, khí hậu thì không ít người phải chịu những tổn thất nặng nề do không thể chuẩn bị đối phó với thảm hoạ vì nghèo đói. Một khi thảm hoạ phát sinh thì thảm hoạ đó châm ngòi cho các thảm hoạ khác, tổn thất trở nên lan rộng. 7 không chỉ nhằm đối phó riêng với các sự cố là nguyên nhân trực tiếp của thảm hoạ. Bảng 1. Hai mặt của tính dễ tổn thương Nhân tố Do các điều kiện tự nhiên - Địa hình mang tính - Địa chất tự nhiên - Khí tượng, khí hậu … Tính dễ bị tổn thương do hoạt động của con người gây ra - Xây dựng các dự án ở vùng đất nguy hiểm (vùng đất dốc, nền đất yếu). Nhân tố - Đô thị hoá quá nhanh, dân số tăng nhanh và mật độ dân số cao. mang tính - Tàn phá môi trường xã hội - Nghèo đói - Tình hình kinh tế xã hội bất ổn. - Các biện pháp đối phó với thảm hoạ không đầy đủ và không thích hợp…. 2) Đánh giá thẩm định rủi ro Người ta định nghĩa rủi ro như sau: Rủi ro là sự kết hợp yếu tố tính dễ tổn thương trước hiểm hoạ và tần số phát sinh của nó. Trong kế hoạch đối phó với thảm hoạ việc xây dựng trước hệ thống đối phó khi phát sinh (quản lý rủi ro) là cơ bản và quan trọng nhất, trên cơ sở đánh giá rủi ro, nắm vững hiện trạng và dự tính rủi ro (đánh giá thẩm định rủi ro). ở những vùng chức năng mang tính xã hội không đầy đủ thì hiện tượng như trên hiện ra rất rõ. Hơn nữa thiệt hại có xu hướng tập trung vào những người nghèo khó nhất. Hình 3 - Rủi ro Việc lập kế hoạch đối phó là cần thiết trên cơ sở nắm vững đặc điểm ở nơi con người sinh sống và tính dễ bị tổn thương trong xã hội, mà Đối với rủi ro người ta gọi nguy cơ mà sự đe doạ đến sinh hoạt xã hội của con người khi thực sự xảy ra là khủng hoảng. Trong kế hoạch Chương 1 8 đối phó với thảm hoạ bao quát cả việc đối phó trên thực tế dựa trên sự quản lý rủi ro từ trước và cách đối phó các vấn đề xảy ra nằm ngoài dự tính và được xây dựng từ ba bước: Một là đánh giá thẩm định rủi ro lúc bình thường. Hai là quản lý rủi ro. Ba là quản lý khủng hoảng khi phát sinh nguy cơ. 3. Các loại thảm hoạ Có nhiều cách phân loại thảm hoạ, ở đây chúng tôi chia thành ba loại lớnlà thảm hoạ thiên nhiên, thảm hoạ do con người và thảm hoạ đặc biệt. Dưới đây chúng tôi xin khái quát về ba loại Ảnh 1: núi lửa phun trào tại (Tungrahua), Ecuador năm 2006 thảm hoạ đó. (1) Thảm hoạ thiên nhiên (natural disaster) Thảm hoạ thiên nhiên được định nghĩa như sau: thảm hoạ thiên nhiên là sự tàn phá hệ sinh thái hoặc kết quả sinh ra từ mối đe doạ vượt quá khả năng đối phó của cộng đồng khu vực7. Thảm hoạ thiên nhiên bao gồm cả động đất, sóng thần, núi lửa phun trào, bão, lũ lụt … làm gián đoạn hệ thống cung cấp điện nước, khí gas, làm suy yếu chức năng của các cơ sở điều trị. Thảm hoạ thiên nhiên tiêu biểu và thảm hoạ điển hình xin tham khảo ở bảng 2. Ảnh 2: Sóng thần tại Ache, Indonesia năm 2004 Ảnh 3. Tại Pakistan năm 2005 Nguồn ảnh Pan American Health Organization (PAHO) Quản lý Thảm họa 9 Bảng 2. Các thảm hoạ tự nhiên tiêu biểu và những thiệt hại mang tính điển hình Các loại thảm hoạ Những thiệt hại mang tính điển hình (Thiệt hại mang tính vật lý). Phá huỷ nhà cửa, cơ sở hạ tầng gây ra hoả hoạn. Phá huỷ đập thuỷ điện gây ra hiện tượng lở đất, đất trượt, lũ lụt. Động đất (Người bị nạn). Phát sinh nhiều nhất là ở vùng gần tâm chấn động đất, vùng mật độ dân số cao, vùng nhiều nhà cửa thiếu các thiết bị chống động đất. (Vấn đề sức khoẻ). Dẫn đến các chấn thương do gãy xương, áp lực về tinh thần, các vấn đề do môi trường sống bị huỷ hoại. (Việc cung cấp nước). Thiếu nước là một vấn đề lớn do hệ thống cung cấp nước bị tàn phá. (Thiệt hại mang tính vật lý). Tàn phá nhà cửa đất đai, tàn phá nhà cửa cơ sở hạn tầng do ngập lụt sau sóng thần. (Vấn đề sức khoẻ). Người chết nhiều do bị ngạt nước và bị các vật thể cuốn trôi. Sóng thần (Việc cung cấp nước). Việc cung cấp nước sạch gặp khó khăn do các thiết bị cấp nước bị phá hỏng và do ngập mặn. (Việc cung cấp lương thực thực phẩm). Đất đai canh tác bị ngập mặn, các kho tích trữ lương thực, thuyền bè đánh bắt bị hư hại. (Vấn đề sức khoẻ). Tỷ lệ người chết, bị thương, bị bỏng do nham thạch, khí và đất đá vùi dập. Rối loạn đường hô hấp do khi và tro bụi núi lửa. Núi lửa phun trào (Vấn đề nhà ở, cơ sở hạ tầng, nông nghiệp). Hầu hết bị tàn phá do dòng nham thạch nóng, đất đá chảy qua. Các vật thể kiến trúc bị phá hoại do sự tích tụ của tro núi lửa với số lượng lớn. Gây ra ngập lụt do sông ngòi bị phong toả. Hệ thống giao thông và thông tin bị chia cắt, gián đoạn. (Việc cung cấp lương thực thực phẩm). Mọi cây lương thực và hoa mầu bị dòng nham thạch nóng chảy qua huỷ diệt. Cỏ cây bị ô nhiễm tổn hại do tro bụi núi lửa. Gia súc bị ảnh hưởng do hít phải khí ga và tro bụi. (Thiệt hại mang tính vật lý). Mọi vật nằm trên vùng đất trượt đều bị phá huỷ. Đường xá sông ngòi và hệ thống thông tin bị chia cắt. Đất trượt làm ảnh hưởng nghiêm trọng Đất lở, đất đến năng suất của cây nông nghiệp và lâm nghiệp, gây lụt lội làm giá trị tài sản bị trượt giảm xuống. (Vấn đề sức khoẻ). Gây tử vong và thương tật cao do bị đất đá vùi lấp. (Thiệt hại mang tính vật lý). Những vật thể kiến trúc, nhà cửa bị thiệt hại do cuồng phong lụt lội. Gây ra tình trạng lở đất. Bão (Vấn đề sức khoẻ). Phát sinh những thương vong do va đập vào các vật thể bị gió cuốn. Bị ngạt nước do lũ cuốn. Và phát sinh bệnh truyền nhiễm do ô nhiễm. (Cung cấp nước). Có khả năng các thiết bị cấp nước bị ô nhiễm do lụt nội. (Mạng lưới thông tin vận tải). Mạng lưới thông tin, ăngten, thiết bị vệ tinh bị phá huỷ do gió mạnh. Mạng lưới vận chuyển bị gián đoạn. Chương 1 10 (Thiệt hại mang tính vật lý). Các vật thể kiến trúc bị tàn phá dưới sức ép của nước, nhà cửa bị tàn phá do sự va đập với cây cối và các vật thể bị cuốn trôi. Gây lở đất. Lụt (Vấn đề sức khoẻ). Bị ngạt nước. Phát sinh bệnh truyền nhiễm do nước bẩn. Thương vong thấp. (Cung cấp nước). Thiết bị cung cấp nước bị ô nhiễm việc cung cấp nước sạch gặp khó khăn. (Việc cung cấp lương thực thực phẩm). Hoa màu lương thực tích trữ bị thiệt hại. Gia súc, máy móc canh tác bị tổn thất. Nguồn tài liệu (UNDP: An Overview of disaster Management, 2nd ed. Disaster Management Training Programme,1992, p.24-29) (2) Thảm hoạ do con người (man-made disaster) Là thảm hoạ mà nguyên nhân trực tiếp của nó do con người gây nên. Thảm hoạ do con người bao gồm các vụ tai nạn giao thông lớn như tai nạn tàu hoả, tai nạn máy bay, tai nạn ô tô liên hoàn ; các vụ nổ ở nhà máy hoá chất, sự rò rỉ hoá chất; tai nạn công nghiệp như nổ khí gas; tai nạn chất phóng xạ; hoả hoạn quy mô lớn; hành động khủng bố. Thảm hoạ do con người xảy ra những vùng tập trung cung cấp điện, nước, khí gas cho đô thị, tập trung các cơ sở điều trị. Gần đây phần lớn các thảm hoạ do con người bắt đầu từ khoa học kỹ thuật mà con người tạo ra và được gọi là thảm hoạ kỹ thuật (technological disaster). Nguyên nhân chủ yếu của thảm hoạ kỹ thuật được đưa ra như sau: hoá chất (Chemical), sinh vật (Biological), chất phóng xạ (Radiological), hạt nhân nguyên tử (Nuclear), các vụ nổ( Explosion). Người ta gọi chung thảm hoạ kỹ thuật bằng từ CBRNE. Vấn đề ở chỗ các hoạt động khủng bố đã lợi dụng kỹ thuật vào ý đồ xấu gây phát sinh thảm hoạ. Thảm hoạ do con người ngoài các thảm hoạ kỹ thuật thì các cuộc xung đột sắc tộc, xung đột vũ trang, nội chiến và chiến tranh giữa quốc gia đều được coi là thảm hoạ do con người gây ra. Các cuộc thảm hoạ này còn gọi là thảm hoạ phức hợp (Complex disaster/ complex humanitarian emergencies). Chữ phức hợp dùng ở đây không đơn thuần các thảm hoạ xảy ra cùng một lúc mà nguồn gốc sâu xa của nó là các vấn đề mang tính chính trị, xã hội phát sinh cùng một lúc nên đó là một hình thái rất phức tạp trong việc đối phó. Ảnh 4. thảm hoạ tàu cao tốc JR trượt bánh Ảnh 5. Huấn luyện việc chống khủng bố NBC Nguồn ảnh 4 Báo Yomiuri 25/4/2005 ảnh 5 Triển khai lực lượng Cục cứu hỏa Bộ nội vụ và truyền thông số 453 12/2008 Quản lý Thảm họa (3) Thảm hoạ đặc biệt (specific disaster) Người ta phân loại thảm hoạ đặc biệt dưới các dạng: dạng phát tán trên diện rộng (chất phóng xạ, nhiễm độc); dạng phức hợp (thảm hoạ phát sinh và lan rộng lần thứ hai, lần thứ ba); dạng hỗn hợp (hỗn hợp của thảm hoạ thiên nhiên và con người); dạng lâu dài (mất nhiều thời gian để xác minh hiện trường thảm hoạ và cứu giúp người bị nạn). Người ta cũng xếp các hành vi khủng bố vào loại thảm hoạ đặc biệt. Thảm hoạ nhà máy điện nguyên tử Chernobyl ở Liên xô cũ được xếp vào dạng phát tán trên diện rộng. Hoả hoạn ở quy mô lớn xảy ra sau động đất được xếp vào dạng phức hợp. II. Quản lý thảm hoạ là gì? Khi thảm hoạ xảy ra bất luận nguyên nhân gì thì sự cân bằng cung cầu về điều trị và vệ sinh công cộng cũng bị phá vỡ. Trong tình trạng bất ổn thì việc “cung cấp những điều trị, điều dưỡng tốt nhất đến được với nhiều người bị nạn nhất” là mục đích cuối cùng của việc điều trị, điều dưỡng trong thảm hoạ. (The best for the greatest number of victims). Vì thế mục đích của quản lý thảm hoạ trong tất cả các cơ sở điều trị là duy trì môi trường an toàn, cung cấp liên tục không bị gián đoạn các dịch vụ căn bản khi có thảm hoạ. 11 Việc chuẩn bị bao gồm cả việc tập dượt hàng ngày rất quan trọng để đạt được mục tiêu điều trị, điều dưỡng trong thảm hoạ; để giảm thiểu thiệt hại phát sinh, tận dụng mọi nguồn lực có được trong điều kiện thiếu thốn. 1. Chu kỳ thảm hoạ Có nhiều yếu tố liên quan đến thảm hoạ: nguyên nhân, thiệt hại và tình hình thiệt hại, thời gian…. Việc đối phó với thảm hoạ thông thường người ta chia thảm hoạ thành nhiều giai đoạn (phase), nói chung người ta chia thảm hoạ thành bốn giai đoạn lớn: thời kỳ chuẩn bị thảm hoạ (prevention and preparedness phase); thời kỳ đối phó (acute phase) - thời kỳ cấp tính (sub acute phase) và á cấp tính (response phase); thời kỳ khôi phục (recovery phase); thời kỳ phục hưng (rehabilitation/ reconstruction phase). Các giai đoạn này liên tục trong quá trình phát sinh thảm hoạ, việc đối phó với một thảm hoạ cũng liên quan đến việc đối phó với thảm hoạ tiếp theo vì vậy người ta gọi là chu kỳ thảm hoạ. ảnh hưởng của thảm hoạ Khi thảm hoạ xảy ra bất luận nguyên nhân gì thì sự cân bằng cung cầu về điều trị và vệ sinh công cộng cũng bị phá vỡ Hình 5. Chu kỳ thảm hoạ biểu năng 1) Thời kỳ chuẩn bị Hình 4. ảnh hưởng mà thảm hoạ mang đến đối với điều trị và sức khoẻ Là thời kỳ chuẩn bị đầy đủ lập kế hoạch sao cho có thể tiến hành các hoạt động tiến hành cứu trợ cứu hộ một cách hiệu quả nhất khi phát Chương 1 12 sinh thảm hoạ trên cơ sở nhiều phương án, đối sách nhằm giảm thiểu phát sinh thiệt hại. Trong việc ứng phó của Liên hiệp quốc người ta chia thành chín khung (1) Đánh giá thẩm định tính dễ tổn thương, (2) Lập kế hoạch phòng chống, (3) Tổ chức hoá, (4) Hệ thống thông tin, (5) Cung cấp nguồn lực, vật tư, (6) Hệ thống cảnh báo, (7) Cơ chế ứng phó, (8) Giáo dục huấn luyện dân chúng, (9) Diễn tập. 2) Thời kỳ ứng phó Là thời kỳ thực sự hành động với nhiều biện pháp khẩn cấp để bảo vệ tính mạng và tài sản. Các hoạt động cụ thể là (1) hướng dẫn l•nh đạo, (2) tìm kiếm cứu nạn, (3) đảm bảo sự an toàn trong khu vực bị thiệt hại, (4) thẩm định thiệt hại, (5) lắp đặt và vận hành các thiết bị khẩn cấp, (6) vận chuyển và cung cấp vật tư, (7) thiết lập các trại lánh nạn …. Từ góc độ điều trị trong thảm hoạ người ta còn chia nhỏ giai đoạn này thành thời kỳ cấp tính và thời kỳ á cấp tính. Ngay cả trong thời kỳ cấp tính người ta gọi thời gian 48 tiếng ngay sau thời gian thảm hoạ là thời kỳ điều trị cấp cứu, cứu trợ cứu nạn. Trong giai đoạn này thì người ta tiến hành việc cứu trợ cứu nạn và cấp cứu điều trị những người bị thương. Kể từ khi thảm hoạ phát sinh 1 tuần người ta gọi là thời kỳ cấp tính. Người ta tiến hành việc sơ cứu những người bị thương tại chỗ trong quá trình lánh nạn và cứu trợ, người ta ứng phó với các vấn đề phát sinh trong thời gian lánh nạn. 3) Thời kỳ phục hồi Thật khó có thể phân chia rõ ràng thời kỳ phục hồi từ thời gian nào đến thời gian nào. Đây là thời kỳ khôi phục lại khả năng vận hành tự có của từng cá nhân và của từng xã hội. Mọi người tiến hành sửa sang lại nhà cửa, di chuyển về các nhà tạm, khôi phục lại môi trường sống, đi làm và đi học trở lại. Ngoài ra còn khôi phục lại hệ thống cung cấp nước, điện, gas; bắt đầu trở lại các hoạt động buôn bán làm ăn. Các cơ quan hành chính tiến hành chi việc cho những người bị nạn bắt đầu triển khai các kế hoạch, mở lại và phục vụ các dịch vụ thông thương như bình thường. Giai đoạn này mới chỉ là phục hồi chứ chưa thể quay trở lại như trước khi thảm hoạ xảy ra. Nói cách khác từ tình trạng bất thường trở lại tình trạng bình thường. 4) Thời kỳ phục hưng Cũng khó có thể phân chia rõ ràng về thời kỳ này. Đây là thời kỳ mà mỗi cá nhân và toàn khu vực xã hội hoạt động trở lại như trước khi thảm hoạ xảy ra, tái sinh toàn bộ cộng đồng. Tuy vậy, từng con người và cả xã hội không trở về thời kỳ giống hệt thời kỳ trước khi xảy ra thảm hoạ mà qua kinh nghiệm hứng chịu thảm hoạ sinh hoạt của từng cá nhân cũng như cách thức của cả cộng đồng được hình thành và phát triển sao cho thích ứng với khi có thảm hoạ xảy ra. 2. Điều trị trong thảm hoạ nhìn từ chu kỳ thảm hoạ. Tình trạng và cuộc sống của con người biến đổi theo sự đối phó với chu kỳ thảm hoạ vì thế việc điều trị cũng biến đổi theo chu kỳ thảm hoạ. Chúng tôi xin đề cập ở đây một số khái niệm về vấn đề này. 1) Thời kỳ cấp tính của chu kỳ thảm hoạở hiện trường thảm hoạ việc cứu trợ những người bị nạn và chuyển họ từ khu vực nguy hiểm đến địa điểm an toàn được ưu tiên hàng đầu. Để cứu tính mạng của những người bị thương được nhiều nhất thì cần thiết phải triển khai một cách trôi chảy ba bước: phân loại người bị thương (triage), sơ cứu (treatment) và chuyển người bị thương về tuyến sau (transportation). Và người ta gọi là 3T. Ngoài các thiết bị cứu nạn trực tiếp thì tại các bệnh viện tiếp nhận bệnh nhân, trạm cấp cứu cứu nạn, nơi lánh nạn cần phải có sẵn túi đựng thi hài hoặc quan tài; cũng như đáp ứng được yêu cầu chăm sóc của người nhà nạn nhân. Quản lý Thảm họa 2) Thời kỳ trung hạn và dài hạn của chu kỳ thảm hoạ 13 điều trị, xây dựng mạng lưới chi viện. Trong thời kỳ này môi trường sống thay đổi từ sinh hoạt của các trại lánh nạn thì chuyển về nhà tạm hoặc nhà cũ được sửa sang. Cần phải quan tâm đến tính an toàn sao cho mọi người có thể yên tâm sinh sống. Tiến hành các hoạt động chăm sóc tinh thần, chi viện để xây dựng lại cuốc sống và sức khoẻ, chi viện xây dựng lại xã hội khu vực. 3) Thời kỳ bình ổn của chu kỳ thảm hoạ Trong thời kỳ thảm hoạ xảy ra thì cần thiết phải giáo dục về thảm hoạ, chuẩn bị trước khi phát sinh thảm hoạ, huấn luyện phòng chống ở các khu vực người dân dễ bị cuốn vào thảm hoạ, hoàn chỉnh và kiểm tra các vật tư khác trong vùng, hoàn chỉnh và kiểm tra các thiết bị phòng chống và các vật tư khác tại các cơ sở Hình 6. Điều trị thảm hoạ nhìn từ chu kỳ thảm hoạ (山本保博、鵜飼卓監修:トリアージ[その意義と 実際]、 1999、 p3 đã thay đổi một phần) Tài liệu tham khảo: International Strategy for Disaster Reduction: http://www.unisdr,org/eng/library/libterminology 2007/11/13 1 International Strategy for Disaster Reduction: http://www.unisdr,org/eng/library/libterminology 2007/11/13 5 6 その 他 の自然 現 象 には、 「 冷 害 、干 害 、雹 Hogan DE, Burstein JL :Disaster 害 、霜 害 、旋 風 、地 滑り、山 崩 れ 、が け 崩 れ 、 Medicine, Lippincott Williams & 土地の隆起、地盤沈下など」が含まれる。 Wilkins,Philadelphia,2002,3-9 2 政令で定める原因は、放射線物質の大量の 放出、多数の者の遭難を伴う船舶の沈没その他 の大規模な事故とする。 3 Gunn SWA: Multilingual Dictionary of Disaster Medicine and International Relief, Kluwer Academic Publishers, Dordrecht, 1990 4 Veenema, TG ed.: Disaster Nursing and Emergency Preparedness for Chemical, Biological, and Radiological Terrorism and Other Hazards, Springer Publishing company,2003,p.4 7 TÌNH HÌNH THẢM HOẠ Ở VIỆT NAM Nguyen Thi Minh Chinh Nam Dinh University of Nursing MỤC TIÊU 1. Trình bày được đặc điểm địa lý, kinh tế xã hội liên quan đến thảm hoạ ở Việt Nam 2. Trình bày được tình hình thảm hoạ tự nhiên ở Việt Nam 3. Trình bày được tình hình thảm hoạ nhân tạo ở Việt Nam NỘI DUNG 1. Hoàn cảnh địa lý, kinh tế và xã hội. 1.1 Địa lý - Việt Nam nằm trong bán đảo Đông Dương, thuộc vùng Đông Nam châu Á. Lãnh thổ Việt Nam chạy dọc bờ biển phía Đông của bán đảo này. Việt Nam có biên giới đất liền với Trung Quốc (1.281 km), Lào (2.130 km) và Campuchia (1.228 km) và bờ biển dài 3.444 km tiếp giáp với vịnh Bắc Bộ, biển Đông và vịnh Thái Lan. Việt Nam có diện tích 331.212 km², bao gồm khoảng 327.480 km² đất liền và hơn 4.200 km² biển nội thủy, với hơn 2.800 hòn đảo, bãi đá ngầm lớn nhỏ, gần và xa bờ, bao gồm cả Trường Sa và Hoàng Sa. - Địa hình Việt Nam rất đa dạng theo các vùng tự nhiên như vùng Tây Bắc, Đông Bắc, Tây Nguyên có những đồi và những núi đầy rừng, trong khi đất phẳng che phủ khoảng ít hơn 20%. Núi rừng chiếm độ 40%, đồi 40%, và độ che phủ khoảng 75%. Các vùng đồng bằng như đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long và các vùng duyên hải ven biển như Bắc Trung Bộ và Nam Trung Bộ. Nhìn tổng thể Việt Nam gồm ba miền với miền Bắc có cao nguyên và vùng châu thổ sông Hồng, miền Trung là phần đất thấp ven biển, những cao nguyên theo dãy Trường Sơn, và miền Nam là vùng châu thổ Cửu Long. Điểm cao nhất Việt Nam là 3.143 mét, tại đỉnh Phan Xi Păng, thuộc dãy núi Hoàng Liên Sơn. Diện tích đất canh tác chiếm 17% tổng diện tích đất Việt Nam. - Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa ở miền Nam với hai mùa (mùa mưa, từ giữa tháng 5 đến giữa tháng 9, và mùa khô, từ giữa tháng 10 đến giữa tháng 4) và khí hậu gió mùa ở miền Bắc với bốn mùa rõ rệt (mùa xuân, mùa hè, mùa thu và mùa đông). Do nằm dọc theo bờ biển, khí hậu Việt Nam được điều hòa một phần bởi các dòng biển và mang nhiều yếu tố khí hậu biển. Độ ẩm tương đối trung bình là 84% suốt năm. Hằng năm, lượng mưa từ 1.200 đến 3.000 mm,số giờ nắng khoảng 1.500 đến 3.000 giờ/năm và nhiệt độ từ 5 °C đến 37 °C. Hàng năm, Việt Nam luôn phải phòng chống bão và lụt lội với 5 đến 10 cơn bão/năm. 1.2 Kinh tế - Xã hội - Việt Nam có 54 dân tộc, trong đó có 53 dân tộc thiểu số, chiếm khoảng 14% tổng số dân của cả nước. Dân tộc Việt (còn gọi là người Kinh) chiếm gần 86%, tập trung ở những miền châu thổ và đồng bằng ven biển. Những dân tộc 16 thiểu số, trừ người Hoa, người Chăm và người Khmer phần lớn đều tập trung ở các vùng cao nguyên. Trong số các sắc dân thiểu số, đông dân nhất là các dân tộc Tày, Thái, Mường, Hoa, Khmer, Nùng..., mỗi dân tộc có dân số khoảng một triệu người. Các dân tộc Brâu, Rơ Măm, Ơ Đu có số dân ít nhất, với khoảng vài trăm cho mỗi nhóm. Có một số dân tộc thiểu số đã định cư trên lãnh thổ Việt Nam từ rất lâu đời, nhưng cũng có các dân tộc chỉ mới di cư vào Việt Nam trong vài trăm năm trở lại đây như người Hoa ở miền Nam. Việt Nam là một nước đông dân, tuy diện tích đứng hạng 65 nhưng lại xếp thứ 13 trên thế giới về dân số. Chương 1 - Việt Nam có 3.260 km đường bờ biển. Dự kiến quy hoạch chi tiết tuyến đường bộ ven biển Việt Nam trong tương lai là tuyến đường bắt đầu tại cảng Núi Đỏ, Mũi Ngọc (xã Bình Ngọc, Móng Cái, Quảng Ninh) tới cửa khẩu Hà Tiên (thị xã Hà Tiên, Kiên Giang) với chiều dài khoảng 3.041 km. Hệ thống đường sắt Việt Nam có tổng chiều dài 2652 km, trong đó tuyến đường chính Hà Nội - thành phố Hồ Chí Minh dài 1726km được gọi là Đường sắt Bắc Nam. Ngoài ra còn có các tuyến đường sắt ngắn từ Hà Nội đi Hải Phòng (hướng đông), Lạng Sơn (hướng bắc), Lào Cai (hướng Tây bắc) - Theo điều tra của Tổng cục thống kê (Việt Nam) tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009, trên toàn Việt Nam có 85.846.997 người, quy mô phân bố ở các vùng kinh tế - xã hội, trong đó đông dân nhất là vùng đồng bằng sông Hồng với khoảng 19,5 triệu người, kế tiếp là vùng bắc Trung bộ và duyên hải nam Trung bộ với khoảng 18,8 triệu người, thứ ba là vùng đồng bằng sông Cửu Long với khoảng 17,1 triệu người. Vùng ít dân nhất là Tây Nguyên với khoảng 5,1 triệu người. Cũng theo cuộc điều tra thì Việt Nam có khoảng 25,4 triệu người, tương ứng với 29,6% sống ở khu vực thành thị và khoảng 60,4 triệu người cư trú ở khu vực nông thôn. Về tỷ số giới tính trung bình hiện nay là 98 nam/100 nữ, trong đó vùng cao nhất là Tây Nguyên với 102 nam/100 nữ và vùng thấp nhất là Đông Nam Bộ với 95 nam/100 nữ. - Hệ thống đường hàng không Việt Nam gồm các sân bay quốc tế có các tuyến bay đi các nước và các sân bay nội địa trải đều ở khắp ba miền, 3 sân bay quốc tế hiện đang khai thác là Tân Sơn Nhất (TP.Hồ Chí Minh), sân bay Đà Nẵng (Đà Nẵng) và Nội Bài (Hà Nội), và các sân bay dự kiến khai thác đường bay quốc tế trong thời gian tới là Cam Ranh (Khánh Hòa), Cát Bi (Hải Phòng) và Phú Bài (Thừa Thiên Huế). Hệ thống đường biển xuất phát từ các cảng biển lớn ở 3 miền như cảng Hải Phòng, cảng Cái Lân (miền Bắc), cảng Tiên Sa, cảng Quy Nhơn (miền Trung) và cảng Sài Gòn, cảng Thị Vải (miền Nam). Các tuyến đường thủy nội địa chủ yếu nằm theo hướng đông - tây dựa theo các con sông lớn như sông Đà, sông Hồng (miền Bắc), sông Tiền, sông Hậu (miền Tây Nam bộ), và sông Đồng Nai, sông Sài Gòn (miền Đông Nam bộ) chảy theo hướng bắc - nam. - Do đặc thù của địa lý Việt Nam, nên các tuyến giao thông nội địa chủ yếu từ đường bộ, đường sắt, đường hàng không đều theo hướng bắc - nam, riêng các tuyến giao thông nội thủy thì chủ yếu theo hướng đông - tây dựa theo các con sông lớn đều đổ từ hướng tây ra biển. Việt Nam có hệ thống đường bộ gồm các quốc lộ, tỉnh lộ, huyện lộ,…có tổng chiều dài khoảng 222.000km, phần lớn các tuyến đường quốc lộ và tỉnh lộ đều được trải nhựa và bê tông hóa, chỉ có một số ít các tuyến đường huyện lộ tại các tỉnh vùng sâu, vùng xa đang còn là các con đường đất. - Trước năm 1986, Việt Nam là một quốc gia có nền kinh tế tập trung tương tự nền kinh tế của các nước xã hội chủ nghĩa. Chính sách Đổi Mới năm 1986 thiết lập mô hình kinh tế mà Việt Nam gọi là “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Các thành phần kinh tế được mở rộng nhưng các ngành kinh tế then chốt vẫn dưới sự điều hành của Nhà nước. Sau năm 1986, kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển to lớn và đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình khoảng 9% hàng năm từ 1993 đến 1997, đặc biệt là sau khi Hoa Kỳ dỡ bỏ cấm vận với Việt Nam năm 1994. Tăng trưởng GDP 8,5% Quản lý Thảm họa 17 vào năm 1997 đã giảm xuống 4% vào năm 1998 do ảnh hưởng của sự kiện khủng hoảng kinh tế Á châu năm 1997, và tăng lên đến 4,8% năm 1999. Tăng trưởng GDP tăng lên từ 6% đến 7% giữa những năm 2000-2002 trong khi tình hình kinh tế thế giới đang trì trệ. Hiện nay, Việt Nam tiếp tục các nỗ lực tự do hóa nền kinh tế và thi hành các chính sách cải cách, xây dựng cơ sở hạ tầng cần thiết để đổi mới kinh tế và tạo ra các ngành công nghiệp xuất khẩu có tính cạnh tranh hơn. - Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức WTO ngày 11 tháng 1 năm 2007. Việt Nam phân chia thành 6 vùng kinh tế xã hội là: vùng trung du và miền núi phía Bắc, vùng đồng bằng sông Hồng, vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, vùng Tây Nguyên, vùng Đông Nam Bộ và vùng đồng bằng sông Cửu Long. Và 3 vùng kinh tế trọng điểm là: vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Về tài nguyên đất, Việt Nam có rừng tự nhiên và nhiều mỏ khoáng sản trên đất liền với phốt phát, than đá, măng gan, bô xít, chrômát,... Về tài nguyên biển có dầu mỏ, khí tự nhiên, quặng khoáng sản ngoài khơi. Với hệ thống sông dốc đổ từ các cao nguyên phía tây, Việt Nam có Loại thảm hoạ nhiều tiềm năng về phát triển thủy điện. 2. Tình hình thảm hoạ tự nhiên (thiên tai) ở Việt nam 2.1 Tình hình chung - Ở Việt nam do vị trí địa lý, đặc điểm địa hình và khí hậu nên ở đây thường xảy ra các thảm hoạ tự nhiên thường như: Lũ quét, lũ lụt, bão, lún đất ở vùng nhiệt đới, lũ quét đột ngột, gió lốc và hạn hán. Các thảm hoạ tư nhiên mưa đá, lở đất, cháy rừng và xâm lấn nước mặn. Một số các thảm hoạ tuy có xảy ra ở Việt Nam những hiếm gặp như: động đất, sương giá - Theo con số thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường, từ năm 1900 cho đến nay, trên toàn Việt nam đã có 70 trận bão lớn, 50 trận lũ lụt, 9 đại dịch lớn, 5 trận sạt lở đất nghiêm trọng, 5 trận hạn hán và 1 vụ cháy rừng. Tuy nhiên tuỳ vào vùng địa lý và khu vực kinh tế mà mức độ khắc nghiệt của các thảm hoạ tự nhiên này là khác nhau. Tính theo mức độ khắc nghiệt từ rẩt khắc nghiệt (++++), đến khắc nghiệt (+++), đến khắc nghiệt vừa (++), ít khắc nghiệt (+) và không có (-) thì mức độ khắc nghiệt của các thảm hoạ tự nhiên ở các vùng và khu vực kinh tế được thống kê như sau: Vùng địa lý và khu vực kinh tế Đông Tây bắc Châu thổ sông Hồng Bắc bộ Nam bộ Tây nguyên +++ ++++ ++++ ++++ ++ +++ +++ - ++++ ++++ +++ +++ +++ ++++ Lũ quét +++ - +++ +++ +++ +++ + Gió lốc ++ ++ ++ ++ + ++ ++ Hạn hán +++ + ++ +++ ++ +++ ++ Xâm lấn nước mặn - + ++ ++ + ++ +++ Lũ lụt - ++ ++ ++ - ++ +++ Lở đất ++ ++ ++ ++ + ++ +++ Bão táp - ++ ++ ++ ++ ++ +++ ++ + ++ +++ - +++ +++ Bão Lũ Hỏa hoạn Đông Châu thổ Nam Bắc sông Mekong 18 2.2 Các thảm hoạ tự nhiên và những thiệt hại của nó 2.2.1 Bão và lũ lụt - Lũ lụt gây nên bởi mưa nhiều trong thời gian ngắn, nước thoát chảy không kịp. Ở những vùng trũng, chỉ cần mưa nhiều ở vùng đất cao hơn, ở thượng nguồn, cũng đủ tạo ra lũ lụt. bão tố thường kèm theo mưa nhiều nên thường tạo lũ lụt khủng khiếp. lũ lụt xảy ra khốc liệt hơn nếu nhằm lúc có triều cường lớn, như trùng các ngày xuân phân (21/3) hay thu phân (21/9), cùng lúc với trăng tròn (ngày rằm) hay không trăng (mồng một âm lịch). Theo tài liệu Sở Thuỷ Văn, số lượng và cường độ bão tố gia tăng rất khốc liệt ở Việt Nam kể từ năm 1950. - Tại Miền Bắc, hàng năm những trận bão và gió mùa Tây Nam gây nên những trận mưa lớn ở miền thượng du cũng như đồng bằng miền Bắc. Do ảnh hưởng của biến động thời tiết trên toàn thế giới vì dòng nước El Nino và La Nina, những trận bão và mưa lớn xảy ra càng khốc liệt hơn. Mùa bão thường kéo dài từ tháng 6 đến tháng 10, và trung bình hàng năm có 4 cơn bão. Các trận lũ lớn đa số xảy ra vào tháng 8, nhằm vào cao điểm của mùa mưa bão. Những cơn bão này thường xuất phát từ Phi Luật Tân, Biển Đông và Tây Thái Bình Dương, rồi 3-4 ngày sau sang đến bờ biển Việt Nam. - Địa hình thượng lưu các sông gồm các vùng đồi núi với độ dốc lớn nên nước mưa đổ nhanh chóng xuống vùng đồng bằng. Mỗi khi có mưa to, vùng đồng bằng sông Hồng nhận nước lũ từ hai hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình. Hệ thống sông Hồng bao gồm sông Đà, sông Hồng, sông Thao nhập lưu tại Việt Trì, và hệ thống sông Thái Bình gồm các nhánh chính là sông Cầu, sông Thương, sông Lục Nam nhập lưu tại Phả Lại. Dầu được bão vệ bởi môt hệ thống đê dài trên 3,000 km, đa số các trung tâm đông dân cư đều nằm dưới mực nuớc lũ sông Hồng. Vì vậy khi mưa quá to và nước lũ làm vỡ đê làm nhiều nguời thiệt mạng. Chương 1 - Trong lịch sử cận đại, những trận lụt kinh hoàng gây nhiều tổn thất ở Miền Bắc đã được ghi: Lụt năm 1890 do mưa nhiều phá vỡ đê làng Mể Tràng, tiếp theo lụt năm1893, và năm 1905 tàn phá tỉnh Hà Nam. Trong vòng 100 năm qua, đồng bằng sông Hồng đã có 26 trận lũ lớn. Một trận lũ lớn vào tháng 8 năm 1945 gây vỡ đê tại 79 điểm, gây ngập 11 tỉnh với tổng diện tích 312,000 ha, ảnh hưởng tới cuộc sống của 4 triệu người. Đặc biệt vào năm 1971, ảnh hưởng dòng nước lạnh La Nina đã gây nên những trận mưa to liên tục. Một cơn bão từ miền nam Trung hoa gần Hồng Kông mang đến những trận mưa to trên các sông Thao, sông Lô và sông Đà. - Nuớc lũ từ các sông này đã hợp lại gây nên cơn lũ lịch sử của đồng bằng sông Hồng. Mực nước Sông Hồng ngày 20/8/1971 lên đến 14.13 m ở Hà Nội (cao hơn mực nước báo động cấp III 2.63 m), 18.17 m ở Việt Trì (cao hơn 2.32 m mức báo động cấp III) và 16.29 m ở Sơn Tây (1.89 m cao hơn mức báo động cấp III). Đồng thời mực nước ở các sông Cầu, sông Lô, sông Thái Bình lên cao hơn bao giờ hết. Cơn lũ vào tháng 8 năm 1971 đã làm vỡ đê Sông Hồng và 100,000 người đã bị thiệt mạng. Đây là cơn lũ lớn nhất trong vòng 250 năm ở miền Bắc. Ngày 24/7/1996, bão Frankie với gió to hơn 100 km/ giờ kèm với mưa to gây lũ lụt làm 100 người bị thiệt mạng, 194,000 căn nhà bị hư hại và hơn 177,000 ha bị úng ngập. Tháng 9/2002 bão Mekkhala (tiếng Thái có nghĩa “thiên thần sấm sét”, Việt nam gọi là bão số 5) thổi vào Miền Bắc cũng gây thiệt hại đáng kể. - Tại Miền Trung, hàng năm những trận bão và gió mùa Đông Bắc đã gây nên những trận mưa lớn. Những năm gần đây, những trận bão biển và mưa lớn xảy ra càng khốc liệt hơn. Mùa bão thường kéo dài từ tháng 8 đến tháng 11, và trung bình hàng năm có 4 cơn bão. Tại Miền Trung, những trận bão lụt gây thiệt hại nổi tiếng: 1953, 1964, 1996, 1998, hai trận lụt tháng 11 và 12/1999, tháng 9/2000 (bão Wukong vào Hà Tỉnh), tháng 11/2003, và trận bão tháng 4/2005 tại Thừa Thiên do ảnh hương La Nina, và lụt Quản lý Thảm họa ngày 18 và 19/9/2005 vùng Quảng Trị do bão Vincente. Năm 1998, sau đợt khô hạn kéo dài, liên tục 4 cơn bão 6, 7, 8, 9 tàn phá các tỉnh duyên hải miền Trung. Đặc biệt đầu tháng 11 và tháng 12/1999, cơn đại hồng thủy chưa từng có ở nước ta trong nửa thế kỹ qua đã gây lũ lụt lớn từ Quảng Bình đến Phú Yên. Ngày 15/11 năm 2003, mưa lũ lụt từ Quảng Nam đến Bình Thuận cuốn trôi 60 dân, 40,000 dân phải chạy trốn lụt, ở Quảng Ngãi và Bình Định gây thiệt hại khoảng 11.5 triệu đô la Mỹ cho hai tỉnh này. - Năm tỉnh Nghệ An, Hà Tỉnh, Quảng Bình, Ninh Thuận và Bình Thuận là thường xuyên bị lụt và hạn hán thường xuyên hàng năm. Riêng trong những năm 1995-1999, Miền Trung đã chịu ảnh hưỡng của 13 cơn bão: năm 1996 giết 400 người, tiếp theo 3 trận bão liên tục cuối năm 1998 giết 450 người, rồi hai cơn lũ lụt tháng 11 và đầu 12 năm 1999 tàn phá và gây ra tử vong hơn 700 người, gây thiệt hại 300 triệu đô la Mỹ. Đặc biệt vào trận bão lụt tháng 11/1999, những trận mưa liên tục từ 18 tháng 10 đến 6 tháng 11 đã nâng mực nước các sông lớn ở miền Trung đến độ cao chưa từng thấy. Gần 1.4 m (1384 mm) nước mưa đã đổ xuống thành phố Huế trong vòng 24 giờ, làm mực nước Sông Hương lên cao gần 6 m, cao hơn mực nước trận lụt năm 1953 đến 0.46 m. Lượng nước mưa vào ngày 2 tháng 11 tại Huế là lượng nước mưa lớn thứ nhì trên thế giới, sau kỷ lục 1870 mm đo được tại Cilaos, đảo Réunion vào ngày 16 tháng 3 năm 1952. Tháng 4 và 5/2005, ảnh hưởng La Nina lụt ở Thừa Thiên Quảng Trị. Rạng sáng ngày 18.2, do ảnh hưởng của không khí lạnh, từ Quảng Trị và vùng phía bắc huyện Phong Điền đến Thừa Thiên - Huế, mưa lớn trên diện rộng đã gây ra một trận lũ lớn bất thường chưa từng thấy trong vòng hơn 30 năm trở lại đây. - Tại Miền Nam, trận bão tàn khốc năm 1904, cộng hưởng với mưa to và triều cường ngày xuân phân, gây sóng thần với nhiều đợt sóng cao hơn 10 m và giết trên 5000 người tại Gò Công. Sau trận bão lụt khủng khiếp này là trận lụt lớn năm 1924, 1952, 1961, 1964, 1966, 19 1978, 1984, 1991, 1994, 1995, 1996, bão Linda cuối năm 1997(tàn phá vùng Cà Mau), lụt tháng 9/2000, tháng 10/2001, tháng 9/2002, rồi bão số 5 thổi vào Cà Mau ngày 25/11/2004. Trung bình tại vùng đồng bằng Cửu Long, cứ trung bình mỗi 5 đến 12 năm là có một trận lụt khủng khiếp: 1961, 1966, 1978, 1984 và 1991. - Trận lụt 1961 coi như là trận lụt lớn nhất ở Đồng bằng Cửu Long kể từ 1941, với mực nước ghi trên cọc ghi trên sông Hậu ở Châu Đốc là 4.94 m và trên sông Tiền tại Tân Châu là 5.28 m. Trận lụt 1966 gây thiệt hại ở Đồng bằng Cửu Long khoảng 20.1 triệu đô la Mỹ. Vào tháng 11/1997, cơn bão số 5 (Linda) đổ bộ vào vùng duyên hải Nam Bộ, gây thiệt hại lớn về người và của ở 9 tỉnh, làm chết khoảng 3,000 người, là trận bão khốc liệt nhất trong 100 năm ở vùng này. Trận lụt tháng 10 năm 2000, coi như cơn lụt của thế kỹ ở vùng này, giết gần 1000 người ở địa phận Việt nam và Cam phu chia, tổn thất tổng cộng khoảng 500 triệu đô la Mỹ. Trận lụt tháng 10 năm 2001, giết 80 người ở vùng biên giới Việt nam và Cam phu chia. Lụt tháng 9/2002 cũng gây thiệt hại to lớn ở Đồng bằng Cửu Long. - Tại Đồng bằng Cửu Long, hàng năm đều có lụt xảy ra định kỳ, các cơn lũ bắt đầu khi nước sông Cửu Long dâng cao làm ngập vùng Savannakhet và Pakse ở Nam Lào, rồi đến vùng Kratie ở miền Đông Kampuchea. Nước lũ từ thượng lưu theo sông Tiền và sông Hậu chảy vào Việt Nam. Ở đây mùa lũ thường kéo dài từ cuối tháng 6 cho đến cuối tháng 12 và được chia ra ba giai đoạn. Trong giai đoạn 1, từ tháng 7 đến tháng 8, nước lũ chảy vào các kinh và các mương rạch thiên nhiên vùng Đồng Tháp Mười và Tứ Giác Long Xuyên. Cao điểm lũ lụt xảy ra trong giai đoạn 2 khi mực nước sông Tiền ở Tân Châu cao hơn 4.2 m, và mực nước sông Hậu ở Châu Đốc cao hơn 3.5 m. Vào mùa lũ lụt lớn, nước lũ tràn qua biên giới Việt Miên chảy vảo Đồng Tháp Mười và khu Tứ Giác Long Cuyên. Lưu lượng nước lũ tràn qua biên giới Việt Miên có khuynh hướng gia tăng, từ 2,930 m3/s trong 20 trận lũ 1961, lên 6,300 m3/s trong trận lụt 1991, và 8,286 m3/s năm 1996. Giai đoạn 3 bắt đầu từ tháng 10 khi mực nước hạ thấp dần cho đến cuối tháng 12. Vào mùa lụt những năm bình thường, 1/3 diện tích đồng bằng bị ngập, có nơi sâu 3-4 m. Tại Mộc Hoá mùa lũ hiện nay đến sớm hơn 12-15 ngày so với thập niên 1970, lúc vụ lúa hè thu chưa kịp chín để thâu hoạch, năm nào lũ đến sớm trước 15/8 coi như mất trắng thu hoạch. - Không cần phải mưa lớn mới có lụt, ngay trong mùa khô, chỉ cần triều cường mạnh, kết hợp với gió chướng và thuỷ triều thiên văn rằm tháng hai âm lịch trùng với ngày xuân phân 21/3 dương lịch là đủ gây lụt ở những vùng đất thấp như một số vùng duyên hải Nam Bộ và một số vùng của Sài Gòn. Khoảng 140 km2 trong thành phố Hồ Chí Minh có nguy cơ ngập lụt, tập trung ở quận 1, 3, 4, 5, 7, 10, 11, Phú Nhuận, Bình Thạnh, Tân Bình và Bình Chánh. Chẳng hạn, triều cường tháng 3/2005 và 3/2006 đã gây ngập lụt và vỡ đê ở một số quận Sài Gòn như Bình Thạnh, có nơi sâu tới 1m5. Triều cường tháng 9 kết hợp với mưa, nước lũ tạo lụt lội trầm trọng hơn trên khắp đồng bằng Cửu Long. Tiên đoán cho biết vì lưu lượng sông Mekong gia tăng 10% trong mùa lũ (tháng 9 và 10), nên lũ lụt ở đồng bằng Cửu Long sẽ trầm trọng hơn, đến sớm hơn và kéo dài hơn hiện nay. Hậu quả là thâu hoạch vụ lúa hè-thu có thể mất trắng, và canh tác vụ đông xuân sẽ trễ hơn 2.2.2 Hạn hán - Hạn hán cũng trầm trọng và kéo dài hơn trước kia trên nhiều vùng lãnh thổ Việt Nam. Trong thời gian từ 1962-1992, Châu Á bị hạn hán trầm trọng, gây thiệt hại đứng hạng ba, sau lụt và bão tố. Hạn hán năm 1962 ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ phá huỷ 370.000 ha hoa màu, và trận hạn hán 1982 tàn phá 180,000 ha cây màu ở đồng bằng Cửu Long. Cũng vậy, năm 1983 mất 291,000 ha ở miền Trung và Nam Việt Nam. Năm 1988, hạn hán xảy ra trên toàn quốc. Vụ Đông Xuân 1992-1993, việc sản xuất ở đồng Chương 1 bằng Cửu Long giảm 559,000 tấn lúa. Năm 1993 khoảng 175,000 ha ở miền Trung bị hạn trong số đó 35,000 ha bị chết hoàn toàn, mất khoảng 150,000 tấn lương thực. Vụ hạn 1994-1995 ở Đăc Lắc được xem là nặng nề nhất trong 50 năm, ảnh hưởng vào cà phê khoảng 600 tỉ đồng và gây thiếu nước sinh hoạt. Trận hạn hán khác năm 1995-1996 ở Miền Bắc tàn phá hoa màu khoảng 13,380 ha vùng Trung Du và 100,000 ha vùng đồng bằng sông Hồng. Đặc biệt, hạn hán năm 1998 xảy trên toàn lãnh thổ Việt Nam, cực kỳ trầm trọng ở Tây Nguyên, Miền Trung và Miền Nam. Hạn hán này là do ảnh hưởng El Nino: Mưa ít hơn trong vụ Đông-Xuân 19971998, vũ lượng giảm từ 10 đến 50% trong mùa hè 1998. Cuối năm 1998, vũ lượng tiếp tục giảm 30-50% trên toàn quốc, riêng Sơn La giảm 90%. Tháng 11 nhiều vùng ở đồng bằng sông Hồng thiếu nước canh tác. Tổng số diện tích bị hạn hán trên toàn quốc năm 1998 là 734,284 ha, trong số đó 276,656 ha ở đồng bằng Cửu Long. Cùng lúc với hạn hán trong năm này, từ tháng 12/1997 đến tháng 6/1998, nhiệt độ gia tăng lên 35 tới 42 oC, vũ lượng chỉ 40-250 mm (4-20% vũ luợng mưa trung bình của nhiều năm), cộng thêm ảnh hướng gió Lào gây cháy rừng. Trận hạn hán 1997-1998 ảnh hưởng vào 3.8 triệu dân thiếu nước sinh hoạt, gây thiệt hại khoảng 5,000 tỉ đồng Việt Nam. Hạn hán cũng trầm trọng ở đồng bằng Cửu Long và cao nguỵên Đắc Lắc năm 2004 và 2005, ngay cả nước sinh hoạt hàng ngày cũng phải hạn chế. - Riêng năm 2005, hạn hán xảy ra tại Thái Lan, Indonesia, Việt Nam, Kampuchia và Lào trầm trọng nhất trong nhiều thập niên qua, gây thiệt hại khoảng 193 triệu đô la Mỹ cho riêng Thái Lan. Ở Việt Nam, vùng bị hạn hán thường xuyên hàng năm là từ Khánh Hoà đến Bình Thuận, với tổng số diện tích hạn hán thường xuyên là 300,000 ha. Vào năm bình thường, Ninh Thuận và Bình Thuận chỉ nhận vũ lượng hàng năm khoảng 600 mm, nhưng mưa chỉ 3-10 mm trong tháng 3, trong khi bốc hơi nước 1,000 đến 2,000 mm/tháng, là vùng khô hạn nhất ở
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng