Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Pháp luật nuôi con nuôi của người nước ngoài và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam...

Tài liệu Pháp luật nuôi con nuôi của người nước ngoài và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

.PDF
98
690
71

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT BÙI THỊ NGỌC PHƯƠNG PHÁP LUẬT NUÔI CON NUÔI CỦA NƯỚC NGOÀI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2013 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT BÙI THỊ NGỌC PHƯƠNG PHÁP LUẬT NUÔI CON NUÔI CỦA NƯỚC NGOÀI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật quốc tế Mã số : 60 38 60 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Bá Chiến HÀ NỘI - 2013 2 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng 1 MỞ ĐẦU Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT 5 NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI 1.1. Những khái niệm cơ bản 5 1.1.1. Khái niệm "nuôi con nuôi" 5 1.1.2. Khái niệm "nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài" 6 1.1.3. Khái niệm "pháp luật nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài" 8 1.2. Lịch sử phát triển của pháp luật nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài 9 1.3. Xung đột pháp luật trong việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài 11 1.3.1. Khái niệm 11 1.3.2. Giải quyết xung đột pháp luật về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp luật các nước 13 1.3.3. Giải quyết xung đột pháp luật về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên 15 1.4. Nguồn luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài 20 1.4.1. Các điều ước quốc tế về nuôi con nuôi mà Việt Nam đã và đang là thành viên 20 1.4.2. Các quy định cơ bản hiện hành của pháp luật Việt Nam về 21 3 nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài 1.4.3. Tập quán của pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài 22 Chương 2: CÔNG Ước lahay năm 1993 và Pháp luật một số nước về nuôi 23 con nuôi có yếu tố nước ngoài 2.1. Nội dung cơ bản của Công ước La Hay 1993 23 2.1.1. Lược sử Công ước La Hay1993 23 2.1.2. Mục đích và phạm vi áp dụng Công ước La Hay 1993 25 2.1.3. Những yêu cầu với việc nuôi con nuôi nước ngoài 27 2.1.4. Cơ quan Trung ương có thẩm quyền về con nuôi và tổ chức được ủy nhiệm 28 2.1.5. Những yêu cầu về thủ tục cho, nhận con nuôi nước ngoài 29 2.1.6. Công nhận và hậu quả của việc nuôi con nuôi 30 2.1.7. Những quy định chung 31 2.2. 32 Khái quát về pháp luật của một số nước tiêu biểu 2.2.1. Pháp luật của Pháp 32 2.2.2. Pháp luật của Trung Quốc 35 2.2.3. Pháp luật của Tây Ban Nha 39 2.2.4. Pháp luật của Liên bang Nga 42 2.2.5. Pháp luật của Hoa Kỳ 60 Chương 3: Pháp luật việt nam và bài học kinh nghiệm của pháp luật 68 nước ngoài cho pháp luật việt nam về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài 3.1. Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo Luật Nuôi con nuôi 2010 68 3.1.1. Nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài 68 3.1.2. Điều kiện đối với trẻ em Việt Nam được nhận làm con nuôi 71 4 3.1.3. Điều kiện đối với người xin nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài 72 3.1.4. Thẩm quyền, trình tự giới thiệu trẻ em làm con nuôi người nước ngoài 73 3.1.5. Trách nhiệm kiểm tra, xác minh hồ sơ của trẻ em được giới thiệu làm con nuôi người nước ngoài 75 3.1.6. Hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài 76 3.1.7. Thông báo tình hình phát triển của con nuôi 77 3.1.8. Kết quả của hoạt động nuôi con nuôi con nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài 77 3.2. 80 Bài học kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài cho pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài 3.2.1. Bài học kinh nghiệm từ pháp luật của Pháp 80 3.2.2. Bài học kinh nghiệm từ pháp luật của Trung Quốc 81 3.2.3. Bài học kinh nghiệm từ pháp luật của Tây Ban Nha 82 3.2.4. Bài học kinh nghiệm từ pháp luật của Liên bang Nga 83 3.2.5. Bài học kinh nghiệm từ pháp luật của Hoa Kỳ 84 Kết luận 86 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 87 5 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang Danh sách các nước châu Á gia nhập Công ước La Hay 24 bảng 2.1 1993 3.1 Tình hình giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài từ ngày 01/10/2011 đến ngày 30/09/2012 6 79 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài không chỉ là quan hệ xã hội mang đậm tính nhân văn, thể hiện tình nhân ái giữa con người với con người mà còn là quan hệ pháp luật về hôn nhân và gia đình được quy định trong pháp luật của đa số các quốc gia và pháp luật quốc tế. Vấn đề nuôi con nuôi đối với các nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đã có từ lâu, nhưng thực sự được quan tâm trong những năm gần đây, đặc biệt kể từ khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc vì vấn đề này đã vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia, không chỉ là quan hệ xin - cho - nhận con nuôi thuần túy giữa những người cùng quốc tịch, cùng nơi cư trú mà còn là quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Tùy theo điều kiện kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội mà từng quốc gia có những quy định, chính sách riêng về việc nuôi con nuôi nói chung và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nói riêng nhằm bảo vệ tối đa quyền lợi của trẻ em trong quan hệ nuôi con nuôi. Trong xu thế hội nhập khu vực, hội nhập thế giới ngày nay cùng với sự phát triển của các quan hệ dân sự thì quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài cũng rất phát triển. Số lượng trẻ em, người lớn tham gia vào quan hệ này ngày càng tăng. Hầu hết pháp luật của các nước đều chú trọng đến việc bảo vệ các quyền cơ bản của trẻ em, đặc biệt là quyền được làm con nuôi, quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng, yêu thương, giáo dục từ cha mẹ nuôi để đảm bảo cho những đứa trẻ bất hạnh được phát triển tốt, được hưởng đầy đủ các quyền của trẻ em. Bên cạnh ý nghĩa tích cực của việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài cũng có nhiều đối tượng lợi dụng vấn đề này để trục lợi cá 7 nhân làm mất đi tính nhân văn cao cả cũng như gây khó khăn cho hoạt động này. Để khắc phục những hạn chế đó, đa số pháp luật của các nước trên thế giới đều thiết lập một khung pháp lý để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực này đảm bảo quyền lợi của các bên không bị xâm phạm. Với mong muốn nghiên cứu quy định của pháp luật một số nước tiêu biểu trên thế giới để học hỏi và thực thi đúng đắn những kinh nghiệm quý báu của các nước này nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Vì vậy tác giả lựa chọn: "Pháp luật nuôi con nuôi của nước ngoài và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam" làm đề tài luận văn tốt nghiệp. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Nuôi con nuôi nói chung và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nói riêng không phải là vấn đề mới lạ. Mặc dù đã có từ lâu nhưng gần đây nuôi con nuôi mới được quan tâm, xem xét, nghiên cứu với nhiều công trình khoa học, hội thảo, đề tài luận văn cử nhân, thạc sĩ, đề tài luận án tiến sĩ. Đề tài khoa học cấp bộ: "Hoàn thiện pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trước yêu cầu gia nhập Công ước La Hay năm 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế", do TS. Vũ Đức Long làm chủ nhiệm đề tài; Đề tài luận án tiến sĩ: "Pháp luật điều chỉnh quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập", của Nguyễn Hồng Bắc; Đề tài luận văn thạc sĩ: "Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài hướng tới gia nhập Công ước La Hay 1993" của Đào Thị Thu Hường; Kỷ yếu hội thảo khoa học về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo Luật nuôi con nuôi 2010 - Trường Đại học Luật Hà Nội; ngoài ra còn có các bài nghiên cứu về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài của giảng viên trường Đại học Luật Hà Nội đăng trên các tạp chí … 8 Trên thực tế các quan hệ xã hội thường có trước, các quy phạm pháp luật điều chỉnh thường có sau, theo quy luật đó quan hệ nuôi con nuôi và các biến thể của nó phát triển ngày càng đa dạng. Vì vậy, việc nghiên cứu quan hệ dân sự này nếu chỉ dừng lại trong phạm vi quốc gia thì không đầy đủ mà cần nghiên cứu quan hệ này theo pháp luật quốc tế, pháp luật của các nước tiêu biểu trên thế giới để rút ra bài học kinh nghiệm, hoàn thiện pháp luật Việt Nam điều chỉnh quan hệ này. 3. Mục đích nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của đề tài 3.1. Mục đích Một là, nghiên cứu tổng quan về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Hai là, tìm hiểu các nội dung của Công ước La Hay năm 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế. Phân tích, làm sáng tỏ những quy định của pháp luật một số nước điển hình trên thế giới điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Ba là, phân tích, làm sáng tỏ những quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam trên cơ sở so sánh với các quy định cũ về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài và rút ra bài học kinh nghiệm từ pháp luật nước ngoài cho Việt Nam. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung phân tích và làm sáng tỏ những quy định của Công ước La Hay 1993, pháp luật của Pháp, pháp luật của Trung Quốc, pháp luật của Tây Ban Nha và pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Trên cơ sở đó, rút ra bài học kinh nghiệm nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 9 4. Phương pháp nghiên cứu đề tài Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở quan điểm của Đảng và Nhà nước về bảo vệ quyền lợi của trẻ em, đồng thời có sử dụng kết hợp một số phương pháp như: phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp phân tích, phương pháp thống kê, phương pháp tổng hợp… để giải quyết những vấn đề mà luận án đề cập tới. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Kết quả nghiên cứu của luận văn vừa mang ý nghĩa khoa học, vừa mang ý nghĩa thực tiễn, nhằm tìm hiểu pháp luật của các nước tiêu biểu trên thế giới để học hỏi và hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Mặt khác, những đề xuất trong luận văn có thể được áp dụng để giải quyết các vấn đề liên quan. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Chương 2: Công ước La Hay 1993 và pháp luật một số nước về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Chương 3: Pháp luật Việt Nam và bài học kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài cho pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. 10 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI 1.1. NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN 1.1.1. Khái niệm "nuôi con nuôi" Nuôi con nuôi là một hiện tượng xã hội đã có từ xa xưa và ngày càng phát triển vì nhiều mục đích khác nhau, có thể nhằm đáp ứng các nhu cầu, lợi ích vật chất như cần người thờ tự, người chăm sóc lúc tuổi già, cần người lao động hoặc xuất phát từ lòng nhân đạo, cảm thông, chia sẻ với những trẻ em khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn... Hiện tượng này thể hiện mối quan hệ giữa cha, mẹ và con phát sinh dựa trên sự kiện nhận nuôi con nuôi. Để đảm bảo quyền lợi của bên nhận nuôi cũng như quyền lợi của trẻ được nuôi pháp luật đã thể chế quan hệ xã hội này thành quan hệ pháp luật. Dưới sự điều chỉnh cụ thể của các quy phạm pháp luật thì nuôi con nuôi diễn ra theo một trình tự, thủ tục nhất định không còn mang tính tự phát, tùy tiện như trước đây. Khái niệm nuôi con nuôi theo Từ điển bách khoa toàn thư về các môn khoa học xã hội là một thực tiễn xã hội được thể chế hóa, theo đó một cá nhân thuộc về một gia đình hay một nhóm mang tính chất gia đình do sinh ra tiếp nhận nhưng mối liên hệ mới mang tính chất gia đình và những mối liên hệ này được xã hội coi như ngang bằng với những mối liên hệ ruột thịt và thay thế một phần hoặc toàn bộ những mối liên hệ đó. Khái niệm nuôi con nuôi theo đa số các nước trên thế giới là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi. Nếu như trước đây nuôi con nuôi chỉ đơn thuần là một quan hệ xã hội thì nay nó đã được thể chế hóa thành một quan hệ pháp lý, là kết quả của việc 11 thực hiện các trình tự, thủ tục nhất định theo quy định của pháp luật nhằm xác lập quan hệ cha mẹ - con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi mà không dựa trên quan hệ huyết thống giữa hai bên. Nuôi con nuôi là một khái niệm đã được quy định một cách rõ ràng tại Điều 67 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Luật Nuôi con nuôi năm 2010 tiếp tục cụ thể hóa khái niệm đó nhằm tạo ra một hệ thống các thuật ngữ pháp lý về nuôi con nuôi mà không nhằm đưa ra một cách hiểu khác về chế định nuôi con nuôi ở Việt Nam. Theo đó, nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ - con lâu dài, bền vững giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi thông qua việc đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khi các bên có đầy đủ các điều kiện luật định. Tất cả quyền lợi của trẻ được nhận làm con nuôi và của người nhận nuôi đều được pháp luật ấn định và được bảo đảm thực hiện phù hợp với truyền thống, đạo lý của từng dân tộc và phù hợp với ý chí của nhà nước. 1.1.2. Khái niệm "nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài" Theo lý luận chung thì nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài có thể được hiểu là việc: Nuôi con nuôi giữa một bên là người Việt Nam, một bên là người nước ngoài (nếu người nhận nuôi là công dân Việt Nam thì người được nuôi là công dân nước ngoài và ngược lại); nuôi con nuôi giữa người nước ngoài với nhau (cả người nhận nuôi và người được nhận nuôi đều là công dân nước ngoài) nhưng họ thường trú tại Việt Nam; nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau (cả người nhận nuôi và người được nhận nuôi đều mang quốc tịch Việt Nam) nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài. Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là một trong các quan hệ hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài. Trong đó, yếu tố nước ngoài đã được quy định một cách rõ ràng trong Bộ luật Dân sự năm 2005 (Điều 758) và quan hệ nuôi con nuôi được quy định tại Khoản 14 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình 12 năm 2000. Như vậy, quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được hiểu là quan hệ giữa: i. Công dân Việt Nam với người nước ngoài. ii. Người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam. iii. Công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài. Ngoài ra, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 còn ghi nhận: "Các quy định của chương XI về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài cũng được áp dụng đối với quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên hoặc cả hai bên định cư ở nước ngoài" [19, Khoản 4 Điều 100]. Theo các quy định trên thì quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài bao gồm các quan hệ sau: i. Quan hệ nuôi con nuôi giữa người nước ngoài với trẻ em Việt Nam cư trú trên lãnh thổ Việt Nam hoặc cư trú ở nước ngoài. ii. Quan hệ nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với trẻ em nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam hoặc ở nước ngoài. iii. Quan hệ nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau mà một hoặc cả hai bên định cư ở nước ngoài. iv. Quan hệ nuôi con nuôi giữa người nước ngoài với nhau phát sinh tại Việt Nam. Theo các trường hợp trên đây, quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài đã được mở rộng, không chỉ là quan hệ nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài mà còn bao gồm quan hệ nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau ở nước ngoài và quan hệ nuôi con nuôi giữa người 13 nước ngoài với nhau ở Việt Nam. Có thể thấy nội hàm của khái niệm "nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài" trong một chừng mực nhất định tương đương với khái niệm "nuôi con nuôi quốc tế". Tuy nhiên, phạm vi của hai khái niệm này có sự khác nhau cơ bản đó là: Nuôi con nuôi quốc tế thuộc phạm vi điều chỉnh của Công ước La Hay 1993. Theo đó, việc nuôi con nuôi được thực hiện giữa một hoặc hai người là vợ chồng cùng thường trú tại nước ngoài xin nhận một trẻ em thường trú ở nước khác làm con nuôi, có sự di chuyển trẻ em từ nước này sang nước khác. Ngoài ra, theo tư pháp quốc tế của một số nước thì việc nhận một trẻ em có quốc tịch khác làm con nuôi được coi là nuôi con nuôi quốc tế. Theo Luật Nuôi con nuôi năm 2010 thì khái niệm nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Điều 3 nhằm tiếp tục kế thừa khái niệm quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, đồng thời làm căn cứ để áp dụng pháp luật điều chỉnh đối với các quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Theo đó, nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau thường trú ở Việt Nam, giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên định cư ở nước ngoài. 1.1.3. Khái niệm "pháp luật nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài" Quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở cả Việt Nam và các nước trên thế giới ngày càng phát triển và có những diễn biến đa dạng, phức tạp. Do đó, một khung pháp lý điều chỉnh quan hệ này cần được thiết lập và hoàn thiện để bảo vệ tối đa quyền lợi của các chủ thể tham gia vào việc cho nhận con nuôi có yếu nước ngoài. Pháp luật nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là tổng thể các quy phạm pháp luật quốc gia và các quy phạm pháp luật quốc tế điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Quy phạm pháp luật quốc gia điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài của đa số các nước trên thế giới là các quy phạm luật trong 14 luật/bộ luật về hôn nhân và gia đình, dân sự, quyền trẻ em hoặc nuôi con nuôi. Ví dụ: Luật Nuôi con nuôi của Việt Nam, Luật Nuôi con nuôi của Trung Quốc, Luật Nuôi con nuôi và cấp dưỡng của Ấn Độ, các quy định về nuôi con nuôi trong Bộ luật gia đình của Nga, các quy định về nuôi con nuôi trong Bộ luật Dân sự của Pháp... Quy phạm luật quốc tế điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài bao gồm các điều ước quốc tế song phương và điều ước quốc tế đa phương. Ví dụ: Hiệp định định hợp tác về nuôi con nuôi giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Canada; Thỏa thuận hợp tác về nuôi con nuôi quốc tế giữa Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Québec; Hiệp định định hợp tác về nuôi con nuôi giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Thụy Sĩ; Công ước La Hay năm 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế. 1.2. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI Việc quan tâm đến quyền trẻ em được các quốc gia đặc biệt chú trọng kể từ sau thế chiến thứ hai, cùng với việc đảm bảo các quyền cơ bản của con người và khắc phục hậu quả của chiến tranh. Một trong các yêu cầu cấp thiết, có tính nhân đạo đặt ra đối với các quốc gia là cần xây dựng một khung pháp lý để tạo điều kiện tốt nhất trong việc tìm được gia đình thay thế, tạo được môi trường chăm sóc và nuôi dưỡng tốt nhất cho những trẻ em bất hạnh (mồ côi, bị bỏ rơi, không nơi nương tựa…). Nhiều văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng về nuôi con nuôi được xây dựng như Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em ngày 20-11-1989 và Tuyên bố của Liên hợp quốc về các nguyên tắc xã hội và pháp lý liên quan đến việc bảo vệ và phúc lợi trẻ em, Chỉ dẫn đặc biệt về việc bảo trợ, nuôi con nuôi trong nước và nước ngoài (Nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc số 41/86 ngày 03-12-1986). Bên cạnh đó, nhiều hiệp định song phương về 15 nuôi con nuôi cũng được ký kết giữa các quốc gia. Năm 1965, Ủy ban Công ước La Hay đã tiến hành thảo luận với một số quốc gia và thông qua Công ước năm 1965 quy định về thẩm quyền, luật áp dụng và việc công nhận các văn bản pháp luật liên quan đến vấn đề nuôi con nuôi. Việc thông qua Công ước năm 1965 đã góp phần quan trọng giải quyết vấn đề nuôi con nuôi giữa các nước, thống nhất về nguyên tắc vấn đề giải quyết nuôi con nuôi. Đây cũng là công ước đầu tiên của Liên hợp quốc trong lĩnh vực bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi giữa các nước. Kể từ ngày Công ước năm 1965 được thông qua, nhiều trẻ em đã tìm được mái ấm, được chăm sóc, nuôi dưỡng, được học hành và các quyền khác của trẻ em được công nhận, được bảo đảm thực hiện. Tuy nhiên, sau một thời gian thực hiện, Công ước La Hay năm 1965 đã thể hiện nhiều điểm bất cập, chưa thực sự hiệu quả, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn về nhu cầu nuôi con nuôi quốc tế nên số lượng các quốc gia thành viên còn hạn chế. Ngoài ra, do cơ chế hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nuôi con nuôi chưa hoàn thiện, hiện tượng nhiều trẻ em ở một số nước nghèo bị mang ra nước ngoài dưới hình thức con nuôi nhưng thực chất là bị lợi dụng, xâm hại, bóc lột sức lao động… Một số đối tượng đã thông qua việc nuôi con nuôi để trục lợi, trẻ em bị coi là đồ vật, hàng hóa trao đổi, trái với mục đích nhân đạo ban đầu của công ước. Do đó, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế tiếp tục được coi là vấn đề cấp bách và cần được giải quyết sớm. Ngày 19-01-1988, Ủy ban thường trực của Công ước La Hay về tư pháp quốc tế trình Ủy ban đặc biệt về các vấn đề chung và chính sách xây dựng công ước mới trên cơ sở của Công ước La Hay năm 1965 và tình hình thực tiễn trên thế giới trong thời gian đó. Sau 5 năm đàm phán, công ước mới được soạn thảo với sự nỗ lực của 16 các quốc gia, dưới sự giám sát của Ủy ban đặc biệt của Viện Tư pháp quốc tế La Hay về cấp dưỡng nuôi con và cấp dưỡng gia đình. Tại kỳ họp thứ 17 của Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế ngày 29-05-1993, Công ước La Hay về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nuôi con nuôi đã được thông qua và chính thức có hiệu lực kể từ ngày 01-05-1995. Đây là công ước mở cho bất kỳ quốc gia nào cũng có thể tham gia với điều kiện đại diện của quốc gia đó đã tham dự ít nhất hai kỳ họp của Hội nghị La Hay và có đơn xin gia nhập. Đối với từng quốc gia khác nhau thì lịch sử phát triển của pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài cũng khác nhau. Đa số các quốc gia trên thế giới đều ban hành các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi trong nước trước, sau đó ban hành các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài hoặc ban hành đồng thời các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi con nuôi trong nước và quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Các quy phạm pháp luật này có thể được hệ thống hóa trong một văn bản pháp quy riêng về nuôi con nuôi/nuôi con nuôi quốc tế như luật nuôi con nuôi, luật nuôi con nuôi quốc tế hoặc được quy định cùng với các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ khác trong một văn bản pháp luật như luật hôn nhân và gia đình, luật gia đình, luật dân sự… Đối với Việt Nam, việc gia nhập Công ước La Hay và ban hành Luật Nuôi con nuôi 2010 có ý nghĩa rất quan trọng: một là, đưa Việt Nam hội nhập vào một thiết chế pháp lý lớn nhất trong lĩnh vực tư pháp quốc tế; hai là, thống nhất các quy định về nuôi con nuôi trong nước, nuôi con nuôi quốc tế trong một văn bản quốc gia có giá trị pháp lý cao nhất là luật về nuôi con nuôi. 1.3. XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT TRONG VIỆC NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU 17 TỐ NƯỚC NGOÀI 1.3.1. Khái niệm Xung đột pháp luật trong việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là hiện tượng hai hay nhiều hệ thống pháp luật có thể áp dụng để điều chỉnh một quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Nguyên nhân cơ bản dẫn tới hiện tượng xung đột pháp luật nêu trên là có sự khác biệt giữa các hệ thống pháp luật khi quy định về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Ở một số nước hồi giáo thì vấn đề nuôi con nuôi không được đặt ra (bị nghiêm cấm). Một số nước hồi giáo khác thì cho phép nuôi con nuôi nhưng lại cấm nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Các nước còn lại trên thế giới (đại đa số) cho phép nuôi con nuôi và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Theo đó, về hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi/nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài có hai nội dung: nuôi con nuôi không đầy đủ/nuôi con nuôi đơn giản và nuôi con nuôi đầy đủ. Cụ thể là: i. Một số hệ thống pháp luật chấp nhận chế định nuôi con nuôi không đầy đủ/nuôi con nuôi đơn giản. Với chế định này thì quan hệ cha, mẹ - con giữa con nuôi và cha mẹ đẻ không bị cắt đứt. ii. Một số hệ thống pháp luật quy định nuôi con nuôi đầy đủ với hệ quả là quan hệ cha, mẹ - con giữa con nuôi và cha mẹ đẻ bị cắt đứt. Để giải quyết xung đột pháp luật về lĩnh vực nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, hầu hết các nước trên thế giới áp dụng hai phương pháp chính là ban hành các quy phạm thực chất, quy phạm xung xung đột và tham gia các điều ước quốc tế song phương, đa phương về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Trong trường hợp có sự khác biệt giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế mà quốc gia đó tham gia thì các quy phạm pháp luật quốc tế thường được ưu tiên áp dụng. Việc lựa chọn hệ thống pháp luật hợp lý để điều chỉnh các quan hệ 18 nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là một trong các biện pháp để bảo đảm một cách tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên chủ thể tham gia vào quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, đặc biệt là lợi ích của trẻ em được nhận làm con nuôi. Ngoài ra, việc lựa chọn hệ thống pháp luật phù hợp còn làm cho các vấn đề về nội dung, trình tự giải quyết, hệ quả pháp lý và các vấn đề khác phát sinh từ việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài phù hợp với điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội của mỗi quốc gia và phù hợp với chuẩn mực và thông lệ quốc tế, qua đó thúc đẩy sự hợp tác của các quốc gia ngày càng phát triển. 1.3.2. Giải quyết xung đột pháp luật về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp luật các nước Xung đột pháp luật trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài xảy ra ở nhiều nội dung và rất phức tạp. Để giải quyết xung đột pháp luật về vấn đề này, các nước có thể lựa chọn các yếu tố như phương pháp thích hợp (phương pháp xung đột hoặc phương pháp thực chất), cơ quan có thẩm quyền (cơ quan trong nước, cơ quan ở nước ngoài, cơ quan giải quyết các vấn đề về thủ tục hành chính, cơ quan tố tụng) hoặc nguyên tắc pháp luật (luật nhân thân, luật nơi cư trú…) để giải quyết xung đột pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Tìm hiểu về nguyên tắc pháp luật để giải quyết quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài thì đa số các nước áp dụng nguyên tắc luật nhân thân của người nuôi hoặc của con nuôi.  Ở Đức Theo Điều 22 - Luật tư pháp quốc tế của Đức sửa đổi ngày 25/07/1986 thì việc nuôi con nuôi được điều chỉnh theo pháp luật của nước mà người nhận con nuôi là công dân vào thời điểm nuôi con nuôi. Nếu vợ chồng người nhận có cùng quốc tịch thì luật của nước mà hai vợ chồng là công dân sẽ được 19 áp dụng. Nếu hai vợ chồng người nhận con nuôi có quốc tịch khác nhau thì pháp luật của nước hai vợ chồng thường trú sẽ được áp dụng.  Ở Anh Tòa án Anh có thẩm quyền giải quyết vấn đề nuôi con nuôi, khi người nuôi thường trú ở Anh hoặc cả người nuôi và con nuôi cư trú ở Anh và áp dụng pháp luật của Anh để giải quyết. Trên thực tế, các cơ quan có thẩm quyền ở Anh cũng thừa nhận việc nuôi con nuôi ở nước ngoài nếu như người nuôi là công dân Anh hiện đang cư trú ở nước ngoài đó.  Ở các nước Đông Âu Vấn đề nuôi con nuôi giải quyết theo luật của nước mà người nuôi mang quốc tịch (Khoản 1, Điều - 26 Luật tư pháp quốc tế của Séc và Slôvakia; Khoản 1, Điều 22 - Luật tư pháp quốc tế Ba Lan). Trong trường hợp người nuôi là hai vợ chồng có quốc tịch khác nhau thì việc nuôi con nuôi phải tuân thủ luật quốc tịch của cả hai bên vợ chồng người nuôi. Nếu cần phải có sự đồng ý của đứa trẻ hoặc của những người như bố, mẹ, người đỡ đầu… đa số các nước dựa trên cơ sở pháp luật của nước mà đứa trẻ mang quốc tịch (Khoản 2, Điều 22 Luật tư pháp quốc tế Ba Lan năm 1965).  Ở Nga Việc nuôi con nuôi tiến hành trên lãnh thổ Nga giữa người nuôi là công dân nước ngoài và con nuôi là công dân Nga hoặc công dân nước ngoài đang sinh sống trên lãnh thổ Nga được giải quyết theo luật của Nga. Trường hợp trẻ em được nuôi mang quốc tịch nước ngoài và việc nuôi 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan