ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ ÁNH NGUYỆT
PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ VIỆC BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI DO Ô NHIỄM DẦU TRONG TƯƠNG
QUAN SO SÁNH VỚI PHÁP LUẬT AUSTRALIA
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội - 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
Nguyễn Thị Ánh Nguyệt
PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ VIỆC BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI DO Ô NHIỄM DẦU TRONG TƯƠNG
QUAN SO SÁNH VỚI PHÁP LUẬT AUSTRALIA
Chuyên ngành : Luật quốc tế
Mã số
: 60 38 60
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN BÁ DIẾN
Hà Nội – 2011
MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các hình vẽ
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: TỔNG QUAN NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
5
BỒI THƯỜNG THIỆT DO Ô NHIỄM DẦU
1.1.
Thực trạng về ô nhiễm dầu tại Việt Nam và các nước trên
5
thế giới
1.2.
Bồi thường thiệt hại do ô nhiễm dầu và vai trò của chế định bồi
14
thường thiệt hại do ô nhiễm dầu
1.2.1 Một số khái niệm về bồi thường thiệt hại do ô nhiễm dầu.
1.2.2
1.3
14
Vai trò của chế định bồi thường thiệt hại do ô nhiễm dầu
19
Cơ sở pháp lý của chế định bồi thường thiệt hại do ô nhiếm dầu
21
Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT
NAM HIỆN HÀNH VÀ CÁC CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ MÀ
25
VIỆT NAM LÀ THÀNH VIÊN VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT
HẠI DO Ô NHIỄM DẦU.
2.1.
Các văn bản pháp luật trong nước điều chỉnh về bồi thường
25
thiệt hại do ô nhiễm dầu .
2.1.1 Các văn bản pháp luật chung
25
2.1.2 Một số văn bản pháp luật chuyên biệt
39
2.2
Các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên về bồi thường
51
thiệt hại ô nhiễm dầu
2.3
Một vài bất cập của hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành về
chế định bồi thường thiệt hại do ô nhiễm dầu
58
Chương 3: HỆ THỐNG PHÁP LUẬT AUSTRALIA VỀ
66
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO Ô NHIỄM DẦU VÀ
KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM.
3.1.
Hệ thống Pháp luật về phòng chống ô nhiễm dầu trên Biển và
66
bồi thường thiệt hại do ô nhiễm dầu của Australia (Úc).
3.1.1 Giới thiệu khái quát về Australia
66
3.1.2 Các quy định chung của pháp luật Australia về ô nhiễm dầu.
68
3.1.3 Các đạo luật đáng chú ý của Liên bang Australia quy định về
73
trách nhiệm và chế tài liên quan đến ô nhiễm dầu trên biển.
3.1.4 Các Công ước quốc tế Australia là thành viên liên quan đến ô
75
nhiễm dầu.
3.1.5 Quy định về Quyền tài phán theo pháp luật Australia khi giải
75
quyết các vấn đề liên quan đến ô nhiễm dầu
3.1.6 Các quy định về thẩm quyền xét xử và tố tụng.
77
3.1.7 Vấn đề trách nhiệm dân sự
79
3.1.8 Khiếu nại đòi bồi thường thiệt hại
81
3.1.9 Biện pháp đảm bảo tài chính
83
3.1.10 Bồi thường thiệt hại
84
3.1.11 Quỹ bồi thường thiệt hại do ô nhiễm dầu
88
3.1.12 Trách nhiệm hình sự
89
3.2
Bài học kinh nghiệm và khuyến nghị, đề xuất cho Việt Nam
92
trong việc hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành về
bồi thường thiệt hại do ô nhiễm dầu.
3.2.1
Sự cần thiết của việc kiểm soát ô nhiễm dầu trên biển bằng Luật
3.2.2 Hoàn thiện các quy định về Ủy ban quốc gia ứng phó sự cố tràn dầu
độc lập và Quỹ quốc gia đối phó với nạn ô nhiểm dầu trên biển.
92
100
3.2.3 Bổ sung và hoàn thiện các quy định về việc lượng giá các thiệt hại
kinh tế do ô nhiễm dầu trong các văn bản pháp luật.
103
3.2.4 Hoàn thiện các quy định về trình tự thủ tục giải quyết tranh
chấp về bồi thường thiệt hại do ô nhiễm dầu.
106
3.2.5 Tích cực Tham gia các công ước quốc tế về ô nhiễm dầu.
106
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
109
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AMSA
: Cơ quan an toàn biển của Australia .
BLHS 1999
: Bộ luật Hì nh sự năm 1999
BLDS 2005
: Bộ luật dân sự năm 2005.
BLTTDS 2005
: Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005.
BUNKER 2001 : Công ước quốc tế về trách nhiệm dân sự và bồi thường
thiệt
hại do ô nhiễm dầu từ kho nhiên liệu của tàu , 2001
BTTH
: Bồi thường thiệt hại
BVMT
: Bảo vệ môi trường
CLC 1992
: Công ước quốc tế về trách nhiệm dân sự đối với các thiệt hại
do ô nhiễm dầu 1992
CUQT/ ĐUQT
: Công ước quốc tế/ Điều ước quốc tế
GT
: Tức Gross Ton, bằng 2240 pounds hay 1.016,047kg
(tương đương Tấn)
GTVT
: Giao thông vận tải.
HNS 1996
: Công ước quốc tế về trách nhiệm dân sự và bồi thường tổn thất
(thiệt hại ) liên quan đến vậ n chuyển các chất nguy hiểm và độc
hại bằng đường biển 1996.
IMO
: Tổ chức Hàng Hải quốc tế
KHQG
: Kế hoạch quốc gia
LHQ
: Liên Hợp Quốc
MARPOL 73/78 :Công ước quốc tế về phòng ngừa ô nhiễm biển từ tàu
được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị đị nh thư 1978
1973
OPRC 1990
: Công ước quốc tế về sẵn sàng ứng phó và hợp tác đối với ô
nhiễm dầu 1990
SCTD
: Sự cố tràn dầu
SOLAS
: Công ước quốc tế về An toàn sinh mạng người trên biển
FUND (FC)
: Công ước quốc tế thành lập Quỹ quốc tế bồi thường thiệt hại
từ ô nhiễm dầu.
SDR
: Quyền rút vốn đặc biệt, tỷ lệ chuyển đổi hàng ngày cho các
quyền rút vốn đặc biệt (SDR) có thể được tìm thấy trên trang
web của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF ) tại www.imf.org dưới "Tài
chính IMF ".
TANDTC
: Tòa án nhân dân tối cao.
TCVN
: Tiêu chuẩn Việt Nam.
TNMT
: Tài nguyên môi trường.
TNDS
: Trách nhiệm dân sự
TTCP
: Thủ tướng Chính phủ
UBQG
: Ủy ban quốc gia
UCSCTD
: Ứng cứu Sự cố tràn dầu.
UNLOCS 82
: Công ước quốc tế về Luật Biển 1982
UBND
: Ủy ban nhân dân.
DANH SÁCH BẢNG BIỂU
Bảng 3. 1. Những sự cố gây ô nhiễm dầu tại Australia ................................ 68
Bảng 3.2: Căn cứ đánh giá mức độ sự cố tràn dầu ....................................... 73
Bảng 3.3: Mức giới hạn trách nhiệm theo CLC và mức bồi thường theo FC
(FUND)
tính đến năm 2003 ........................................................................... 86
Bảng 3.4: Mức giới hạn trách nhiệm C LC và mức bồi thường thiệt hại theo FC
(FUND) từ năm 2003 ...................................................................... 87
Bảng 3.5: Mức bồi thường theo HNS 1996 ................................................. 88
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Hình 1.1 : Hình ảnh tràn dầu ở Trung Quốc năm 2010 .............................. 6
Hình 1.2 : Hình ảnh về Sự cố tràn dầu trên vịnh Mexico- Hoa Kỳ năm 2010 ... 7
Hình 1.3 : Hình ảnh tràn dầu ở tỉnh Quảng Nam năm 2007 ....................... 8
Hình 1.4 : Ô nhiễm dầu không rõ nguồn gốc ở ven biển Bà Rịa-Vũng Tàu
năm 2007 ...................................................................................... 11
Hình 1.5 : Ô nhiễm và thu gom dầu thải tại Côn Đảo năm 2007....................... 13
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài.
Trong những thập niên gần đây, ô nhiễm dầu trở thành một trong những vấn
nạn của nhiều quốc gia vùng ven biển trên thế gới, trong đó có Việt Nam. Thực tế
cho thấy những vụ đắm tàu, tràn dầu đã và đang đe dọa nghiêm trọng đến môi
trường biển trên khắp hành tinh. Do đó đây là một vấn đề không chỉ ở Việt Nam mà
cả thế giới quan tâm.
Việt Nam là một quốc gia có nhiều các hoạt động khai thác dầu khí và hoạt
động vận tải trên biển. Theo thống kê từ 1987 đến nay đã xảy ra khoảng trên 90 vụ
tràn dầu lớn nhỏ, trong đó có một số vụ điển hình gây ra tình trạng ô nhiễm dầu đặc
biệt nghiêm trọng. Từ đó có tác động tiêu cực đến môi trường, hệ sinh thái và ảnh
hưởng lớn đến sự phát triển bền vững của đất nước mà trước tiên phải kể đến những
thiệt hại đối với nến kinh tế quốc gia như ngành kinh tế thuỷ sản, làm muối, du lịch
và ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của người dân. Cũng theo thống kê của Bộ
Tài nguyên môi trường , lượng dầu tràn làm ô nhiễm biển Việt Nam đến năm 1992 là
7.380 tấn, năm 1995 là 10.020 tấn, và theo mức độ gia tăng của vận tải biển
, khai
thác dầu khí và công nghiệp hóa , năm 2000 lên đến 17.650 tấn. Dự báo đến năm
2010, lượng dầu tràn gây ô nhiễm biển Việt Nam có thể lên đến trên 21.000 tấn. Tuy
nhiên, phần lớn những thiệt hại do ô nhiễm dầu gây ra trên các vùng biển của nước
ta đều chưa được đánh giá đúng mức và không được bồi thường
. Lý do là hệ thống
pháp luật trong nước điều chỉnh về vấn đề này vừa thiếu lại vừa yếu . Các cơ quan có
thẩm quyền , cơ quan chuyên môn và cả chí nh quyền đị a phương còn thiếu kinh
nghiệm trong việc xử lý các sự cố tràn dầu cũng như tiến hành các nghiệp vụ cấn
thiết để yêu cầu bồi thường thiệt hại do ô nhiễm dầu . Đặc biệt là trong việc xác đị nh
nguồn gốc dầu gây ô nhiễm và đánh giá mức độ thiệt theo quy định của pháp luật
quốc tế . Điều đó cho thấy sự cần thiết phải có sự điều chỉnh của pháp luật đối với
vấn nạn này.
Cho đến nay nước ta chưa có một đạo luật hay một văn bản pháp luật chuyên
biệt và thống nhất nào điều chỉnh về vấn đề BTTH do ô nhiễm dầu và phòng chống ô
nhiễm dầu trên biển . Phần lớn các quy phạm pháp luật liên quan đến vấn đề này nằm
rải rác ở nh iều văn bản luật khác nhau như BLDS năm
2005, Luật BVMT 2005,
Luật Thủy sản 2003, Luật Dầu khí 1993, BLHH 2005 ….và một số nghị định , quyết
đị nh khác của các bộ , ban nghành liên quan. Tuy nhiên bản thân nội dung các văn
bản trên cũng không có các chế tài quy định về việc BTTH do ô nhiễm dầu một cách
rõ ràng và cụ thể hoặc các chế tài nếu có mới chỉ dừng ở việc xử lý , ngăn chặn còn
việc khắc phục thiệt hại và BTTH thì hầu như không được giải quyết đến nơi đến chốn.
Hơn nữa Việt Nam cũng chưa tham gia nhiều công ước quốc tế quan trọng về BTTH và
phòng chống ô nhiễm dầu, các nghị định thư bổ sung, các văn bản pháp lý có liên quan
nhằm đảm bảo sự phù hợp với các nguyên tắc và tiêu chuẩn chung
về ô nhiễm môi
trường biển theo thông lệ quốc tế. Dẫn đến một thực tế là hầu hết các vụ việc liên quan
đến khiếu nại, khiếu kiện về trách nhiệm BTTH do ô nhiễm dầu tại Việt Nam đều
không được xử lý và giải quyết thỏa đáng.
Trong tương lai nếu tình trạng ô nhiễm dầu không được khắc phục và việc giải
quyết các tranh chấp liên quan đến BTTH do ô nhiễm dầu không được pháp luật điều
chỉnh, dự liệu một cách đầy đủ thì nó sẽ trở thành một trong những nguyên nhân và
là thảm họa làm suy giảm nghiêm trọng môi trường sống, cảnh quan sinh thái, nền
kinh tế của đất nước (đặc biệt là các hoạt động kinh tế biển) cũng như sức khỏe của
con người. Bởi dầu mỏ là hỗn hợp phức tạp của hydrocacbon và các hợp chất hữu cơ
khác phát sinh từ các chất hữu cơ sản sinh cả trên lục địa lẫn trong biển. Chất độc
trong dầu có tác dụng công phá chức năng của màng tế bào và làm tổn hại đến sự
sống, sự phát triển và sự sinh sản của rất nhiều loại sinh vật, chim biển, động thực
vật, thực vật phù du cũng như đời sống của con người.[20]
Từ các nhận định trên cho thấy, việc luật hóa và hoàn thiện hệ thống pháp luật
về việc phòng ngừa, xử lý, khắc phục và BTTH do ô nhiễm dầu tại Việt Nam đã trở
nên cấp bách. Do đó, với mong muốn được nghiên cứu khoa học và để tìm hiểu các
quy định pháp luật về ô nhiễm dầu, một vấn đề tuy không còn mới nhưng đáng báo
động ở nước ta nên học viên đã chọn đề tài: “Pháp luật Việt Nam về việc bồi thường
thiệt hại do Ô nhiễm dầu trong tương quan so sánh với pháp luật Australia” làm
luận văn thạc sỹ của mình. Trên cơ sở nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống các
quy định của pháp luật Việt Nam trong tương quan so sánh với pháp luật Australia
(Úc) về cùng một vấn đề là BTTH do ô nhiễm dầu, đề tài sẽ rút ra những bài học kinh
nghiệm cho việc xây dựng và hoàn thiện các quy định về BTTH do ô nhiễm dầu và
phòng ngừa xử lý , khắc phục ô nhiễm dầu ở Việt Nam trong thời gian tới . Đồng thời
sẽ đề xuất một số kiến nghị để sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật Việt Nam hiện
hành liên quan đến ô nhiễm dầu sao cho đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế nhưng
có tính đến hoàn cảnh đặc thù của nước ta.
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài .
Đề tài “Pháp luật Việt Nam về việc bồi thường thiệt hại do Ô nhiễm dầu trong
tương quan so sánh với pháp luật Australia” có các mục đích và nhiệm vụ chính sau
đây:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về BTTH do ô nhiễm dầu, trong đó có các nội
dung chính như các khái niệm cơ bản liên quan đến vấn đề này cũng như vai trò của
chế định BTTH do ô nhiễm dầu trong hệ thống pháp luật quốc gia của Việt Nam.
- Nghiên cứu và đánh giá thực trạng của hệ thống pháp luật Việt Nam hiện
hành về chế định BTTH do ô nhiễm dầu.
- Trên cơ sở tìm hiều về các quy định trong hệ thống pháp luật của Australia về
cùng một vấn đề này, đề tài sẽ đưa ra những bài học kinh nghiệm cho việc hoàn
thiện các quy định về BTTH do ô nhiễm dầu tại nước ta cũng như các chế định về
phòng ngừa xử lý và khắc phục ô nhiễm dầu ở Việt Nam trong thời gian tới.
3. Phương pháp nghiên cứu.
Học viên đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống là tra cứu và
sưu tầm các tài liệu, phân tích, nhận định và bình luận các tài liệu để đưa ra các
quan điểm khoa học và hoàn thành luận văn. Do vậy, trên cơ sở các số liệu, các bài
báo, các bài viết, bài nghiên cứu của các chuyên gia cũng như thông qua việc nghiên
cứu các quy định trong hệ thống pháp luật hiện hành của Việt Nam cũng như pháp
luật Australia, các công ước quốc tế. Luận văn đã có một cái nhìn tổng quát về các
khía cạnh pháp lý liên quan đến chế định BTTH do ô nhiễm dầu không chỉ ở Việt
Nam mà còn ở Australia.
4. Ý nghĩa và điểm mới của luận văn.
Trên cơ sở nghiên cứu và đánh giá hệ thống pháp luật trong nước về chế định
BTTH do ô nhiễm dầu Luận văn đã chỉ ra những ưu điểm và nhược điểm cũng như
những vấn đề bất cập để điều chỉnh cho phù hợp với thực tế. Ngoài ra Luận văn đã
phát hiện ra những điểm tiến bộ và phù hợp trong các quy định của pháp luật
Australia về vấn đề trên. Từ đó có thể học hỏi để sửa đổi, bổ sung những điểm còn
hạn chế trong các quy định của pháp luật Việt Nam, kế thừa và phát huy những tiến
bộ của nước bạn tiến tơí xây dựng một đạo luật chuyên biệt điều chỉnh về vấn đề
trên.
Luận văn được bố cục thành 03 chương với các nội dung chính như sau:
Chương I: TỔNG QUAN NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG
THIỆT DO Ô NHIỄM DẦU
1.1 Thực trạng về ô nhiễm dầu tại Việt Nam và các nước trên thế giới.
Theo dự báo, thế kỷ 21 là kỷ nguyên phát triển rực rỡ của loài người nhưng
đồng thời cũng là giai đoạn thử thách gay go về môi trường sống đối với hành tinh
xanh, nổi bật hàng đầu đó là tình trạng ô nhiễm môi trường do dầu trên trái đất. Theo
thống kê Chương trình môi trường của LHQ (UNEP) cho biết, ước tính mỗi năm có
khoảng 2,4 triệu tấn dầu đổ ra biển[23]. Đây là một trong những nguồn gây ô nhiễm
lớn nhất và để lại nhiều hậu nghiêm trọng nhất cho môi trường. Vì vậy, cho đến nay
đã có nhiều điều ước quốc tế được ký kết và thực thi để bảo vệ và gìn giữ môi trường
biển nói riêng và môi trường nói chung khỏi các sự cố làm ô nhiễm môi trường từ
dầu.
Trên thế giới đã từng chứng kiến những vụ tràn dầu lớn, để lại hậu quả nặng
nề cho môi trường, có thể điểm qua những vụ tràn dầu lớn trên thế giới từ năm 1967
đến năm 2010 như sau: [12, 36]
Ngày 18/3/1967, tại vùng eo biển La Manche (Đại Tây Dương), tàu chở dầu
Torrey Canyon đã mắc cạn ở bờ biển của nước Anh, hệ quả là làm tràn 38 triệu
gallon dầu; Ngày 15/12/1976, tại Vịnh Buzzards, bang Massachusetts, Mỹ, tàu Argo
Merchant va vào đất liền và vỡ tại đảo Nantucket, làm tràn 7,7 triệu gallon dầu;
Ngày 16/3/1976, tại biển Portsall, Pháp, siêu tàu chở dầu Amoco Cadiz làm tràn 68
triệu gallon ; Tháng 4/1977 xảy ra vụ nổ giếng dầu tại dàn khoan dầu Ekofisk khiến
81 triệu gallon dầu thô tràn ra Biển Bắc ; Tháng 7/1995 tàu Iron Baron làm tràn 550
tấn dầu bunker ở vùng biển Bắc Tasma
nia Australia; Ngày 15/2/1996, tại biển xứ
Wales, siêu tàu chở dầu Sea Empress va vào đất liền tại vịnh Milford Haven, làm
tràn 70 triệu lít dầu thô; Ngày 28/7/2003, tàu chở dầu Tasman Spirit mắc cạn và nứt
làm đôi, làm một trong số 4 bồn chứa dầu bị vỡ, tràn 28.000 tấn dầu thô, tại cảng
Karachi, Pakista; Ngày 7/12/2007, Tàu Hebei Spirit đụng phải một dây thép nối giữa
một tàu kéo và một xà lan làm tràn 2,8 triệu gallon dầu thô tại 5 dặm ngoài khơi bờ
biển phía tây Hàn Quốc.
Hình 1.1: Hình ảnh tràn dầu ở Trung Quốc năm 2010
(theo http:// Vnexpress.net)
Gần đây nhất là ngày 20-24/4/2010, dàn khoan dầu Deepwater Horizon (BP) bị nổ
và chìm khiến 60.000 thùng dầu thô bị tràn mỗi ngày tại vịnh Mexico - Hoa Kỳ và
đây là thảm họa môi trường khủng khiếp nhất mà Mỹ từng phải đối phó. Ít nhất 43
triệu gallon dầu đã tràn ra đại dương kể từ khi giếng dầu Deepwater Horizon bốc
cháy và chìm xuống biển trong tháng 4, lớn hơn rất nhiều con số 11 triệu gallons dầu
do tàu Exxon Valdez gây ra vào năm 1989. Tổng thống Obama đã phả chỉ đạo thực
hiện một chiến dịch có quy mô chưa từng thấy trong lịch sử nước Mỹ để đối phó với
một thảm họa sinh thái, huy động tới hơn 19.000 chiếc tàu, với 20.000 người tham gia
dọn dầu loang. Nhưng các nhà khoa học độc lập và các viên chức Mỹ nói có một thảm
họa chúng ta không thể thấy ở vịnh Gulf of Mexico do vụ dầu tràn gây ra vì nó quá sâu.
Hai “đám mây khổng lồ”, sâu vài trăm mét và kéo dài nhiều dặm đã thành hình dưới
đáy biển. Đó là dầu và chắc chắn nhiều loài sinh vật sẽ bị ảnh hưởng.
Hình 1.2 : Hình ảnh về Sự cố tràn dầu trên vịnh Mexico- Hoa Kỳ
năm 2010 (nguồn http://vietnamnet.vn)
Tại Australia, một trong những quốc gia có đường bờ biển dài hạng nhất trên
thế giới. Mặc dù chưa phải gánh chị u những sự cố đặc biệ t nghiêm trọng về ô nhiễm
dầu trên biển song một số vụ tràn dầu như vụ tàu Kirki mất lái để thất thoát
tấn dầu thô nhẹ trên vùng biển phí a tây
18.000
, tàu Era xả 300 tấn dầu bunkerr tại Vị nh
Spence ngoài khơi vùng biển phí a Nam vào tháng 8/1992 và tàu Iron Baron mất 550
tấn dầu bunker ở vùng biển Bắc Tasmania tháng
7/1995 Hoặc sự kiện tàu LauraD
Amato gặp nạn tại Sydney dẫn đến hậu qủa là làm tràn
250 tấn dầu là những sự
kiện đáng nhớ .
Tại Việt Nam, trong 50 năm trở lại đây , ô nhiễm biển do dầu và vấn đề phòng ,
chống ô nhiễm do dầu gây ra ở các vùng biển đã và đang là vấn đề lý luận , thực tiễn
khá khẩn thiết . Thể hiện là số lượng các sự cố tràn dầu xảy ra ở vùng sông, biển
nước ta ngày càng tăng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe người dân, môi
trường, sinh thái, nền kinh tế và sự phát triển bền vững của đất nước.
Hình 1.3 : Hình ảnh tràn dầu ở tỉnh Quảng Nam năm 2007
(nguồn http://www.tin247.com)
Nguyên nhân gây ra tình trạng ô nhiễm dầu rất đa dạng tuy nhiên một trong
các nguyên nhân chủ yếu là do các hoạt động khai thác dầu khí và vận tải trên biển,
trên sông mà đặc biệt là các vụ tai nạn hàng hải (tức các sự cố tràn dầu)[16]. Bởi lẽ
tại vùng biển của Việt Nam nói riêng và biển Đông nói chung là một trong các vùng
biển có nhiều hoạt động khai thác dầu khí và vận tải biển trên thế giới. Chỉ tính riêng
cho vùng biển và thềm lục địa Việt Nam đã xác định nhiều bể trầm tích có triển vọng
dầu khí với trữ lượng dự báo khoảng 10 tỷ tấn dầu quy đổi, trong đó trữ lượng khai
thác khoảng 2 tỷ tấn. Do đó khai thác dầu khí ở Việt Nam đứng hàng thứ tư Đông
Nam Á, sau Malaysia, Indonesia và Philippin, đứng thứ 44 trong danh sách các nước
sản xuất dầu lửa trên thế giới. Hiện dầu thô được khai thác tại các dàn khoan Bạch Hổ,
Đại Hùng, Rồng, Rạng Đông.... Bên cạnh đó, khí đốt cũng được khai thác ở một số dàn
khoan như Bạch Hổ, Thăng Long ... Tổng công ty dầu khí đang xây dựng dự án khai
thác khí đốt tại vùng Nam Côn Sơn (khu vực Lan Anh, Lan Đổ).... Song song với các
hoạt động khai thác và vận chuyển dầu khí tăng lên thì các sự cố gây ô nhiễm cũng
ngày một nhiều lên [23].
Theo thống kê chưa đầy đủ vùng biển nước ta có khoảng 340 giếng khoan
thăm dò và khai thác dầu khí. Từ năm 1986 đến năm 2000 sản lượng dầu thô khai
thác hàng năm của Việt Nam đã tăng từ 40.000 tấn lên 16.500.000 tấn. Quan trắc
chất lượng nước ở các khu công nghiệp dầu khí miền Nam Việt Nam được thực hiện
tại sáu trạm chính. Người ta đánh giá rằng lượng dầu thất thoát từ các giàn khoan
vào biển là 270 tấn năm 1995 và 550 tấn năm 2000. Từ năm 1990 đến 1995 đã có 12
vụ tràn dầu được ghi nhận. Từ năm 1995 đến 2000 đã có 91.497 tấn từ 31 vụ tràn
xảy ra ở biển Việt Nam [23]. Ngoài việc thải nước lẫn dầu với khối lượng lớn, trung
bình mỗi năm hoạt động khai thác dầu khí này còn phát sinh khoảng 5.600 tấn rác
thải dầu khí, trong đó có 20 - 30% là chất thải rắn nguy hại còn chưa có bãi chứa và
nơi xử lý [27]. Ngoài ra, còn có nguyên nhân từ các giàn khoan sau khi dỡ bỏ không
khai thác, các miệng dầu không được bịt kín, gây thất thoát dầu ra bên ngoài làm ô
nhiễm môi trường
Bên cạnh các hoạt động khai thác dầu khí thì hoạt động giao thông vận tải trên
sông trên biển, mà đặc biệt là các vụ tai nạn do đâm va của tàu dầu và tai nạn hàng
hải là một trong những nguồn chính gây ra các sự cố tràn dầu làm ô nhiễm dầu tại
Việt Nam (chiếm khoảng 43% tổng lượng dầu được đưa vào Việt Nam) [27]. Thực
tế ở nước ta trong những năm qua cho thấy với gần 90.000 lượt tàu biển ra vào cảng
biển với tổng dung tích hơn 320 triệu GT, trong đó có 44.224 lượt tàu nước ngoài,
nguy cơ xảy ra tai nạn hàng hải mà đặc biệt là những vụ tai nạn tràn dầu luôn thường
trực và hậu quả mà nó để lại đối với môi trường sinh thái nói chung và nền kinh tế
biển nói riêng là vô cùng to lớn. Từ năm 1987 đến nay đã xảy ra khoảng trên 90 vụ
tràn dầu ở Việt Nam, trong đó có một số vụ điển hình gây ra những quả đặc biệt
nghiêm trọng[12, 32].Cụ thể:
1. Tàu Neptune Aries đâm vào cầu cảng Cát Lái - TP.HCM năm 1994 (tràn
1.864 tấn dầu DO), được đền bù 4,2 triệu USD/19 triệu USD theo đánh giá.
2. Sự cố tràn dầu tàu Nhật Thuần, ngày 16-4-1998, 97 tấn dầu DO tràn ra
sông Nhà Bè.
3. Tàu Formosa One đâm vào tầu Petrolimex 01 tại vịnh Gành Rái - Vũng Tàu
ngày 07/09/2001(tràn 900 m3dầu tương đương 1000 tấn dầu DO), được đền bù
4.744.000 USD/14,2 triệu USD theo đánh giá.
4. Sự cố tàu Mỹ Đình, ngày 20-12-2004, 150 tấn dầu DO và 50 tấn dầu FO
tràn ra vùng biển Cát Bà.
5.Tàu Kasco Monrovia va vào cầu cảng tại Cát Lái – TP HCM ngày
21/01/2005 làm tràn 518 tấn dầu DO....
Đặc biệt trong 2 năm 2006 – 2007 tại ven biển các tỉnh miền Trung và miền
Nam đã xảy ra một số sự cố tràn dầu không rõ nguồn gốc, nhất là từ tháng 1/2006
đến tháng 6/2007, xuất hiện nhiều vệt dầu trôi dạt dọc bờ biển của 20 tỉnh từ đảo
Bạch Long Vỹ tới mũi Cà Mau. Đợt tràn dầu không rõ nguồn gốc diễn ra trên diện
rộng dọc dải ven bờ của 20 tỉnh vào năm 2007 này được xem là lớn nhất từ trước
đến nay, với 14 vệt dầu với tổng khối lượng dầu rất lớn, ước tính khoảng 21.620 51.400 tấn dầu đã tràn ra biển. Ngoài ra có 2 vụ tràn dầu lớn tại kho xăng dầu hàng
không Liên Chiểu của Vinapco miền Trung và kho H182 của quân đội trên đèo Hải
Vân. Trong 2 vụ này đã có gần 1.000m3 xăng, dầu tràn ra khỏi bồn chứa, ngấm
xuống đất và chảy ra biển, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, nhất là khu vực từ
biển Xuân Thiều đến đèo Hải Vân (nơi xảy ra sự cố tràn dầu). Chỉ tính riêng vụ tràn
dầu ở kho xăng dầu hàng không Liên Chiểu đã gây tốn kém chi phí ứng cứu gần 800
triệu đồng và thiệt hại về ngư nghiệp 122 triệu đồng, chưa kể việc bồi thường phục
hồi môi trường bị suy thoái. Gần đây nhất là vụ 14,5 tấn dầu FO đã tràn ra ngoài bồn
chứa dầu của Nhà máy đường Quảng Phú (thuộc Công ty Cổ phần Đường Quảng
Ngãi) và loang rộng trên sông Trà Khúc. Hậu quả là do số dầu loang trên sông quá
lớn nên khu vực sông từ phường Trần Phú (Thành Phố Quảng Ngãi) trở về hạ lưu bị
ô nhiễm nặng và ảnh hưởng lâu dài đến môi trường sinh thái.
Hình 1.4: Ô nhiễm dầu không rõ nguồn gốc ở ven biển Bà Rịa-Vũng Tàu
năm 2007 (nguồn http://vietbao.vn)
Theo ước tính lượng dầu tràn gây ô nhiễm biển ở nước ta đến năm 1992 là 7.380 tấn,
năm 1995 là 10.020 tấn, và theo mức độ gia tăng của vận tải biển, khai thác dầu khí
và công nghiệp hóa, năm 2000 lên đến 17.650 tấn. Dự báo đến năm 2010, lượng dầu
tràn gây ô nhiễm tại Việt Nam là 21 ngàn tấn [32].
Những vụ tràn dầu trên đã làm cho hàm lượng dầu trong nước biển của Việt
Nam nhìn chung đều vượt giới hạn tiêu chuẩn Việt Nam và vượt rất xa tiêu chuẩn
Hiệp hội các Nước Đông Nam Á (ASEAN). Đặc biệt, có những thời điểm vùng nước
khu vực cảng Cái Lân có hàm lượng dầu đạt mức 1,75 mg/l, gấp 6 lần giới hạn cho
phép; vịnh Hạ Long có 1/3 diện tích biển hàm lượng dầu thường xuyên từ 1 đến 1,73
mg/l [27].
Hậu quả là ô nhiễm môi trường do dầu sẽ làm huỷ hoại các hệ sinh thái động
thực vật trên biển, ven biển, trên sông, các hệ sinh thái nhạy cảm như san hô, rừng
ngập mặn, đặc biệt nó còn tác động trực tiếp và gây nên những thiệt hại kinh tế vô
cùng to lớn cho các tổ chức, cá nhân sinh sống và có các hoạt động phát triển ven
sông, ven biển như các hoạt động nuôi trồng, khai thác thủy sản, du lịch biển, làm
muối, nông nghiệp, ... Thậm chí nó còn gây ảnh hưởng đến đời sống, sức khỏe, tính
mạng của nhân dân. Bởi lẽ theo các chuyên gia đánh giá, nồng độ dầu trong nước đạt
0,1mg/l có thể gây chết các loài sinh vật phù du; cá; chim biển ảnh hưởng lớn đến