1. PHẦN MỞ ĐẦU
1. 1.1.
Lý
do
chọn
đề
tài:
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay
không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các
cường quốc năm châu được hay không, là nhờ một phần lớn vào công học
tập
của
các
cháu”.
Đúng vậy, trẻ em là mầm xanh là tương lai của đất nước. Đất nước có lớn
mạnh hay không là nhờ vào thế hệ trẻ em hôm nay. Vì vậy để làm được điều
đó, chúng tôi những giáo viên mầm non luôn cố gắng, phấn đấu trong việc
dạy và học. Chúng tôi luôn quan tâm đến sự phát triển toàn diện của các
cháu và đặc biệt là sự phát triển của những đứa con dân tộc Vân Kiều.
Giáo dục mầm non là mắt xích đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân,
chịu trách nhiệm chăm sóc - giáo dục trẻ từ 0 - 6 tuổi. Đây là giai đoạn đặt
nền móng đầu tiên quan trọng của nhân cách con người. Nếu không làm tốt
việc chăm sóc - giáo dục trẻ trong những năm đầu ở trường mầm non, thì
việc giáo dục lại hết sức khó khăn, phức tạp. Vì vậy, Nghị quyết TW2, khoá
VIII của Đảng cộng sản Việt Nam về "Định hướng chiến lược giáo dục - đào
tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đề ra mục tiêu giáo dục
Mầm non phải trang bị cho trẻ những gì tốt nhất kể cả về mặt vật chất và
tinh
thần
một
cách
toàn
diện.
Như chúng ta đã biết, trong điều kiện kinh tế phát triển, đang trên con đường
hội nhập, đất nước chúng ta phải giao lưu với nhiều nền văn hoá khác nhau.
Làm thế nào để cho thế hệ trẻ của chúng ta "Hoà nhập mà không hoà tan" và
trong mỗi chúng ta vẫn giữ được những gì gọi là "Vốn văn hoá của dân tộc
Việt” trong thời đại mới thì việc giáo dục cho trẻ phát triển về trí tuệ thôi là
chưa đủ mà phải giáo dục trẻ biết giữ được truyền thống văn hoá vốn có của
cha ông ta từ ngàn xưa. Đó chính là nhiệm vụ cần và quan trọng nhất trong
các
mục
tiêu
phát
triển
con
người
toàn
diện
hiện
nay.
Từ ngàn xưa, kinh nghiệm của cha ông ta đã đúc kết nhiệm vụ học đầu tiên
của mỗi con người phải là "Tiên học lễ, hậu học văn" lễ phép là nét đẹp văn
hoá được đặt lên hàng đầu khi nhìn nhận và đánh giá về một ai đó mà chúng
ta thường bàn luận. Trong thời đại hiện nay, tiếp thu nhiều nền văn hoá khác
nhau nên đâu đó vẫn còn nhiều câu chuyện thương tâm về đạo đức lễ giáo
của con người, việc mà tôi và các bạn đã nghe và thấy trên thông tin đại
chúng,
trong
cuộc
sống
hằng
ngày.
Trăn trở với mục tiêu chung của giáo dục, là người giáo viên Mầm non tôi
nguyện góp sức một phần nhỏ bé của mình vào việc giáo dục lễ giáo cho trẻ
ở
lứa
tuổi mẫu giáo, nhằm góp phần hình thành nhân cách ban đầu cho trẻ. Bên
cạnh đó vì mục tiêu của giảm tỷ lệ sinh con nên số con trong mỗi gia đình
giảm ít đi, thì trẻ ngày càng được nuông chiều thái quá. Một số phụ huynh
chưa hiểu tầm quan trọng của giáo dục lễ giáo cho con em ở lứa tuổi mầm
non,
nên
thường
khoán
trắng
cho
giáo
viên.
Thời gian đầu trẻ đến lớp với thói quen tự do, còn sử dụng tiếng mẹ đẻ
nhiều, ít nói tiếng Việt, hay nói leo, trả lời có những câu cọc lóc, ra vào lớp
tự
nhiên...
Đứng trước tình hình như vậy, tôi rất lo lắng và băn khoăn phải dạy trẻ như
thế nào và bằng những biện pháp gì để tất cả trẻ lớp tôi phụ trách có những
thói quen và hành vi đạo đức
phù hợp với chuẩn mực xã hội.
Đầu tiên cô giáo cần giáo dục trẻ những hành vi văn hoá trong cuộc sống
hằng ngày có thái độ đúng với cô giáo và người lớn, bạn bè, có tình yêu đối
với mọi sự vật, hiện tượng xung quanh. Giáo dục lễ giáo nhằm hình thành
cho trẻ cơ sở ban đầu về nhân cách của con người mới xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Vì thế mỗi cô giáo chúng ta có trách nhiệm góp phần đào tạo thế hệ trẻ
những con người phát triển toàn diện về nhân cách - trí tuệ.
1.2.
Điểm
mới
của
đề
tài:
Điểm mới của đề tài là giáo dục lễ giáo cho trẻ 3-4 tuổi vùng đồng bào dân
tộc Vân Kiều qua các hoạt động hằng ngày của trẻ. Tuỳ theo tình hình đặc
điểm của lớp, của nhà trường, của trẻ để giáo viên lồng ghép giáo dục lễ
giáo cho trẻ một cách phù hợp, nhằm thực hiện hiệu quả chương trình giáo
dục
mầm
non
nói
*Phạm
chung
và
giáo
vi
dục
lễ
giáo
nói
áp
riêng.
dụng:
Đề tài “Một số biện pháp giáo dục lễ giáo cho trẻ 3-4 tuổi” Trong khuôn
khổ kinh nghiệm này bản thân tôi chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu của mình
về giáo dục lễ giáo cho trẻ 3-4 tuổi mà tôi đang đảm nhận. Nhưng đề tài
thành công phạm vi áp dụng của nó sẽ được mở rộng ra ở trường chúng tôi,
các trường bạn. Và ở cấp độ lớn hơn, ở các địa phương khác cũng có thể áp
dụng…
2.
2.1.
Néi
Thực
trạng
nội
dung
dung
cần
nghiên
cứu:
Năm học 2016 – 2017 bản thân tôi được nhà trường phân công đứng lớp
mẫu giáo bé 3 tuổi, tổng số 20 cháu hầu hết các cháu chưa làm quen với môi
trường ở lớp, một số cháu chưa học qua lớp nhà trẻ nên có phần ảnh hưởng
đến việc học và giao tiếp của trẻ. Phần lớn bố mẹ của các cháu là dân tộc
BruVân Kiều, công việc chủ yếu là làm nương rẫy nên việc quan tâm đến
con
*
em
Đặc
còn
điểm
tình
hạn
hình
chế.
của
lớp
- Thực hiện kế hoạch huy động số lượng của nhà trường giao, lớp tôi là 20
cháu, tôi đã huy động đạt 100% số trẻ ngay từ đầu năm học. Trong đó trẻ
dân tộc Vân Kiều là 18 cháu, trẻ người kinh là 2 cháu. Vì vậy, nhận thức của
trẻ còn hạn chế, trẻ còn sử dụng nhiều ngôn ngữ Vân Kiều, hạn chế sử dụng
ngôn
ngữ
tiếng
Việt.
- Hơn nữa, trường mầm non chúng tôi là một trường thuộc xã biên giới,
vùng đặc biệt khó khăn của huyện Lệ Thuỷ, điều kiện cơ cở vật chất thiếu
thốn, trường lớp chật hẹp, phần lớn là sự trông chờ đầu tư hỗ trợ của cấp
trên.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài bản thân gặp một số thuận lợi và khó khăn
sau:
*
Thuận
lợi
- Được sự quan tâm giúp đỡ của Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Lệ Thuỷ,
của Ban giám hiệu nhà trường đã tạo điều kiện đầy đủ về cơ sở vật chất cũng
như
tài
liệu,
trang
thiết
bị
phục
vụ
giảng
dạy.
- Giáo viên nhiệt tình, yêu nghề mến trẻ, năng động sáng tạo, có trình độ trên
chuẩn, có ý thức học hỏi đồng nghiệp qua các phương tiện thông tin đại
chúng.
-
Tất
cả
số
trẻ
đều
cùng
chung
một
độ
tuổi.
- Một số phụ huynh của lớp rất nhiệt tình, luôn quan tâm giúp đỡ và phối kết
hợp
với
cô
giáo
trong
*
việc
chăm
sóc
và
giáo
Khó
dục
trẻ.
khăn
- Phần lớn trẻ là con em người dân tộc BruVân Kiều, khả năng giao tiếp
bằng tiếng Việt còn hạn chế, nên bản thân gặp không ít khó khăn trong việc
giao
tiếp
với
trẻ
hàng
ngày.
- Phòng học chật hẹp, điều kiện cơ sở vật chất còn thiếu thốn.
- Nhận thức của trẻ chưa đồng đều nên việc truyền thụ kiến thức đến trẻ còn
gặp
rất
nhiều
khó
khăn.
- Trẻ chưa mạnh dạn và tự tin tham gia các hoạt động của lớp.
- Một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm tới trẻ và còn xem nhẹ việc học
của
trẻ
- Một số cháu chưa được học qua lớp Nhà trẻ nên chưa có thói quen nề nếp
trong các giờ hoạt động, có cháu tự do đi lại, trả lời câu hỏi còn trống
không…
Vào đầu tháng 9, tôi tiến hành khảo sát để đánh giá về chất lượng giáo dục
lễ giáo của trẻ MG Bé. Tôi đánh giá mức độ: Đạt, không đạt, để từ đó có kế
hoạch bồi dưỡng cụ thể :
2.
3. Đạt
Các
chỉ số
6. Sè lîng
4. Không đạt
7. %
8. Sè lîng
9. %
10.- Trẻ
biết
chào
11.12
12.60
13.8
14.40
16.11
17.55
18.9
19.45
21.10
22.50
23.10
24.50
hỏi lễ
phép
15.- Biết
cảm
ơn, xin
lỗi
20.- Biết
giữ
gìn,
cất,
sắp
xếp đồ
chơi
theo
quy
định
25.- Biết
giữ gìn
vệ
sinh
thân
26.11
27.55
28.9
29.45
31.12
32.60
33.8
34.40
36.10
37.50
38.10
39.50
thể, vệ
sinh
môi
trường
30.- Biết
nhườn
g nhịn
giúp
đỡ bạn
35.- Trẻ
mạnh
dạn
trong
giao
tiếp
40.2.2.
Một
số
biện
pháp:
Qua quá trình giảng dạy và khảo sát trẻ đầu năm học, bản thân tôi tìm tòi
nghiên cứu và đã tìm ra một số giải pháp để áp dụng vào “ Một số biện pháp
giáo
*
Biện
dục
pháp
lễ
1:
giáo
Giáo
cho
dục
trẻ
lễ
giáo
3
thông
-
4
qua
tuổi”.
tiết
học.
Trẻ mầm non “học mà chơi, chơi mà học”, chúng hiểu và tiếp thu mọi điều
về thế giới xung quanh thông qua việc tìm hiểu, khám phá các sự vật, hiện
tượng…Chúng học cách làm người qua việc thể hiện tình cảm, thái độ đối
với các đồ vật, đồ dùng, đồ chơi…Vì vậy, để làm tốt việc giáo dục lễ giáo
cho trẻ, tôi lồng ghép nội dung giáo dục lễ giáo vào các môn học có nhiều
ưu thế nhằm hình thành cho trẻ những thói quen, hành vi có văn hoá.
Ví
dụ:
+
Đối
với
giờ
học
phát
triển
thể
chất:
Cô giáo dục trẻ siêng năng thể dục, tập luyện đều đặn giúp cơ thể khoẻ
mạnh, trong lúc tập các con không chen lấn, không xô đẩy nhau.
* Đối với giờ học tạo hình: "Tô màu người thân trong gia đình".
Cô
có
Gia
thể
đình
cháu
đàm
gồm
thoại.
có
những
ai?
Mọi người sống trong gia đình phải như thế nào với nhau?
Giáo dục trẻ biết yêu thương, kính trọng đối với ông bà, cha mẹ, anh chị,
biết
nhường
nhịn
em
bé.
Qua giờ khám phá khoa học "Cây xanh và môi trường sống".
Cô
giáo
Cây
có
thể
xanh
Cây
xanh
Muốn
có
để
có
nhiều
đàm
ích
cây
xanh
thoại:
làm
lợi
như
chúng
ta
gì?
thế
phải
nào?
làm
gì?
Qua lợi ích của cây xanh, cô giáo dục cháu không ngắt lá bẻ cành, mà phải
biết bảo vệ chăm sóc cây xanh để cây cho ta nhiều lợi ích.
+
Giờ
học
văn
học
:
Bài
thơ
"Cô
giáo
của
Đàm
con".
thoại:
Đối
với
cô
Khi
tặng
hoa
giáo
cho
các
cô,
con
các
con
phải
tặng
như
thế
nào?
bằng
mấy
tay?
Thông qua đó giáo dục trẻ khi nhận hoặc trao vật gì với người lớn nên trao
hoặc nhận phải bằng hai tay, khi nhận các con nói lời cảm ơn.
Sau một thời gian thực hiện những thói quen về lễ giáo chất lượng lớp tôi
tăng lên rõ rệt, trẻ biết chào hỏi, thưa trình, biết nói lời cảm ơn, xin lỗi, yêu
mến cô giáo, đoàn kết với bạn bè, tôi thấy vui mừng và tiếp tục áp dụng.
* Biện pháp 2: Giáo dục lễ giáo vào hoạt động vui chơi:
Đối với trẻ lứa tuổi này trẻ học mà chơi, chơi mà học, trong giờ vui chơi trẻ
được thực hành trải nghiệm nhiều vai chơi khác nhau trong cuộc sống của
người lớn, tôi tiến hành lồng ghép giáo dục lễ giáo vào hoạt động vui chơi,
qua đó trẻ được đối thoại những câu chào hỏi lễ phép, câu cảm ơn, xin lỗi,
trao nhận bằng hai tay, tôi theo dõi quan sát lắng nghe để kịp thời uốn nắn
cho trẻ khi có biểu hiện chưa chuẩn mực. Qua đó giúp trẻ hình thành thói
quen
hành
vi
văn
minh
trong
giao
tiếp.
Ví dụ: Qua trò chơi phân vai: Trẻ đóng vai “y tá - bác sĩ”
Bác sĩ biết thăm hỏi bệnh nhân ân cần, xưng hô, cô, chú, bác, cháu đau chỗ
nào?
Đau
ra sao?
Cháu
ngồi
yên
để Bác
khám
bệnh
nhé.
Cứ thế y tá phát thuốc dặn bệnh nhân uống thuốc ngày mấy lần, bệnh nhân
nhận thuốc, nhận đơn thuốc bằng hai tay và nói lời “cảm ơn” đối với cô y tá,
bác
sĩ.
+
Trẻ
Người
bán
Người
mua
chơi
hàng
hàng
trả
góc
hỏi:
lời:
“bán
Cô,
Bao
chú
nhiêu
hàng”
mua
một
cân
cá
gì
ạ?
vậy
cô?
Qua hoạt động vui chơi cháu mạnh dạn dần, thành thạo dần trong giao tiếp,
trong ứng xử, chào hỏi đối với mọi người xung quanh mình.
Từ đây, trẻ lớp tôi đã hết trả lời các câu cụt, câu trống... Trẻ biết nói và trả
lời
Từ
đầy
kết
đủ
quả
câu,
có
được
biết
như
xưng
hô
vậy
tôi
chuẩn
tiếp
tục
mực
hơn.
áp
dụng.
*
Biện
pháp
3:
Giáo
dục
lễ
giáo
ở
mọi
lúc
mọi
nơi.
Trong những giờ đón trẻ hoặc trả trẻ tôi rất ân cần và chuẩn mực trong xưng
hô với bố mẹ trẻ, tôi tập cho trẻ có thói quen đến lớp biết chào cô, sau đó
chào tạm biệt bố mẹ để vào lớp học. Đến giờ trả trẻ tôi trao đổi niềm nở với
phụ huynh và dặn dò trẻ chào bố mẹ, chào cô khi ra về.
Trong giờ hoạt động ngoài trời, chơi tự do, hay hoạt động lao động, nếu
cháu làm việc gì sai đối với bạn bè, với cô thì phải biết xin lỗi cô, xin lỗi
bạn, ai cho gì thì nhận quà bằng hai tay và nói lời cảm ơn.
Giáo dục cháu trong giờ chơi cháu đoàn kết với bạn bè, không tranh giành
đồ
chơi.
Giờ dạo chơi ngoài trời, tôi cho trẻ dạo chơi đồng thời lồng ghép giáo dục
trẻ không ngắt lá bẻ cành trên sân trường, không vẽ bậy lên tường, không
đập
phá
đồ
chơi
trên
sân
trường…
Thông qua các hoạt động quan sát tôi lồng ghép giáo dục cháu biết kính
trọng, yêu những người lao động, khi ăn trái cây cũng phải biết từ tốn, chậm
rãi không vứt vỏ và hạt bừa bãi. Giáo dục cháu giữ gìn vệ sinh môi trường,
vệ sinh lớp, biết đoàn kết, giúp đỡ bạn bè, mọi người xung quanh, qua nhiều
lần như vậy, cháu lớp tôi có những thói quen và hành vi văn hoá rất tốt.
* Biện
pháp 4: Giáo dục lễ giáo qua
góc tuyên truyền.
Trong trường mầm non góc lễ giáo của lớp không thể thiếu, đây là biện pháp
rất hữu hiệu đối với chuyên đề lễ giáo bởi lẽ trẻ có đặc điểm dễ nhớ nhưng
lại mau quên. Song, trẻ được trực quan bằng hình ảnh những gương tốt hoặc
qua thơ, chuyện thì trẻ dễ tiếp thu, dễ phân biệt việc làm nào tốt, việc làm
nào
xấu.
Để có một kết quả tốt về giáo dục lễ giáo cho trẻ, đầu năm học tôi đã lên kế
hoạch giáo dục lễ giáo cho trẻ. Từng tháng tôi lên kế hoạch có yêu cầu nội
dung cao hơn, góc lễ giáo thường để ngoài cửa sổ để phụ huynh dễ nhìn, biết
được kế hoạch chăm sóc của nhà trường để có hướng nhắc nhở con cái thực
hiện.
Ví
dụ:
+ Ở góc này tôi sưu tầm những tranh ảnh có nội dung giáo dục lễ giáo dán
vào cho trẻ xem, kèm theo một bài thơ hay nội dung phù hợp với hình ảnh,
thời gian rảnh tôi cho trẻ đến xem và trò chuyện, đàm thoại với trẻ những
hành
vi
văn
minh.
+ Hàng tháng tôi lên kế hoạch chủ đề lễ giáo và thay tranh ảnh bài thơ có nội
dung
phù
hợp
với
chủ
đề.
Ngoài ra, tôi còn sưu tầm tranh truyện, sách báo nhi đồng có hình ảnh và nội
dung về lễ giáo làm một album có nội dung và hình ảnh phù hợp với trẻ, đến
giờ hoạt động góc trẻ về góc học tập có thể mở ra xem.
Đối với góc tuyên truyền tôi cũng dành một góc để tuyên truyền giáo dục lễ
giáo cho phụ huynh nắm, phụ huynh sẽ chú trọng đến việc giáo dục lễ giáo
cho
trẻ
lúc
ở
nhà.
Từ đó việc áp dụng với biện pháp này trẻ lớp tôi phụ trách trở nên ngoan
hơn
và
thực
hiện
một
cách
tự
tin
mạnh
dạn
hơn.
* Biện pháp 5: Trang trí xây dựng môi trường gần gũi trong lớp học.
Cùng với toàn ngành tiếp tục thực hiện chủ đề năm học “xây dựng trường
học thân thiện học sinh tích cực”. Thì việc tạo cảnh quan sư phạm trong
phòng học, môi trường xung quanh cũng là một vấn đề mà tôi chú trọng
trong năm học này. Tôi luôn chú ý tạo cảnh quan sự phạm trong phòng học,
đồ dùng đồ chơi được sắp xếp, gọn gàng, ngăn nắp, từng góc riêng biệt mỗi
kệ góc tôi đều làm mới, để hấp dẫn lôi cuốn trẻ, tạo cảm giác thích thú luôn
mong
Ví
muốn
được
sắp
xếp
ngăn
nắp.
dụ:
+ Góc thiên nhiên được trang trí và trồng nhiều cây cảnh để tạo cho trẻ một
không gian xanh, để mỗi ngày trẻ có thể tự mình chăm sóc cây xanh, giáo
dục trẻ biết yêu cái đẹp. Qua hoạt động này kích thích trẻ yêu lao động, tạo
tình cảm của trẻ với thế giới tự nhiên, gần gũi và thân mật, đã trở thành thói
quen
ở
trẻ.
+ Để tạo cảnh quan sân trường, trước giờ học tôi thường cho trẻ nhặt rác, lá
cây
để
tạo
môi
trường
sạch
đẹp.
+ Còn đối với kệ góc đồ chơi đầu tuần tôi thường tổ chức cho trẻ thi đua lau
dọn,
sắp
xếp
đồ
chơi
gọn
gàng.
Nhờ vậy, qua mỗi lần tổ chức hoạt động vui chơi trẻ chơi xong thu dọn đồ
chơi
gọn
gàng
và
ngăn
nắp.
+ Khuyến khích động viên trẻ cùng cô tạo ra những sản phẩm mới và cùng
trang
trí
cho
lớp
học…
Trong lớp tôi có sọt rác, để vào góc lớp, tôi thường lồng ghép vào tất cả các
hoạt động và mọi lúc mọi nơi để nhắc nhở trẻ sau khi ăn quà vặt, uống sữa
thì phải biết vứt rác vào giỏ để giữ vệ sinh chung và trẻ thực hiện tốt, nhất là
sau hoạt động tạo hình cắt, xé, dán trong lớp trẻ biết nhặt không còn mảnh
giấy
vụn
nào
rơi
xuống
sàn
và
bỏ
vào
sọt
rác.
Ở lớp trong các giờ vệ sinh, tôi cũng lồng ghép giáo dục cho các cháu đi tiêu
tiểu tiện đúng nơi quy định, biết rửa tay trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh….
Qua
*Biện
đó
trẻ
pháp
có
6:
thói
Phối
quen
hợp
vệ
với
sinh
các
văn
bậc
minh
phụ
hơn.
huynh.
Đa số phụ huynh lớp tôi nhận thức còn hạn chế nên họ còn xem nhẹ đến việc
học và chơi của con em mình, qua các cuộc họp phụ huynh hoặc những buổi
truyền thông tôi luôn phổ biến và tuyên truyền cách nuôi dạy con theo khoa
học và cách giáo dục lễ giáo đối với trẻ lúc ở nhà. Phụ huynh giành thời gian
chăm sóc con cái như vệ sinh thân thể, chải răng đúng cách, phụ huynh phải
luôn mẫu mực trong giao tiếp ở nhà để trẻ noi theo. Đồng thời chú ý sửa sai
trẻ kịp thời những thiếu sót trong giao tiếp đối với bạn bè, đối với người lớn.
Ví
dụ:
+ Tuyên truyền cho phụ huynh biết trẻ học rất nhanh thông qua người lớn.
Vì vậy, cha mẹ phải luôn là tấm gương sáng cho trẻ noi theo. Cha mẹ phải
luôn giao tiếp với nhau và với trẻ một cách lịch sự, đúng mực, sử dụng câu
“xin
lỗi”
“cảm
ơn”
đúng
lúc.
+ Khích lệ trẻ làm những công việc phù hợp, động viên khen ngợi trẻ khi trẻ
làm tốt một việc gì đó, uốn nắn trẻ kịp thời khi trẻ làm một việc gì đó chưa
đúng
và
giải
thích
cho
trẻ
hiểu.
+ Trong lúc ăn cơm ở nhà, phụ huynh cần tập cho trẻ thói quen mời người
lớn trước khi ăn. Khi ăn phải xúc cẩn thận không làm rơi vãi, không nhai
nhồm
nhoàm
trong
miệng…
Tôi luôn trao đổi với phụ huynh hằng tháng thông qua sổ liên lạc về sự tiến
bộ của mỗi cháu để phụ huynh kịp thời nắm bắt tình hình. Qua một thời gian
trẻ lớp tôi có nhiều tiến bộ rõ rệt như xưng hô lễ phép, lịch sự trong giao tiếp
nhờ sự giáo dục bằng phương châm "Trường học là nhà, nhà là trường học".
* Biện pháp 7: Giáo dục lễ giáo thông qua ngày hội, ngày lễ.
Như chúng ta đã biết truyền thống của người Việt thật thiêng liêng và cao
quý như “tôn sư trọng đạo”, “ uống nước nhớ nguồn”.... Vì vậy thông qua
các ng ày lễ , hội : ngày giỗ Tổ Hùng Vương, ngày 30/4, ngày quốc khánh
2/9, ngày 20/11, ngày quốc tế phụ nữ 8/3... thường tổ chức các hoạt động:
Ví
+
dụ:
Tổ
chức
các
buổi
văn
nghệ,
thi
đọc
thơ,
hát…
+ Tổ chức các hội thi tài năng: làm thiệp, hoa… vào các dịp ngày hội ngày
lễ của bà, mẹ, cô giáo để trẻ hiểu và tỏ lòng yêu quý bà, mẹ, cô giáo hơn.
+ Cho trẻ cùng tham gia các buổi lao động, vệ sinh… để tỏ lòng biết ơn đối
với
những
người
có
công
cho
tổ
quốc.
Từ ý nghĩa của những ngày lễ lớn đó giúp trẻ biết được truyền thống của dân
tộc để giáo dục trẻ lòng tự hào dân tộc, biết kính trọng những người đã hy
sinh cho lợi ích dân tộc, lợi ích trồng người. Nhằm hình thành cho trẻ lòng
tự hào, kính yêu đối với người lớn tuổi, thông qua đó khuyến khích trẻ học
tập
và
phấn
*Biện
đấu
pháp
thành
8:
con
người
Khích
có
ích
lệ
cho
nêu
xã
hội.
gương.
Tâm lý của con người thích được khen hơn là chê. Nhất là đối với trẻ lúc
nào cũng muốn được khen và khen nhiều. Vì vậy là một giáo viên mầm non
cần biết động viên khen ngợi trẻ khi cần thiết và phải kịp thời uốn nắn
những
sai
phạm
cho
trẻ.
Ví
dụ:
+ Vào giờ đón trẻ, khi trẻ đến lớp trẻ biết chào cô, chào bố mẹ, giáo viên cần
khen ngợi khích lệ trẻ để trẻ cảm thấy mình ngoan mình làm như vậy là
đúng
và
lần
sau
trẻ
phát
huy.
+ Vào giờ chơi, trẻ giành đồ chơi của bạn hay xưng hô và nói chuyện với
bạn một cách thô lỗ giáo viên cần phê bình và uốn nắn kịp thời cho trẻ.
+ Qua những lúc cùng trò chuyện với trẻ, giáo cần động viên trẻ giao tiếp,
biết sử dụng câu “xin lỗi” “cảm ơn” đúng lúc, nhắc nhỡ trẻ ngay nếu trẻ nói
gì đó chưa đúng. Tất cả những hành vi từ nhỏ đến lớn giáo viên đều phải
theo dõi uốn nắn, giúp đỡ trẻ đần dần trẻ sẽ có cử chỉ hành vi lễ giáo tốt.
+ Hàng ngày vào giờ nêu gương cuối ngày trước khi cắm cờ, tôi cho trẻ tự
nhận xét về mình trong ngày đó có bạn nào có hành vi lời nói hay tôi nêu
gương ra cho cả lớp và tặng trẻ một bông hoa. Cuối tuần bao giờ cũng có tiết
mục
*
kể
chuyện
Kết
về
gương
quả
tốt
để
trẻ
đạt
noi
theo.
được
Sau những biện pháp tôi nghiên cứu và thực hiện chất lượng giáo dục về lễ
giáo tăng lên rõ rệt đó là điều làm tôi phấn khởi, yêu nghề, yêu trẻ càng
nhiều. Giúp tôi có nghị lực trong công tác, lớp tôi đạt được kết quả như sau:
Trước hết giáo viên nắm chắc được nội dung, phương pháp giáo dục lễ giáo
cho trẻ và nhận thức được tầm quan trọng của việc giáo dục lễ giáo cho trẻ
mầm
non.
Trẻ ngoan hơn, lễ phép hơn, trẻ được hình thành những thói quen vệ sinh
văn minh, biết chào hỏi khi có khách đến, biết trao nhận bằng hai tay, biết
quan tâm giúp đỡ bạn bè, cô giáo, ba mẹ, không nói tục, đánh bạn, kính
trọng
cô
giáo
và
người
lớn.
Các bậc phụ huynh đã nhận thức được tầm quan trọng của việc giáo dục lễ
giáo cho trẻ và có những chuyển biến rõ rệt về lời ăn tiếng nói, về phong
cách
và
quan
tâm
ngày
càng
nhiều
đến
con
em
mình.
Phụ huynh ngày càng tin tưởng giáo viên, biết quan tâm chăm lo đến việc
học tập và các hành vi ứng xử của con em mình khi ở lớp cũng như lúc ở
nhà. Một số phụ hunh đã mạnh dạn trao đổi với giáo viên về nội dung và
phương
pháp
giáo
dục
lễ
giáo
cho
trẻ.
Sau một thời gian thực nghiệm, tôi nhận thấy kết quả lễ giáo của trẻ có sự
chuyển biến rõ rệt :
41.Các
chỉ số
42.Đạt
45.Sè lîng
43.Không đạt
46.%
47.Sè lîng
48.%
49.- Trẻ
biết
chào
50.18
51.90
52.2
53.10
55.19
56.95
57.1
58.5
hỏi lễ
phép
54.- Biết
cảm
ơn, xin
lỗi
59.- Biết
giữ
gìn,
cất,
sắp
xếp đồ
60.18
61.90
62.2
63.10
65.18
66.90
67.2
68.10
70.17
71.85
72.3
73.15
chơi
theo
quy
định
64.- Biết
giữ gìn
vệ sinh
thân
thể, vệ
sinh
môi
trường
69.- Biết
nhườn
g nhịn
giúp
đỡ bạn
74.- Trẻ
mạnh
dạn
75.17
trong
76.85
77.3
78.15
giao
tiếp
2. KẾT
LUẬN
3.1.
Ý
nghĩa
của
đề
tài:
Việc giáo dục lễ giáo cho trẻ mầm non nói chung và trẻ 3-4 tuổi nói riêng ở
vùng dân tộc Vân Kiều có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc hình thành
và phát triển nhân cách cho trẻ, giúp trẻ phát triển toàn diện về “đức - trí thể - mĩ”, hình hành cho trẻ nhân cách con người, tạo điều kiện phát triển
toàn
diện
cho
trẻ.
Qua thực hiện đề tài: “Một số biện pháp giáo dục lễ giáo cho trẻ 3-4 tuổi”.
Bản
thân
tôi
rút
ra
một
số
kinh
nghiệm
như
sau:
- Bản thân tôi là một giáo viên lâu năm tôi luôn tìm tòi sáng tạo, sưu tầm
tranh ảnh, thơ ca, hò vè để góc lễ giáo ngày càng phong phú hơn, tôi thay
đổi
theo
từng
chủ
đề
để
tạo
sự
mới
lạ
hấp
dẫn
trẻ.
- Các tiết học có lồng ghép nội dung giáo dục lễ giáo dưới hình thức khác
nhau
để
giáo
dục
trẻ,
tạo
hứng
thú
cho
trẻ.
- Phải thường xuyên thực hiện giờ nêu gương và kể chuyện hàng tuần hoặc
tổ
chức
văn
nghệ
để
động
viên
tinh
thần
trẻ.
- Cô giáo phải chuẩn bị nhiều nội dung, hình ảnh về lễ giáo để trẻ tri giác
trực
-
Góc
quan
âm
nhạc
có
hằng
những
bài
hát
về
ngày.
lễ
giáo
phù
hợp.
- Các góc tuyên truyền của lớp có nhiều bài viết và hình ảnh cho phụ huynh
tham
khảo.
- Gia đình của trẻ thật sự là mái ấm đầy tình thương, bố mẹ là những tấm
gương sáng và mẫu mực về hành vi ứng xử, chăm sóc, tinh thần trách nhiệm
đối
với
trẻ.
Trên đây “Một số biện pháp giáo dục lễ giáo cho trẻ 3-4 tuổi” trong trường
Mầm non mà tôi đã áp dụng thành công trên trẻ của lớp tôi. Tôi rất mong
được sự quan tâm, chỉ đạo phòng, BGH nhà trường và hội đồng khoa học
cũng như sự góp ý của bạn bè, đồng nghiệp giúp tôi có những giải pháp hiệu
quả
và
Tôi xin chân thành cảm ơn!
sáng
tạo
hơn.
- Xem thêm -