Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học phổ thông Skkn một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn lịch sử lớp 12...

Tài liệu Skkn một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn lịch sử lớp 12

.DOC
31
130
85

Mô tả:

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC MÔN LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THPT BA ĐÌNH PHẦN I/ ĐẶT VẤN ĐỀ Trên thế giới, các nước đều coi môn Lịch sử là môn học cơ bản trong chương trình giáo dục phổ thông. Nước ta trên con đường hội nhập quốc tế, môn Lịch sử càng giữ vai trò quan trọng trong trang bị kiến thức cơ sở, giáo dục các giá trị truyền thống, góp phần xác lập bản lĩnh con người Việt Nam. Do vậy, trong những năm qua công tác giáo dục Lịch sử được chú trọng không chỉ trong nhà trường mà trên tất cả các phương tiện thông tin đại chúng. Thế nhưng, trong những năm gần đây, tình trạng học sinh không yêu thích, không học Lịch sử ngày càng phổ biến và kéo theo đó là chất lượng ở các trường THPT, ở các kì thi Đại học, Cao đẳng rất thấp. Thậm chí học sinh không lựa chọn thi môn Lịch sử khi được quyền lựa chọn môn thi tốt nghiệp. Mà lịch sử là một trong những yếu tố cơ bản trong quá trình làm nên 2 từ: “Đất Nước”. Thực trạng đó đang gióng lên hồi chuông báo động về nỗi lo “mất gốc” của thế hệ trẻ. PGS.TS Phạm Mai Hùng, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam cho rằng: “Không phải ngẫu nhiên mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong bộn bề công việc vẫn không quên nhắc nhở: “Dân ta phải biết sử ta. Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. Không hiểu lịch sử ông cha chắc chắn khó có thể định hướng cho hiện tại, chưa nói đến tương lai”. Làm thế nào để các thế hệ học sinh “biết” và trên cơ sở ấy “tường” (hiểu sâu sắc) về lịch sử dân tộc? Đó luôn là nỗi trăn trở của các cấp quản lý giáo dục, đặc biệt với giáo viên giảng dạy môn Lịch sử. Là một giáo viên Lịch sử, tuổi đời, tuổi nghề còn trẻ, luôn trăn trở với nghề, bản thân đã nghiên cứu thực tiễn đối tượng học sinh để tìm ra cách dạy phù hợp, hiệu quả. Sau một thời gian tìm tòi và nghiên cứu, tôi quyết định chọn đề tài: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử ở trường THPT Ba Đình” làm sáng kiến kinh nghiệm. 1 PHẦN II/ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Thực trạng của việc dạy và học Lịch sử ở trường THPT Ba Đình Qua khảo sát thực tế tại nhiều giờ học Lịch sử ở trường THPT Ba Đình, tôi nhận thấy phần lớn học sinh không hào hứng, tập trung xây dựng bài. Cũng chính hiệu quả giờ học còn nhiều hạn chế nên chất lượng bộ môn cũng thấp. Bản thân ra đề kiểm tra khi chấm bài của học sinh không ít lần khiến tôi phải bật cười. Chẳng hạn như, trong các bài kiểm tra của các em có những đoạn viết: “Chiến tranh thế giới thứ nhất để lại hậu quả vô cùng nặng nề, lôi cuốn 1,5 người vào vòng khói lửa, làm chết 10 người và bị thương 20 người”, “chiến tranh thế giới thứ nhất thật phi nhân tính, làm chết vô số người”. Có em lại viết: “Ngày 22/12/1975, sau khi gấp rút miền Nam Việt Nam thực dân Pháp phong kiến tay sai Mĩ đã hoàn toàn khâm phục trước lòng thương dân và sự đoàn kết của toàn thể đất nước chống thù trong giặc ngoài” hay “Để phản đối chiến tranh đặc biệt của Mĩ, nhà sư Thích Quảng Đức đã treo cổ ở Ngã Tư Sở”... Mặt khác, qua điều tra 526 học sinh lớp 12 trường THPT Ba Đình, có tới 90% học sinh học sinh trả lời các em rất ngại học môn Lịch sử. Đặc biệt, việc học sinh lựa chọn môn Sử để thi THPT Quốc gia là rất ít: 19/526 học sinh (3%). Vậy vì sao học sinh lại “ngại” học Lịch sử? Theo tôi, thực trạng đó xuất phát từ những nguyên nhân sau: Thứ nhất: Học sinh không yêu thích Lịch sử vì chương trình sách giáo khoa (SGK). Do đặc trưng của môn Lịch sử là mang tính quá khứ, những sự kiện đã xảy ra không thể quan sát trực tiếp được mà chỉ có thể nhận thức một cách gián tiếp thông qua các nguồn tài liệu. Lịch sử không lặp lại mà chỉ diễn ra một lần, càng không thể diễn ra trong phòng thí nghiệm như những bộ môn khoa học khác. Vì vậy, SGK là một công cụ cơ bản, cần thiết và không thể thiếu trong quá trình học tập. Tuy nhiên, theo Giáo sư Phan Huy Lê "Hiện nay, sách giáo khoa biên soạn quá nặng nề, la liệt các sự kiện, sự phân tích khái quát rất chung chung, không gây được sự hứng thú học tập theo lối thông minh của học sinh và cũng không đạt được yêu cầu giáo dục phẩm chất, năng lực của thế hệ trẻ”. Khi hỏi nhiều giáo viên Lịch sử và học sinh - những người tham gia trực tiếp vào hoạt động dạy và học đều cho rằng : SGK Lịch sử nhiều sự kiện, khô khan, thiếu trọng tâm; bài học lịch sử rút ra quá dài nên học sinh khó nhớ. Chương trình SGK cấu tạo theo hình thức đồng tâm, trùng lặp giữa chương trình THCS và THPT; một số vấn đề lịch sử quan trọng như: Chiến tranh biên giới Tây Nam, Hoàng Sa, Trường Sa, vấn đề mở cõi của Nguyễn Hoàng… chưa 2 được đưa vào SGK, trong khi báo chí và các phương tiện truyền thông đề cập rất nhiều. Điều này làm giảm hứng thú cho cả thầy và trò. Thứ hai: Học sinh không yêu thích Lịch sử vì cách học thực dụng, dạy nhồi nhét. Ngày nay, do cơ chế thị trường với sự bùng nổ thông tin và sự “lên ngôi” của các ngành kinh tế, khoa học kĩ thuật, công nghệ đã chi phối khối thi, ngành thi nên các em thường hướng tới học những môn tự nhiên, còn môn xã hội nói chung và Lịch sử nói riêng ít được quan tâm. Học sinh dành thời gian cho các môn tự nhiên hơn, không hẳn là học sinh yêu các môn tự nhiên hơn, mà quan trọng nhất là do các môn tự nhiên mang lại cho học sinh nhiều cơ hội việc làm, thu nhập cao hơn so với môn xã hội. Có một số lượng không nhỏ sinh viên tốt nghiệp ra trường phải mất một thời gian dài mới xin được việc, hoặc dù kiếm được việc cũng chưa chắc đã đúng chuyên ngành. Thứ ba: hoạt động kiểm tra đánh giá chưa đảm bảo yêu cầu khách quan, chưa vận dụng đúng quy trình, áp đặt tính chủ quan của người dạy. Đề thi nặng về sự kiện, chủ yếu là tái hiện kiến thức đòi hỏi học sinh phải nhớ nhiều, trong khi tuổi trẻ đầy năng động, sáng tạo cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin như hiện nay thì cách học tập theo lối học thuộc lòng như môn Sử khó được giới trẻ tiếp nhận. Xu hướng học và thi thực dụng của học sinh với kiểu “ứng thi” đã làm cho môn Lịch sử trở nên xa lạ, xơ cứng và nhàm chán. Từ câu chuyện học sinh xé đề cương môn Sử gây xôn xao dư luận thời gian qua, chúng ta càng thấy rõ chế độ thi cử nặng nề đã tác động đến động cơ học tập của học sinh theo chiều hướng tiêu cực. Bên cạnh đó, trong khi chương trình không được phép dưới chuẩn, lượng kiến thức quá nhiều lại bị gói trong khoảng thời gian ngắn nên đa số giáo viên phải “chạy” để kịp chương trình. Vì học sinh tỏ ra không mặn mà với môn Sử, coi đó là môn phụ, do đó không ít giáo viên Lịch sử cũng tự cho mình là giáo viên môn phụ. Sự tâm huyết, tận tụy cũng dần hao mòn dẫn đến lối dạy nhồi nhét, một chiều của một số giáo viên càng khiến cho học sinh không hứng thú. Vì vậy trách nhiệm của người giáo viên Lịch sử là phải tìm ra những phương pháp dạy học phù hợp, hiệu quả để tạo được hứng thú với học sinh, bởi khi có hứng thú với môn học các em mới có động cơ, có nhu cầu lĩnh hội kiến thức và tích cực tham gia vào quá trình nhận thức. Từ đó, kéo các em về gần với lịch sử dân tộc, yêu thích môn Lịch sử. Trong khuôn khổ sáng kiến kinh nghiệm, tôi xin nêu ra một số biện pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng bộ môn mà bản thân đã áp dụng hiệu quả với 3 mong muốn được chia sẻ và trao đổi nhiều hơn nữa với đồng nghiệp. Phạm vi nghiên cứu của sáng kiến giới hạn trong chương trình Lịch sử 10 và 12. Lớp nghiên cứu thực nghiệm gồm: 12D, 12H, 10D và 10M. 2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC MÔN LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THPT BA ĐÌNH 2.1. Biện pháp cho tình trạng chương trình SGK dàn trải, nặng kiến thức, nhiều sự kiện Vẫn biết chương trình SGK còn những hạn chế nhất định, nhưng vấn đề này không thể giải quyết trong ngày một ngày hai, vì vậy tôi cho rằng người giáo viên cần biết đối diện với thực tế rồi khéo léo, linh hoạt trong quá trình dạy sẽ khắc phục được những hạn chế cơ bản của SGK, khiến học sinh cảm thấy nhẹ nhàng khi tiếp cận, tìm thấy sự thú vị, đam mê với môn học. Thứ nhất: Nhận thức và xác định đúng kiến thức cơ bản Trong dạy học Lịch sử, nhận thức và xác định đúng kiến thức cơ bản là việc rất quan trọng? Vậy thế nào là kiến thức cơ bản. Theo nghĩa Hán - Việt, “cơ” là nền, “bản” là gốc. Kiến thức cơ bản là kiến thức nền móng, gốc rễ. Theo giáo trình Phương pháp dạy học lịch sử nêu rõ: “kiến thức cơ bản là kiến thức tối ưu, cần thiết cho việc hiểu biết của học sinh về lịch sử (thế giới và dân tộc). Nó gồm nhiều yếu tố: sự kiện lịch sử, các niên đại, địa danh lịch sử, nhân vật lịch sử, các biểu tượng, khái niệm lịch sử, các quy luật, nguyên lý, phương pháp học tập và vận dụng kiến thức”. Với lượng kiến thức trong SGK cùng với việc đảm bảo thời gian và các bước lên lớp thì giáo viên cần nhận diện được nội dung nào là cơ bản để nhấn mạnh, khai thác sâu; nội dung nào có thể phân phối thời gian ít, thậm chí hướng dẫn để học sinh tự khai thác, tránh xa vào những phần không trọng tâm, dàn trải, tuần tự một cách máy móc theo SGK. Tuy nhiên, xác định kiến thức cơ bản không đồng nghĩa với việc cắt xén chương trình. Từ đó, sẽ giảm được áp lực cho học sinh, tạo được điểm nhấn trong bài giảng ; khơi dậy hứng thú, đam mê của học sinh. Ví dụ 1: Trong bài 8. Nhật Bản (Lịch sử 12), tôi xác định kiến thức cơ bản ở mục I. Nhật Bản từ năm 1945 đến năm 1952 và mục II. Nhật Bản từ năm 1952 đến năm 1973. Ở mục I, giáo viên giúp học sinh biết được tình hình Nhật Bản sau chiến tranh thế giới II và những cải cách dân chủ ở Nhật Bản trong thời gian bị chiếm đóng. Nhấn mạnh chính sách đối ngoại của Nhật Bản - chủ chương liên minh chặt chẽ với Mĩ ; làm rõ được vấn đề tại sao Nhật Bản chủ trương liên minh với Mĩ và chấp nhận đứng dưới “chiếc ô” bảo hộ hạt nhân của Mĩ? Học 4 sinh đánh giá thế nào về chính sách đó của giới cầm quyền Nhật? Mục II là phần kiến thức cơ bản, trọng tâm nhất của bài. Trong mục này học sinh cần biết những biểu hiện của giai đoạn phát triển “thần kỳ” ở Nhật Bản. Hiểu được tại sao sau chiến tranh thế giới II, cả Nhật và Mĩ đều phát triển mạnh mẽ và trở thành một trong ba trung tâm kinh tế - tài chính của thế giới, nhưng chỉ Nhật Bản được gọi là “thần kỳ”? Nguyên nhân thúc đẩy sự phát triển “thần kỳ” của Nhật là gì? Trong đó nguyên nhân nào là quan trọng nhất? Tại sao? Liên hệ với Việt Nam. Với mục III - Nhật Bản từ năm 1973 đến năm 1991 và mục IV - Nhật Bản từ năm 1991 đến năm 2000. Tôi mạnh dạn sử dụng lượng nhỏ thời gian để phân tích nét chính về tình hình kinh tế và chính sách đối ngoại của Nhật trong giai đoạn này để tập trung thời gian cho mục I và mục II, phân tích về tình hình Nhật Bản sau chiến tranh, so sánh với nước Mĩ để làm sáng tỏ sự “thần kỳ” của Nhật Bản. Ví dụ 2: khi dạy bài 25. Tình hình chính trị, kinh tế, văn hoá dưới triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX (Lịch sử 10); giáo viên cần xác định đúng trọng tâm để khai thác sâu kiến thức: Nội dung về tình hình văn hoá - giáo dục, giáo viên nên đầu tư ít thời gian vì phần này đã được học ở hai giai đoạn thế kỷ X - XV và thế kỷ XVI - XVIII; đến giai đoạn nửa đầu thế kỷ XIX vẫn là sự kế thừa và phát triển những thành tựu văn hoá, giáo dục của các giai đoạn trước. Thời gian nên dành cho mục 1 - Xây dựng và củng cố bộ máy nhà nước, chính sách ngoại giao và mục 2 - Tình hình kinh tế và chính sách ngoại giao của nhà Nguyễn. Ở hai mục này, giáo viên tập trung khai thác sâu về chính sách ngoại giao “đóng cửa” đất nước và chính sách kinh tế độc quyền về ngoại thương, hạn chế thương nghiệp của nhà Nguyễn để học sinh hiểu rằng đó là chính sách sai lầm và gây phương hại đến vận mệnh quốc gia sau này. Thứ hai: Dạy học theo chủ đề Ví dụ 1: với bài 16. Phong trào giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tháng Tám (1939 - 1945). Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời (Lịch sử 12). Theo như phân phối chương trình, bài này sẽ dạy trong 4 tiết. Tôi cho rằng đây là một nội dung rất quan trọng trong tiến trình lịch sử Việt Nam, là bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc. Qua thực tiễn giảng dạy tôi nhận thấy, với bài 16 nếu giáo viên thiết kế bài dạy theo đúng thứ tự trong SGK học sinh tỏ ra rất mơ hồ, không nhớ được kiến thức trọng tâm, thậm chí còn than thở: “sao nhiều đề mục thế”, “chỉ ghi tên bài và đề mục cũng hết trang giấy”; thậm chí ngay cả người dạy cũng gặp khó khăn với các đề mục trong SGK. 5 Vì vậy với bài này, tôi thiết kế dạy theo chuyên đề: Cách mạng tháng Tám năm 1945. Với chuyên đề này tôi cũng thực hiện trong 4 tiết nhưng mỗi tiết dạy sẽ khai thác chuyên sâu vào một nội dung để học sinh khắc sâu kiến thức, không cảm thấy nhàm chán. Tiết 1, 2: Hoàn cảnh lịch sử và quá trình chuẩn bị mọi mặt của Đảng trong những năm 1939 - 1945. Với thời lượng 2 tiết giáo viên có thể khai thác về hoàn cảnh lịch sử của cuộc cách mạng tháng Tám, quá trình chuẩn bị mọi mặt của Đảng: Đường lối lãnh đạo, xây dựng lực lượng, tổ chức, căn cứ địa cách mạng… để đi tới thắng lợi cuối cùng. Tiết 3: Vấn đề tình thế và thời cơ của cách mạng tháng Tám. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc với cách mạng tháng Tám năm 1945. Khi hỏi về thời cơ của cách mạng tháng Tám năm 1945 chắc hẳn nhiều học sinh trả lời được: Cách mạng tháng Tám diễn ra trong thời cơ “ngàn năm có một”, nhưng tại sao lại ví đó là thời cơ “ngàn năm có một”? Tại sao dù đang bị ốm giữa núi rừng Tân Trào, Bác Hồ vẫn chỉ thị: “Lúc này thời cơ đã đến, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”? Lịch sử đã đi qua, bài học về nhận định thời cơ và chớp thời cơ cách mạng của Ðảng trong cách mạng tháng Tám 1945 vẫn còn nguyên giá trị. Tôi cho rằng đây là một vấn đề thú vị và quan trọng cần khai thác để học sinh thấy được vai trò lãnh đạo của Đảng, của Bác đối với thắng lợi của cách mạng tháng Tám. Từ bài học của cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 rút ra những bài học lịch sử trong các cuộc đấu tranh của dân tộc cũng như trong giai đoạn hiện nay. Tiết 4: Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945. Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm. Khi thiết kế dạy bài 16 (Lịch sử 12) theo chuyên đề, kết hợp với sử dụng công nghệ thông tin, phương pháp kể chuyện lịch sử, sử dụng hình ảnh và phim tư liệu sẽ tạo được hứng thú, phát huy tính tích cực cho học sinh. Việc dạy học theo chuyên đề - khai thác sâu vào một đơn vị kiến thức sẽ giúp học sinh dễ tiếp cận vấn đề, biết và hiểu vấn đề có chiều sâu, từ đó có thể vận dụng vào thực tiễn một cách hiệu quả. Ví dụ 2: Theo như phân phối chương trình Lịch sử 12: bài 1. Sự hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945 – 1949), học 1 tiết và bài 9. Quan hệ quốc tế trong và sau thời kỳ chiến tranh lạnh, học 2 tiết. Trong quá trình dạy tôi nhận thấy, nội dung của hai bài này thực chất nói về một 6 vấn đề và được thiết kế trong hai bài. Nhưng vì khoảng cách giữa hai bài này khá xa nhau, khi dạy đến bài 9 giáo viên sẽ phải yêu cầu học sinh nhắc lại kiến thức của bài 1 để kết nối với nội dung bài 9. Vì vậy tôi cho rằng khi dạy hai bài này nên thiết kế thành một chuyên đề để đảm bảo sự thông suốt của kiến thức, thuận lợi cho việc khai thác tư liệu lịch sử của giáo viên, giúp cho học sinh tiếp cận nội dung theo hệ thống từ đó việc hiểu và nhớ kiến thức cũng dễ dàng hơn. Tôi thiết kế thành chuyên đề: “Quan hệ quốc tế 1945 - 2000” và dạy trong 3 tiết với những nội dung chính: 1. Hội nghị Ianta (2/45) và những thoả thuận của 3 cường quốc 2. Sự thành lập Liên hợp quốc 3. Thời kì chiến tranh lạnh ( 1947 - 1989) 4. Chiến tranh lạnh chấm dứt, nguyên nhân và hệ quả 5. Thế giới sau chiến tranh lạnh 2.2. Biện pháp cho tình trạng chương trình SGK nhiều từ ngữ quân sự, chính trị khô khan, khó học, khó nhớ Do đặc thù bộ môn nên từ ngữ mang tính quân sự, chính trị khô khan khiến học sinh khó học, khó nhớ. Vì vậy trong quá trình dạy, giáo viên có thể tích hợp với Ngữ văn, Địa lý, Âm nhạc, Giáo dục quốc phòng, Giáo dục công dân... Thứ nhất: Tích hợp với Ngữ văn “Văn - Sử bất phân” là cách nói để khẳng định mối quan hệ khăng khít giữa hai môn học này. Tích hợp kiến thức Ngữ văn vào dạy học Lịch sử có vai trò rất lớn trong việc tạo hứng thú cho học sinh, giảm bớt sự khô cứng của bộ môn. Ngược lại, thông qua việc liên hệ kiến thức văn học trong các hoàn cảnh lịch sử cụ thể cũng góp phần bổ trợ kiến thức, giúp học sinh hiểu rõ hơn về hoàn cảnh ra đời của tác phẩm văn học từ đó có thể cảm thụ tốt nhất tác phẩm, phát huy được hiệu quả của phương pháp dạy học tích hợp liên môn. Ví dụ 1: Sử dụng kiến thức Ngữ văn để minh hoạ sự kiện Bài 20. Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực Dân Pháp kết thúc 19531954 (Lịch sử 12), khi dạy phần chiến dịch Điện Biên Phủ 1954, giáo viên minh họa cho học sinh về tinh thần đoàn kết, dũng cảm của quân dân ta qua câu thơ trích trong bài “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên” của Tố Hữu: Mấy tầng mây, gió lớn mưa to Dốc Pha Đin, chị gánh anh thồ Đèo Lũng Lô, anh hò chị hát Dù bom đạn, xương tan thịt nát Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh. 7 Để rồi: Súng nổ rung trời giận dữ Người lên như nước vỡ bờ Nước Việt Nam từ máu lửa Rũ bùn đứng dậy sáng loà. ( Nguyễn Đình Thi) Với bài 22. Nhân dân hai miền trực tiếp chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm lược. Nhân dân miền Bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất 1965 - 1973 (Lịch sử 12), khi nhấn mạnh vai trò hậu phương miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, giáo viên minh hoạ: Hỡi Miền Bắc đó nặng đôi vai Gánh cả non sông vượt dặm dài Xẻ dọc trường sơn đi cứu nước Mà lòng phơi phới dậy tương lai. Ví dụ 2: Sử dụng kiến thức Ngữ văn để khai thác kiến thức Ở bài 18. Công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế trong các thế kỷ X - XV (Lịch sử 10). Khi dạy về sự phát triển nông nghiệp của giai đoạn này, giáo viên trích dẫn câu thơ: Đứng mãi nào hay ngày đã tận Khắp đồng lúa tốt tựa mây xanh (Bùi Tông Quán) Hoặc nhân dân thời Lê có câu: Đời vua Thái Tổ, Thái Tông Thóc lúa đầy đồng, trâu chẳng buồn ăn. Sau đó giáo viên cho học sinh nhận xét về tình hình kinh tế nông nghiệp nước ta từ thế kỷ X - XV. Bài 19. Công cuộc kháng chiến chống ngoại xâm ở các thế kỷ X - XV (Lịch sử 10), khi tìm hiểu về các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên thế kỷ XIII, giáo viên có thể trích dẫn một đoạn trong “Hịch tướng sĩ” của Trần Hưng Đạo: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ hận chưa thể lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong thây ngựa cũng nguyện xin làm”. Yêu cầu học sinh nêu ý nghĩa của bài hịch. Giải thích nguyên nhân vì sao một đế quốc lớn mạnh chưa từng có trong lịch sử thế giới lúc bấy giờ - quân Mông Cổ dưới sự lãnh đạo của Thành Cát Tư Hãn đã xâm lược rất nhiều nước Châu Á: Trung Quốc, Cao Ly, Nhật Bản; ở Châu Âu vó ngựa Mông 8 Cổ đã tiến đến Ba Lan, Đức, Hungari và tới sát Italia vào đầu thế kỷ XIII, khiến cả Châu Âu chấn động; lực lượng kị binh thiện chiến đánh đâu thắng đấy, nhưng cả ba lần xâm lược Đại Việt đều thất bại? Bài 26. Tình hình xã hội nửa đầu thế kỷ XIX và phong trào đấu tranh của nhân dân (Lịch sử 10), khi học về phần tình hình xã hội và đời sống nhân dân ta nửa đầu thế kỷ XIX, giáo viên trích dân câu thơ của nhân dân thời đó: Con ơi, mẹ bảo con này Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan. Bài vè đương thời cũng có câu: ...Xác đầy nghĩa địa Thây thối bên cầu Trời ảm đạm u sầu Cảnh hoang tàn đói rét. Chỉ qua mấy câu thơ trên học sinh có thể thấy được tình hình xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX và lý giải được tại sao nhân dân ta lại vùng lên đấu tranh mạnh mẽ, quyết liệt. Thứ 2: Đưa âm nhạc vào giảng dạy Lịch sử Không phải ngẫu nhiên vượt qua bao thử thách nghiệt ngã của thời gian, cho đến nay những ca khúc cách mạng Việt Nam vẫn vẹn nguyên sức sống. Chính những thời khắc lịch sử trọng đại của dân tộc, những tấm gương chiến đấu quên mình… đã lay động cảm xúc của bao thế hệ nhạc sĩ và mỗi ca khúc cách mạng chính là một trang sử bằng âm thanh để cho thế hệ hôm nay nhìn lại quá khứ. Vì vậy, lịch sử dân tộc luôn là nguồn cảm hứng bất tận cho âm nhạc. Những ca khúc cách mạng có thể như một kênh thông tin để khai thác kiến thức, cũng có thể như một công cụ để minh hoạ sự kiện lịch sử. Nhưng hơn nữa tôi muốn đưa âm nhạc vào giảng dạy để rèn luyện kỹ năng sống, khơi dậy niềm đam mê, hứng thú của học sinh. Khi nói về sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, giáo viên cho học sinh nghe bài hát Đảng cho ta mùa xuân do nhạc sĩ Phạm Tuyên sáng tác năm 1960, nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng. Hay khi dạy về cách mạng Tháng Tám năm 1945, trong dòng người tiến vào nội thành Hà Nội để đấu tranh giành chính quyền có chàng thanh niên 23 tuổi Xuân Oanh. Cảm xúc bất chợt đến trong tâm hồn tràn đầy nhiệt huyết, giai điệu và ca từ bài hát cứ thế trào ra theo từng bước chân của nhạc sĩ trẻ tuổi. Sáng tác đến đâu, đoàn người hát theo đến đó và đúng khi đoàn người tiến đến trước Nhà hát Lớn thì bài hát cũng vừa vặn hoàn thành. 9 Toàn dân Việt Nam đứng đều lên góp sức một ngày Thề đem xương máu quyết lòng chiến đấu cho tương lai Mười chín tháng Tám khi quốc dân căm hờn kêu thét Tiến lên cùng hô mau diệt tan hết quân thù chung… (Mười chín tháng Tám) Bài hát thậm chí còn chưa được đặt tên đã nhanh chóng theo mọi ngả đường truyền đi khắp đất nước, trở thành nguồn động viên cho nhân dân khắp nơi đấu tranh giành chính quyền. Rồi sau đó, “Chín năm làm một Điện Biên, nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng”, không khí ngày chiến thắng trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954 được nhạc sĩ Đỗ Nhuận thể hiện trong ca khúc “Giải phóng Điện Biên”. Hay khi Mĩ thực hiện chiến lược chiến tranh Cục bộ ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc (1965 - 1968), trong một lần đi thực tế trên tuyến đường giao thông ác liệt tại Quảng Bình - Quảng Trị năm 1966. Xúc động trước tinh thần dũng cảm, lạc quan của các nữ thanh niên xung phong làm đường, nhạc sĩ Xuân Giao đã sáng tác ca khúc “Cô gái mở đường”.... Cũng trong mạch cảm xúc viết về những thời khắc lịch sử trọng đại của dân tộc trong ngày 30/4/1975, một loạt những ca khúc đã ra đời thể hiện niềm vui sướng, hân hoan, niềm hạnh phúc vô bờ và niềm tự hào dân tộc của nhân dân Việt Nam: Đất nước trọn niềm vui (Hoàng Hà), Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng (Phạm Tuyên), Bài ca thống nhất (Võ Văn Di), Mùa Xuân trên thành phố Hồ Chí Minh (Xuân Hồng)… Trong các giờ học việc lồng ghép giới thiệu về bài hát, thậm trí là cho học sinh nghe, cho học sinh hát một đoạn trong bài hát viết về sự kiện lịch sử đó chắc chắn sẽ tạo ra được một giờ học thú vị, nhẹ nhàng, bổ ích. Không những giúp học sinh hứng thú với môn học, dễ nhớ, nhớ lâu, nhớ vấn đề có chiều sâu; mà đó còn là một điều kiện tốt để học sinh có thể tiếp cận, đón nhận và yêu thích những bài hát cách mạng - những bài hát về những năm tháng không thể nào quên của dân tộc, để thầy cô có thể truyền “lửa” cho các em, kéo các em đến gần với lịch sử dân tộc. Rèn luyện kỹ năng sống cho các em, rèn luyện tư duy sáng tạo và khả năng cảm thụ, thiết nghĩ đó cũng là trách nhiệm của bộ môn Lịch sử. 2.3. Biện pháp cho tình trạng chương trình SGK phản ánh một chiều; vừa thừa, vừa thiếu Một thực trạng hiện nay là SGK viết chủ yếu về thiệt hại của địch, những mất mát, hy sinh, bi hùng lại bị bỏ qua. Lịch sử không chỉ có một chiều. Các em 10 cần được nghe về lịch sử theo đúng nghĩa của nó để có cái nhìn thực sự khách quan, để có thể vận dụng kiến thức Lịch sử vào cuộc sống và từ hiện thực cuộc sống biết trân trọng giá trị của lịch sử. Một nghịch lý hiện nay là trong khi các em rất mơ hồ về lịch sử dân tộc nhưng lại rất thạo lịch sử Trung Hoa. Trong khi không biết Trần Quốc Tuấn và Trần Hưng Đạo là một người hay hai người? Triều Lý do ai sáng lập, có vai trò như thế nào trong lịch sử phong kiến Đại Việt? Nhưng lại rất hiểu Tần Thuỷ Hoàng, Chu Nguyên Chương đã gây dựng nghiệp lớn ra sao, hay cuộc đời và sự nghiệp của Tôn Trung Sơn thế nào?... Bởi vì những trang sử Trung Hoa được trình bày gắn với những con người lịch sử và được thể hiện bằng nhiều hình thức, qua nhiều con đường phong phú, đa dạng và dễ tiếp nhận. Giáo sư Nguyễn Thị Côi, trường Đại học Sư phạm Hà Nội cho rằng: “Lịch sử là phải có con người, nhưng trong sách giáo khoa từ lớp 9 đến lớp 12 đều thiếu vắng con người”. Chính vì thực tế này nên khi giảng dạy người giáo viên cần tìm tòi, sáng tạo, cập nhật thông tin thường xuyên để bổ sung kiến thức kịp thời cho học sinh. Thứ nhất: Sử dụng phim tư liệu, kể chuyện nhân vật vào dạy học Lịch sử Ví dụ 1: Bài 20. Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết thúc 1953 - 1954 (Lịch sử 12). Bài này nói về cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954 và chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 với đỉnh cao là Hiệp định Giơnevơ. Và khi nhắc đến Điện Biên Phủ thần thánh là ta sẽ nhớ ngay đến Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Khó có thể thống kê hết có bao nhiêu cuốn sách viết về Đại tướng Võ Nguyên Giáp của các tác giả trong và ngoài nước, chỉ biết rằng cuộc đời và sự nghiệp của ông đã trở thành nguồn cảm hứng vô tận cho rất nhiều ngòi bút. Những cuốn Võ Nguyên Giáp (nguyên bản tiếng Pháp là Giap) của tác giả người Pháp Georges Boudarel, hay cuốn Võ Nguyên Giáp - Chiến thắng bằng mọi giá của tác giả người Mỹ Cecil B. Currey đã được dịch thành nhiều thứ tiếng và lưu hành khắp các châu lục. Ở trong nước, cuốn Đại tướng Võ Nguyên Giáp, tư lệnh của các tư lệnh, chính ủy của các chính ủy do Vũ Trọng Đại làm chủ biên và viết lời dẫn nhập cũng là một cuốn sách ảnh nổi tiếng tập hợp 100 sự kiện tiêu biểu nhất về cuộc đời và sự nghiệp của Đại tướng. Thế nhưng, trong bài này, tên Đại tướng Võ Nguyên Giáp không hề xuất hiện lần nào ở trong SGK. Nếu giáo viên dạy một cách máy móc thì học sinh sẽ hiểu được gì, cảm nhận được gì khi học xong bài 20? Vì vậy, khi dạy bài này tôi sử dụng một số câu chuyện về Đại tướng Võ Nguyên Giáp với quyết định mang 11 tính lịch sử, Bế Văn Đàn lấy vai mình làm giá súng, Tô Vĩnh Diện dùng thân chèn pháo, Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai... những hình tượng bất diệt trong chiến dịch Điện Biên Phủ, để giúp học sinh hiểu về tầm vóc của chiến dịch, hiểu về giá trị của tinh thần đoàn kết dân tộc, hiểu được để có chiến thắng lẫy lừng, để có giờ khắc lá cờ đỏ sao vàng tung bay trên nóc hầm Đơcattơri biết bao anh hùng đã ngã xuống. Từ đó học sinh biết trân trọng lịch sử và thấy được giá trị của hoà bình mà các em đang được sống. Ví dụ 2: Với bài 23. Khôi phục và phát triển kinh tế xã hội ở miền Bắc, giải phóng hoàn toàn miền Nam 1973 - 1975 (Lịch sử 12), khi dạy phần nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước 1954 1975; ngoài việc phân tích yếu tố lãnh đạo của Đảng, khi phân tích về truyền thống của dân tộc, tinh thần yêu nước nồng nàn của nhân dân Việt Nam, tôi minh hoạ cho học sinh thấy điều đó qua hình ảnh mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Thứ. Bởi cả 9 người con của mẹ đã hy sinh trong kháng chiến để đổi lấy hai chữ “Hòa bình” cho ngày hôm nay. Thứ hai: Cập nhật những vấn đề mang tính thời sự, chưa có trong chương trình SGK Đã là những sự kiện mang tính thời sự thì không thể có trong SGK. Tuy nhiên có những sự kiện đã và đang diễn ra hiện nay mang tính lịch sử và thời sự sâu sắc. Ví dụ: hiện nay vấn đề biển Đông luôn là vấn đề rất được quan tâm không chỉ trong khu vực mà cả trên thế giới. Thời gian gần đây những hành động của Trung Quốc càng làm cho tình hình biển đông nóng lên và thêm phức tạp. Giàn khoan HD-981 Tàu Trung Quốc tấn công tàu kiểm ngư Việt Nam 12 Vì vậy, cập nhật thường xuyên và truyền tải đến học sinh để các em nhận thức vấn đề và ứng xử một cách đúng đắn là trách nhiệm của các thầy cô giáo, đặc biệt là giáo viên Lịch sử. 2.4. Tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh a. Tổ chức đóng vai lịch sử Đây là một hình thức tổ chức dạy học khiến học sinh rất thích thú. Với phương pháp này học sinh như được tham gia vào lịch sử, được đặt bản thân vào hoàn cảnh lịch sử để hiểu và có nhận xét, đánh giá khách quan về lịch sử dân tộc. Bởi vì: Nói cho tôi nghe, tôi sẽ quên; chỉ cho tôi thấy, tôi sẽ nhớ; cho tôi tham gia, tôi sẽ hiểu. Ví dụ: với bài 19. Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm ở các thế kỷ X - XV (Lịch sử 10). Khi dạy về cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên ở thế kỷ XIII, giáo viên có thể tổ chức cho 3 học sinh đóng vai các nhân vật lịch sử: Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Hưng Đạo. Cả lớp đóng vai các quần thần và phụ lão trong cả nước dự hội nghị Diên Hồng. b. Tổ chức các trò chơi Lịch sử Thứ nhất: Tổ chức trò chơi ô chữ Ví dụ: với bài 27. Tổng kết lịch sử Việt Nam từ 1919 đến năm 2000 (Lịch sử 12). Đây là bài tổng kết toàn bộ lịch sử Việt Nam hiện đại, lượng kiến thức nhiều, người dạy cũng thấy khó khăn trong việc ôn tập, tổng kết; còn người học thì thường không thích những bài kiểu này. Vì vậy, kết hợp với việc ôn tập, tôi thiết kế “trò chơi ô chữ” - Mở các ô chữ bí mật để tìm ra từ khoá cho trò chơi: 1 2 3 4 5 6 7 Tõ kho¸ 13 Nội dung từ khoá: Đây là mong muốn cháy bỏng của nhân dân hai miền Nam - Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Hàng ngang số 1: Đây là phong trào đấu tranh sôi nổi, quyết liệt ở miền Nam trong những năm 1959 - 1960. (Đồng khởi) Hàng ngang số 2: Chiến thắng này mở ra khả năng ta có thể đánh bại hoàn toàn chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mĩ. (Ấp Bắc) Hàng ngang số 3: Nhân dân miền Bắc đã làm nên chiến thắng vĩ đại nào năm 1972? (Điện Biên Phủ trên không) Hàng ngang số 4: Văn bản pháp lý này là thắng lợi lớn của ta trên mặt trận ngoại giao, tạo một bước ngoặt quan trọng cho cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. (Hiệp định Pari) Hàng ngang số 5: Chiến thắng nào của quân ta đã giúp Bộ chính trị đánh giá đúng tình hình Mĩ - Ngụy, từ đó củng cố và hoàn thành kế hoạch giải phóng hoàn toàn Miền Nam? (Phước Long) Hàng ngang số 6: Đây là chiến dịch cuối cùng của quân ta trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975. (Hồ Chí Minh) Hàng ngang số 7: Đây là tên người chiến sĩ đã cắm lá cờ giải phóng trên nóc Dinh độc lập trưa ngày 30/4/2015. (Bùi Quang Thận) Từ khoá: Thống nhất đất nước Thứ 2: Tổ chức trò chơi điền bản đồ trống Ví dụ: trong bài 20. Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết thúc 1953 - 1954. Phần cuộc Tiến công chiến lược đông xuân 1953 - 1954, giáo viên chuẩn bị 4 bản đồ trống về hình thái chiến trường đông xuân 1953 - 1954, bút màu, miếng giấy nhỏ có băng keo hai mặt. Giáo viên chia lớp thành 4 đội thi với nội dung: Trình bày cuộc tiến công chiến lược đông - xuân 1953 - 1954 của quân ta trên bản đồ trống. Việc tổ chức trò chơi này khiến cho học sinh hiểu tại sao Bộ chính trị quyết định mở chiến dịch tấn công địch ở khắp chiến trường Đông Dương? Tại sao kế hoạch Nava thất bại? Hiểu về nghệ thuật quân sự lấy yếu địch mạnh, lấy ít địch nhiều của ta. c. Tổ chức hoạt động nhóm Phương pháp hoạt động nhóm kích thích lòng ham mê học tập của học sinh, tránh lối học thụ động. Việc tranh luận để bảo vệ quan điểm của nhóm khiến cho học sinh hiểu vấn đề sâu hơn, nhớ lâu hơn. Từ phương pháp hoạt động nhóm còn rèn luyện cho học sinh các kĩ năng như: Kĩ năng hợp tác, kĩ năng hùng biện, kĩ năng xử lý tình huống. 14 Hoạt động nhóm không nhất thiết là mỗi nhóm một vấn đề bởi nếu tổ chức theo cách đó, sẽ không thể so sánh mức độ hoạt động giữa các nhóm, không gây ra tranh luận và các nhóm chỉ tìm hiểu một vấn đề của mình mà bỏ qua phần tìm hiểu kiến thức của nhóm khác. Để hoạt động nhóm hiệu quả giáo viên nên tung ra một vấn đề có tính mâu thuẫn để học sinh lựa chọn và bảo vệ quan điểm của nhóm mình trước sự phản đối của các nhóm khác. Ví dụ: trong bài 17. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà từ sau ngày 2/9/1945 đến trước ngày 19/12/1946 (Lịch sử 12). Mục II - Bước đầu xây dựng chính quyền cách mạng, giải quyết nạn đói, nạn dốt và khó khăn về tài chính. Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm và thảo luận vấn đề: Sau cách mạng tháng Tám, đất nước ta phải đối diện với muôn vàn khó khăn, đứng trước tình trạng “ngàn cân treo sợi tóc”. Trong các khó khăn về xây dựng chính quyền cách mạng, nạn đói, nạn dốt và khó khăn về tài chính; chúng ta nên đặt vấn đề giải quyết khó khăn nào lên hàng đầu? Vì sao? Hay với bài 24. Việt Nam trong những năm đầu sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước năm 1975 (Lịch sử 12). Mục III - Hoàn thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước 1975 - 1976; giáo viên có thể chia lớp thành 3 nhóm và thảo luận vấn đề: Sau thắng lợi mùa Xuân 1975, tại sao phải thống nhất đất nước? Không thống nhất có được không? Tại sao? Mỗi nhóm có thể sẽ đưa ra một quan điểm khác nhau và lập luận để bảo vệ quan điểm của nhóm mình. Cuối cùng, giáo viên sẽ tổng kết lại vấn đề. 3. Tiến hành thực nghiệm - Trong quá trình dạy học, tôi đã tiến hành thực nghiệm ở hai khối lớp 10 và 12 gồm: 12D, 12H (sĩ số 47) và 10D, 10M (sĩ số 40), không phải lớp chọn. Bài 18 (tiết 3): Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp 1946 - 1954 (Lịch sử 12) và bài 15: Thời Bắc thuộc và cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc từ thế kỷ II TCN đên đầu thế kỷ X (Lịch sử 10). - Cách thức thực nghiệm: + Lớp 12D và 10D: áp dụng sáng kiến + Lớp 12H và 10M: dạy học theo lối truyền thống “đọc - chép” - Kết quả thực nghiệm: qua khảo sát tôi đã thu được kết quả rõ rệt cả hai mặt ý thức trong quá trình thăm dò ý kiến và kết quả học tập thông qua bài kiểm tra ở cả hai khối lớp 10 và 12 như sau (trong sáng kiến này chỉ minh họa kết quả ở một khối - khối 12): 15 BẢNG ĐÁNH GIÁ Ý THỨC TRONG TIẾT HỌC Ý THỨC HỌC TẬP Không hào hứng SL (HS) Tỉ lệ (%) Lớp 12D Lớp 12H 4/47 42/47 Hào hứng, thích thú SL (HS) Tỉ lệ (%) 8,5 89,4 43/47 5/47 91,5 10,6 BẢNG ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP QUA KIỂM TRA KẾT QUẢ HỌC TẬP Lớp 12D Lớp 12H (%) Điểm khá, giỏi SL (HS) Tỉ lệ (%) 30/47 63,8 5/47 10,6 Điểm trung bình SL (HS) Tỉ lệ (%) 14/47 27/47 29,8 57,5 Điểm dưới trung bình SL (HS) Tỉ lệ (%) 3/47 15/47 6,4 31,9 Kết quả thể hiện bằng biểu đồ: 91,5% 89,4% 10,6% 8,5% Biểu đồ đánh giá ý thức trong tiết học % 63,8% 29,8% 6,4% 57,5% 31,9% 10,6% (Đối với hai lớp 10D và 10M cũng cho kết quả tương tự). Biểu đồ đánh giá kết quả học tập qua kiểm tra 16 Thông qua các số liệu trên, ta nhận thấy sự khác biệt rõ ràng giữa lớp đối chứng và lớp thực nghiệm về hiệu quả của việc áp dụng sáng kiến. Với kết quả trên, tôi rất vui khi thấy mình đã thành công với việc đổi mới phương pháp dạy học và tôi sẽ cố gắng học hỏi, tìm tòi để cho việc dạy và học môn Lịch sử ngày càng tốt hơn. PHẦN III/ KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 17 Hiện nay, một trong những quan điểm chỉ đạo đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục là chuyển từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực của người học, kết hợp hài hòa dạy chữ, dạy người và dạy nghề. Trong khi những vấn đề lớn như nội dung chương trình SGK chưa thể điều chỉnh trong ngày một ngày hai, thì giáo viên chính là người có thể khơi nguồn cảm hứng cho học sinh. Để làm được điều đó, người thầy cần tìm tòi, sáng tạo, linh hoạt kết hợp nhịp nhàng các phương pháp dạy học sao cho phù hợp với bài học, với đối tượng học sinh. Ngoài ra, trong từng tiết học có thể lồng ghép để rèn luyện cho học sinh kĩ năng sống, kĩ năng ứng xử, tính cập nhật thông tin, khả năng vận dụng kiến thức lịch sử vào cuộc sống. Những tấm gương anh hùng từ chính những câu chuyện lịch sử sẽ thôi thúc các em noi gương trong các phong trào thanh niên: “Mùa hè xanh”, “Thanh niên tình nguyện”, “Hiến máu nhân đạo”… góp phần vào xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó sẽ là hành trang quan trọng để các em vững vàng hơn, bản lĩnh và tự tin hơn khi rời ghế nhà trường bước vào cuộc sống. Để sáng kiến này được áp dụng hiệu quả, tôi xin đưa ra một số đề xuất sau: Thứ nhất: Các thầy cô giáo không ngừng trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, cập nhật thông tin thường xuyên và mạnh dạn thử nghiệm những phương pháp mới nhằm tạo ra những bài giảng hay, mới mẻ, tạo hứng thú đối với học sinh. Thứ hai: Các trường phổ thông nên trang bị hệ thống máy móc, thiết bị đầy đủ phục vụ cho giảng dạy và khai thác kiến thức của giáo viên. Thứ ba: Mong rằng trong lần biên soạn SGK sắp tới sẽ khắc phục được một số bất cập hiện nay, đáp ứng được với sự phát triển của xã hội. Sáng kiến mặc dù đã mang lại hiệu quả thiết thực song cũng không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý của đồng nghiệp. XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG Xin chân thành cảm ơn! ĐƠN VỊ Nga Sơn, ngày 20 tháng 05 năm 2015 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. Tác giả Nguyễn Tuấn Anh Vũ Thị Duyên 18 MỤC LỤC 1 2 3 ĐẶT VẤN ĐỀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Thực trạng của việc dạy và học Lịch sử ở trường THPT Ba Đình Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử ở trường THPT Ba Đình Tiến hành thực nghiệm KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 1 2 2 4 15 18 PHỤ LỤC VẬN DỤNG SÁNG KIẾN VÀO BÀI HỌC CỤ THỂ 1. Bài giảng thực nghiệm khối 12 19 Tiết 30. Bài 18 NHỮNG NĂM ĐẦU CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN TOÀN QUỐC CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1946 - 1950) I. MỤC TIÊU DẠY HỌC 1.1. Kiến thức - Học sinh biết: Hoàn cảnh lịch sử, diễn biến chính, kết quả và ý nghĩa của chiến dịch Biên giới thu - đông năm 1950. - Học sinh hiểu: + Đây là chiến dịch tiến công lớn đầu tiên của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp và can thiệp Mĩ. Từ sau chiến thắng Biên giới thu đông 1950, ta đã giành được thế chủ động trên chiến trường chính Bắc Bộ, đẩy địch ngày càng lún sâu vào thế bị động, đối phó. + Tại sao ta chọn Đông Khê làm điểm tấn công đầu tiên và mở màn cho chiến dịch? - Học sinh vận dụng: Nhận xét về nghệ thuật tác chiến của ta trong chiến dịch Biên giới thu đông 1950. 1.2. Tư tưởng - Giúp học sinh hiểu được bản chất của chủ nghĩa thực dân nói chung và thực dân Pháp nói riêng, từ đó có thái độ căm thù chủ nghĩa thực dân, niềm tự hào về tinh thần yêu nước, ý chí bất khuất của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập cho tổ quốc. Củng cố niềm tin vào Đảng và Hồ Chủ tịch. 1.3. Kĩ năng - Rèn luyện kĩ năng phân tích, so sánh, đánh giá và rút ra những nhận định lịch sử - Kĩ năng đọc lược đồ, kĩ năng khai thác tranh ảnh lịch sử. 1.4. Định hướng năng lực được hình thành - Năng lực chung: + Năng lực tự học: Phát hiện kiến thức cơ bản trong SGK. Khả năng hệ thống hóa kiến thức, so sánh, liên hệ. + Năng lực sáng tạo: Rút ra ý nghĩa của chiến dịch Biên giới thu - đông 1950. Nhận xét về nghệ thuật tác chiến của ta trong chiến dịch Biên giới thu đông 1950. + Năng lực hợp tác: Học sinh hợp tác với bạn bè để giải quyết vấn đề của bản thân hoặc cả nhóm. - Năng lực chuyên biệt: 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan