Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học phổ thông Skkn một số biện pháp nâng cao nghiệp vụ công tác của người giáo viên chủ nhiệm ...

Tài liệu Skkn một số biện pháp nâng cao nghiệp vụ công tác của người giáo viên chủ nhiệm lớp tại trường thpt

.DOC
28
121
125

Mô tả:

A. ĐẶT VẤN ĐỀ 1.1. Lời mở đầu: Ở trường phổ thông nói chung, trường THPT nói riêng, giáo viên chủ nhiệm (GVCN) lớp có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giáo dục đạo đức, nhân cách cho học sinh (HS). Việc giáo dục đạo đức, nhân cách và giáo dục kỹ năng sống cho học sinh có thành công hay không, phụ thuộc rất lớn vào tư chất, đạo đức và năng lực của thầy giáo, cô giáo, đặc biệt là GVCN lớp. Muốn giáo dục đạo đức, nhân cách và kỹ năng sống cho học sinh tốt, trước hết, mỗi thầy giáo, cô giáo phải giáo dục cho học sinh bằng sự nêu gương. Thầy giáo, cô giáo phải gương mẫu trong ứng xử, nhân cách, lối sống và cần phải có nghiệp vụ sư phạm giỏi. Có nghiệp vụ giỏi, thì bất kỳ dạy môn nào, giáo viên cũng có thể trang bị cho học sinh về nhân cách, kỹ năng sống theo cách của mình. Việc giáo dục này có thể bằng những nội dung trong giáo án, trong giờ chính khoá, hoặc bằng những nội dung ngoài giáo án, hay hoạt động ngoại khoá. Trường THPT Thường Xuân 2 là một trường thuộc vùng núi cao, đa số giáo viên từ những huyện khác đến công tác. Đầu mỗi năm học đội ngũ thường thay đổi do một số giáo viên thuyên chuyển công tác về quê, phải tuyển mới giáo viên. Nên đặc điểm lớn nhất của đội ngũ giáo viên nhà trường là trẻ, mới ra trường, mới bước chân vào nghề dạy học. Khi được phân công làm GVCN lớp, không ít giáo viên gặp khá nhiều khó khăn, lúng túng trong hoạt động chủ nhiệm lớp, bởi họ chưa được chuẩn bị một cách kỹ càng về mặt lý luận và đặc biệt là về mặt thực tiễn đối với hoạt động này. Chính vì thế, khi nhận trách nhiệm trước nhà trường việc quản lí toàn diện một lớp học, mỗi GVCN đều rất lo lắng, không thể ngay tức thời thích ứng với nhiệm vụ được giao. Để tạo sự định hướng thống nhất cho công tác GVCN lớp, giúp họ làm tốt hơn nữa công tác chủ nhiệm lớp, đồng thời giúp GVCN hoàn thành và đạt hiệu quả cao trong việc giáo dục nhân cách, kỹ năng sống cho học sinh chúng tôi chọn đề tài: "Một số biện pháp nâng cao nghiệp vụ công tác của người giáo viên chủ nhiệm lớp tại trường THPT Thường Xuân 2”. 1.2. Thực trạng về công tác chủ nhiệm và giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tại trường THPT Thường Xuân 2 1.2.1 Những khó khăn: - Trường THPT Thường Xuân 2 là một trường thuộc huyện miền núi cao. Học sinh vùng tuyển của trường gồm 6 xã thuộc vùng 135 và các xã đang được hưởng trợ cấp 30A của Chính phủ (trợ cấp cho nhân dân các vùng đặc biệt khó khăn) với 3 dân tộc: Thái, Mường, Kinh. - Năm học 2010 - 2011 toàn trường có 25 lớp. Trong đó: Khối 10 có: 9 lớp với 385 học sinh Khối 11 có: 9 lớp với 356 học sinh Khối 12 có: 7 lớp với 285 học sinh Tổng số học sinh toàn trường là 1026 em, trong đó: Số học sinh nữ: 492 em (chiểm 48%), học sinh dân tộc là 714 em (chiếm 70%). Chất lượng tuyển sinh đầu vào của nhà trường rất thấp (nhiều năm, điểm tuyển sinh vào lớp 10 là 4,0 - 4,5 điểm/3 môn thi). - Tình hình kinh tế của nhân dân, giao thông trên địa bàn gặp rất nhiều khó khăn. Phụ huynh chưa quan tâm nhiều đến sự nghiệp giáo dục nói chung và việc học hành của con em nói riêng. - Nhà trường chưa có nhà hiệu bộ, phòng học bộ môn. Trang thiết bị dạy học, sách thư viện, ... để phục vụ cho việc đổi mới phương pháp dạy học, tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp,... còn thiếu, chưa đồng bộ. - Đa số giáo viên của trường còn trẻ, ít kinh nghiệm trong giảng dạy, công tác chủ nhiệm, chưa được chuẩn bị một cách kỹ càng về mặt lý luận và đặc biệt là về mặt thực tiễn đối với công tác chủ nhiệm và chưa được đào tạo bài bản và chưa qua các khóa học giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. 2 Những khó khăn trên đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả, chất lượng công tác chủ nhiệm lớp và công tác giáo dục nhân cách và giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. 1.2.2. Những thuận lợi: - Thực hiện chỉ thị số 40/2008/CT-BGDĐT ngày 22/7/2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc phát động phong trào thi đua "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực" trong các nhà trường giai đoạn 2008 - 2013 và thực hiện Qui định "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực" ban hành kèm theo Quyết định số: 443/QĐ-SGD&ĐT ngày 19/8/2008 của Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Thanh Hóa. Trường THPT Thường Xuân 2 đã thành lập Ban chỉ đạo, xây dựng và tổ chức triển khai kế hoạch: "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực" giai đoạn 2008 - 2013 tại nhà trường, bước đầu đã đạt hiệu quả. - Năm học 2010 - 2011 là năm đầu tiên Bộ Giáo dục và Đào tạo đã biên soạn và ban hành bộ tài liệu về giáo dục KNS cho học sinh qua một số môn học và hoạt động giáo dục NGLL. - Sở GD&ĐT đã tập huấn đổi mới phương pháp giảng dạy, kiểm tra đánh giá bám sát chuẩn kiến thức, kỹ năng và tập huấn lồng ghép giáo dục KNS vào các môn học. - Đội ngũ giáo viên của trường đa số trẻ, khoẻ, đạt trình độ chuẩn trở lên, nhiệt tình giảng dạy và hăng hái trong các hoạt động tập thể. Luôn thân ái với đồng nghiệp và học sinh. - Sự phối hợp giữa nhà trường, các đoàn thể trong trường và Ban đại diện CMHS bước đầu đã đạt hiệu quả nhất định. 3 B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Từ thực tiễn công tác GVCN lớp, công tác giáo dục đạo đức, nhân cách và giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, trong năm học qua chúng tôi đã thực hiện một số biện pháp sau đây: 2.1. Hướng dẫn GVCN thiết lập kế hoạch, nội dung công tác chủ nhiệm lớp: Đây là nhiệm vụ trung tâm của GVCN lớp nhằm tổ chức có hiệu quả các hoạt động giáo dục học sinh lớp chủ nhiệm được nhà trường giao phó. Người GVCN muốn thành công trong hoạt động sư phạm của mình thì không thể giáo dục một cách chung chung, trừu tượng mà phải có các biện pháp cụ thể phù hợp với đặc điểm lứa tuổi, đặc điểm tâm lí, nhân cách của từng học sinh trong tập thể lớp. Muốn vậy, trước hết GVCN phải tìm hiểu hoàn cảnh, đặc điểm và điều kiện sống của học sinh lớp mình đến từng đối tượng học sinh. Cụ thể như: - Nghiên cứu hồ sơ của học sinh (Sơ yếu lí lịch gia đình, học bạ, sổ điểm, biên bản họp lớp, bản kiểm điểm, tự nhận xét, đánh giá của cá nhân …); Nghiên cứu kết quả học tập và hoạt động của học sinh (những bài kiểm tra, bài thi, báo tường, tranh vẽ, nhật kí, sản phẩm lao động, giáo dục thể chất …). - Quan sát những biểu hiện tích cực hay tiêu cực trong các hoạt động học tập, lao động, thể thao, văn nghệ, vui chơi … hằng ngày ; - Trao đổi, trò chuyện, trực tiếp hoặc gián tiếp với học sinh, với cán bộ lớp, Đoàn, Đội, với giáo viên bộ môn …, về những nội dung cần tìm hiểu. - Thăm gia đình học sinh và trò chuyện với phụ huynh để hiểu hoàn cảnh và có biện pháp giáo dục thích hợp. - Tiến hành điều tra và thực nghiệm tự nhiên …. GVCN lớp phải dùng nhiều biện pháp đa dạng để có thể thu lượm được tương đối đầy đủ thông tin lớn về lớp chủ nhiệm của mình làm cơ sở cho quá trình nghiên cứu, phân tích, xử lí những thông tin đó bằng nhiều hình thức khác 4 nhau để từ đó có được những xét, đánh giá và hiểu bản chất học sinh của mình. Cần ghi chép, theo dõi tiến trình phát triển của các em dưới dạng nhật kí công tác chủ nhiệm lớp. Công tác kế hoạch hoá đối với nhiệm vụ giáo dục của GVCN lớp thường bao gồm những nội dung cơ bản sau: - Thu thập và xử lý các dạng thông tin có liên quan tới nội dung hoạt động giáo dục (hệ thống mục tiêu giáo dục và dạy học của ngành, của trường ; các mục tiêu kinh tế - xã hội của địa phương ; những đặc điểm về các mặt đạo đức, học lực, xu hướng nghề nghiệp, hứng thú, sức khoẻ của học sinh lớp mình chủ nhiệm; những đặc điểm về hoàn cảnh gia đình học sinh, tập quán, phong tục và đặc điểm cộng đồng nơi học sinh ở ). Khi xây dựng kế hoạch chủ nhiệm ứng với một giai đoạn, một nhiệm vụ nào của công tác giáo dục, người GVCN cần quán triệt và nắm cơ bản một số vấn đề trọng tâm, như: + Mục tiêu, nhiệm vụ và kế hoạch năm học của trường. + Những đặc điểm nổi bật của đối tượng giáo dục. + Những đặc điểm về các mối quan hệ xã hội của mỗi học sinh và tập thể học sinh. + Những hoạt động của các tổ chức Đoàn, Đội. + Đặc điểm phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá … của địa phương. + Chiều hướng phát triển trong từng hoạt động của học sinh (thuận lợi, khó khăn): + Sự biến động của những yếu tố chi phối mặt hoạt động và các biện pháp điều chỉnh dự kiến. + Biện pháp theo dõi, kiểm tra, đánh giá hoạt động thực tiễn của học sinh. 2.2. Tăng cường công tác phối hợp với các lực lượng giáo dục trong trường cũng như các tổ chức đoàn thể, xã hội. 5 Trên thực tế, nếu thường xuyên, liên tục có sự phối hợp chặt chẽ giữa GVCN với các lực lượng giáo dục trong trong trường và các lực lượng xã hội sẽ tạo nên môi trường giáo dục lành mạnh, liên tục, khép kín tác động tới sự hình thành nhân cách của học sinh. Dưới đây là một số sự phối hợp: 2.2.1. Sự phối hợp của GVCN lớp với các lực lượng giáo dục trong nhà trường. Công tác chủ nhiệm lớp là một trong hệ thống các hoạt động giáo dục của nhà trường, nó chịu sự tác động và ảnh hưởng trở lại tới các hoạt động khác, vì thế công tác của người GVCN cần phải có được mối quan hệ gắn bó hữu cơ với những lực lượng giáo dục trong trường tuỳ thuộc vào chức năng của lực lượng đó nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp trong quá trình giáo dục học sinh lớp mình phụ trách. Những lực lượng giáo dục chủ yếu trong nhà trường mà GVCN lớp cần tập trung phối hợp đó là: Ban giám hiệu (BGH) và Hội đồng giáo dục (HĐGD) nhà trường, các GVCN trong trường, đặc biệt là các GVCN cùng khối lớp, các giáo viên bộ môn giảng dạy tại lớp, tổ chức đoàn TNCS của lớp và của trường. Dưới đây chúng ta sẽ đề cập tới những công việc phối hợp chủ yếu của GVCN ứng với những lực lượng giáo dục đó. 2.2.1.1. Công việc của GVCN với Ban giám hiệu và Hội đồng giáo dục nhà trường. Trong quá trình chỉ đạo, hướng dẫn học sinh lớp chủ nhiệm, GVCN cần phải thực hiện những công việc sau: + Tiếp nhận chủ trương, kế hoạch và những định hướng cho từng hoạt động cụ thể của BGH và HĐGD nhà trường. + Xây dựng kế hoạch và chỉ đạo triển khai thực hiện kế hoạch cho phù hợp với tình hình của lớp chủ nhiệm. Trong quá trình xây dựng và triển khai kế hoạch, nếu xuất hiện những khó khăn hoặc những tình huống đột biến không thể hoặc không thuộc quyền xử lý thì cần báo cáo kịp thời với BGH và HĐGD để 6 lấy ý kiến chỉ đạo, bổ xung, điều chỉnh kế hoạch hoặc thay đổi phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động, tận dụng sự hỗ trợ về tinh thần và vật chất của cấp trên. + Báo cáo kế hoạch hoạt động chủ nhiệm lớp theo định kỳ (cuối học kỳ, cuối năm học) hoặc đột xuất nếu có với BGH và HĐGD theo hướng dẫn chung của nhà trường (đánh giá, xếp loại học tập, rèn luyện đạo đức và các mặt hoạt động khác của từng học sinh và của cả lớp). + Đề đạt nguyện vọng chính đáng của học sinh lớp chủ nhiệm với BGH & HĐGD nhà trường, đề xuất các phương án giải quyết. + Phản ánh những ý kiến nguyện vọng của gia đình học sinh về sự đồng tình hay phản bác đối với những chủ trương, qui định của trường trong các mặt hoạt động giáo dục để Ban giám hiệu có sự xem xét, giải đáp hoặc sửa đổi cho phù hợp với thực tế. 2.2.1.2. Sự phối hợp của GVCN lớp với GVCN các lớp cùng khối. Trong những năm học trước đây nhà trường chỉ thành lập Hội đồng giáo viên chủ nhiệm. Từ năm học 2010 – 2011, để phát huy hơn nữa sự tương tác giữa các thành viên trong Hội đồng GVCN, đặc biệt là phát huy hết thuận lợi, mặt mạnh của học sinh cùng khối, nhà trường đã tổ chức những GVCN thuộc cùng một khối lớp thành một tổ chủ nhiệm khối lớp, có tổ trưởng phụ trách và sinh hoạt theo định kỳ hàng tháng, học kỳ và năm học; là thành viên thuộc tổ chủ nhiệm, mỗi GVCN cần thực hiện những công việc sau: + Bàn bạc, thống nhất với những thành viên thuộc tổ về nội dung, kế hoạch, cách thức, tiến độ các hoạt động chủ nhiệm tương ứng với những thời điểm cụ thể của kế hoạch năm học, trao đổi kế hoạch phối hợp với các khối chủ nhiệm khác trong trường. + Báo cáo hoạt động của lớp chủ nhiệm về các mặt giáo dục, đề xuất, thỉnh cầu sự giúp đỡ, phối hợp của các lớp cùng khối đối với một số công việc nhằm tạo phong trào, phát huy sức mạnh của cộng đồng khối lớp. 7 + Trao đổi những kinh nghiệm thành công hoặc thất bại, sáng kiến kinh nghiệm trong quá trình thực thi công tác chủ nhiệm của bản thân với đồng nghiệp để cùng chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau trong công tác chủ nhiệm. 2.2.1.3. Sự phối hợp của GVCN với các giáo viên bộ môn giảng dạy tại lớp chủ nhiệm. Các giáo viên bộ môn giảng dạy tại lớp chủ nhiệm là bộ phận có số thời gian làm việc tiếp xúc với học sinh nhiều nhất, có điều kiện hiểu biết năng lực, sở trường của mỗi học sinh đối với hoạt động chủ đạo của các em - hoạt động học tập. Vì thế việc phối hợp chặt chẽ giữa GVCN với giáo viên bộ môn trong công tác chủ nhiệm sẽ giúp cho GVCN nắm bắt tình hình học sinh thường xuyên, liên tục, cụ thể để từ đó có những tác động cần thiết tới việc giáo dục học sinh. Việc phối hợp của GVCN với giáo viên bộ môn được thực hiện thông qua những công việc sau: + Nắm bắt số lượng cụ thể giáo viên bộ môn dạy lớp chủ nhiệm, thời khoá biểu giảng dạy của mỗi người trong năm học. + Có hiểu biết cơ bản về tính cách, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, vai trò và vị thế của mỗi giáo viên trong trường, hoàn cảnh sống của họ. + Thường xuyên liên hệ mật thiết với giáo viên bộ môn để nắm bắt được thái độ, trình độ nhận thức, kết quả học tập của mỗi học sinh đối với bộ môn họ giảng dạy. + Thông báo cho giáo viên bộ môn tình hình phấn đấu rèn luyện của lớp chủ nhiệm, những mặt mạnh và mặt yếu của tập thể lớp, những học sinh có năng lực học tập tốt, những học sinh có năng lực học tập yếu kém, những học sinh có phẩm chất đạo đức cần phải lưu tâm, uốn nắn. + Phối hợp với giáo viên bộ môn tổ chức các hoạt động ngoại khoá phục vụ hoạt động dạy học, đồng thời tạo cơ hội để tập thể lớp có được môi trường giao 8 lưu giữa các thành viên trong lớp và tăng thêm khả năng nắm bắt tình hình thực tế xã hội cho mỗi học sinh. + Tổ chức học sinh trong lớp thăm hỏi, động viên các thầy, cô giáo giảng dạy tại lớp nhân các ngày lễ (ngày 8/3; ngày 2/9; ngày 20/10; ngày 20/11,…) hoặc những thầy, cô giáo có hoàn cảnh khó khăn. 2.2.2.3. Sự phối hợp của GVCN lớp với tổ chức Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và Hội Liên hiệp thanh niên học sinh nhà trường. Trong trường phổ thông, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là một tổ chức chính trị của tuổi trẻ học sinh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhằm thu hút những học sinh có quá trình rèn luyện đạt kết quả tốt trong học tập, tu dưỡng đạo đức, là những phần tử cốt cán trong lớp. Tổ chức Đoàn Thanh niên trong trường phổ thông có chức năng giáo dục thanh niên học sinh về lí tưởng, đạo đức cộng sản, có ý thức, thái độ và hành vi tốt của một công dân, siêng năng học tập, tích cực, tu dưỡng, phấn đấu, tự rèn luyện để trở thành những công dân tốt của xã hội. Nhiệm vụ của Đoàn thanh niên trong nhà trường là giáo dục, động viên đoàn viên thực hiện tốt hoạt động học tập, giữ vững trật tự, kỉ cương nề nếp học tập, sinh hoạt và các mối quan hệ giao tiếp giữa các cá nhân, giữa các tập thể, giữa giáo viên và học sinh, tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp phục vụ các nhiệm vụ chính trị của nhà trường và xã hội. Là một tổ chức nằm trong nhà trường, hoạt động của Đoàn thanh niên trong trường nói chung của chi đoàn nói riêng có tính độc lập tương đối với nhà trường. Tính độc lập của tổ chức đoàn Thanh niên trong nhà trường biểu hiện ở chỗ: nó là một tổ chức quần chúng của thanh niên học sinh; nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đoàn thanh niên là tự nguyện; cán bộ Đoàn trường và Ban chấp hành chi đoàn được bầu trong các kì đại hội và được đoàn cấp trên phê chuẩn; phương thức hoạt động của Đoàn trong nhà trường là vận động, thuyết phục, giáo dục, 9 cảm hoá. Tổ chức đoàn trong nhà trường tuân theo sự chỉ đạo của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh cấp trên. Tính thống nhất giữa Đoàn Thanh niên và nhà trường ở chỗ: mục tiêu giáo dục của nhà trường cũng đồng thời là mục tiêu hoạt động của Đoàn Thanh niên. Sự khác biệt trong việc thực hiện mục tiêu chỉ biểu hiện ở phương pháp và tổ chức hoạt động cho phù hợp với tâm sinh lý và đời sống xã hội của thanh niên. Vì thế sự phối hợp giữa nhà trường (giáo viên chủ nhiệm là đại diện) với tổ chức Đoàn thanh niên là cần thiết bởi tính thống nhất về mục tiêu và môi trường hoạt động diễn ra trong nhà trường dưới sự lãnh đạo của Đảng. Giáo viên chủ nhiệm (với tư cách là người đại diện cho lãnh đạo nhà trường), tuy không có quyền can thiệp vào công tác nội bộ của Đoàn, xong vẫn có trách nhiệm đóng góp, giúp đỡ cho các hoạt động của Chi đoàn như định hướng, điều chỉnh cho hoạt động của tổ chức Đoàn đi đúng mục tiêu giáo dục đã đặt ra theo qui chế phối hợp giữa nhà trường và Đoàn thanh niên. Hội liên hiệp Thanh niên học sinh là một tổ chức quần chúng của thanh niên học sinh nhằm tập hợp mọi thanh niên học sinh trong trường tạo cho họ có điều kiện hiểu biết lẫn nhau thông qua các hoạt động vui chơi, giải trí lành mạnh, học tập, trao đổi nhu cầu về đời sống và sự nghiệp trong tương lai … Hội liên hiệp Thanh niên học sinh, sinh viên được coi là một lực lượng giáo dục mà mỗi giáo viên chủ nhiệm cần thiết phải có sự phối hợp, cộng tác chặt chẽ để tạo thêm sức mạnh cho công tác giáo dục. Trong công tác chủ nhiệm, GVCN biết tận dụng sức mạnh giáo dục của Đoàn thanh niên và Hội liên hiệp thanh niên nhà trường; phối hợp tổ chức Chi đoàn (lớp) tự quản; xây dựng “đôi bạn cùng tiến”, tổ chức các hoạt động phong trào.. nhằm thu hút tuổi trẻ học đường vào các hoạt động lành mạnh, góp phần phát triển trí tuệ, thể chất, tình cảm và những năng lực về mọi mặt của các thành viên trong lớp, chống lại những hiện tượng tiêu cực, những thói quen và hành vi 10 xấu của một số phần tử chậm tiến trong tập thể cũng như những ảnh hưởng của các tệ nạn xâm nhập từ xã hội vào nhà trường. 2.2.2. Sự phối hợp của GVCN lớp với các lực lượng xã hội. Thực hiện tốt sự phối hợp giữa GVCN với các lực lượng xã hội cũng chính là thực hiện xã hội hoá giáo dục, một trong những giải pháp trọng yếu thực hiện chiến lược phát triểng giáo dục của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. 2.2.2.1. Sự phối hợp giữa GVCN với gia đình học sinh. Hiệu quả của quá trình hình thành nhân cách cho học sinh phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó việc phối hợp với các bậc cha mẹ và thân nhân của gia đình học sinh là yếu tố cần được coi trọng. Bởi vì, gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng cả đời người, là môi trường quan trọng giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách. Đảm bảo sợi dây liên kết gắn bó giữa nhà trường với gia đình là một đảm bảo cho việc thực hiện tính liên tục và đồng bộ trong tổ chức hoạt động giáo dục, vừa là sự bù đắp những tác động giáo dục mà trong điều kiện của nhà trường khó có thể làm được. Nội dung phối hợp giữa GVCN lớp với gia đình học sinh được thể hiện cả về hai phía. - Về phía GVCN lớp: + Giúp các bậc cha mẹ hiểu biết về mục tiêu giáo dục của nhà trường; đặc điểm hoạt động giáo dục của trường học; một số kiến thức về tâm - sinh lí của học sinh trong lứa tuổi con em họ; một số phương pháp tổ chức và giáo dục gia đình. + Kiện toàn Ban đại diện CMHS trong lớp (về nhân sự, về kế hoạch và những quy định về hoạt động của ban). + Lập sổ liên lạc giữa nhà trường và gia đình; Để thông tin thu được ở cả gia đình và nhà trường đảm bảo tính cụ thể, chính xác, cập nhật và thông suốt GVCN cần hướng dẫn cách sử dụng sổ liên lạc cho các bậc cha mẹ. + Xây dựng kế hoạch, nội dung về sự phối hợp giữa GVCN với gia đình trong từng giai đoạn của năm học. 11 + Thống nhất với gia đình về trách nhiệm quản lý, giáo dục của gia đình đối với con em họ trong thời gian sinh hoạt ở nhà, chế độ thông báo và hình thức thông báo tình hình của cả hai phía (thông qua Ban đại diện CMHS; gặp gỡ trực tiếp, liên lạc bằng thư từ, điện thoại,…). + Đánh giá các kết quả đạt được của mỗi học sinh về học tập, tu dưỡng đạo đức, những ưu và nhược điểm, những vấn đề đặc biệt cần lưu ý để thông báo cho gia đình các em được biết. - Về phía gia đình học sinh: + Chủ động và thường xuyên liên hệ với nhà trường, với GVCN trong công tác quản lý, giáo dục con em mình, để giúp nhà trường, GVCN nắm bắt tình hình hoạt động của các em trong thời gian sống với gia đình, ở địa phương. + Giúp đỡ giáo viên, đặc biệt là GVCN lớp có con em mình học tập về tinh thần, vật chất và kinh nghiệm, chuyên môn tuỳ theo thế mạnh và điều kiện có thể có được của gia đình. + Kết hợp cùng với nhà trường tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp (Câu lạc bộ, ngoại khoá …). + Thực hiện đúng kế hoạch giáo dục đã được thống nhất với nhà trường (hội họp; gặp gỡ trao đổi; ghi sổ liên lạc; thời điểm, biện pháp thực hiện các tác động giáo dục …). + Xây dựng gia đình ổn định, hạnh phúc để tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động học tập và quá trình rèn luyện, tu dưỡng của con em họ khi tới trường. 2.2.2.2. Sự phối hợp giữa GVCN lớp với các tổ chức ngoài xã hội. Các tổ chức đoàn thể, cơ sở sản xuất ngoài trường có tác dụng lớn tới hoạt động giáo dục học sinh, nếu có được sự hợp tác thường xuyên và hợp lí với những tổ chức, cơ sở đó. 12 Cộng đồng xã hội, dân cư, thôn xóm, làng bản, phố phường nơi học sinh sinh ra và lớn lên giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách của các em. Tại đây, những mối quan hệ thân tộc, bạn bè, tình làng nghĩa xóm được nảy nở. Sự liên kết giữa nhà trường với các tổ chức ngoài xã hội, với cộng đồng, địa phương, khu vực trong việc quản lí và giáo dục học sinh trên nhiều góc độ như giáo dục văn hoá, truyền thống lịch sử địa phương, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, thuần phong mĩ tục, tập quán … Ngoài ra, thực hiện việc phát huy, tận dụng sức mạnh tổng hợp mọi nguồn lực xã hội để giáo dục học sinh, GVCN cần liên kết với các lực lượng xã hội khác như các cơ quan hành pháp, quản lí xã hội (uỷ ban nhân dân, công an, toà án, Viện kiểm sát, quân đội ); các đoàn thể chính trị - xã hội (cấp uỷ Đảng địa phương, mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh, Hội nông dân …); các tổ chức, đơn vị kinh tế - xã hội (quốc doanh, tập thể và tư nhân); các cơ quan chức năng xã hội khác (bệnh viện, các cơ sở đào tạo nghề nghiệp,…). 2.3. Tiếp thu các chuyên đề giáo dục kỹ năng sống và tổ chức tập huấn cho giáo viên. 2.3.1. Chọn cử giáo viên cốt cán của trường đi học các chuyên đề giáo dục ngoài giờ lên lớp do Sở GD&ĐT tổ chức: - Thực hiện Kế hoạch bồi dưỡng cán bộ, giáo viên của Sở GD&ĐT, nhà trường đã chọn cử giáo viên tham gia các lớp tập huấn tại tỉnh, như: tập làm MC, múa hát sân trường,... lồng ghép giáo dục Tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh và các lồng ghép giáo dục kỹ năng sống vào các môn học. - Việc chọn cử giáo viên đi tiếp thu các chuyên đề bồi dưỡng nói chung, chuyên đề về giáo dục ngoài giờ lên lớp, giáo dục kỹ năng sống nói riêng gồm những giáo viên có kinh nghiệm, có khả năng tổ chức, truyền đạt kiến thức đã học và kinh nghiệm của bản thân tại các lớp tập huấn ở trường. 13 2.3.2. Tổ chức tập huấn cho giáo viên tại trường: BGH đã lựa chọn hình thức phù hợp: tập huấn tập trung, tự học, sinh hoạt tổ nhóm chuyên môn với phương châm là tăng cường thực hành, trao đổi kinh nghiệm, … Tổ chức tập huấn các chuyên đề, nội dung giáo dục kỹ năng sống cho tất cả giáo viên. Nhà trường qui định đây là một trong những nội dung tự học, tự bối dưỡng của giáo viên trong năm học. 2.4. Xây dựng và phát triển tập thể học sinh. Từ lí luận và thực tiễn giáo dục, trong công tác chủ nhiệm lớp ở các nhà trường hiện nay đã chứng tỏ rằng, muốn xây dựng một tập thể học sinh vững mạnh, GVCN cần tiến hành một số việc cơ bản sau: 2.4.1. Hình thành và củng cố bền vững các mối quan hệ đúng đắn trong tập thể học sinh. Quá trình hình thành và phát triển của tập thể học sinh, bao giờ cũng đi đôi với sự xuất hiện nhiều mối quan hệ phức tạp trong tập thể. Một tập thể vững mạnh là tập thể có những mối quan hệ phức hợp tốt đẹp như: - Những mối quan hệ phụ thuộc giữa giáo viên và học sinh, giữa người quản lí, lãnh đạo với mỗi cá nhân, giữa các cá nhân với nhau … Những mối quan hệ này phản ánh chức năng và sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các thành viên nhằm thực hiện mục đích chung của tập thể. - Những mối quan hệ thân ái, đoàn kết giữa bạn bè trong trường, trong lớp, trong các tổ, nhóm học sinh, trong Chi đoàn, các quan hệ thân mật giữa các bạn gái, bạn trai với nhau, giữa các bạn học có cùng chí hướng, cùng phấn đấu vì một mục tiêu, cùng lí tưởng, … - Những mối quan hệ riêng tư phản ánh tình cảm riêng tư giữa các cá nhân được hình thành trong quá trình học tập, trong lao động, trong các loại hình hoạt 14 động chung. Những quan hệ tình cảm trong sáng là động cơ mạnh mẽ thúc đẩy các cá nhân trong tập thể không ngừng tích cực phấn đấu vươn lên. Nghệ thuật của GVCN giỏi là phải kịp thời phát hiện các mối quan hệ phức tạp trong tập thể; biết nhận xét, đánh giá khách quan và củng cố bền vững, phát huy những mối quan hệ đúng đắn, những tình cảm trong sáng, tốt đẹp. Đồng thời cần phát hiện những quan hệ không trong sáng và khéo léo ngăn ngừa, khắc phục kịp thời những biểu hiện tiêu cực thường diễn ra trong tập thể. 2.4.2. Tổ chức tốt các loại hình hoạt động và giao lưu trong tập thể học sinh Một trong những đặc trưng cơ bản của tập thể học sinh là có các hình thức hoạt động và giao lưu phong phú, đa dạng. Đó là các loại hình hoạt động chung như học tập, lao động, hoạt động xã hội, hoạt động văn hoá, thẩm mĩ, vui chơi,… Thông qua việc tham gia tích cực các loại hình hoạt động đa dạng trong tập thể, mỗi cá nhân có điều kiện hiểu biết nhau; các mối quan hệ chức năng, quan hệ tình cảm thân ái, đoàn kết dần dần được hình thành và củng cố bền vững. Vì vậy, GVCN và các tập thể học sinh cần tổ chức thật tốt các hoạt động chung, trong đó hoạt động học tập là loại hình hoạt động cơ bản giữ vai trò chủ đạo. Cùng với hoạt động học tập, nên tổ chức cho các em chơi những trò chơi tương tác, những trò chơi dân gian để các em rèn luyện tính tập thể, khả năng làm việc nhóm; cho các em đi thăm quan các di tích lịch sử, thăm quan thắng cảnh; tham gia các hoạt động dọn vệ sinh bảo vệ môi trường; tham gia các trò chơi vận động, trò chơi đối kháng để từ đó xây dựng tinh thần chia sẻ, ý thức trách nhiệm. Nhân cách, kỹ năng sống của học sinh sẽ được hình thành một cách tự nhiên và hiệu quả trong chính những môi trường hoạt động cụ thể như vậy chứ không phải chỉ từ những bài giảng trên lớp. Các hình thức hoạt động tập thể khác cũng cần được tổ chức thường xuyên nhằm tạo môi trường để mỗi thành viên có điều kiện tham gia tích cực, có cơ hội giao lưu văn hoá và đóng góp công sức vì mục đích chung của tập thể. 15 Để kích thích tính tích cực tham gia các loại hình hoạt động và giao lưu trong tập thể học sinh,nhà trường đã phối hợp chặ chẽ với Công đoàn, Đoàn thanh niên, Hội liên hiệp thanh niên và Tổ nữ công tổ chức các phong trào thi đua theo những chủ đề nhất định hướng vào những ngày lễ lớn của dân tộc, những hoạt động xã hội chính trị, những phong trào của địa phương …, như: - Tháng 9: Chủ điểm Chào mừng ngày Quốc khánh 2-9 và Tháng khuyến học: + Giáo dục truyền thống yêu nước, tinh thần anh dũng quật cường của nhân dân Việt Nam thông qua hoạt động văn hóa – văn nghệ, Hội thi hát các bài ca Cách mạng cho đoàn viên, thanh niên. + Nhân chủ điểm tháng khuyến học, ngoài việc phát động công tác khuyến học, khuyến tài, kêu gọi cán bộ, giáo viên, nhân viên, phụ huynh và các nhà hảo tâm ủng hộ tinh thần, vật chất cho hoạt động Hội, còn chọn cử một số tấm gương học sinh nghèo, vượt khó báo cáo kinh nghiệm khắc phục khó khăn, vươn lên đạt kết quả cao trong học tập. - Tháng 11: Chủ điểm Chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11: + Tổ chức cho học sinh tri ân công lao dạy dỗ của thầy, cô giáo. + Tổ chức lồng ghép vào tiết sinh hoạt tập thể để học sinh ôn lại và tìm hiểu “Tôn sư, trọng đạo”. - Tháng 12: Chào mừng ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam và Ngày Hội quốc phòng toàn dân. + Tổ chức tìm hiểu truyền thống Quân đội nhân dân Việt Nam + Mời Cựu chiến binh nói chuyện + Tổ chức cho học sinh diễu hành, biểu dương lực lượng, luyện tập tính kỷ luật của anh Bộ đội Cụ Hồ. + Cũng trong tháng 12 còn có Ngày thế giới phòng chống AIDS, tổ chức cho học sinh thi tìm hiểu về AIDS, cách phòng chống AIDS. Tổ chức các tiểu phẩm tuyên truyền phòng chống AIDS. 16 - Tháng 2: Chào mừng ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam (3-2) - Tháng 3: Chào mừng ngày thành lập Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (26-3) - Tháng 4: Chào mừng ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30-4) - Tháng 5: Chào mừng ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-5) 2.4.3. Giáo dục truyền thống, xây dựng viễn cảnh và hình thành những dư luận tốt đẹp trong tập thể học sinh. - Vấn đề giáo dục truyền thống của quê hương, đất nước và con người Việt Nam cho thế hệ trẻ là nội dung giáo dục rất quan trọng của nhà truờng. Trong quá trình xây dựng tập thể học sinh, việc xây dựng phát huy truyền thống tốt đẹp của nhà trường, của lớp, của địa phương là một biện pháp hữu hiệu, có ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Thực tiễn giáo dục ở trường THPT Thường Xuân 2 trong nhiều năm qua chứng tỏ rằng, các biện pháp giáo dục học sinh thông qua việc phát huy truyền thống dạy tốt, học tốt của nhà trường, truyền thống hiếu học của dân tộc, truyền thống cách mạng, anh hùng bất khuất của quê hương … đã mang lại những hiệu quả giáo dục và dạy học đáng kể. Đặc biệt, việc xây dựng, giữ vững và phát huy truyền thống tốt đẹp của một lớp tiên tiến, Chi đoàn vững mạnh là niềm tự hào thúc đẩy nhiều thế hệ học sinh không ngừng phấn đấu vươn lên vì danh hiệu cao quý của đơn vị mình. - Cùng với việc giáo dục truyền thống, GVCN cần xây dựng các viễn cảnh tương lai cho mỗi cá nhân. Viễn cảnh là mục tiêu có thể đạt tới về một lĩnh vực hoạt động nhất định. GVCN có kinh nghiệm và nghệ thuật sư phạm điêu luyện thường nêu lên những viễn cảnh tầm xa, tầm trung bình và tầm gần phù hợp với nguyện vọng, ước mơ, lí tưởng của học sinh và động viên, khuyến khích, phát 17 huy tính tích cực hoạt động của các em nhằm hướng tới những mục tiêu, viễn cảnh tầm xa được xác định và biến nó thành hiện thực. Trong giáo dục tập thể học sinh, việc hình thành và phát huy những ảnh hưởng tích cực của các dư luận tốt đẹp trong tập thể về những phẩm chất, những nét tính cách những lối sống … của một cá nhân, một nhóm xã hội nào đó là rất quan trọng và cần thiết. GVCN cần hướng dẫn học sinh nhận xét, phân tích, đánh giá các dư luận và tự rút ra những kết luận, những bài học kinh nghiệm đối với bản thân. Đối với những dư luận về những biểu hiện phẩm chất, hành vi, thói quen xấu … cần có thái độ phê phán, thậm chí lên án một cách nghiêm khắc trong tập thể. Để thực hiện các nội dung nêu trên, giáo viên chủ nhiệm có thể sử dụng các phương pháp thích hợp để tìm hiểu học sinh (nhận biết đối tượng giáo dục); tổ chức tập thể lớp; đánh giá học sinh. 2.4.4. Đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống vào tiết sinh hoạt cuối tuần. Trong thời khóa biểu, tiết sinh hoạt tập thể cuối tuần của các lớp là bắt buộc. Thông thường, trong tiết sinh hoạt giáo viên chủ nhiệm thực hiện các nội dung: - Tiến hành kiểm điểm tình hình thực hiện kế hoạch của nhà trường, tình hình học tập, lao động và các hoạt động khác của lớp chủ nhiệm (kết quả thực hiện nề nếp, tác phong, ý thức và kết quả học tập của học sinh trong lớp,…). - Phổ biến nội dung, kế hoạch của trường, lớp trong tuần tiếp theo. Nhìn chung, những nội dung GVCN thực hiện trong các tiết sinh hoạt tập thể cuối tuần mang tính chất hành chính, không khí các tiết sinh hoạt khô khan, nặng nề và ít có tác dụng giáo dục học sinh. - Để tăng thêm thời lượng và có nhiều nội dung cho GVCN tổ chức các tiết sinh hoạt tập thể cuối tuần, nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục nhân cách, kỹ năng sống cho học sinh. Trong năm học qua, chúng tôi đã đưa nhiều nội dung giáo dục đạo dức, nhân cách và giáo dục kỹ năng sống cho học sinh vào tiết sinh hoạt tập thể cuối tuần, cụ thể: 18 + Ban giáo dục NGLL phối hợp với Hội đồng giáo viên chủ nhiệm xây dựng nội dung cho các tiết sinh hoạt cuối tuần. - Nội dung các tiết sinh hoạt: tập trung giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tập trung vào các chương trình: + Giáo dục bảo vệ môi trường + Giáo dục phòng chống ma túy – HIV/AIDS. + Giáo dục phòng tránh tai nạn, thương tích. + Giáo dục tình tương thân, tương ái, tình đoàn kết giúp đỡ nhau vươn lên trong tu dưỡng, rèn luyện và học tập. + Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh … (một số nội dung đưa vào tiết sinh hoạt, xem phần phụ lục). - Phương pháp tổ chức thực hiện: + Đối với các tình huống ứng xử: GVCN đọc tình huống: * Nếu có HS trả lời ngay, cho các học sinh khác góp ý kiến thêm. * Hoặc cho các tổ HS chuẩn bị từ 5’-7’, cử đại diện các tổ trả lời, các tổ khác bổ sung. + Với các nội dung giáo dục kỹ năng sống: GVCN cho học sinh chuẩn bị và cử đại diện thuyết trình, báo cáo (GVCN có thể chỉ định bất kỳ đại diện HS trong tổ thuyết trình: tăng thêm sự bất ngờ, gây tình huống và kiểm tra kỹ năng ứng xử của HS)… 19 C. KẾT LUẬN Việc nhìn nhận, đánh giá và đề cao đúng mức vai trò của GVCN trong công tác giáo dục đạo đức, nhân cách, kỹ năng sống cho học sinh có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Bởi vì trong thời đại ngày nay, chúng ta đang trong thời kỳ hội nhập, khoa học – kỹ thuật phát triển như vũ bão, ngoài giáo dục kiến thức cho học sinh chúng ta rất cần quan tâm tới giáo dục đạo đức, nhân cách và kỹ năng sống cho học sinh. Sau khi triển khai và và tổ chức thực hiện các giải pháp đã nêu, Ban giám hiệu nhà trường đã tiến hành điều tra trong tập thể giáo viên nhà trường và tập thể giáo viên chủ nhiệm lớp, kết quả điều tra như sau: Đối tượng Cán bộ, giáo viên toàn trường GVCN Kết quả đánh giá các biện pháp Rất tốt Tốt Khá TB 17/52 21/52 10/52 4/52 (32.7%) 10/25 (40.4%) 11/25 (25.0%) 2/25 (1,9) 2/25 (40.0%) (44.0%) (8.0%) (8.0%) Yếu Ghi chú 0 0 Trong quá trình triển khai các giải pháp nêu trên tại nhà trường, để đạt được hiệu quả cao trong công tác chủ nhiệm lớp, góp phần giáo dục đạo đức, nhân cách và kỹ năng sống cho học sinh. Cần phải đặt ra các yêu cầu: 3.1. Đối với cán bộ quản lý: - Cần có nhận thức đúng đắn về công tác giáo dục đạo đức, nhân cách và kỹ năng sống cho học sinh. Tổ chức, quán triệt cho tất cả cán bộ, giáo viên, nhân viên tham gia vào giáo dục đạo đức, kỹ năng sống cho học sinh. Tổ chức dạy đúng đủ chương trình giáo dục do Bộ GD&ĐT qui định. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan