MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận
1/ Tính hệ thống trong cấu tạo chương trình các môn học nói chung và các bộ
môn KHXH nói riêng trong trường học
2/ Mối quan hệ gần gũi giữa bộ môn Lịch sử với bộ môn Ngữ văn trong
chương trình ở bậc THPT
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN
1/ Thực trạng của kiến thức bộ môn
2/ Sự phong phú của nguồn thơ, văn, ca dao ... viết về Lịch sử hoặc liên quan
đến Lịch sử
3/ Thực tế học tập của học sinh nói chung và học sinh THPT nói riêng trong
những năm gần đây
2.3. Giải pháp
1. Bài 12 - chương II Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Namtừ năm 1919 đến
năm 19257
2. Bài 16 chương III Phong trào giải phóng dân tộc và Tổngkhởi nghĩa tháng
Tám (1939 - 1945). Nước Việt Nam Dân chủCộng hòa ra đời
2.4. Hiệu quả của SKKN
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị
Tài liệu tham khảo
I. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Môn Lịch sử có vai trò và ý nghĩa quan trọng đối với việc giáo dục thế hệtrẻ.
Qua học tập môn Lịch sử giúp hiểu biêt về quá khứ, hướng về nguồn cội dân tộc và
địa phương, giáo dục cho học sinh lòng tự hào, ý thức bảo tồn vàphát huy các giá trị
truyền thống, từ đó có ý thức trách nhiệm của mình đối với quê hương đất nước.
Trong thực tiễn dạy và học hiện nay ở hầu hết các trường THPT hiện nayđã
hình thành quan niệm trong phụ huynh và học sinh, thậm chí trong cả mộtbộ phận
cán bộ, giáo viên môn chính, môn phụ. Trong điều kiện nền kinh tếthị trường hiện
nay, vị trí “Ban C” đường đi hẹp hơn, nếu học ra trường lạikhó xin việc, thu nhập lại
không cao. Môn chính là Toán, Ngoại ngữ, Lý,Hóa, Sinh còn lại là môn phụ. Đối với
môn phụ mức độ quan tâm có nhưng ít,vì chỉ cần lên lớp là được - môn thuộc lòng,
không cần phải suy nghĩ nhiều,mất thời gian.
Học Lịch sử là quá trình nhận thức những điều đã diễn ra trong quá khứcủa xã
hội để hiểu về hiện tại và chuẩn bị cho tương lai. Học sinh không thểtri giác trực tiếp
những gì thuộc về quá khứ. Mặt khác, lịch sử là những sựviệc đã diễn ra, là hiện thực
trong quá khứ, là tồn tại khách quan không thểphán đoán hay suy diễn để biết lịch sử.
Học một tiết Lịch sử thường dễ gâychán học cho học sinh. Vì vậy nhiệm vụ của
người giáo viên là tái tạo, truyềntải nội dung bài học sao cho sinh động hấp dẫn, gây
hứng thú cho học sinh.Muốn thế người giáo viên phải luôn trau dồi kiến thức chuyên
môn nghiệp vụ,rèn chắc tay nghề.
Trong giai đoạn hiện nay xu hướng dạy học hiện đại với sự ứng dụng, kếthợp
của nhiều phương tiện, công nghệ hiện đại. Một trong những phươngpháp đang được
khuyến khích sử dụng, đặc biệt là trong đề án đổi mới giáodục - đào tạo theo nghị
quyết của TW Đảng là phương pháp dạy học tích hợp,liên môn. Trong quá trình
giảng dạy, giáo viên có thể linh hoạt sử dụng nhiều phương pháp cho phù hợp với nội
dung từng bài học cũng như trình độ nhậnthức của học sinh ở từng khối lớp. Trong
đó sử dụng phương pháp dạy học tích hợp, liên môn và linh hoạt sử dụng các phương
pháp khác. Tôi đã sửdụng phương pháp này và nhận thấy những tiết học này sinh
động hơn nhiềuso với cách giảng bài truyền thống cũng như khuyến khích được tinh
thần tíchcực hoạt động, tư duy của học sinh.
Vì vậy tôi chọn đề tài: Sử dụng phương pháp tích hợp kiến thức môn Ngữ văn
vào dạy bài: 12, 16 Lịch sử lớp 12 Ban cơ bản1.2. Mục đích nghiên cứu
Để nâng cao quá trình tiếp thu và tạo sự hứng thú cũng như khuyến khích tinh
thần tích cực, tư duy của học sinh trong quá trình học môn Lịch sử ở trường phổ
thông, từ đó nâng cao kết quả học tập bộ môn và đạt kết quả cao trong các kỳ thi nhất
là kỳ thi THPT Quốc gia.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài này khai thác và vận dụng một số kiến thức thơ, văn vào dạy bài12 và
bài 16 trong chương trình Lịch sử lớp 12 Ban Cơ bản.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận dạy học
Điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin
Thống kê, xử lý số liệu
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận
1/ Tính hệ thống trong cấu tạo chương trình các môn học nói chungvà các bộ
môn Khoa học xã hội (KHXH) nói riêng trong trường họcChúng ta đều biết, các môn
học trong nhà trường phổ thông là một hệ thốnghoàn chỉnh nhằm trang bị cho học
sinh kiến thức thuộc tất cả các môn, cáclĩnh vực ở mức độ, tính chất “ phổ thông”,
giúp các em có một hành trang cơbản làm tiền đề cho các cấp học cao hơn. Các môn
học đó không chỉ liên quanchặt chẽ với nhau mà còn tạo nên một hệ thống hoàn
chỉnh, khoa học. Cũng như bộ môn Khoa học tự nhiên ( KHTN), các môn học thuộc
KHXH như Vănhọc, Lịch sử, Địa lý … có vai trò hết sức to lớn trong việc hình thành
và giáodục nhân cách, đạo đức đối với học sinh nên lại càng liên quan và hệ
thốnghơn.
2/ Mối quan hệ gần gũi giữa bộ môn Lịch sử với bộ môn Ngữ văntrong chương
trình ở bậc THPT
Theo chúng tôi, thực ra cơ sở này vừa mang tính lý luận, vừa mang tính
thựctiễn. Suy cho cùng, đối tượng nghiên cứu của Văn học cũng như Sử học đềulà
Con Người. Văn học ngợi ca vẻ đẹp của non sông, đất nước, ca ngợi nhữngcon người
mang những phẩm chất tốt đẹp, cao quý cũng như đả kích, lên áncái xấu của họ thì
Lịch sử cũng ghi nhận công lao, đóng góp của những conngười ấy ( Nhân vật Lịch
sử) và phán xét nghiêm minh đối với những conngười có tội với dân, với nước.
Không phải ngẫu nhiên mà trong chương trìnhVăn học lại có phần Văn học sử và
trong chương trình Lịch sử lại có phần Lịch sử Văn học.
Khi chúng ta, tức là những giáo viên giảng dạy Lịch sử, giảng dạy đến sựkiện,
biến cố lịch sử nào, nhân vật lịch sử nào thì dù muốn hay không, chúngta cũng
thường liên tưởng đến những bài thơ, áng văn đã từng đề cập đến sựkiện đó, con
người đó mà chúng ta từng được đọc, được học. Trong thực tế, có không ít người vừa
là nhà Văn, nhà Thơ đồng thời là nhà Sử học mà BácHồ kính yêu của chúng ta là một
ví dụ điển hình.Nhà Văn hóa, Nhà Giáo dục lớn và là người nghiên cứu Lịch sử nổi
tiếng làtác giả của rất nhiều tác phẩm Thơ, Văn nổi tiếng: “Tuyên ngôn Độc lập”,“Vi
hành”, “Ngục trung nhật ký” … là những ví dụ tiêu biểu. Chính Ngườiđã từng dạy
rằng:“ Dân ta phải biết sử ta Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam” (Lịch sử nước
ta - Hồ Chí Minh)
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
1/ Thực chất của kiến thức bộ môn
“Lịch sử là sự kiện” – Đó là một tổng kết mang tính chất kinh điển.Bản thân
những sự kiện lịch sử vốn đã khô khan, nhất là những bài, nhữngchương viết về các
trận đánh có rất nhiều những con số về ngày, tháng, nămxảy ra sự kiện hoặc những số
liệu về các thành tựu đã đạt được trên mọi lĩnhvực. Để chuyển tải cho học sinh những
số liệu một cách khô cứng như vậy,đòi hỏi người giáo viên phải linh hoạt và sáng tạo
trong việc sử dụng phươngpháp. Thực tế cho thấy, trong những năm gần đây, giáo
viên giảng dạy mônLịch sử ở cấp THPT nói chung giảng dạy một cách khô khan,
cứng nhắc,nặng về cung cấp kiến thức, sự kiện một cách đơn thuần, do vậy không
gâyđược hứng thú học tập cho học sinh trong việc tiếp thu bài học. Mặt khác, tàiliệu
tham khảo cũng chưa đủ, nếu không nói là còn rất thiếu. Trong tình trạngđó, đại đa số
giáo viên THPT mới ra trường chỉ biết bám vào sách giáo khoamột cách lệ thuộc,
truyền thụ kiến thức đơn thuần theo phương pháp cũ, làmcho tiết học trở nên khô
khan đối với học trò. Đây cũng là một trong nhữngnguyên nhân chính làm cho học
sinh chưa yêu, chưa thích học môn Lịch sử.
Đối lập với thực trạng trên là một thực tiễn hoàn toàn khác, cá nhân tôicó hơn
10 năm liên tục giảng dạy khối 12. Điều đáng nói ở đây là tôi cũng đãtrải qua nhiều
môi trường giảng dạy. Từ thực tế đó tôi đã có điều kiện để dựgiờ nhiều và đồng
nghiệp cũng dự giờ của tôi nhiều. Qua đó tôi đã đúc rút rađược nhiều kinh nghiệm
quý giá cho bản thân, đó là khi áp dụng kiến thứcthơ, văn vào việc giảng dạy Lịch sử
rất gây hứng thú học tập cho học sinhtrong việc tiếp thu bài. Điều này cũng đã được
nhiều đồng nghiệp của tôi thừanhận và học hỏi sau khi họ dự giờ của tôi. Từ kinh
nghiệm này, nhiều giáoviên đã bước đâu mạnh dạn đưa thơ, văn vào trong bài giảng
nhằm minh họacho một số sự kiện Lịch sử trong bài dạy. Những tiết học như vậy trở
nên sinhđộng hơn hẳn. Khi giáo viên đọc thơ minh họa, cả lớp chăm chú lắng nghe
vàtỏ ra rất thích thú, sau tiết học nhiều em còn nhờ thầy, cô giáo đọc để chépvào sổ
tay. Những tiết học như thế đã để lại trong lòng các em những ấn tượng lâu bền. Chắc
chắn những sự kiện trong bài học Lịch sử sẽ lưu lại trongký ức các em sâu hơn, lâu
hơn. Qua trao đổi với các đồng nghiệp một cáchchân tình, tôi đã nhận được sự tán
thưởng nồng nhiệt của họ. Chính nhiềungười trong số các đồng nghiệp của tôi cũng
đã thừa nhận rằng họ đã thểnghiệm nhiều lần dạy hai cách một tiết học: một là dạy
chay – nghĩa là khôngvận dụng kiến thức thơ, văn, hai là có vận dụng kiến thức thơ,
văn vào trongtiết dạy thì thấy chất lượng hai tiết dạy hoàn toàn khác nhau, kể cả tâm
lý,hứng thú của người dạy, người học cũng hoàn toàn khác nhau.
2/ Sự phong phú của nguồn thơ, văn, ca dao, dân ca … viết về Lịchsử hoặc liên
quan đến Lịch sử.
Có thể nói, nền văn học nước ta đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, sứmệnh của
nó: phản ánh hiện thực, đặc biệt là Văn học hiện đại. Cách mạngtháng Tám thành
công năm 1945 đã làm đổi đời cho không biết bao nhiêunhân tài văn học. Hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ vĩ đại đemlại cho họ nguồn cảm hứng vô tận để
họ kịp thời đưa những sự kiện Lịch sửhào hùng của dân tộc lên trang giấy. Trong số
đó phải kể đến hai cây đại thụ,đó là lãnh tụ Hồ Chí Minh kính yêu và nhà thơ lớn Tố
Hữu. Tôi xin phépkhông liệt kê ra đây những tác phẩm, những công trình đồ sộ của
họ.
3/ Thực tế học tập của học sinh nói chung và học sinh THPT nói riêng trong
những năm gần đây.
Bước sang thập kỷ 90 của thế kỷ XX, Đảng và nhà nước ta thực hiệnchủ
trương đổi mới một cách toàn diện và sâu rộng. Nhờ đó bộ mặt kinh tế, xãhội nước ta
ngày càng phát triển mạnh mẽ, từng bước bắt nhịp và hòa nhậpvới cộng đồng quốc tế.
Tuy nhiên, trong khi chúng ta mở rộng cửa để đónnhận những luồng gió mới trong
lành, thì đồng thời cũng phải hứng chịukhông ít luồng gió độc. Một trong những
luồng gió độc đó là sự xâm nhập củatư tưởng hưởng thụ, lối sống thực dụng, cuốn
theo dòng thác đổi mới và pháttriển của đất nước, tư tưởng, lối sống đó đã len lỏi vào
tận học đường, gâykhông ít xáo trộn trong suy nghĩ, hành động của học sinh, sinh
viên. Một thực tế là trong những năm gần đây số học sinh dự thi vào các trường Sư
phạm,vào các ngành Xã hội thưa dần và tăng quá tải ở các ngành, các trường
Tựnhiên, Kỹ thuật… Một số lượng không nhỏ có suy nghĩ rằng, học các ngành:Ngân
hàng, Tài chính, Xây dựng, Điện tử, Viễn thông … khi ra trường dễkiếm việc làm
hơn, lương lại cao hơn, dễ kiếm tiền hơn. Chúng ta không phủnhận thực tế đó nhưng
rõ ràng bản thân các em đã hướng động cơ học tập vàoviệc làm giàu, chạy theo đồng
tiền. Khi đó nhu cầu hiểu biết về thơ, văn, lịchsử, về cội nguồn, về truyền thống …
dần dần phai nhạt và mất chỗ trong suynghĩ của các em học sinh. Tất nhiên môi
trường giáo dục của chúng ta cũngkhông thoát ra khỏi guồng quay đó của xã hội. Mặt
khác hiện nay cơ sở vậtchất cho giáo dục còn thiếu thốn nhất là phương tiện và đồ
dùng trực quanphục vụ trực tiếp cho dạy và học. Trong điều kiện đó, tôi không hy
vọng gìhơn là “sáng kiến kinh nghiệm” này sẽ góp một tiếng nói riêng và cung
cấpcho các đồng nghiệp một số kinh nghiệm tâm đắc được đúc rút từ lý luận vàthực
tiễn bản thân trong hơn 10 năm kinh nghiệm dạy học.
2.3. Giải pháp
1/ Bài 12 - Chương I: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm1919 đến
năm 1925.
a. Làm sáng tỏ tội ác của thực dân Pháp xâm lược cũng như nổi thốngkhổ của
nhân dân ta do chính sách bóc lột bằng cách mở đồn điền hết sức tànbạo.
“Cao su đi dễ, khó về
Khi đi trai tráng, khi về bủng beo”
“Cao su đi dễ, khó về
Mỗi cây vùi mỗi xác người công nhân” [4] (Ca dao chống Pháp)
Hoặc:“ Cha trốn ra Hòn Gai cuốc mỏ
Anh chạy vào Đất Đỏ làm phu
Bán thân đổi mấy đồng xu
Thịt xương vùi gốc cao su mấy tầng”[2] (Tố Hữu - SĐD)
b. Làm sáng tỏ: “Thuế khóa trong bất cứ thời gian nào cũng là nguồn bóclột
chủ yếu của thực dân, đế quốc nói chung và thực dân Pháp nói riêng đốivới nhân dân
Đông Dương”.
“Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân tanghèo nàn,
thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộngđất, hầm mỏ nguyên
liệu.
- Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng.
- Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lí, làm cho dân ta, nhất là dân càyvà dân
buôn, trở nên bần cùng.
- Chúng không cho các nhà tư sản ngóc đầu lên. Chúng bóc lột côngnhân ta
một cách vô cùng tàn nhẫn” [1] . (Tuyên ngôn Độc lập - Hồ Chí Minh)
Hoặc:
“... Thuế đến cả phấn son phường phố
Thuế môn bài, thuế đuốc, thuế đèn
Thuế nhà cửa, thuế chùa chiền
Thuế rừng tre gỗ, thuế tiền bán buôn
...
Trăm thứ thuế, thuế gì cũng ngặt
Thắt chặt dần như thắt chỉ xe”[4]
(Á tề á ca)
c. Làm sáng tỏ gương hi sinh anh dũng quên mình của liệt sĩ Phạm HồngThái
trong vụ ám sát Toàn quyền Méc – lanh.
Sau khi kể tóm tắt về tiểu sử và quá trình hoạt động cách mạng của Phạm Hồng
Thái và tường thuật cụ thể chi tiết vụ ám sát Toàn quyền Méc – lanh,giáo viên có thể
sử dụng đoạn thơ sau để khắc họa nhân vật trên.
“ Một tấm lôi đình kinh vũ trụTấm gan trung nghĩa động thần minh Chiếc thân
đã gửi cho dòng nướcTrang sử còn ghi mãi tính danh”[3] (Trần Huy Liệu - Từ điển
nhân vật lịch sử)Hoặc:“ Sống làm quả bom nổChết làm dòng nước xanh”[2] (Tố Hữu
- SĐD)
* Giáo viên nên lưu ý sau khi đọc xong phải cắt nghĩa cho các em hiểumột số
từ, khái niệm …2/ Bài 16 - Chương III: Phong trào giải phóng dân tộc và Tổngkhởi
nghĩa tháng Tám (1939 - 1945). Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòara đời
a. Khắc họa hình ảnh lãnh tụ Hồ Chí Minh và tình cảm của Người khi trởvề
quê hương sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước.
“Ôi sáng xuân nay, xuân bốn mốt
Sáng rừng Việt Bắc trắng hoa mơ
Bác về. Im lặng. Con chim hót
Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ” [2] .(Tố Hữu - SĐD)
b. Mở rộng thêm về Mặt trận Việt Minh, để khắc họa hình ảnh của Mặttrận
Việt Minh thực hiện chính sách của mình trong một “nước Việt Nam Dânchủ Cộng
hòa thu nhỏ” đầy tính ưu việt, có thể sử dụng đoạn thơ của Chủ tịchHồ Chí Minh:
“… Có mười chính sách bày ra
Một là ích nước, hai là lợi dân
Bao nhiêu thuế ruộng, thuế thân
Đều đem bỏ hết cho dân khỏi phiền
Hội hè, tín ngưỡng, báo chương
Họp hành, đi lại có quyền tự do
Nông dân có ruộng, có bò
Đủ ăn, đủ mặc, khỏi lo cơ hàn
Công nhân làm lụng gian nan
Tiền lương phải đủ, mỗi ban tám giờ
Gặp khi tai nạn bất ngờ
Thuốc thang Chính phủ bây giờ giúp cho
Thương nhân buôn bán nhỏ to
Môn bài thuế ấy bỏ cho phỉ nguyền
Nào là những kẻ chức viên
Cả lương đãi ngộ cho yên tấm lòng
Binh lính giữ nước có công
Được dân trọng đãi, hết lòng kính yêu
Thanh niên có trường học nhiều
Chính phủ trợ cấp trò nghèo, bần nho
Đàn bà cũng được tự do
Bất phân nam nữ đều cho bình quyền
Người tàn tật, kẻ lão niên
Đều do Chính phủ cấp tiền ăn cho
Trẻ em bố mẹ khỏi lo
Dạy nuôi, Chính phủ giúp cho đủ đầy” [1]
(Lịch sử nước ta - Tập 3 - Hồ Chí Minh)
c. Khắc họa kết quả đấu tranh của nhân dân ta và quyết tâm bảo vệ độc lập, tự
do, những thành quả mà nhân dân ta đã giành được trong tiến trình đấutranh cách
mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
“Sự thật từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứkhông
phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã
nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
- Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phảitừ tay
Pháp.
- Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ cácxiềng xích
thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh
đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độDân chủ Cộng hòa.
- Bởi thế cho nên, chúng tôi, Lâm thời Chính phủ của nước Việt Nammới, đại
biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát li hẳn quan hệ thực dânvới Pháp, xóa bỏ
hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về nước Việt Nam, xóabỏ mọi đặc quyền của Pháp
trên đất nước Việt Nam.
- Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng kiên quyết chống lại âm mưucủa bọn
thực dân Pháp.
- Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, mộtdân
tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dântộc đó phải
được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!
- Vì những lẽ trên, chúng tôi, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng:
- Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thànhmột
nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinhthần và lực
lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy[1] .
(Tuyên ngôn Độc lập - Hồ Chí Minh)
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Tôi áp dụng phương pháp trên ở 2 nhóm học sinh có lực học môn Lịchsử
tương đương nhau thông qua việc kiểm tra 15 phút, kiểm tra 1 tiết. Kêt quảthu được
như sau:
- Nhóm không sử dụng phương pháp trên (nhóm đối chứng)
LỚP
Sĩ số
12A1
12A2
43
46
Đạt yêu cầu
Số lượng
Tỉ lệ %
Không đtạ yêu cầu
Số lượng
Tỉ lệ %
- Nhóm thực nghiệm (sử dụng phương pháp mới)
LỚP
Sĩ số
Đạt yêu cầu
Số lượng
Tỉ lệ %
Không đtạ yêu cầu
Số lượng
Tỉ lệ %
12A1
12A2
43
46
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Đề tài này đã giải quyết được các vấn đề sau:
1. Việc vận dụng kiến thức thơ, văn vào giảng dạy lịch sử, theo kinh nghiệm
của bản thân tôi cùng nhiều đồng nghiệp khác đã được tham khảo ýkiến, là một việc
làm rất có hiệu quả, nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh, nhất là trong giai đoạn
hiện nay, khi việc học lịch sử, tìm hiểu lịch sử, nhận thức lịch sử đang có chiều
hướng giảm sút, xuống cấp. Ảnh hưởng củanền kinh tế thị trường, lối suy nghĩ, lối
sống thực dụng, hưởng thụ đang tácđộng mạnh mẽ đến từng học sinh. Cùng với sự
thiếu về phương tiện, thiết bịdạy học cũng như thái độ dạy học đối phó, đại khái, qua
loa của không ít giáo viên đã và đang là những trở ngại không nhỏ trong việc giảng
dạy nói chungvà dạy bộ môn lịch sử nói riêng.
2. Thơ, văn nói chung với ưu thế của nó: dễ thuộc, dễ đi vào lòng người ... sẽ là
một thế mạnh trong việc hỗ trợ đắc lực cho việc truyền thụ kiếnthức lịch sử. Thông
qua đó góp phần giáo dục đạo đức, lòng biết ơn đối với truyền thống, lãnh tụ, các anh
hùng liệt sĩ đã hi sinh, góp một phần xương máu của mình để làm rạng rỡ thêm lịch
sử nước nhà.
3.2. Kiến nghị
Trong đề tài này, tôi đã thể nghiệm, bước đầu mạnh dạn đúc kết thành lý
thuyết trước hết là để làm tài sản riêng cho mình, sau là bạn bè, đồng nghiệp, ai thấy
tâm đắc thì dùng, đơn giản vậy thôi. Chương trình còn lại của lớp 12 và của lớp 10,11
tôi sẽ tiêp tục nghiên cứu và trình bày trong những dịp thích hợp.
Chắc chắn rằng đề tài này sẽ còn những hạn chế, khiếm khuyết. Tôi rấtmong
được sự góp ý chân thành của đồng nghiệp, bạn bè để đề tài được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cám ơn!
- Xem thêm -