Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học phổ thông Skkn vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong giảng dạy môn gdcd lớp 10 ở trung...

Tài liệu Skkn vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong giảng dạy môn gdcd lớp 10 ở trung học phổ thông

.DOC
18
127
85

Mô tả:

A- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Đổi mới phương pháp dạy học là yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Nhằm tạo ra thế hệ học sinh năng động, sáng tạo, tự tin, có đủ năng lực, thuần thục kỹ năng làm việc, đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực của thị trường, ngành giáo dục đã triển khai bồi dưỡng giáo viên các phương pháp dạy học hiện đại gắn với kỹ thuật dạy học tích cực. Một trong những phương pháp đã và đang phát huy hiệu quả trong dạy học là phương pháp thảo luận nhóm. Phương pháp thảo luận nhóm có nhiều ưu thế trong dạy học, nhất là đối tượng học sinh bậc trung học phổ thông. Phương pháp này vừa có tác dụng khai thác tối ưu các phương pháp dạy học truyền thống, vừa phát huy các phương pháp dạy học hiện đại và đặc biệt là tận dụng mọi khả năng của kỹ thuật dạy học tích cực hiện nay. Góp phần làm cho tiết học sinh động, vui vẻ, nhẹ nhàng, tất cả học sinh đều làm việc. Thảo luận nhóm tạo ra mối quan hệ tương tác đồng thuận giữa thầy và trò, rèn cho các em kỹ năng hợp tác tập thể, hỗ trợ nhau giữa các thành viên trong việc tìm hiểu kiến thức. Ưu thế nổi trội của thảo luận nhóm là vừa phát huy hiệu quả vai trò trí tuệ tập thể, vừa khẳng định được vị trí của cá nhân. Trong suốt quá trình học tập một năm, ít nhất học sinh được làm trưởng nhóm để tổ chức thảo luận và trình bày kết quả trước lớp một lần. Cho nên, vị trí của cá nhân được đề cao trên cơ sở vai trò của cá nhân đó trong nhóm. Sự liên kết đặc biệt này tạo ra được sự đoàn kết, thấu hiểu, hỗ trợ nhau trong học tập. Vì thế, thảo luận nhóm còn được gọi là hình thức dạy học phân hóa nhằm tích cực hóa quá trình học tập của học sinh. Thảo luận nhóm được sử dụng rộng rãi và phát huy hiệu quả trong dạy học ở các trường trung học phổ thông. Lứa tuổi học sinh trung học phổ thông đang nằm ở pha có nhiều biến động, tâm lý thích khám phá, không muốn sự áp đặt từ người khác mà phải tự mình tìm tòi, sáng tạo. Các em vừa muốn hòa mình vào tập thể để học tập lẫn nhau, vừa muốn khẳng định khả năng của mình trước bạn bè. Điều này hoàn toàn phù hợp với yêu cầu của các hình thức thảo luận nhóm với các kỹ thuật dạy học hiện đại. Cho nên, khi áp dụng thảo luận nhóm được đa số học sinh hưởng ứng với thái độ tích cực, hợp tác chặt chẽ. Bộ môn GDCD lớp 10 ở trường trung học phổ thông là một môn học vừa khô, vừa dài, vừa khó bởi tính trừu tượng, khái quát hóa cao, đòi hỏi vừa phải có óc tượng tượng, vừa phải có vốn hiểu biết chung, vốn sống phong phú. Môn học này chỉ được phát huy hiệu quả khi áp dụng hình thức thảo luận nhóm. Ở đó, -1- học sinh sống với chính cuộc sống thật của mình để từ đó rút ra kiến thức lý luận chung và soi rọi vào cuộc sống để hình thành quan điểm, thái độ đúng. Trong thực tế, việc áp dụng phương pháp này còn nhiều khó khăn cả về nhận thức, cách thức đến điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị, tổ chức thực hiện. Khi áp dụng, giáo viên GDCD còn tỏ ra lúng túng cả trong hình thức phân nhóm, chọn lựa câu hỏi đến tổ chức thảo luận. Trong khi đó, môn học vốn đã khó, học sinh đã ngại học lại càng làm cho các em xa rời môn học hơn. Qua thực tiễn vận dụng thảo luận nhóm, bước đầu tôi đã đúc kết được một số kinh nghiệm về “Vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong giảng dạy môn GDCD10 ở trung học phổ thông” để cùng trao đổi với đồng nghiệp. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Làm rõ cơ sở lý luận của thảo luận nhóm trong giảng dạy GDCD. - Những thuận lợi, khó khăn trong vận dụng thảo luận nhóm để giảng dạy GDCD ở trường trung học phổ thông Ba Đình hiện nay. - Đề xuất các giải pháp khoa học cho việc vận dụng thảo luận nhóm trong giảng dạy môn GDCD lớp 10 ở trường trung học phổ thông. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Cách vận dụng thảo luận nhóm trong giảng dạy môn GDCD lớp 10 ở trường THPT Ba Đình từ năm học 2013- 2014 đến năm học 2014- 2015 4. Phương pháp thực hiện sáng kiến Để thực hiện đề tài, tác giả sử dụng hệ thống các phương pháp: phân tích, tổng hợp, so sánh, lịch sử và logic, thống kê, điều tra xã hội học… 5. Kết cấu của đề tài: Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của đề tài được triển khai 4 mục: 1. Một số vấn đề lý luận chung 2. Những thuận lợi, khó khăn khi áp dụng phương pháp thảo luận nhóm trong giảng dạy môn GDCD lớp 10 ở trường THPT Ba Đình 3. Biện pháp thực hiện thảo luận nhóm trong giảng dạy môn GDCD lớp 10 ở trường THPT Ba Đình 4. Kết quả thực nghiệm -2- II- NỘI DUNG 1. Một số vấn đề lý luận chung 1.1. Phương pháp và phương pháp thảo luận nhóm Theo cách hiểu phổ biến hiện nay, phương pháp là cách thức, quy trình, biện pháp tiến hành để đạt được mục tiêu đề ra. Phương pháp chính là hình thức vận động của sự vật nhằm làm cho nội dung của sự vật biến đổi. Theo quan điểm của triết học Mác - Lê nin, sự biến đổi của hình thức sự vật đến một giới hạn nhất định thì làm biến đổi nội dung của sự vật. Phương pháp dạy học (PPDH) là một hệ thống những hành động có mục đích của giáo viên nhằm tổ chức hoạt động nhận thức và thực hành của học sinh, đảm bảo học sinh lĩnh hội nội dung bài học. Trong lý luận dạy học, có rất nhiều phương pháp, trong đó có thể có 2 hệ thống phương pháp: truyền thống và hiện đại. Phương pháp dạy học truyền thống như: trực quan, thuyết trình, đàm thoại; phương pháp dạy học hiện đại như: vấn đáp tìm tòi, nêu vấn đề, thảo luận nhóm, theo dự án. Trong mỗi giờ dạy học, không bao giờ giáo viên sử dụng một phương pháp chuyên biệt mà phải sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp, trong đó phương pháp xuyên suốt là trực quan ( viết bảng, tranh ảnh, sách giáo khoa, các bài viết mẫu, các ví dụ mẫu, mô hình, thí nghiệm…), thuyết trình ( lời nói), hành vi cử chỉ, điệu bộ và tùy mỗi bài, mỗi chương, mỗi mục để có thể chọn lựa một phương pháp đặc trưng như nêu vấn đề, thảo luận nhóm. Tất nhiên, khi sử dụng các phương pháp, giáo viên nào cũng cố gắng khai thác tính ưu việt của mỗi phương pháp cho phù hợp đặc thù mỗi đơn vị kiến thức và đối tượng học sinh. Hiệu quả của việc sử dụng các phương pháp tùy thuộc vào kỹ năng và kinh nghiệm của mỗi giáo viên. Để nâng cao hiệu quả sử dụng các phương pháp dạy học, cần phải chú tâm sử dụng các kỹ thuật dạy học như kỹ thuật động não không công khai, kỹ thuật bể cá, kỹ thuật mảnh ghép, kỹ thuật khăn phủ bàn, kỹ thuật sơ đồ tư duy… Phương pháp thảo luận nhóm là tổ chức cho học sinh bàn bạc, trao đổi trong nhóm nhỏ. Thảo luận nhóm được sử dụng rộng rãi nhằm giúp cho mọi học sinh tham gia một cách chủ động vào quá trình học tập, tạo cơ hội cho học sinh có thể chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm, ý kiến để giải quyết một vấn đề có liên quan đến nội dung bài học. Phương pháp thảo luận nhóm được sử dụng rộng rãi trong giảng dạy hiện nay. Bởi vì chương trình sách giáo khoa hiện nay của bộ môn GDCD hầu như kiến thức đã cập nhật khá đầy đủ, toàn diện. Vì vậy, cần phải có phương pháp tổ -3- chức dạy học phù hợp để cuốn hút học sinh, phát huy vai trò chủ động, tích cực trong tìm hiểu, khai thác kiến thức của các em. Mặt khác, thực hiện thảo luận nhóm có tác dụng rèn luyện kỹ năng làm việc tập thể, kỹ năng tư duy độc lập sáng tạo và kỹ năng tự học, tự nghiên cứu. 1.2. Vai trò của phương pháp thảo luận nhóm Phương pháp thảo luận nhóm được hình thành từ những thập niên 90 của thế kỷ trước và được sử dụng phổ biến từ năm học 2006 – 2007 trong các trường phổ thông. Qua thực tiễn, thảo luận nhóm xuất phát từ yêu cầu phát triển các năng lực của nguồn nhân lực, nhất là rèn luyện các kỹ năng cá nhân. Yêu cầu của phát triển kinh tế đòi hỏi năng lực cá nhân và mối liên hệ hợp tác giữa các cá nhân trong dây chuyền phát triển. Do đó, ngay từ nhà trường, cá nhân phải hình thành được các năng lực tương tác. Học tập là quá trình cá nhân tự tìm ra kiến thức cho mình. Đó là những kiến thức thông qua tương tác với các cá nhân khác, với xã hội và thực tiễn mà có. Từ quan niệm về học, quan niệm về hoạt động dạy và phương pháp dạy học cũng thay đổi. Hoạt động dạy là hoạt động của giáo viên nhằm tổ chức và hướng dẫn hoạt động học của người học để họ tự khám phá và thực hiện nhiệm vụ học tập. Học tập chịu sự tác động của các tác nhân nhận thức, xã hội, văn hoá, liên nhân cách. Do vậy, dạy học phải tổ chức các dạng như tác động đa dạng cho học sinh tham gia, phải tạo ra các hoạt động dạy học đa dạng như tác động nhận thức cá nhân như tự phát hiện, tìm tòi, tự lĩnh hội; tác động xã hội, văn hoá như gắn việc học với hoàn cảnh cụ thể, với bối cảnh văn hoá và xã hội, thời đại; phải tạo ra các tác động tâm lí: sự hợp tác, gắn kết, chia sẽ trách nhiệm và lợi ích. Trong số các phương pháp dạy học đang sử dụng, phương pháp dạy học thảo luận nhóm có nhiều ưu thế trong thực hiện mục tiêu giáo dục hiện nay, tránh được lối học thụ động trên lớp, giáo viên thường đưa ra nhiều biện pháp để kích thích khả năng tư duy và sáng tạo của học sinh. Có thể nói, mô hình thảo luận nhóm sẽ giúp cho học sinh cố gắng tìm hiểu và phát biểu trong nhóm của mình để trình bày cho cả lớp, đồng thời tinh thần hợp tác trong nhóm sẽ được phát huy và hỗ trợ lẫn nhau giữa các thành viên trong nhóm. Như thế, khi một vấn đề được đem ra thảo luận trách nhiệm nghiên cứu và tìm hiểu vấn đề sẽ được thông qua trong nhóm và dù cho vấn đề được giải quyết đúng hay sai trước khi có nhận xét của nhóm khác và sau cùng là của thầy cô, vấn đề đó đương nhiên đã tạo sự chú ý và cố gắng tìm hiểu ở mỗi thành viên và việc học tập do vậy sẽ tích cực hơn. Do đó, việc học tập sẽ mang lại kết quả tốt hơn, tránh được học sinh chỉ biết ngồi nghe thầy cô một cách thụ động và đương nhiên trong trường hợp như thế kết quả học tập sẽ không mang lại như ý muốn. Khi nhóm -4- thảo luận hoạt động dưới sự giám sát của thầy cô giáo, những thói quen xấu như nói chuyện riêng, thiếu tập trung, đùa giỡn…sẽ bị hạn chế tối đa. Động lực trong nhóm sẽ được phát huy và những động lực tiềm tàng nơi mỗi cá nhân có môi trường được bộc lộ. Trong khi thảo luận nhóm, việc giao lưu giữa các học sinh đương nhiên diễn ra. Thông thường thì trong một nhóm sẽ có những học sinh khá hơn những học sinh còn lại. Đây cũng chính là cơ hội để cho học sinh học tập lẫn nhau (học thầy không tày học bạn) và khi được thầy cô tổng kết giải đáp học sinh sẽ hiểu bài hơn, nhớ lâu hơn và vì vậy việc học tập mang lại kết quả tốt hơn. Như vậy, phương pháp thảo luận nhóm một mặt vừa chú trọng phát huy tính tích cực cao, tính chủ động của học sinh; mặt khác lại chú trọng sự phối hợp, hợp tác cao giữa các học sinh trong quá trình học tập, cần kết hợp năng lực cạnh tranh và năng lực hợp tác ở học sinh. Để sử dụng có hiệu quả phương pháp thảo luận nhóm, giáo viên cần phải chú trọng xây dựng trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm nhóm, xây dựng vị thế của mỗi học sinh trong nhóm và trong lớp, hình thành khả năng làm việc nhóm cho học sinh. 1.3. Thực tiễn khi sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong giảng dạy môn GDCD lớp 10 ở trường THPT 1.3.1. Đặc điểm tâm lý, nhận thức của học sinh lớp 10 Học sinh lớp 10 THPT ở lứa tuổi 15-16. Đây là độ tuổi đang ở giai đoạn dậy thì, giai đoạn phát triển mạnh cả về tâm lý và sinh lý. Các em say mê học tập, hứng thú tìm hiểu xung quanh để tự khẳng định mình. Đa số các em tiếp thu nhanh, sáng tạo, khả năng vận dụng kiến thức bài học vào giải quyết các dạng bài tập tốt. Song vốn sống, vốn kinh nghiệm thực tiễn còn quá ít. Khả năng tư duy khái quát hóa của các em còn rất hạn chế. Các em chưa biết cách tự học, tự nghiên cứu, tự tìm tòi, chưa có phương pháp tiếp cận những vấn đề mới, nhất là vấn đề lý luận. 1.3.2. Đặc trưng của bộ môn GDCD lớp 10 bậc THPT Môn GDCD lớp 10 bậc THPT quy định có 2 phần: Phần 1 Công dân với việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học. Phần 2: Công dân với đạo đức. Thời lượng giảng dạy là 35 tiết, học kỳ I là 18 tiết và học kỳ II là 17 tiết. Mỗi học kỳ thực hiện 1 phần. Môn GDCD lớp 10 trang bị cho học sinh kiến thức triết học, đạo đức dưới dạng khái lược. Thể hiện nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, về quan niệm các chuẩn mực đạo đức tiến bộ của dân tộc. Vì vậy, kiến thức rất trừu tượng, mang tính khái quát hóa cao. Đòi hỏi các em nắm vững kiến thức bộ môn, hiểu sâu sắc bản chất của những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy -5- vật biện chứng và lịch sử, các quan niệm đạo đức. Từ đó, vận dụng vào thực tiễn cuộc sống sinh động để phân tích, so sánh, đối chứng và đánh giá đúng bản chất, quy luật của các hiện tượng cuộc sống xung quanh. Để làm được điều đó, kiến thức các bộ môn khoa học trong nhà trường là rất quan trọng, là phông nền để hiểu biết sâu sắc kiến thức môn GDCD. Vì vậy, trong giảng dạy GDCD phải truyền thụ kiến thức cho các em đi từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó, từ cụ thể, sinh động đến tư duy trừu tượng. Để giảng dạy GDCD lớp 10 hiệu quả đòi hỏi người dạy phải chuẩn bị công phu, phương pháp linh hoạt, có vốn sống phong phú, hiểu biết xã hội rộng, kinh nghiệm tích lũy trong giảng dạy phải nhiều. Người dạy phải biết gắn kiến thức lý luận với thực tế, đi từ thực tế để rút ra kiến thức lý luận. Phải tổ chức các hình thức dạy học phong phú, sử dụng rộng rãi các kỹ thuật dạy học hiện đại nhằm phân hóa học sinh. 1.4 Các bước tiến hành thảo luận nhóm Có 4 bước tiến hành thảo luận nhóm: Bước 1: Sau khi chia nhóm, giáo viên giới thiệu nội dung và cung cấp thông tin,định hướng cho việc thảo luận và đề ra nhiệm vụ cụ thể cho các nhóm. Bước 2: Thảo luận nhóm: từng nhóm ngồi từng cụm với nhau để dễ dàng trao đổi ý kiến, giáo viên dẽ dàng quan sát, động viên hoặc gợi ý nếu cấn trong khi cả nhóm đang thảo luận. Nhóm trưởng có nhiệm vụ thu thập các ý kiến trong nhóm để báo cáo trước lớp. Bước 3: Thảo luận lớp: các nhóm báo cáo trước lớp, nếu cần các nhóm có thể thảo luận với nhau để đi đến kết luận. Bước 4: Giáo viên tổng kết và khái quát kết quả bài học. 2. Những thuận lợi, khó khăn khi áp dụng phương pháp thảo luận nhóm trong giảng dạy môn GDCD lớp 10 ở trường THPT Ba Đình 2.1. Thuận lợi Các em học sinh đã làm quen với phương pháp thảo luận nhóm ở các môn học và các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở bậc THCS. Đây thực chất là hoạt động trao đổi bài, thể hiện ý chí cá nhân trong giờ học được tổ chức có mục đích. Thông qua hoạt động nhóm các em thi đua bọc lộ, thể hiện hiểu biết của mình trước các bạn trong nhóm. Phương pháp thảo luận nhóm góp phần làm cho giờ học sinh động, gây hứng thú, kích thích tư duy, tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh. Phương pháp này phù hợp với chương trình môn Giáo dục Công dân lớp 10. Giáo viên các nhà trường nói chung, giáo viên GDCD nói riêng đã được tập huấn nhiều đợt về đổi mới phương pháp dạy học và kỹ thuật dạy học hiện -6- đại. Các nhà trường trên cơ sở đó đã triển khai đồng bộ cho giáo viên và tổ chức thực nghiệm trong các giờ học, trong các đợt thao giảng, hội giảng của các môn học. Vì vậy, giáo viên đã quen thuộc với thảo luận nhóm. Đối với trường THPT Ba Đình, giáo viên GDCD có thuận lợi là phong trào soạn giảng theo tinh thần đổi mới phương pháp được triển khai sâu rộng. Nhà trường có đủ cơ sở vật chất như máy tính, máy chiếu đa năng, phòng học bộ môn, các phương tiện dạy học hiện đại trang cấp khá đầy đủ cho các lớp. Do đó, giáo viên có nhiều thuận lợi trong việc tổ chức thảo luận nhóm cho học sinh. 2.2. Khó khăn Nội dung môn GDCD 10 có nhiều vấn đề mới, trừu tượng, khô, khó, dài. Năng lực học tập của học sinh trong 1 lớp không đồng đều. Việc soạn giảng đòi hỏi mất nhiều thời gian, chuẩn bị nhiều thiết bị. Tâm lý học sinh ngại học môn GDCD. Vì lý do đó, giáo viên không hứng thú khi vận dụng phương pháp này trong giảng dạy. Về công tác tổ chức lớp học: Các giờ học chủ yếu thảo luận theo 1 hình thức đơn điệu là phân nhóm theo tổ, chưa chú ý đến các đối tượng khác như sở thích, năng lực, giới tính, nhóm bàn hay địa bàn sinh sống. Phân công tổ trưởng, người đại diện trình bày kết quả thảo luận thường chỉ chú trọng đến 1 vài em có năng lực học khá mà ít để các em tự bình bầu hay cử đại diện hoặc thực hiện luân phiên. Lâu dần, các em khác không đủ tự tin để trình bày hay nhận xét. Về hình thức tổ chức thảo luận: Lâu nay, các giờ học chủ yếu có 2 hình thức hoặc là tất cả các nhóm cùng thảo luận 1 nội dung, 1 nhóm trình bày và các nhóm khác nhận xét hoặc là mỗi nhóm 1 nội dung thảo luận. Thời gian giành cho thảo luận chỉ từ 1-2 phút. Khi đặt ra yêu cầu thảo luận, giáo viên hầu như không hướng dẫn cách thảo luận mà cứ tung vấn đề ra và học sinh tiến hành. Hơn nữa, vì nội dung câu hỏi này trong các giờ học trước, giáo viên chưa nêu ra, do đó, trong khoảng thời gian rất ngắn, học sinh chưa nhận thức được kiến thức cần tìm hiểu. Về phạm vi và mức độ kiến thức cần tìm hiểu: Các giờ học có sử dụng thảo luận nhóm chỉ mới dừng lại ở mức độ yêu cầu học sinh tái hiện kiến thức mang tính hàn lâm trong sách giáo khoa mà ít chú ý đến ý thức, thái độ, khả năng vận dụng kiến thức của học sinh vào đánh giá, nhận xét các tình huống trong thực tiễn cuộc sống. Do đó, học sinh cảm thấy học bộ môn xa rời cuộc sống, không thấy được mối liên hệ, tác dụng của học triết học, đạo đức đối với định hướng trong cuộc sống con người. Đây là phần khó trong chương trình vì học sinh thiếu sự trải nghiệm, thiếu sự chủ động và do đó giáo viên tỏ ra ngại khi thực hiện phần này. -7- Về câu hỏi thảo luận: Hệ thống câu hỏi chuẩn bị cho thảo luận chưa phân định các mức độ dễ, trung bình, khó, rất khó để phù hợp với năng lực của từng nhóm và từng lớp ở các trình độ tương ứng của mỗi lớp. Do vậy, khi thảo luận, có lớp trình bày rất tốt song có lớp không đáp ứng được yêu cầu. 3. Biện pháp thực hiện thảo luận nhóm trong giảng dạy môn GDCD lớp 10 ở trường THPT Ba Đình 3.1. Tìm hiểu học sinh, phân nhóm lớp Đầu năm học, giáo viên bộ môn cần tìm hiểu học sinh về: số lượng học sinh, giới tính, địa bàn sinh sống, năng lực học tập bộ môn, hiểu biết xã hội, tính cách, vị trí chỗ ngồi, cán bộ lớp, chi hội thanh niên, cán sự bộ môn, tổ trưởng tổ phó, sở thích nhóm cá nhân….Trên cơ sở tìm hiểu để phân nhóm sao cho số thành viên các nhóm tương đối đều nhau. Thông thường, với lớp 45 học sinh thì mỗi tổ có thể từ 10-11 em. Theo Điều lệ, mỗi tổ có 1 tổ trưởng và 1 đến 2 tổ phó. Căn cứ phân nhóm: + Theo tổ của lớp: thành 4 nhóm, nhóm trưởng vừa là người tổ chức cho nhóm thảo luận, vừa là người đại diện trình bày và điểm của tổ được tính cho nhóm trưởng. Vì vậy, nhóm trưởng thực hiện luân phiên để có điểm kiểm tra miệng trong sổ ghi đầu bài. + Theo dãy bàn: Mỗi lớp có 2 dãy bàn dọc theo lớp, mỗi dãy có 6 bàn, mỗi bàn có 3- 4 học sinh. Vì vậy, có thể chia thành 4 nhóm hoặc 2 nhóm. Nếu 4 nhóm thì cứ 3 bàn liền nhau là 1 nhóm, nếu 2 nhóm thì mỗi dãy bàn dọc theo lớp là 1 nhóm. Nhóm trưởng do các nhóm đề xuất căn cứ điểm số mà người đó chưa đạt ở các kỳ thảo luận trước. + Theo giới tính: Nếu lớp có số nam, nữ tương đương thì có thể chia thành nhóm nam và nữ, nếu số nam nữ quá chênh lệch thì không thực hiện được tiêu chí này + Theo năng lực: Nhóm năng lực thấp, trung bình, cao hoặc phân nhóm năng lực ở dạng thông hiểu, vận dụng, tổng hợp nhận xét, đánh giá. + Theo sở thích: Có thể bằng câu hỏi trắc nghiệm dưới dạng đúng sai, trả lời ngắn hoặc bày tỏ quan điểm cá nhân trước một tình huống cụ thể, giáo viên có thể phân thành các nhóm sở thích khác nhau như: nhóm sở thích tại sao?, nhóm sở thích như thế nào? Nhóm sở thích ý nghĩa tác dụng? Nhóm sở thích trách nhiệm của tôi và chúng ta?....Đặc trưng của nhóm sở thích “tại sao” chính là việc làm rõ nguyên nhân, “như thế nào” là quá trình diễn biến, “ý nghĩa tác dụng” là nêu vai trò và “trách nhiệm của tôi, chúng ta” là nêu trách nhiệm của mỗi người trước mục tiêu, nhiệm vụ mà bài học đặt ra. Đây là quá trình thống nhất trong toàn bộ nội dung bài học. -8- + Theo nhóm địa bàn sinh sống: Nga Sơn có 3 vùng: vùng đồng chiêm trũng, vùng đồng màu và vùng cói. Tùy theo số học sinh cụ thể mỗi vùng trong lớp để phân nhóm phù hợp. Vùng chiêm trũng gồm các xã Nga Thắng, Ba Đình, Nga Vịnh, Nga Trường, Nga Lĩnh, Nga Thiện, Nga Thạch; vùng cây màu là các xã Nga Yên, Nga Mỹ, Thị Trấn, Nga Hải, Nga Trung, Nga Hưng, Nga Nhân, Nga An, Nga Thành; vùng cói và biển gồm: Nga Thủy, Nga Thanh, Nga Liên, Nga Tân, Nga Bạch, Nga Điền, Nga Tiến, Nga Thái, Nga Phú. Đặc trưng của học sinh vùng cói là đại đa số theo đạo Thiên chúa, do đó tâm lý học sinh hướng thiện, tin tưởng vào các giá trị chuẩn mực con người và xem đó là biểu tượng thiêng liêng. Học sinh vùng màu chịu ảnh hưởng nhiều của triết lý phật giáo, coi trọng tôn ti trật tự, phép tắc chuẩn mực của gia đình. Học sinh vùng chiêm trũng giao thoa giữa văn hóa tôn giáo đạo Phật với đạo Thiên Chúa và một phần là ý chí của khởi nghĩa Ba Đình. Phân chia nhóm này rất có ý nghĩa khi dạy phần công dân với đạo đức. Việc phân nhóm là cần thiết và tùy vào mỗi bài để chọn nhóm cho phù hợp. Khi tổ chức nhóm rất cần linh hoạt trong 1 tiết và giữa các tiết nhằm tạo ra không khí sinh động cho bài học, tạo không gian mở để phát huy hiệu quả năng lực sáng tạo của học sinh. Tuy nhiên, trong 1 tiết nên chọn 1 hoặc cùng lắm là 2 hoạt động nhóm là vừa, không nên quá lạm dụng vào hình thức này. Việc phân nhóm để thảo luận chính là một hình thức của dạy học phân hóa mà các nhà trường đã và đang thực hiện. Thực hiện điều này sẽ tạo ra mối quan hệ tương tác hợp lý, hiệu quả, phát huy tối đa năng lực, sở trường của từng học sinh trong việc khai thác kiến thức bài học và cũng phát huy khối đoàn kết nhất trí trong tập thể. Điều này cũng tạo ra sản phẩm giáo dục đa dạng, phù hợp yêu cầu của lao động sản xuất và nhân cách công dân trong xã hội. 3.2. Chuẩn bị đồ dùng, phương tiện để lên lớp Đồ dùng cho các nhóm thảo luận gồm: - Tranh ảnh, mô hình, mẫu vật - Bút lông, thước kẻ, compa, giấy A0-A3, nam châm hút bảng từ để treo tranh. - Máy tính để trình chiếu các đoạn video, tranh ảnh mô phỏng - Sách giáo khoa, phấn mầu và các phương tiện khác Các đồ dùng và phương tiện một phần do giáo viên chuẩn bị, một phần giao cho các nhóm tự chuẩn bị. Trước khi đến tiết thảo luận, giáo viên phải yêu cầu học sinh chuẩn bị phương tiện và các nội dung liên quan đến câu hỏi để học sinh chuẩn bị trước. Chỉ khi nào có đủ các điều kiện nêu trên thì mới có khả năng tổ chức thảo luận thành công. -9- Phương tiện để thảo luận giáo viên có thể đăng ký với bộ phận phụ trách thiết bị để mượn trước. 3.3. Soạn giáo án trước khi lên lớp Khi soạn giáo án phải xác định những vấn đề sau đây: - Mục tiêu của hoạt động nhóm? - Chia nhóm theo hình thức nào? - Câu hỏi thảo luận cho các nhóm - Thiết bị cần dùng cho mỗi nhóm - Dự kiến tình huống xảy ra và cách giải quyết. - Học sinh phải chuẩn bò những gì? - Soạn giáo án cho phù hợp với việc thảo luận nhóm. - Chuẩn bị những phương án dự phòng… 3.4. Tổ chức thực hiện 3.4.1. Chia nhóm theo tổ của lớp - Đến phần thảo luận nhóm, giáo viên chia nhóm theo đơn vị tổ. - Mỗi nhóm dồn về 2 dãy bàn và cùng hướng về nhau và nhóm trưởng bao giờ cũng ngồi giữa để hướng dẫn và tập trung các ý kiến - Giao câu hỏi cho nhóm. Câu hỏi có thể được trình chiếu trên màn chiếu hoặc in vào giấy A4 giao cho các nhóm. Các nhóm cùng thảo luận một vấn đề nhưng nhiệm vụ của mỗi nhóm là khác nhau - Hướng dẫn cách thảo luận và phương án trình bày. Các nhóm thảo luận - Lần lượt các nhóm trình bày kết quả thảo luận - Giáo viên nhận xét ưu điểm, hạn chế về: Nội dung câu trả lời, kỹ năng trình bày, đánh giá kết quả của các nhóm, cho điểm các nhóm. Điểm tối đa của câu trả lời là điểm 10 và giành riêng cho 1 học sinh. Học sinh nào trình bày thì cho điểm học sinh đó. Lần thảo luận sau giành quyền trả lời cho học sinh khác. * Ví dụ: Tiết 8- Bài 5 GDCD 10: Cách thức vận động, phát triển của sự vật Sau khi làm rõ khái niệm chất, lượng, giáo viên nêu câu hỏi thảo luận chung Chất và lượng của sự vật có mối liên hệ với nhau như thế nào? Để trả lời câu hỏi này, giáo viên trình chiếu cho học sinh xem ví dụ: Dùng đèn cồn đun nước trong bình thủy tinh. Khi đun, nước trong bình dần tăng nhiệt độ và tăng đến 1000C thì nước chuyển từ thể lỏng sang thể khí. - Sau khi học sinh xem xong thí nghiệm khoảng 1 phút, giáo viên giao nhiệm vụ cho các nhóm: + Nhóm 1: Chỉ ra chất và lượng của nước? Nêu sự khác nhau trong sự biến đổi của lượng và chất ( cả về thời gian và không gian). + Nhóm 2: Nhịp độ và hướng biến đổi của chất và lượng diễn ra như thế nào? - 10 - + Nhóm 3: Vai trò của lượng và chất trong quá trình biến đổi của sự vật? Nhận xét kết quả trình bày của nhóm 1,2 + Nhóm 4: Qua tìm hiểu sự biến đổi của lượng và chất, em rút ra bài học nào cho bản thân trong cuộc sống, học tập và công tác? - Phát giấy A0, bút dạ, câu hỏi in vào giấy cho các nhóm. Giấy A0 được chia làm các ô tương ứng số học sinh trong nhóm. - Các nhóm bố trí chỗ ngồi sao cho giấy A0 để ở giữa, tất cả thành viên ngồi xung quanh để thực hiện thảo luận dưới hình thức kỹ thuật khăn phủ bàn. Dưới sự chủ trì của nhóm trưởng, mỗi thành viên trong nhóm ghi ý kiến cá nhân vào ô của mình. Sau đó, các nhóm thảo luận chung và cử 1 người ghi ý kiến chung vào ô giữa của giấy A0. Trong quá trình các nhóm thảo luận, giáo viên quan sát, gợi ý, khuyến khích các nhóm. - Nạp kết quả thảo luận cho giáo viên. Giáo viên dùng nam châm dính tờ A0 vào bảng từ để cả lớp cùng xem. Đại diện các nhóm trình bày. Khi nhóm trình bày chưa rõ, giáo viên có thể có câu hỏi gợi ý để các thành viên khác của nhóm bổ sung. - Giáo viên nhận xét ưu khuyến, bổ sung và kết luận. Kết luận của giáo viên là kiến thức cần trình bày. Sau đó, giáo viên có thể hỏi xem còn em nào có ý kiến khác không? Nếu có ý kiến khác, giáo viên dùng câu hỏi phụ để hỏi học sinh cả lớp trả lời hoặc giáo viên kết luận. Nội dung kết luận: - Giữa lượng và chất của sự vật có mối quan hệ biện chứng với nhau. Chất là nội dung bên trong, lượng là hình thức bên ngoài của sự vật. - Trong sự biến đổi: lượng biến đổi trước, chất biến đổi sau. - Nhịp độ và hướng biến đổi: Lượng biến đổi dần dần, chất biến đổi nhanh, đột biến; lượng biến đổi nhanh hoặc chậm, chất biến đổi nhảy vọt - Vai trò: Lượng biến đổi mới dẫn đến chất biến đổi. Chất đổi lại bao hàm lượng mới - Bài học: Không nóng vội, chủ quan; phải có quá trình tích lũy về lượng; không ngừng tu dưỡng đạo đức, chuyên cần học tập để tích lũy kiến thức, tích lũy vốn sống. Ca dao, tục ngữ đã chỉ ra mối liên hệ đó: Kiến tha lâu cũng đầy tổ, tích tiểu thành đại,... Nội dung kết luận được rút ra chính là kiến thức trọng tâm cần trình bày. 3.4.2. Phân nhóm theo địa bàn sinh sống Kiểu chia này chủ yếu ứng dụng trong phần bài quan niệm đạo đức- phần II của chương trình. Bởi vì, các địa bàn sinh sống gần nhau có nét tương đồng về phong tục tập quán, cách ứng xử theo chuẩn mực đạo đức xã hội. - 11 - Ví dụ: Tiết 20 bài 10: Quan niệm về đạo đức - Ra câu hỏi thảo luận: Từ xưa tới nay, các bậc thánh nhân quân tử đều đề cao giá trị đạo đức, luân lý. Khổng Tử cho rằng: Tiên học lễ, hậu học văn, Hồ Chí Minh quan niệm đức là gốc của con người. Hãy cho biết vì sao đạo đức lại quan trọng đến vậy? - Hình thức tổ chức thảo luận: Thảo luận bằng kỹ thuật mảnh ghép - Tổ chức thực hiện: + Bước 1: Thực hiện nhóm chuyên gia Để trả lời câu hỏi này, chia lớp thành 4 nhóm theo bàn. Mỗi nhóm, giáo viên phát cho 3 tờ giấy A4 có đánh số tương ứng với 3 tờ: tờ 1, tờ 2, tờ 3. Mỗi nhóm lại chia thành 3 nhóm nhỏ và mỗi nhóm nhỏ trả lời 1 câu hỏi tương ứng: Nhóm nhỏ 1: Vì sao từ xưa đến nay, đất nước ta rất coi trọng các giá trị truyền thống đạo đức của dân tộc? Nhóm nhỏ 2: Vì sao những người tài giỏi, có ích cho dân cho nước thường được sinh ra, lớn lên ở những gia đình gia phong nề nếp? Nhóm nhỏ 3: Vì sao Bác Hồ nói đức là “gốc” của con người? Cho các nhóm nhỏ viết kết quả thảo luận vào giấy A4. + Bước 2: Thực hiện mảnh ghép các nhóm nhỏ Lớp 10C năm học 20140 2015: Có 41 học sinh, trong đó số học sinh vùng chiêm trũng có 14 em, vùng màu có 16 em, vùng cói, biển có 11 em. Vì số học sinh tương đối đều nên chia thành 3 nhóm với tên gọi tương ứng: Trống trận, An Tiêm, Ra khơi. Học sinh nhóm nhỏ 1 sẽ về nhóm Trống trận, nhóm nhỏ 2 về nhóm An Tiêm, nhóm nhỏ 3 về nhóm Ra khơi. Học sinh tự sắp xếp vị trí ngồi theo nhóm đã chia. Các nhóm tự cử nhóm trưởng theo tiêu chí đã nêu trên Các nhóm nhỏ trình bày ý tưởng của mình và nhóm tranh luận, thống nhất nội dung trả lời - Các nhóm trình bày kết quả. Trình bày đến đâu, giáo viên ghi kết quả đó lên bảng - Các nhóm tranh luận: Nhóm 1 đặt câu hỏi cho nhóm 2, nhóm 2 đặt câu hỏi cho nhóm 3 và nhóm 3 đặt câu hỏi cho nhóm 1. - Giáo viên nhận xét ưu, nhược trong câu trả lời của các nhóm, kết luận, bổ sung, chỉnh sửa phần trả lời của các nhóm. Nội dung kết luận: Kết quả các nhóm trình bày, giáo viên kết luận nêu rõ 3 nội dung cơ bản về vai trò của đạo đức đối với cá nhân, gia đình và xã hội. Đây chính là phần kiến thức học sinh cần nắm. 3.4.3. Phân nhóm theo sở thích Ví dụ: Tiết 28 bài 14: Công dân với cộng đồng - 12 - - Giáo viên nêu có 4 câu hỏi: Vì sao, như thế nào, ý nghĩa tác dụng, trách nhiệm của tôi và chúng ta? Chia lớp theo 4 nhóm bằng hình thức đặt thứ tự số bàn trong lớp từ dãy bàn 1 đến dãy bàn 12 để phân nhóm theo thứ tự: + Từ bàn 1 đến bàn 3: Nhóm câu hỏi vì sao? + Từ bàn 4 đến bàn 6: Nhóm câu hỏi như thế nào? + Từ bàn 7 đến bàn 9: Nhóm câu hỏi ý nghĩa tác dụng? + Từ bàn 10 đến bàn 12: Nhóm câu hỏi trách nhiệm của tôi và chúng ta? Học sinh nào thích nhóm nào thì tự đăng ký đến bàn của nhóm đó. Nếu số người trong các nhóm chênh lệch quá nhiều về số lượng, giáo viên yêu cầu lớp tự điều chỉnh cho hợp lý - Ra câu hỏi thảo luận: Hợp tác có ý nghĩa quan trọng trong đời sống - Giao nhiệm vụ cho các nhóm: + Nhóm 1: Vì sao phải đẩy mạnh hợp tác? + Nhóm 2: Hợp tác được thể hiện như thế nào? + Nhóm 3: Hợp tác có ý nghĩa gì? + Nhóm 4: Mỗi người cần có trách nhiệm gì để thực hiện hợp tác? - Phát giấy A4, bút dạ cho các nhóm - Các nhóm chuẩn bị 3-5 phút - Lần lượt các nhóm trình bày. Giáo viên gọi 4 học sinh cùng lên viết nội dung câu trả lời lên bảng theo 4 cột - Các nhóm tranh luận về câu trả lời, bổ sung, chỉnh sửa - Giáo viên nêu nhận xét ưu, nhược trong câu trả lời của từng nhóm, bổ sung, chỉnh sửa phù hợp Nội dung kết luận: - Vì sao phải hợp tác: Một cá nhân có nhiều nhu cầu mà bản thân không tạo ra được tất cả các điều kiện, do đó cần hợp tác để thỏa mãn nhu cầu vật chất, tinh thần - Thể hiện của hợp tác : Cùng bàn bạc. Phối hợp nhịp nhàng. Hiểu biết về mọi nhiệm vụ của nhau. Sẵn sàng giúp đỡ, chia sẻ - Ý nghĩa: Tạo nên sức mạnh tinh thần và thể chất. Đem lại chất lượng và hiệu quả cao. Phẩm chất quan trọng của người lao động mới. - Trách nhiệm: Hiểu đúng tầm quan trọng của hợp tác. Hòa mình trong tập thể. Tìm biện pháp, hình thức tổ chức hợp tác hiệu quả. Đây chính là nội dung kiến thức của phần hợp tác mà học sinh cần nắm. 3.4.4. Phân nhóm theo năng lực Việc chia nhóm theo năng lực phải là kết quả của một quá trình đã kiểm chứng chất lượng học tập của học sinh ở các mức độ thấp, trung bình, cao hoặc là các mức độ thông hiểu, vận dụng, đánh giá - 13 - Ví dụ: Tiết 29, bài 14: Công dân với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc - Phân nhóm: Chia lớp thành 3 nhóm: Nhóm thông hiểu; Nhóm vận dụng; Nhóm đánh giá - Câu hỏi thảo luận: Sau khi làm rõ khái niệm lòng yêu nước, giáo viên nêu câu hỏi thảo luận: Lòng yêu nước là giá trị tốt đẹp của dân tộc, là cội nguồn tạo nên sức mạnh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hãy: - Giao nhiệm vụ cho các nhóm: + Nhóm thông hiểu: Lòng yêu nước được biểu hiện như thế nào? + Nhóm vận dụng: Lòng yêu nước của người dân Nga Sơn được thể hiện như thế nào trong công cuộc xây dựng nông thôn mới hiện nay? + Nhóm đánh giá: Ý kiến cho rằng: Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam là yêu nước. Ý kiến khác bày tỏ: trong xu thế hội nhập, nếu giữ tư tưởng trên là kéo lùi sự phát triển đất nước. Ý kiến của anh chị về vấn đề này? - Giáo viên gợi ý cho các nhóm và các nhóm thảo luận 3-5 phút. - Các nhóm lần lượt trình bày. Giáo viên ghi các ý kiến của các nhóm lên bảng - Giáo viên nhận xét ưu, nhược, bổ sung phần trả lời của các nhóm. - Nội dung kết luận: 3 nhóm trả lời, giáo viên kết luận: + Biểu hiện của lòng yêu nước: Tình cảm gắn bó với quê hương, đất nước; Tình yêu thương đối với đồng bào, dân tộc; Lòng tự hào dân tộc chính đáng; Đoàn kết kiên cường bất khuất chống giặc ngoại xâm; Cần cù và sáng tạo trong lao động. + Lòng yêu nước của người dân Nga Sơn trong xây dựng nông thôn mới: Thi đua sản xuất, thực hành tiết kiệm; sẵn sàng phòng thủ để bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh; giúp đỡ, hỗ trợ người nghèo, gia đình có công với đất nước.. + Ý kiến: Yêu nước thì phải dùng hàng Việt Nam là đúng song chưa đủ. Dùng hàng Việt Nam phải trên cơ sở quy luật giá cả thị trường. 3.4.5. Phân nhóm theo giới tính - Việc phân nhóm theo giới tính chỉ thực hiện được khi trong lớp có số học sinh nam nữ tương đối đồng đều. Hiện nay ở trường THPT Ba Đình hầu hết các lớp có số học sinh nam nữ khá đồng đều. Do đó, khi lên lớp, giáo viên yêu cầu học sinh nam nữ ngồi về 2 phía bàn theo hình thức 2 nhóm. Các nhóm tự cử nhóm trưởng Ví dụ: Tiết 24, bài 12: Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia đình - Sau khi làm rõ quan niệm về tình yêu, tình yêu chân chính, giáo viên đặt câu hỏi thảo luận: Các bậc cha mẹ không muốn con mình yêu khi đang học THPT - Giáo viên giao nhiệm vụ cho các nhóm: + Nhóm nữ: Vì sao nói, yêu ở lứa tuổi học sinh THPT là quá sớm? - 14 - + Nhóm nam: Làm thế nào để nói không với tình yêu tuổi học sinh THPT - Hình thức tổ chức: Bằng kỹ thuật bản đồ tư duy. Giáo viên phát cho mỗi nhóm ½ tờ giấy A0, trên tờ A0 có câu hỏi ở giữa và các nhánh phát triển. Nhiệm vụ mỗi em học sinh trong nhóm đưa ra 1 ý tưởng và viết vào nhánh đó. Tổng hợp nội dung các ý tưởng là câu trả lời. - Các nhóm chuẩn bị trong thời gian 3-5 phút. Trong thời gian các nhóm thảo luận, giáo viên quan sát các nhóm và gợi ý câu trả lời - Đại diện các nhóm trình bày. Sau 2 nhóm trình bày, các nhóm có thể có câu hỏi phụ để vấn đáp - Giáo viên nhận xét ưu, nhược, kết luận, bổ sung phần trả lời của các nhóm. - Nội dung kết luận: + Câu trả lời nhóm nữ: Tâm sinh lý đang trong quá trình hoàn thiện nên dễ mắc sai lầm. Khi yêu, học sinh dễ sa sút học tập, mất phương hướng cho tương lai + Câu trả lời nhóm nam: Không tạo môi trường gần gũi với bạn khác giới, tập trung học tập rèn luyện, nuôi dưỡng khát vọng, ước mơ. 4. Kết quả thực nghiệm Qua 2 năm thực nghiệm vận dụng thảo luận nhóm với việc áp dụng các hình thức kỹ thuật dạy học hiện đại, tôi thu được một số kết quả sau đây: Thứ nhất: So với trước đây, số học sinh trong giờ học làm việc đông hơn. Hầu hết học sinh đều động não suy nghĩ, đưa ra ý tưởng, bổ sung, tranh luận để tìm ra kiến thức. Trung bình mỗi giờ học có 10% học sinh được phát biểu. Học sinh tỏ ra hứng thú với môn học, say mê suy nghĩ, tìm tòi để thể hiện vị trí của mình. Thứ hai: Giờ học sinh động hơn, không gian mở hơn dưới các hình thức khác nhau. Nếu như trước đây, các em chỉ được thảo luận nhóm theo tổ thì bây giờ, sự hợp tác giữa các em đa dạng hơn. Các em được rèn luyện các kỹ năng cá nhân như kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng làm “ giám đốc” điều hành, kỹ năng trình bày, kỹ năng tư duy logic, kỹ năng tranh luận 1 vấn đề, kỹ năng giải quyết tình huống… Thứ ba: Kết quả học tập cao hơn. Kiến thức của học sinh sẽ giảm bớt tính chủ quan, phiến diện, làm tăng tính khách quan khoa học. Kiến thức trở nên sâu sắc, bền vững dễ nhớ, nhớ nhanh và lâu hơn do được trao đổi học hỏi giữa các thành viên trong nhóm. Nhờ không khí thảo luận nhóm cởi mở giúp học sinh thoải mái, tự tin hơn trong việc trình bày ý kiến của mình và biết lắng nghe có phê phán ý kiến của những thành viên khác.. việc vận dụng phương pháp giảng dạy đạt kết quả tốt hơn. - 15 - Kết quả khảo sát chất lượng: 2 lớp tôi thực nghiệm chất lượng đầu vào ngang nhau: Nội dung Lớp Sĩ số Chưa vận dụng thảo luận nhóm Vận dụng thảo luận nhóm 10B 10C 40 41 Tỷ lệ % xếp loại cuối năm Giỏi Khá TB Yếu kém 75.0 25.0 9.8 85.4 4.8 Thứ tư: Xây dựng cho học sinh có được lối sống hòa nhập với cộng đồng, tinh thần hợp tác, kó năng giao tiếp, tinh thần đoàn kết, sự phối hợp, hiểu biết về tinh thần trách nhiệm và hỗ trợ lẫn nhau giữa các thành viên từ đó tạo ra những giải pháp mới cho mọi vấn đề khó khăn. Từ thực nghiệm, tôi rút ra một bài học kinh nghiệm sau đây: Một là: Muốn giờ học bộ môn sinh động, hiệu quả, cuốn hút học sinh phải đẩy mạnh việc đổi mới phương pháp, trong đó đặc biệt chú trọng đến thảo luận nhóm và tăng cường các kỹ thuật dạy học tích cực. Muốn thảo luận nhóm thành công, cần phải chuẩn bị công phu, có trách nhiệm. Hai là: Trước khi tổ chức thảo luận, cần phải có tiêu chí phân nhóm nhằm tạo ra nhiều loại hình nhóm khác nhau, chọn lựa nội dung, câu hỏi thảo luận, hình thức và kỹ thuật trong thảo luận. Trong tổ chức thực hiện phải linh hoạt, nhạy bén, vừa chú trọng đến các mối quan hệ trong nhóm, vừa phải đề cao vai trò, vị thế của từng cá nhân trong nhóm, trong lớp. Ba là: Muốn làm tốt điều này, mỗi nhà giáo cần nêu cao tinh thần trách nhiệm, tâm huyết với bộ môn, với học trò. Tăng cường công tác tự học, tự nghiên cứu, nhất là ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học. Tuy vậy, tôi thiết nghĩ đây là kinh nghiệm của cá nhân được đúc rút từ thực tiễn, do đó không tránh khỏi tính chủ quan, duy ý chí, sai lầm trong vận dụng, rất mong được đồng nghiệp góp ý để nâng cao hiệu quả công tác. - 16 - III- KẾT LUẬN Vận dụng phương pháp thảo luận nhóm có ý nghĩa quan trọng trong giảng dạy bộ môn GDCD trong giai đoạn hiện nay. Thảo luận nhóm tạo ra cơ hội để tận dụng các hình thức kỹ thuật dạy học tiên tiến, tích cực nhằm phân hóa học sinh trong dạy học, phát huy tính tích cực, năng động, chủ động, tự tin của học sinh trong học tập. Đồng thời, qua thảo luận nhóm cũng tăng cường sự giao lưu, hợp tác, hỗ trợ lẫnh nhau giữa các em học sinh. Học thầy không tày học bạn thật sự có ý nghĩa và được phát huy cao độ trong thảo luận nhóm. Học sinh tự tìm tòi, khai thác kiến thức không chỉ trong sách giáo khoa, hệ thống lý luận triết học, luân lý chuẩn mực đạo đức sách vở mà liên hệ mật thiết với cuộc sống sinh động. Từ đó, hình thành ở các em thế giới quan khoa học, cách nhìn nhận, xem xét và giải quyết các tình huống thực tiễn một cách khoa học, phù hợp. Hơn nữa, với thảo luận nhóm, bồi dưỡng các em tư tưởng, tình cảm say mê, hứng thú học tập bộ môn. Nhiều em đã tâm sự rằng, nếu tổ chức các hình thức học tập phong phú như thế, các em thấy bộ môn GDCD gần với đời sống hơn, cảm thấy thoải mái, tưn tin hơn trong học tập. Tuy nhiên, yếu tố nào cũng có mặt tích cực và hạn chế. Do đó, trong quá trình vận dụng phải căn cứ vào thực tiễn: Nội dung cấu trúc bài học, đối tượng học sinh, điều kiện thiết bị, phương tiện và cả trạng thái, tâm lý của cả thầy và trò trong giờ học. Dạy học nói chung, vận dụng phương pháp trong dạy học nói riêng là một nghệ thuật, trong đó lòng yêu nghề, say mê nhiệt huyết của thầy sẽ thổi bùng ngọn lửa của lòng đam mê, khát vọng học tập của trò. Phương pháp ai cũng biết, thậm chí là biết rất kỹ, song hiệu quả của việc vận dụng phụ thuộc vào tâm huyết, trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp của mỗi nhà giáo. XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Thanh Hóa, ngày 12 tháng 06 năm 2015 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của bản thân, không copy của người khác Phạm Xuân Dinh - 17 - TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Mai Văn Bính (Tổng chủ biên), (2006), Lê Thanh Hà, Nguyễn Thị Thanh Mai, Lưu Thu Thủy, Giáo dục công dân 10, Nxb Giáo dục Hà Nội. 2. Nguyễn Văn Cường (2010), Một số vấn đề chung về đổi mới phương pháp dạy học ở trường trung học phổ thông, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 3. Ngô Thị Thu Dung, “ Mô hình tổ chức học theo nhóm trong giờ học lên lớp, Tạp chí giáo dục 4. Đặng Thành Hưng (2000), Dạy học hiện đại. Lí luận - biện pháp- kĩ thuật, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 5. Phan Trọng Ngọ (2005), Dạy học và phương pháp dạy học trong nhà trường, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội. 6. Nguyễn Trọng Sửu (2008), “Dạy học nhóm, phương pháp dạy học tích cực”, Tạp chí giáo dục số 171. 7. Nguyễn Thị Thu Thủy (2009), Phương pháp dạy học dựa trên vấn đề và vận dụng vào thiết kế, giảng dạy, Luận văn thạc sĩ giáo dục. 8. PGS.TS Hà Thế Truyền (2006), Phương pháp dạy học đại học, tập bài giảng giáo dục học Đại học, Nxb Hà Nội. - 18 -
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan