chương I
Sự cần thiết phải bảo hộ sản xuất trong nước bằng các biện pháp
phi thuế và kinh nghiệm của một số nước
A.Sự cần thiết phải áp dụng các biện pháp bảo hộ sản xuất trong nước.
I.Sự cần thiết phải bảo hộ sản xuất trong nước.
1.Tính cần thiết chung phải bảo hộ của các quốc gia trên thế giới.
Không một nước nào, dù là nước có nền kinh tế hùng mạnh như Hoa Kỳ, lại
không có nhu cầu phải bảo hộ một số ngành sản xuất trong nước.
Tuy nhiên, mục tiêu bảo hộ lại khá đa dạng. Đối với những nền kinh tế phát
triển thì mục tiêu chính của việc bảo hộ là nhằm duy trì việc làm cho những nhóm lớn
người lao động có kỹ năng tương đối thấp. Mặc dù không phải là lực lượng tạo ra sức
cạnh tranh chủ yếu cho nền kinh tế, nhưng những nhóm người này có sức mạnh chính
trị đáng kể, buộc các chính đảng được họ hậu thuẫn phải quan tâm đặc biệt tới lợi ích
của họ. Những nhóm điển hình là lao động trong lĩnh vực dệt may, nông nghiệp,
luyện kim đen.
Trong khi đó, mục tiêu bảo hộ của những nước có trình độ phát triển kinh tế
trung bình và thấp lại chủ yếu nhằm duy trì và phát triển một số ngành sản xuất quan
trọng và có nhiều tiềm năng trở thành ngành cạnh tranh trong tương lai. Chẳng hạn,
Malaysia hết sức cố gắng để bảo hộ ngành sản xuất ô tô. Thái Lan tiếp tục duy trì bảo
hộ ở mức cao với một số ngành điện tử, cơ khí, đường. Trung Quốc duy trì mức bảo
hộ cao nhất có thể được với ngành ô tô, thép, thuốc lá.
Ngoài ra, các nước này còn có thể phải duy trì bảo hộ nhằm đạt được các mục
tiêu khác. Chẳng hạn, Trung Quốc phải tiếp tục bảo hộ trong một thời gian nhất định
nhiều ngành sản xuất nhằm tránh cho các doanh nghiệp sở hữu nhà nước khỏi bị phá
sản nhanh chóng. Đây là điểm khác biệt nổi bật giữa các nước đang chuyển đổi với
các nước công nghiệp phát triển. Tại các nước công nghiệp phát triển, những nhóm
người lao động tại các ngành đang suy thoái hoặc có năng suất thấp (dệt may, nông
nghiệp) có sức mạnh chính trị đáng kể. Trong khi đó, tại các nước đang chuyển đổi,
các doanh nghiệp sở hữu nhà nước lại có sức mạnh chính trị to lớn mà việc bảo hộ
chúng có ý nghĩa quan trọng đặc biệt.
2.Sự cần thiết phải bảo hộ sản xuất trong nước của Việt Nam.
Việt Nam là nước đang phát triển với trình độ phát triển kinh tế còn rất thấp.
Nền kinh tế của Việt Nam đang trong thời kỳ chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hóa tập
trung sang kinh tế thị trường, các yếu tố của kinh tế thị trường còn chưa được tạo lập
đồng bộ và còn nhiều khiếm khuyết.
Hệ thống pháp luật, công cụ quan trọng để quản lý nhà nước trong kinh tế thị
trường, vừa thiếu vừa chưa đồng bộ lại chồng chéo, chưa tạo được môi trường pháp
lý bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Các chính sách tài
chính, tiền tệ, xuất nhập khẩu cũng đang trong tình trạng tương tự.
Với nền kinh tế kém phát triển, công nghệ lạc hậu, nếu không có chiến lược
bảo hộ đúng đắn thì nhiều ngành sản xuất trong nước sẽ không thể đứng vững được
trước sức ép cạnh tranh gay gắt của hàng nhập khẩu
Đứng trước xu hướng tất yếu của tự do hóa thương mại và quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam, với năng lực cạnh tranh yếu kém của nhiều ngành sản
1
xuất, vấn đề phải bảo hộ để thúc đẩy sản xuất trong nước và phát triển kinh tế trở nên
hết sức cần thiết. Tuy nhiên, việc bảo hộ phải có chọn lọc, có điều kiện, có thời hạn
và phải giải quyết thoả đáng mối quan hệ giữa hội nhập và bảo hộ về mặt thời gian và
“độ trưởng thành” một cách chủ động.
Một số ngành công nghiệp non trẻ hiện gặp nhiều khó khăn trong việc cạnh
tranh với hàng nhập khẩu nhưng trong tương lai có thể có sức cạnh tranh cao nếu
được hưởng những hỗ trợ nhất định và được bảo hộ bằng những chính sách phi thuế
thích hợp trong một thời gian cần thiết.
Cũng cần phải bảo hộ một số ngành tuy hiện nay cạnh tranh kém nhưng tỏ ra
có tiềm năng về dài hạn. Một mặt, phần lớn những ngành này yêu cầu hàm lượng vốn
lớn, khả năng cạnh tranh và phát triển dựa trên công nghệ hiện đại. Mặt khác, đây lại
là những ngành công nghiệp chiếm vị trí quan trọng, cần được đầu tư phát triển hợp
lý để tạo nên xương sống cho nền kinh tế (luyện kim, hóa dầu, xi măng...). Cần có
những biện pháp bảo hộ thích hợp để các ngành này tránh được nguy cơ phá sản và
dần dần nâng cao khả năng cạnh tranh trong tương lai.
II.Phương thức bảo hộ sản xuất trong nước.
1.Các biện pháp bảo hộ sản xuất trong nước.
a.Biện pháp thuế quan
Ưu điểm:
Rõ ràng
Giả sử đối với một hàng hóa nhập khẩu nào đó ngoài thuế quan không hề bị áp
dụng bất kỳ một biện pháp hạn chế thương mại nào khác thì lợi thế của hàng hóa sản
xuất trong nước so với hàng nhập khẩu chính là mức thuế nhập khẩu.
Sự minh bạch, rõ ràng của thuế quan là một ưu điểm lớn của biện pháp bảo hộ.
Trong WTO thuế quan được thừa nhận là công cụ hợp pháp bảo hộ sản xuất trong
nước. NTBs phải được xoá bỏ hoặc thuế hóa.
ổn định, dễ dự đoán
Qua nhiều vòng đàm phán đa phương, thuế quan ngày càng có xu thế ổn định
và dễ dự đoán. Sau Vòng đàm phán Uruguay, tất cả các nước thành viên WTO đều
phải ràng buộc 100% các dòng thuế đối với các sản phẩm nông nghiệp. Đối với các
sản phẩm công nghiệp, các nước phát triển đã ràng buộc 99% các dòng thuế, các
nước đang phát triển ràng buộc 73% và các nước có nền kinh tế chuyển đổi ràng buộc
98%. Các con số này đảm bảo mức độ tiếp cận thị trường an toàn hơn cho các nhà
đầu tư và kinh doanh quốc tế.
Dễ đàm phán cắt giảm mức bảo hộ
Vì thuế quan là công cụ bảo hộ mang tính rõ ràng hơn cả nên trong khuôn khổ
các cuộc đàm phán song phương và đa phương, thuế quan luôn là đối tượng đàm
phán cắt giảm. Một điểm đáng chú ý khác là trong khuôn khổ đàm phán đa phương,
thuế quan có thể được tiến hành cắt giảm theo công thức. Trong và sau Vòng đàm
phán Uruguay, trong khuôn khổ WTO còn nổi lên xu hướng cắt giảm thuế quan theo
ngành (ví dụ: mức thuế 0% áp dụng cho nhiều sản phẩm của các ngành dược phẩm,
sắt thép, sản phẩm công nghệ thông tin...).
Nhược điểm:
2
Một nhược điểm dễ thấy của thuế quan là không tạo được rào cản nhanh
chóng. Trước các tình thế khẩn cấp như hàng nhập khẩu tăng nhanh gây tổn hại hoặc
đe dọa gây tổn hại cho ngành sản xuất nội địa, các NTB như cấm nhập khẩu, hạn
ngạch, giấy phép nhập khẩu không tự động... tỏ ra hữu hiệu hơn, có khả năng ngay
lập tức chặn đứng dòng nhập khẩu.
b.Các biện pháp phi thuế (NTM)
Ngoài thuế quan ra, tất cả các biện pháp khác, dù là theo quy định pháp lý hay
tồn tại trên thực tế, ảnh hưởng đến mức độ và phương hướng nhập khẩu được gọi là
các NTM. Mỗi NTM có thể có một hoặc nhiều thuộc tính như áp dụng tại biên giới
hay nội địa, được duy trì một cách chủ động hay bị động, phù hợp hoặc không phù
hợp với thông lệ quốc tế, nhằm bảo hộ hay không bảo hộ...
Ưu điểm:
Phong phú về hình thức1: nhiều NTM khác nhau có thể đáp ứng cùng một
mục tiêu, áp dụng cho cùng một mặt hàng
Các NTM trong thực tế rất phong phú về hình thức nên tác động, khả năng và
mức độ đáp ứng mục tiêu của chúng cũng rất đa dạng. Do đó, nếu sử dụng NTM để
phục vụ một mục tiêu đề ra thì có thể có nhiều sự lựa chọn, kết hợp hơn mà không bị
gò bó chật hẹp trong khuôn khổ một công cụ duy nhất như thuế quan. Ví dụ: để nhằm
hạn chế nhập khẩu phân bón, có thể đồng thời áp dụng các biện pháp hạn ngạch nhập
khẩu, cấp giấy phép nhập khẩu không tự động, đầu mối nhập khẩu, phụ thu nhập
khẩu.
Đáp ứng nhiều mục tiêu: một NTM có thể đồng thời đáp ứng nhiều mục
tiêu với hiệu quả cao
Mỗi quốc gia thường theo đuổi nhiều mục tiêu trong chính sách kinh tế, thương
mại của mình. Các mục tiêu đó có thể là: (i) bảo hộ sản xuất trong nước, khuyến
khích phát triển một số ngành nghề; (ii) bảo vệ an toàn sức khỏe con người, động
thực vật, môi trường; (iii) hạn chế tiêu dùng; (iv) đảm bảo cân bằng cán cân thanh
toán; (v) bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, v.v... Các NTM có thể
đồng thời phục vụ hiệu quả nhiều mục tiêu khác nhau khi việc sử dụng công cụ thuế
quan không khả thi hoặc không hữu hiệu bằng.
Ví dụ: quy định về vệ sinh kiểm dịch đối với nông sản nhập khẩu vừa đảm bảo
an toàn sức khỏe con người, động thực vật lại vừa gián tiếp bảo hộ sản xuất nông
nghiệp trong nước một cách hợp pháp. Hay cấp phép không tự động đối với dược
phẩm nhập khẩu vừa giúp bảo hộ ngành dược nội địa, dành đặc quyền cho một số đầu
1 Có thể chia các NTM thành các nhóm lớn sau:
-
-
Các biện pháp hạn chế định lượng (như cấm, hạn ngạch, giấy phép);
Các biện pháp quản lý giá (như trị giá tính thuế quan tối thiểu, giá nhập khẩu tối đa, phí thay đổi, phụ thu);
Các biện pháp liên quan tới doanh nghiệp (như doanh nghiệp thương mại nhà nước);
Các biện pháp kỹ thuật (như quy định kỹ thuật, tiêu chuẩn, thủ tục xác định sự phù hơp, yêu cầu về nhãn mác, kiểm
dịch động thực vật);
Các biện pháp bảo vệ thương mại tạm thời (như tự vệ, trợ cấp và các biện pháp đối kháng, biện pháp chống bán phá
giá);
Các biện pháp liên quan tới đầu tư (như thuế suất thuế nhập khẩu phụ thuộc tỷ lệ nội địa hóa, hạn chế tiếp cận
ngoại tệ, yêu cầu xuất khẩu, ưu đãi gắn với thành tích xuất khẩu);
Các biện pháp khác (như tem thuế, biểu thuế nhập khẩu hay thay đổi, yêu cầu đảm bảo thanh toán, yêu cầu kết hối,
thủ tục hành chính, thủ tục hải quan, mua sắm chính phủ, quy tắc xuất xứ).
3
mối nhập khẩu nhất định, quản lý chuyên ngành một mặt hàng quan trọng đối với sức
khỏe con người, phân biệt đối xử với một số nước cung cấp nhất định.
Nhiều NTM chưa bị cam kết ràng buộc cắt giảm hay loại bỏ
Do NTM thường mang tính mập mờ, mức độ ảnh hưởng không rõ ràng như
những thay đổi định lượng của thuế quan, nên tác động của chúng có thể lớn nhưng
lại là tác động ngầm, có thể che đậy hoặc biện hộ bằng cách này hay cách khác. Hiện
nay các hiệp định của WTO chỉ mới điều chỉnh việc sử dụng một số NTM nhất định.
Trong đó, tất cả các NTM hạn chế định lượng 2 đều không được phép áp dụng, trừ
trường hợp ngoại lệ.
Một số NTM khác tuy có thể nhằm mục tiêu hạn chế nhập khẩu, bảo hộ sản
xuất trong nước nhưng vẫn được WTO cho phép áp dụng với điều kiện tuân thủ
những quy định cụ thể, rõ ràng, khách quan. Chẳng hạn như tiêu chuẩn kỹ thuật, biện
pháp kiểm dịch động thực vật, tự vệ, thuế chống bán phá giá, các biện pháp chống trợ
cấp, thuế đối kháng, hỗ trợ nông nghiệp dạng hộp xanh.
Ngoài ra, vẫn có thể tiếp tục áp dụng mà chưa bị yêu cầu cắt giảm hay loại bỏ
những NTM chưa xác định được sự phù hợp hay không phù hợp với các quy định của
WTO. Những NTM này có thể do WTO chưa có quy định điều chỉnh hoặc có quy
định nhưng rất chung chung và trên thực tế rất khó có thể xác định được tính phù hợp
hay không phù hợp với quy định đó, hoặc chúng vẫn là một thực tế được thừa nhận
chung. Chẳng hạn như yêu cầu đặt cọc, trả thuế nhập khẩu trước, v.v...
Nhược điểm:
Không rõ ràng và khó dự đoán
Các NTM trên thực tế thường được vận dụng dựa trên cơ sở dự đoán chủ quan,
thậm chí tuỳ tiện, của nhà chức trách về sản xuất và nhu cầu tiêu thụ trong nước.
Chẳng hạn để xác định hạn ngạch nhập khẩu phân bón trong năm tới, Chính phủ phải
dự kiến được công suất sản xuất trong nước có khả năng đáp ứng được bao nhiêu
phần trăm tổng nhu cầu về phân bón của toàn ngành nông nghiệp.
Trong bối cảnh nền kinh tế ngày nay rất phức tạp và thường xuyên biến động,
việc đưa ra một dự đoán tương đối chính xác là rất khó khăn. Nếu dự đoán không
chính xác sẽ có ảnh hưởng xấu đến sản xuất trong nước. Ví dụ như gây ra thiếu hụt
trầm trọng nguồn cung cấp phân bón khi sản xuất trong nước vào thời vụ, đẩy giá
tăng vọt (sốt nóng) hoặc trái lại, dẫn đến tình trạng cung vượt cầu quá lớn trên thị
trường làm giá sụt giảm (sốt lạnh). Điều này đồng nghĩa với việc các quyết định sản
xuất và kinh doanh sẽ chịu rủi ro cao hơn.
Sử dụng NTM cũng thường làm nhiễu tín hiệu chỉ dẫn quyết định của người
sản xuất và người tiêu dùng trong nước, tín hiệu chỉ dẫn việc phân bổ nguồn lực trong
nội bộ nền kinh tế (chính là giá thị trường), phản ánh không trung thực lợi thế cạnh
tranh thực sự. Do đó, khả năng xây dựng kế hoạch đầu tư sản xuất kinh doanh hiệu
quả trong trung và dài hạn của người sản xuất bị hạn chế.
Tác động của các NTM thường khó có thể lượng hóa được rõ ràng như tác
động của thuế quan. Nếu mức bảo hộ thông qua thuế quan đối với một sản phẩm có
thể dễ dàng được xác định bằng chính thuế suất đánh lên sản phẩm đó thì mức độ bảo
2 Các NTM hạn chế định lượng như cấm nhập khẩu, hạn ngạch, giấy phép nhập khẩu không tự động v.v... gây cản trở,
bóp méo thương mại và thường bị coi là các NTB (NTBs).
4
hộ thông qua NTM là tổng mức bảo hộ của các NTM riêng rẽ áp dụng cho cùng một
sản phẩm. Bản thân mức độ bảo hộ của mỗi NTM cũng chỉ có thể được ước lượng
một cách tương đối. Cũng vì mức độ bảo hộ của các NTM không dễ xác định nên rất
khó xây dựng một lộ trình tự do hóa thương mại rõ ràng như với bảo hộ chỉ bằng thuế
quan.
Khó khăn, tốn kém trong quản lý
Vì khó dự đoán nên các NTM thường đòi hỏi chi phí quản lý cao và tiêu tốn
nhân lực của nhà nước để duy trì hệ thống điều hành, kiểm soát bằng NTMs.
Một số NTM thuộc thẩm quyền và phạm vi quản lý của nhiều cơ quan với
những mục tiêu khác nhau, đôi khi còn mâu thuẫn nhau, nên có thể gây khó khăn cho
bản thân các nhà hoạch định chính sách, quản lý, và các chủ thể tham gia hoạt động
kinh tế trong việc xây dựng, sử dụng, tiếp cận thông tin cũng như đánh giá tác động
của các NTM này.
Các doanh nghiệp sản xuất chưa chú trọng đến tiếp cận thông tin và chưa có ý
thức xây dựng, đề xuất các NTM để bảo hộ sản xuất, còn trông chờ vào nhà nước tự
quy định. Do đó, thực tế là các doanh nghiệp thường phải tốn kém chi phí vận động
hành lang để cơ quan chức năng ra quyết định áp dụng NTM nhất định có lợi cho
mình.
Ngoài ra, có những NTM bị động là những NTM tồn tại trên thực tế ngoài ý
muốn của các nhà hoạch định chính sách như bộ máy quản lý thương mại quan liêu,
năng lực thấp của các nhân viên hải quan, các văn bản pháp lý không được công bố
công khai,...
Nhà nước không hoặc ít thu được lợi ích tài chính
Việc sử dụng các NTM phục vụ mục tiêu hạn chế nhập khẩu, bảo hộ sản xuất
trong nước hầu như không đem lại nguồn thu tài chính trực tiếp nào cho nhà nước mà
thường chỉ làm lợi cho một số doanh nghiệp hoặc ngành nhất định được bảo hộ hoặc
được hưởng ưu đãi, đặc quyền, như được phân bổ hạn ngạch, được chỉ định làm đầu
mối nhập khẩu. Điều này còn dẫn đến sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong
nội bộ nền kinh tế.
c.Sự kết hợp giữa hai biện pháp để bảo hộ sản xuất trong nước.
Các biện pháp thuế quan và NTM là hai công cụ bảo hộ sản xuất quan trọng
đối với mọi quốc gia. Do mỗi công cụ đều có điểm mạnh, yếu đặc thù nên chúng
thường được sử dụng bổ sung lẫn nhau nhằm bảo hộ sản xuất trong nước. Mặc dù về
lý thuyết, WTO và các định chế thương mại khu vực thường chỉ thừa nhận thuế quan
là công cụ bảo hộ hợp pháp duy nhất nhưng thực tế đã chứng minh rằng các nước
không ngừng sử dụng các NTM mới, vừa đáp ứng mục đích bảo hộ, vừa không trái
với thông lệ quốc tế.
Mức độ hiệu quả của bảo hộ có tăng lên nhiều hay không còn phụ thuộc vào
tính linh hoạt có chọn lọc, có định hướng của chính phủ các nước trong việc áp dụng
NTMs bổ trợ cho biện pháp thuế quan. Nếu biết kết hợp hài hòa và tinh tế hai công
cụ này, sản xuất trong nước sẽ được bảo hộ, hỗ trợ có thời hạn để nâng cao sức cạnh
tranh nhằm từng bước thích nghi với các định chế và nguyên tắc chung của môi
trường thương mại quốc tế.
5
2.Các NTM được sử dụng để bảo hộ.
Các NTM được sử dụng để bảo hộ rất đa dạng. Tuy nhiên, có thể thấy rõ là tới
nay hầu như không còn nước nào còn cơ hội để áp dụng những biện pháp hạn chế
định lượng nhằm mục tiêu bảo hộ sản xuất trong nước được nữa. Những biện pháp
hạn chế định lượng như cấm nhập khẩu hay hạn ngạch nhập khẩu chỉ còn được áp
dụng trong những trường hợp cần thiết để bảo đảm và duy trì an ninh quốc gia, giữ
gìn đạo đức văn hóa, môi trường hay trong một vài trường hợp ngoại lệ đặc biệt.
Tuy nhiên, việc sử dụng biện pháp hạn ngạch vẫn được thừa nhận và được
nhiều nước áp dụng để bảo hộ ngành dệt may. Theo Hiệp định về dệt may của WTO
thì tới năm 2005 các nước thành viên WTO phải loại bỏ biện pháp này.
Một biện pháp ngoại lệ mang tính chất hạn chế định lượng khác cũng được
WTO thừa nhận và được áp dụng rộng rãi trên thực tế là biện pháp hạn ngạch thuế
quan trong nông nghiệp. Biện pháp này đã được cả các nước phát triển, các nước
đang phát triển và các nước đang chuyển đổi áp dụng để bảo hộ những lĩnh vực nông
nghiệp nhạy cảm của mình. Mức hạn ngạch, thuế suất trong hạn ngạch, thuế suất
ngoài hạn ngạch khác nhau tuỳ từng nước. Một thực tế chung là thuế suất ngoài hạn
ngạch thường rất cao, có nhiều trường hợp trên 100%.
Các nước phát triển thường áp dụng biện pháp thuế chống bán phá giá và thuế
đối kháng chống trợ cấp để bảo hộ các ngành công nghiệp, đồng thời áp dụng các
biện pháp hỗ trợ trong nước ở mức cao để bảo hộ nông nghiệp. Trong khi đó, các
nước đang phát triển và các nước đang chuyển đổi vẫn áp dụng biện pháp cấp phép
không tự động để bảo hộ cả công nghiệp và nông nghiệp.
3.Thời gian bảo hộ.
Do những nhân nhượng có đi có lại trong đàm phán thương mại quốc tế, đặc
biệt là các kết quả của Vòng đàm phán Uruguay với sự ra đời của WTO, các nước
thành viên của WTO cũng như những nước đang đàm phán gia nhập tổ chức này
không thể tùy ý kéo dài thời gian bảo hộ.
Thông thường thời gian được quyền áp dụng mỗi loại biện pháp bảo hộ được
qui định cụ thể trong từng hiệp định của WTO. Ví dụ thời gian áp dụng các biện pháp
bảo hộ thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài vi phạm Hiệp định về các biện pháp đầu
tư liên quan đến thương mại (Hiệp định TRIMs) không được kéo dài quá hai năm đối
với các nước phát triển và quá năm năm đối với các nước đang phát triển (kể từ năm
1995).
4.Các ngành được bảo hộ.
Tuỳ theo tình hình kinh tế - xã hội của mình mà mỗi nước chọn ra những
ngành cụ thể cần phải bảo hộ. Xu hướng chung đối với các nước phát triển là những
ngành sử dụng nhiều lao động với kỹ năng không cao được ưu tiên bảo hộ cao nhất,
chẳng hạn như các ngành dệt may, nông nghiệp. Đối với các nước đang phát triển
hoặc đang chuyển đổi thì các ngành được ưu tiên bảo hộ thường là những ngành công
nghiệp non trẻ (ô tô, điện tử, đường) hay những ngành mà các doanh nghiệp nhà
nước đang gặp khó khăn (sắt thép, xi măng, cơ khí).
6
5.Xu hướng của việc sử dụng các NTM để bảo hộ.
Xu hướng chung trong việc sử dụng các NTM để bảo hộ sản xuất trong nước là
chuyển từ các biện pháp mang tính chất hạn chế định lượng trực tiếp sang các biện
pháp tinh vi hơn như thuế chống bán phá giá, thuế đối kháng, tiêu chuẩn kỹ thuật, các
qui định về nhãn mác...
Kể từ khi WTO ra đời cho tới nay, có thể thấy rõ hầu hết các nước thành viên
đã thấy rõ những lợi ích của việc tuân thủ các qui định của tổ chức này. Một xu
hướng nổi bật là các biện pháp bảo hộ hoặc hạn chế thương mại mang tính đơn
phương đang ngày càng bị phản đối mạnh mẽ.
Ngoài ra, xu hướng sử dụng các biện pháp hạn chế nhập khẩu gắn với yêu cầu
tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường và lao động đang nổi lên và được nhiều nước phát
triển hậu thuẫn mạnh mẽ.
B.kinh nghiệm của một số nước trong quá Trình áp dụng các NTM để bảo
hộ sản xuất trong nước.
I.Thực tiễn áp dụng các NTM của Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ là một cường quốc kinh tế lớn nhất thế giới và là một trong những
thành viên sáng lập của GATT (WTO ngày nay). Mặc dù có tiềm năng to lớn trong
hầu hết mọi lĩnh vực sản xuất, nhưng theo qui luật về lợi thế cạnh tranh tương đối,
trong những năm qua, Hoa Kỳ đang phải đối mặt với những thách thức rất lớn nhằm
bảo hộ cho những ngành sản xuất đã suy giảm sức cạnh tranh trên thị trường thế giới.
1.Thực tiễn áp dụng các NTM của Hoa Kỳ có thể được minh họa khá rõ nét khi
nghiên cứu các biện pháp được áp dụng để bảo hộ các ngành dệt may, nông nghiệp
và sắt thép.
Dệt may
Dệt may là một ngành sử dụng nhiều lao động không đòi hỏi kỹ năng cao.
Hoạt động sản xuất của ngành sẽ có tác động rất lớn tới thu nhập, việc làm và ổn định
xã hội của Hoa Kỳ. Do đó, ngành này luôn được các nhà hoạch định chính sách
thương mại của Hoa Kỳ tìm mọi cách để bảo hộ, trong đó công cụ bảo hộ chính là
hạn ngạch. Theo Hiệp định Dệt may của WTO, Hoa Kỳ phải loại bỏ hạn ngạch đối
với các sản phẩm dệt và may vào năm 2005 theo một lộ trình gồm ba giai đoạn. Tuy
nhiên, Hoa Kỳ đã tìm nhiều cách để lẩn tránh các nghĩa vụ, chẳng hạn như rất nhiều
sản phẩm chỉ được loại bỏ hạn ngạch vào giai đoạn cuối cùng của Hiệp định này.
Một NTM khác là qui tắc xuất xứ đã được Hoa Kỳ sử dụng khá tinh vi để hạn
chế nhập khẩu sản phẩm dệt may từ Trung Quốc và ấn Độ.
Nông nghiệp
Điều kiện thiên nhiên thuận lợi cộng thêm với trình độ khoa học công nghệ cao
đã giúp nền nông nghiệp của Hoa Kỳ có năng suất lao động đứng đầu thế giới, có sức
cạnh tranh rất lớn cả về chất lượng cũng như giá cả sản phẩm. Tuy nhiên, Hoa Kỳ
vẫn phải áp dụng nhiều NTM nhằm bảo hộ cho một số ngành nông nghiệp, đặc biệt là
ngành sữa và đường.
Hai biện pháp nổi bật được áp dụng để bảo hộ ngành sữa và đường là biện
pháp hạn ngạch thuế quan và hỗ trợ giá. Chỉ tính riêng khoản hỗ trợ trong nước của
Hoa Kỳ vi phạm Hiệp định Nông nghiệp của WTO và thuộc diện phải cam kết cắt
7
giảm trong năm 1996 đối với ngành sữa đã lên tới 4,7 tỷ USD và đối với ngành
đường là 0,9 tỷ USD.
Sắt thép
Chỉ mới vài thập kỷ trước đây, Hoa Kỳ là nước sản xuất hàng đầu thế giới về
sắt thép. Nhưng những năm gần đây ngành công nghiệp này của Hoa Kỳ phải đối mặt
với sự cạnh tranh khốc liệt của các nước khác như Trung Quốc, Nga, Hàn quốc, Nhật
Bản.
Để bảo hộ ngành công nghiệp sắt thép, Hoa Kỳ đã tăng cường và thường
xuyên sử dụng biện pháp thuế chống bán phá giá. Ngoài ra, với những nước chưa
phải là thành viên WTO, Hoa Kỳ còn tìm cách gây sức ép buộc những nước đó hạn
chế xuất khẩu sản phẩm sắt thép sang Hoa Kỳ. Ví dụ, năm 1999 Nga đã buộc phải ký
với Hoa Kỳ thoả thuận hạn chế xuất khẩu tự nguyện một số loại sắt thép sang Hoa Kỳ
trong vài năm tiếp theo.
2.Gần đây Hoa Kỳ đang cố gắng tìm mọi cách để có thể sử dụng các biện pháp
gắn với môi trường và tiêu chuẩn lao động để hạn chế nhập khẩu.
Hai trường hợp điển hình về việc Hoa Kỳ đơn phương áp dụng các qui định về
môi trường của mình để hạn chế nhập khẩu là trường hợp cá hồi và tôm. Trong
trường hợp thứ nhất, Hoa Kỳ cấm nhập khẩu cá hồi từ những nước mà Hoa Kỳ cho
rằng phương pháp đánh bắt của họ làm ảnh hưởng xấu đến cá heo. Trong trường hợp
thứ hai, việc nhập khẩu tôm từ những nước sử dụng lưới quét có hại cho rùa biển
cũng bị cấm.
3.Một đặc điểm nổi bật là Hoa Kỳ đã ban hành luật và áp dụng trên thực tiễn
nhiều biện pháp đơn phương có tác dụng hạn chế thương mại rất lớn. Có thể kể ra
một số biện pháp đáng chú ý nhất như sau:
An ninh quốc gia: với lý do bảo đảm an ninh quốc gia, Hoa Kỳ đã hạn chế
nhập khẩu từ các nước bị coi là có thể đe doạ đến an ninh của Hoa Kỳ, chẳng hạn như
Cu ba, Angola, Ruanda...
Các hành động thương mại đơn phương: Điều 301 của Luật Thương mại Hoa
Kỳ (1974), Super 301, Special 301 cho phép Hoa Kỳ có thể áp dụng các biện pháp
đơn phương hạn chế thương mại với các nước mà Hoa Kỳ cho là có phương hại tới
lợi ích của mình. Luật Helm-Burton hạn chế không chỉ các công ty Hoa Kỳ mà thậm
chí cả các công ty và thể nhân của các nước khác tiến hành đầu tư buôn bán với Cu
ba. Hoa Kỳ cũng ban hành và thực thi biện pháp hạn chế thương mại với Iran.
II.Thực tiễn áp dụng các NTM của Thái Lan.
1.Hạn ngạch nhập khẩu.
Hạn ngạch nhập khẩu áp dụng đối với máy móc, giấy, hóa chất, máy nông
nghiệp, bình chứa gas để nấu nướng, máy cưa đĩa. Thái Lan đã chuyển biện pháp cấp
phép đối với 23 nhóm nông sản sang hạn ngạch thuế quan và thuế hóa các NTM đối
với các nông sản này. Hầu hết chúng là nông sản nguyên liệu thô (nông sản chưa chế
biến) bao gồm sữa chưa cô đặc, khoai tây, hành, tỏi, cà phê, chè, hạt tiêu, ngô, gạo,
đậu tương, lá thuốc lá. Thuế suất trong hạn ngạch ban đầu đối với các nông sản này
thay đổi từ 20% đến 60%. Thuế suất ngoài hạn ngạch thay đổi từ 40% đến 242%.
2.Cấp phép nhập khẩu.
8
Thái Lan đã giảm số nhóm hàng nhập khẩu cần có giấy phép từ 42 (năm 199596) xuống còn 23 (năm 1997). Các mặt hàng phải có giấy phép mới được nhập khẩu
bao gồm nguyên vật liệu, dược phẩm, xăng dầu, hàng công nghiệp, hàng dệt, nông
sản và tất cả các loại lương thực thực phẩm phục vụ tiêu dùng của con người.
Giấy phép nhập khẩu không tự động cũng được áp dụng đối với động cơ, bộ
phận, phụ tùng đã qua sử dụng của xe máy có dung tích không quá 50cc, và bánh xe
có bán kính không quá 10 inches. Giấy phép nhập khẩu chỉ cấp cho các doanh nghiệp
nhà nước.
Bên cạnh yêu cầu về cấp phép nhập khẩu thuộc thẩm quyền của Bộ Thương
mại, nhập khẩu các sản phẩm lương thực thực phẩm, thuốc men, mỹ phẩm, chất độc
hại, chất gây nghiện, chất kích thích, các dụng cụ và trang thiết bị y tế còn phải được
sự chấp thuận của Cơ quan quản lý Thuốc và Thực phẩm của Thái Lan. Nhìn chung,
các quy định nhập khẩu lương thực, thực phẩm, thuốc men của Thái Lan là một rào
cản đối với nhập khẩu do thời gian chậm trễ kéo dài trước khi được chấp thuận đưa
vào thị trường và hệ thống giấy phép nhập khẩu độc quyền.
3.Xác định Trị giá tính thuế hải quan.
Trong giai đoạn 1996-1999, Cục Hải quan Thái Lan thường sử dụng giá hóa
đơn cao nhất của sản phẩm cùng loại nhập khẩu từ bất kỳ nước nào trong thời gian
trước đó để xác định trị giá tính thuế. Các nhân viên hải quan Thái Lan sử dụng công
thức giá CIF để tính giá trị chịu thuế, hoặc công thức giá FOB + 10% cước vận tải +
5% phí bảo hiểm.
Như vậy có thể nhận thấy rằng thủ tục và phương pháp xác định trị giá tính
thuế hải quan của Thái Lan khá tuỳ tiện, phụ thuộc vào cách áp dụng của các nhân
viên hải quan. Tuy nhiên từ tháng 5/2000, Thái Lan đã sử dụng phương pháp xác
định trị giá tính thuế nhập khẩu theo trị giá giao dịch như quy định trong Hiệp định
về xác định trị giá thuế quan của WTO .
4.Chương trình nội địa hóa.
Thái Lan đưa ra yêu cầu về hàm lượng nội địa đối với sản xuất ô tô con (54%),
xe tải nhẹ (65-80%), xe tải và xe buýt (40-50%), xe máy (70%) và sản phẩm sữa
(phải mua tối thiểu 50 tấn sữa nguyên liệu địa phương/ngày trong năm hoạt động đầu
tiên). Tuy nhiên, Thái Lan đã cam kết loại bỏ toàn bộ các yêu cầu về nội địa hóa vào
cuối năm 1999 theo quy định của Hiệp định TRIMs của WTO. Thái Lan đã tiến hành
sửa đổi các văn bản pháp luật trong nước để loại bỏ dần yêu cầu về hàm lượng nội
địa hoá trong năm 1999, phù hợp với thời hạn quá độ cho phép trong Hiệp định
TRIMs.
5.Khuyến khích đầu tư.
Uỷ ban đầu tư (Board of Investment-BOI) của Thái Lan đưa ra những ưu đãi
và khuyến khích đầu tư đối với các công ty nước ngoài đạt những mục tiêu cụ thể về
tỷ lệ xuất khẩu hoặc chấp nhận các yêu cầu về cân bằng thương mại. Hình thức
khuyến khích có thể là miễn, giảm thuế, phí, thuế nhập khẩu, quỹ khuyến khích xuất
khẩu và các hình thức ưu đãi thuế khác. Nhằm khuyến khích đầu tư nước ngoài, khắc
phục hậu quả khủng hoảng kinh tế khu vực vừa qua, BOI đã tạm thời nới lỏng nhiều
điều kiện về miễn thuế và phí.
9
Chương trình khuyến khích xuất khẩu đưa ra các hình thức ưu đãi chủ yếu sau:
miễn thuế nhập khẩu đối với các nguyên vật liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất
khẩu, khấu trừ 5% phần thu nhập tăng lên của năm trước do xuất khẩu khỏi phần thu
nhập chịu thuế, v.v... Tuy nhiên, Luật khuyến khích đầu tư không quy định tiêu chuẩn
cụ thể để được hưởng những ưu đãi, khuyến khích này.
6.Trợ cấp.
Ngân hàng Trung ương Thái Lan được giao nhiệm vụ hỗ trợ tài chính đối với
các dự án ưu tiên thông qua chương trình tái tài trợ tín dụng công nghiệp. Mỗi công
ty, với tổng tài sản cố định không vượt quá 200 triệu baht đều được phân bổ định
mức tín dụng để phát hành lệnh phiếu. Tổng giá trị tái tài trợ là 50% mệnh giá lệnh
phiếu. Uỷ ban quốc gia về Xúc tiến đầu tư và xuất khẩu chịu trách nhiệm quản lý
chương trình này. Chương trình này hướng mục tiêu vào hỗ trợ tài chính cho các
ngành công nghiệp phục vụ phát triển nông thôn. Tuy nhiên, theo điều tra của một số
nước khác, chương trình này cũng hỗ trợ một số ngành xuất khẩu.
Thái Lan không duy trì trợ cấp xuất khẩu cho nông sản trừ Chương trình tín
dụng cả gói. Thái Lan cho rằng chương trình này phù hợp với các qui định của WTO.
Hỗ trợ trong nước của Thái Lan tập trung vào gạo, sữa tươi, đường.
III.Thực tiễn áp dụng các NTM của Trung Quốc.
1.Cấp phép nhập khẩu.
Trung Quốc áp dụng giấy phép nhập khẩu cho 53 nhóm hàng tiêu dùng,
nguyên liệu thô và một số thiết bị sản xuất, ví dụ như ô tô, xe máy và phụ tùng, xe tải,
lốp, hàng dệt, ngũ cốc, đường, sữa bột, bông. Các mặt hàng này chiếm 50% kim
ngạch nhập khẩu của Trung Quốc. Cơ quan quản lý việc cấp phép nhập khẩu là Bộ
Ngoại thương và Hợp tác Kinh tế (MOFTEC).
2.Hạn ngạch nhập khẩu.
Trung Quốc áp dụng hạn ngạch nhập khẩu cho hơn 400 mặt hàng. Qui định
pháp lý về việc cấp hạn ngạch không rõ ràng và các điều kiện để xác định hạn ngạch
cho một số mặt hàng không được công bố. Các mặt hàng Trung Quốc áp dụng hạn
ngạch gồm có: ô tô, xe máy, sản phẩm bông chưa chế biến, sản phẩm bông, sợi tổng
hợp. Trung Quốc dự kiến loại bỏ hạn ngạch vào năm 2005 trong đàm phán gia nhập
WTO.
Theo thoả thuận song phương với Hoa Kỳ trong đàm phán gia nhập WTO,
Trung Quốc duy trì được biện pháp cấp phép nhập khẩu và hạn ngạch với rất nhiều
mặt hàng công nghiệp, nhiều hơn cả số mặt hàng đang áp dụng giấy phép nhập khẩu
và hạn ngạch của Việt Nam hiện tại. Trung Quốc cam kết tăng dần hạn ngạch 15%
hàng năm, thời hạn loại bỏ các NTB ngắn nhất là năm 2000 (radio, radio catxet,
phim chưa tráng các loại), thời hạn dài nhất là 2005 (ô tô các loại).
3.Doanh nghiệp thương mại nhà nước.
Các công ty ngoại thương nhà nước được ưu tiên quyền kinh doanh xuất nhập
khẩu. Ví dụ: máy bay chỉ được nhập khẩu qua cơ quan mua sắm hàng không dân
dụng; việc xuất khẩu hàng dệt may thuộc quyền quản lý và kiểm soát của các cơ quan
nhà nước nắm độc quyền ngoại thương: các cơ quan này kiểm soát nhập khẩu và
phân phối hàng dệt may trong nước.
10
Doanh nghiệp có vốn nước ngoài chỉ được phép nhập khẩu nguyên liệu đầu
vào phục vụ sản xuất. Doanh nghiệp nước ngoài không được phép thành lập chi
nhánh để phân phối hàng hóa ở Trung Quốc. Các doanh nghiệp tư nhân không được
kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp. Trước đây, các công ty ngoại thương nhà nước
đều thuộc quyền quản lý trực tiếp của MOFTEC, nhưng nay MOFTEC không can
thiệp vào công việc hàng ngày của các công ty này nữa. Số doanh nghiệp được quyền
kinh doanh xuất nhập khẩu tăng dần từ 14 doanh nghiệp năm 1979 lên tới trên 8.800
hiện nay.
Trung Quốc khẳng định rằng tất cả các doanh nghiệp sở hữu nhà nước hoặc
doanh nghiệp do nhà nước đầu tư sẽ chỉ tiến hành các hoạt động mua, bán căn cứ
theo tiêu chí thương mại và đảm bảo cho doanh nghiệp của các nước thành viên
WTO được dành đãi ngộ quốc gia so với doanh nghiệp nhà nước có đủ cơ hội tham
gia vào các hoạt động mua, bán với các doanh nghiệp trên của Trung Quốc. Chính
phủ Trung Quốc sẽ không can thiệp vào quyết định thương mại của các doanh nghiệp
trên.
Tháng 7/1995 Trung Quốc thông báo sẽ dần dần loại bỏ độc quyền ngoại
thương trong vòng 8 năm sau khi gia nhập WTO.
4.Các biện pháp liên quan đến đầu tư.
Trung Quốc qui định yêu cầu về hàm lượng nội địa, thành tích xuất khẩu và
yêu cầu cân đối thương mại đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh
nghiệp do nước ngoài sở hữu hoàn toàn. Ngoài ra, còn có những yêu cầu mua hàng
gián tiếp khi ký hợp đồng mua sắm với các công ty nước ngoài (ví dụ: để ký được
hợp đồng bán máy bay thì các nhà cung cấp nước ngoài có thể phải mua một số hàng
hóa khác của Trung Quốc).
Trung Quốc cam kết sẽ tuân thủ Hiệp định TRIMs ngay khi gia nhập WTO,
nghĩa là loại bỏ các yêu cầu cân đối ngoại tệ, yêu cầu về hàm lượng nội địa, yêu cầu
về xuất khẩu. Ngoài ra, Trung Quốc còn đảm bảo việc cấp phép nhập khẩu, cấp hạn
ngạch, hạn ngạch thuế quan sẽ không căn cứ vào các yêu cầu về hàm lượng nội địa,
chuyển giao công nghệ, tiến hành hoạt động nghiên cứu và phát triển tại Trung Quốc.
5.Xác định trị giá tính thuế hải quan.
Cơ quan hải quan Trung Quốc xác định trị giá hàng hóa theo hóa đơn bán
hàng. Tuy nhiên, bảng giá tham khảo không chính thức vẫn được cập nhật thường
xuyên. Hải quan Trung Quốc còn có thể định giá lại hàng hóa bằng cách sử dụng giá
ước tính của Phòng Thương mại. Các qui định áp dụng trong việc xác định trị giá
hàng hóa không được công bố. Trên thực tế, cùng một sản phẩm có thể chịu thuế suất
khác nhau tùy thuộc vào cửa khẩu.
Qui định về xác định trị giá tính thuế quan không rõ ràng là một biện pháp hạn
chế nhập khẩu của Trung Quốc.
6.Trợ cấp.
Trung Quốc sử dụng nhiều hình thức trợ cấp xuất khẩu như cho nhà sản xuất
hưởng giá điện thấp; cho doanh nghiệp nhà nước và công ty thương mại nhà nước
được vay ngân hàng với những điều kiện ưu đãi, trong đó rất nhiều khoản vay không
phải hoàn trả; các doanh nghiệp đáp ứng mục tiêu xuất khẩu nhất định thì được vay
ưu đãi và được cung cấp các phương tiện nghiên cứu và phát triển; các doanh nghiệp
11
xuất khẩu, đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động trong các đặc khu kinh tế và vùng
ven biển được ưu đãi về thuế. Trung Quốc đang tiến hành trợ cấp tài chính cho các
chương trình phát triển sản phẩm xuất khẩu cuối cùng.
7.Các cam kết về phi thuế quan trong thương mại nông sản.
-Trừ 10 nhóm nông sản (lúa mì, ngô, gạo, dầu đậu tương, dầu cọ, dầu hạt cải,
đường, len, len lông cừu, bông) được nhập khẩu theo cơ chế hạn ngạch thuế quan,
mọi sản phẩm khác do doanh nghiệp thương mại nhà nước hay không phải doanh
nghiệp thương mại nhà nước nhập khẩu đều được đãi ngộ bình đẳng như nhau (về
thuế áp dụng, quy định kiểm dịch, v.v.) và được hưởng đãi ngộ quốc gia.
- Trừ những sản phẩm được quy định là chỉ được nhập khẩu thông qua doanh
nghiệp thương mại nhà nước (gạo, ngô, lúa mì, dầu đậu tương, dầu cọ, dầu hạt cải,
đường, rượu), các sản phẩm còn lại có thể được nhập khẩu thông qua bất kỳ doanh
nghiệp nào có quyền kinh doanh.
- Cơ chế phân bổ và tái phân bổ hạn ngạch thuế quan của Trung Quốc tuân
theo các thủ tục và tiêu chí khách quan, minh bạch.
- Mọi chủ thể được phân bổ hạn ngạch thuế quan đều được quyền ủy thác nhập
khẩu thông qua doanh nghiệp thương mại nhà nước và/hoặc thông qua các chủ thể có
quyền kinh doanh khác, kể cả việc tự mình trực tiếp nhập khẩu theo quy định tại văn
bản cấp hạn ngạch phù hợp với các tiêu chí đặt ra.
- Thời gian mở rộng hạn ngạch thuế quan đối với hầu hết các nông sản là năm
2004 (trừ dầu đậu tương được mở rộng hạn ngạch vào năm 2005 và được tự do kinh
doanh từ 1/1/2006).
- Rượu: từ 1/1/2000 loại bỏ giấy phép nhập khẩu và giảm thuế quan từ 65%
xuống 54%.
- Xì gà, thuốc lá điếu: từ 1/1/2000 loại bỏ giấy phép nhập khẩu, hạn ngạch và
giảm thuế quan từ 40% xuống 34%.
Dưới đây là danh mục cụ thể các nông sản Trung Quốc áp dụng hạn ngạch thuế
quan và thời hạn mở rộng hạn ngạch:
Bảng 1: Danh mục các nông sản Trung Quốc áp dụng hạn ngạch thuế quan
(HNTQ) và thời hạn mở rộng hạn ngạch
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
Mặt hàng
Lúa mỳ
Ngô
Gạo
Dầu đậu tương
Dầu cọ
Dầu hạt cải dầu
Đường
Len
Len lông cừu
(wool top)
Bông
Lộ trình mở rộng HNTQ của Trung
Quốc
2000-2004
2000-2004
2000-2004
2000-2005
2000-2004
2000-2004
2000-2004
2000-2004
2000-2004
2000-2004
12
Bảng 2: Danh mục các mặt hàng Trung Quốc duy trì giấy phép nhập khẩu (GP),
hạn ngạch (HN) và lộ trình loại bỏ
STT Mặt hàng
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
Xăng dầu
Phân bón
Một số hóa chất
Phim chưa tráng
Cao su tự nhiên
Lốp cao su
Vải, nguyên liệu vải
Động cơ, máy kéo
Máy điều hòa, tủ lạnh
Máy giặt gia đình
Máy chạy đĩa compact, máy ghi băng từ và tái
tạo âm thanh, máy thu và phát video và phụ
tùng
Máy thu kết hợp với thiết bị thu phát âm
thanh
Máy thu hình, màn hình TV
Ô tô các loại
Xe máy các loại và phụ tùng
Camera
Đồng hồ đeo tay các loại
Biện
pháp
GP, HN
GP, HN
GP
GP
GP, HN
GP, HN
GP, HN
GP, HN
GP, HN
GP, HN
GP, HN
Lộ trình
loại bỏ
2004
2002
2002
2000
2004
2004
2000, 2001
2003
2001
2001
2001, 2002
GP, HN
2000
GP, HN
GP, HN
GP, HN
GP, HN
GP, HN
2001, 2002
2004, 2005
2004
2003
2003
Nguồn: Hiệp định Thương mại tiếp cận thị trường song phương Hoa Kỳ-Trung
Quốc.
Chương II
các biện pháp phi thuế của việt nam
trong thời kỳ 1996-2000
A.Thực trạng Kinh tế -thương mại và tổng quan khả năng cạnh tranh của
Việt Nam.
I.Tổng quan thực trạng Kinh tế-Thương mại Việt Nam thời kỳ 1996-2000
1.Tổng quan thực trạng kinh tế Việt Nam.
Trong các năm 1996 - 2000, mặc dù tốc độ tăng trưởng Tổng sản phẩm quốc
nội (GDP) bình quân hàng năm đạt được ở mức độ tương đối cao (7%), nền kinh tế
Việt Nam đã trải qua một giai đoạn khó khăn với sự suy giảm liên tục từ mức rất cao
9,3% năm 1996, đã giảm dần xuống chỉ còn 4,8% năm 1999 và năm 2000 dự kiến
6,6% - 6,7%.
Sự suy giảm tốc độ tăng trưởng GDP nói trên là do sự suy giảm đáng kể trong
sản xuất công nghiệp và cả trong các ngành dịch vụ mặc dù tốc độ tăng trưởng trong
sản xuất nông nghiệp đã có sự gia tăng trong cả giai đoạn: Tốc độ tăng trưởng nông
13
nghiệp đã tăng từ 4,4% năm 1996 lên 5,2% năm 1999 và năm 2000 (mặc dù liên tục
bị lũ, lụt) dự kiến tăng 4,3%. Trong khi đó tốc độ tăng trưởng của sản xuất công
nghiệp đã giảm từ 13,9% năm 1996 xuống còn 9,3% năm 1999 và năm 2000 dự kiến
15% - 15,5%. Tốc độ tăng trưởng của các ngành dịch vụ còn suy giảm một cách
nghiêm trọng hơn, từ 9,9% năm 1996 xuống còn 2,3% năm 1999 và năm 2000 dự
kiến 6,2%.
Trong sự suy giảm tốc độ tăng trưởng GDP đó có sự đóng góp của tất cả các
thành phần kinh tế, từ khu vực Nhà nước cho đến khu vực tư nhân và khu vực đầu tư
nước ngoài. Khu vực kinh tế Nhà nước góp một phần đáng kể, từ chỗ tăng trưởng
11,3% năm 1996, xuống còn 4,3% năm 1999. Khu vực kinh tế tư nhân cũng suy giảm
liên tục trong giai đoạn này, từ chỗ tăng trưởng 14,4% năm 1996 chỉ còn 6,2% năm
1999.
Mức tăng trưởng chậm lại của khu vực công nghiệp là do sự giảm sút của
ngành công nghiệp chế biến và ngành sản xuất điện, khí đốt và nước. Tốc độ tăng
trưởng của ngành công nghiệp chế biến đã giảm từ 12,8% năm 1996 xuống còn 7,5%
năm 1999. Ngành sản xuất điện, khí đốt và nước còn gặp sự suy giảm mạnh hơn, từ
14,7% năm 1996 xuống chỉ còn 7% năm 1999.
Sự suy giảm trong ngành dịch vụ thể hiện bằng tình trạng suy giảm của tất cả
các phân ngành, nhưng chủ yếu là do sự suy giảm trong ngành xây dựng. Tốc độ tăng
trưởng của ngành xây dựng đã giảm từ 16,1% năm 1996 xuống còn 2,4% năm 1999,
đặc biệt năm 1998, tốc độ tăng trưởng của ngành này ở mức âm (-0,5%).
Kết quả khả quan của ngành sản xuất nông nghiệp trong giai đoạn này là nhờ
mức tăng trưởng cao trong sản xuất lúa gạo, thủy sản và chăn nuôi. Sản lượng thóc đã
tăng không ngừng từ 27 triệu tấn năm 1997 lên 29 triệu tấn năm 1998 và 31 triệu tấn
năm 1999 và năm 2000 dự kiến 32 triệu tấn. Do đó, xuất khẩu gạo đã đạt mức kỷ lục
4,2 triệu tấn vào năm 1999 và năm 2000 dự kiến 3,6 triệu tấn. Sản lượng chăn nuôi
cũng duy trì mức tăng trưởng tương đối nhanh; Sản lượng thuỷ, hải sản cũng có sự
phục hồi và phát triển mạnh mẽ (một phần là do nhu cầu xuất khẩu tăng).
Bảng 3: Tình hình tăng trưởng kinh tế giai đoạn 1996-1999
Tốc độ tăng trưởng
GDP
Nhà nước
Tập thể
Tư nhân
1996
1997
1998
1999
9,3%
8,2%
5,8%
4,8%
5,6%
3,5%
7,9%
4,3%
3,6%
6,2%
Theo thành phần kinh tế
11,3%
9,7%
3,6%
2,6%
14,4%
9,8%
14
Cá thể
Hỗn hợp
Đầu tư nước ngoài
Nông nghiệp
Công nghiệp
Dịch vụ
6,6%
5,6%
8,1%
3,5%
19,4%
20,8%
Theo ngành kinh tế
4,4%
4,3%
13,9%
13,1%
9,9%
7,8%
3,4%
4,1%
19,1%
3,9%
-1,3%
13,4%
3,5%
11,3%
4,2%
5,2%
9,3%
2,3%
Nguồn: Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 1999, Nhà xuất bản Thống kê.
Ghi chú: - Nông nghiệp bao gồm cả sản xuất lâm nghiệp và thuỷ sản
- Công nghiệp bao gồm khai thác mỏ, công nghiệp chế biến và sản xuất,
phân phối điện, khí đốt và nước
- Dịch vụ bao gồm cả xây dựng và các hoạt động Đảng, đoàn thể và xã
hội.
Nguyên nhân chính của tình trạng suy giảm kinh tế nói trên là do đầu tư sụt
giảm trong hầu hết các lĩnh vực. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, tỷ trọng đầu
tư theo GDP đã giảm mạnh từ 29% năm 1997 xuống 21% năm 1999, đặc biệt là do
sự suy giảm trong đầu tư trực tiếp nước ngoài trong các năm 1998 và 1999. Sau thời
kỳ mỗi năm đạt bình quân 2 tỷ USD trong giai đoạn 3 năm 1995 - 1997, đầu tư nước
ngoài đã giảm xuống còn 800 triệu USD năm 1998 và năm 1999 chỉ còn 600 triệu
USD. Sự sụt giảm nhiều nhất là từ các nhà đầu tư Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và
các nước Đông Nam á, là những nước bị ảnh hưởng nhiều nhất của cuộc khủng
hoảng tài chính xảy ra từ giữa năm 1997 đến đầu năm 1999.
Đầu tư từ các nguồn trong nước cũng suy giảm. Đầu tư của các doanh nghiệp
tư nhân và của các hộ gia đình trong nước năm 1999 đã giảm khoảng gần 2%. Đầu tư
của các doanh nghiệp Nhà nước và đầu tư từ nguồn tài trợ ODA cũng giảm sút.
2.Tình hình xuất khẩu và nhập khẩu.
Trái với tình hình suy thoái của nền kinh tế nói chung như nêu ở trên, trong
giai đoạn 1996 - 2000 ngoại thương Việt Nam đã đạt được sự phát triển rất đáng
khích lệ cả về quy mô, tốc độ tăng trưởng và diện mặt hàng, đóng góp tích cực vào
GDP, thúc đẩy sự phát triển kinh tế trong nước, phục vụ tốt cho các ngành sản xuất
trong nước, và góp phần tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động.
2.1.Xuất khẩu.
Xuất khẩu trong thời kỳ 1996 - 2000 đã đạt được tốc độ tăng trưởng tương đối
cao, bình quân 20,8% một năm (trong đó năm 2000 dự kiến tăng 21,3%). Tổng kim
ngạch xuất khẩu của cả giai đoạn đã đạt 51,34 tỷ USD (trong đó năm 2000 dự kiến
đạt 14 tỷ USD), đưa mức xuất khẩu bình quân đầu người tăng lên 151,2 USD/người
vào năm 1999 và dự kiến 180 USD/người vào năm 2000.
Sự phát triển nhanh chóng của xuất khẩu đạt được là do sự mở rộng không
ngừng diện mặt hàng xuất khẩu, sự tăng trưởng cũng như sự phát triển về quy mô của
từng nhóm mặt hàng.
Năm 1991 Việt Nam mới có 4 nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực đạt kim
ngạch từ 100 triệu USD/năm trở lên, nhưng đến năm 2000 số nhóm mặt hàng này đã
15
tăng lên 15 nhóm. Có nhiều mặt hàng đã đạt kim ngạch xuất khẩu từ 1 tỷ USD đến 2
tỷ USD như dầu thô, dệt may, giầy dép, thủy sản, gạo.
Trong 5 năm 1996 - 2000 tốc độ tăng trưởng của các mặt hàng chủ lực khá cao,
bình quân 19,7%/năm; trong đó có những mặt hàng tốc độ tăng trưởng nhảy vọt như
giầy dép tăng 6,7 lần; hàng thủ công mỹ nghệ tăng 3,2 lần; hàng dệt may tăng 1,76
lần; và thủy, hải sản tăng 1,5 lần. Nhóm hàng nông, lâm, thuỷ, hải sản tăng 64%,
trong đó gạo, cao su, cà phê,... đều tăng từ 65% đến 103%. Nhóm hàng công nghiệp
nặng và khoáng sản tăng 109%, trong đó chủ yếu là dầu thô và than đá.
Đáng lưu ý trong số các nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực, nhóm điện tử và
linh kiện máy tính có tốc độ phát triển khá nhanh: mặc dù năm 1996 mới bắt đầu xuất
khẩu đạt kim ngạch 89 triệu USD, từ năm 1997 đã liên tục tăng trưởng nhanh, đến
năm 1999 đã đạt 700 triệu USD, tăng gần 7 lần so với năm 1996 và năm 2000 dự
kiến đạt 750 triệu USD.
Thị trường xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn 1996 - 2000 cũng đã mở
rộng đáng kể với sự gia tăng không ngừng kim ngạch xuất khẩu vào từng khu vực thị
trường. Trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 1996-2000:
Thị trường khu vực châu á-Thái Bình Dương chiếm tỷ trọng 64,6%, trong đó
năm 1996: 71,3%, năm 1997: 66,6%, năm 1998: 62,9%, năm 1999: 62,4% và năm
2000 dự kiến 61,5%; tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân của Việt Nam vào khu
vực này đạt 15%/năm.
Thị trường khu vực ASEAN chiếm tỷ trọng 23,3%, năm 1996: 24,5%, năm
1997: 22%, năm 1998: 25,1%, năm 1999: 21,3% và năm 2000 dự kiến 24,1%; tốc độ
tăng trưởng xuất khẩu bình quân của Việt Nam vào khu vực này đạt 22,6%/năm.
Thị trường khu vực Âu - Mỹ chiếm tỷ trọng 30,7%, thị trường khu vực này
cũng ngày càng chiếm vị trí quan trọng đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam:
năm 1996 chiếm 20,8%, năm 1997: 28,9%, năm 1998: 34,5%, năm 1999: 31,9% và
năm 2000 dự kiến 33,9%. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân của Việt Nam vào
khu vực này đạt 28,8%/năm. Trong thị trường khu vực Âu - Mỹ, thị trường EU là thị
trường quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam
và có tốc độ tăng trưởng 34,3%/năm, cao hơn nhiều so với các thị trường khác trong
khu vực Âu - Mỹ.
Thị trường khu vực châu Phi-Tây Nam á chiếm tỷ trọng 3,2%, trong đó năm
1996 chiếm 2,8%, năm 1997: 2,5%, năm 1998: 2,7%, năm 1999: 3% và dự kiến năm
2000 là 4,5%; tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân của Việt Nam vào khu vực này
là 40,7%/năm.
Thị trường khác chiếm tỷ trọng 1,5%.
Dưới đây là bảng thống kê tỷ trọng và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vào 10 thị
trường chủ yếu trong giai đoạn 1996 - 2000:
16
Bảng 4: Tỷ trọng và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vào 10 thị trường chủ yếu giai
đoạn 1996 - 2000
Thị trường
Tỷ trọng (%)
Tốc độ tăng trưởng (%)
Nhật Bản
Xinh-ga-po
Đài Loan
Trung Quốc
Đức
úc
Hoa Kỳ
Hàn Quốc
Phi-lip-pin
Hồng Kông
16,1
10,4
6,9
6,4
5,3
4,2
4,1
3,7
3,4
3,4
3,6
- 10,6
9,2
34,8
36,9
70,7
28,7
- 11,0
42,9
6,5
Trong giai đoạn 1996 - 2000:
- Số lượng doanh nghiệp trực tiếp kinh doanh xuất, nhập khẩu ngày càng tăng
và có sự chuyển dịch rõ nét trong cơ cấu chủ thể tham gia kinh doanh, đặc biệt là sau
khi Chính phủ ban hành Nghị định số 57/1998/ NĐ-CP ngày 31/7/1998, số lượng
doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia xuất, nhập khẩu tăng nhanh. Năm 1980 chỉ có 13
doanh nghiệp thuộc Bộ Ngoại Thương; Năm 1991 có 495 doanh nghiệp thuộc 14 Bộ,
Ngành, cơ quan đoàn thể chính trị, 42 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Đến
năm 2000 có khoảng 13.000 doanh nghiệp và chi nhánh đăng ký trực tiếp xuất, nhập
khẩu hàng hoá.
- Xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng trưởng khá
nhanh cả về quy mô và tốc độ so với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước, cụ
thể là: khối các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài xuất khẩu đạt 19,8 tỷ USD
(kể cả dầu thô), chiếm tỷ trọng 38,6%, tăng trưởng bình quân 34,9%/năm; các doanh
nghiệp 100% vốn đầu tư trong nước xuất khẩu đạt 31,54 tỷ USD (không kể dầu thô),
chiếm tỷ trọng 61,4%, tăng trưởng bình quân 13,3%/năm.
2.2.Nhập khẩu.
Trong giai đoạn 1996 - 2000, kim ngạch và cơ cấu hàng nhập khẩu đã góp
phần bảo đảm được nhu cầu tiêu dùng, nhất là về máy móc, thiết bị, phụ tùng, vật tư,
nguyên liệu cho sản xuất và cho tiêu dùng thiết yếu, góp phần đầy đủ và phong phú
thêm hàng hoá lưu thông trên thị trường nội địa.
Tổng kim ngạch nhập khẩu trong thời kỳ này đạt 60,7 tỷ USD, với tốc độ bình
quân hàng năm tăng 12,2%. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng kim ngạch nhập khẩu có
chiều hướng giảm dần, đặc biệt hai năm 1998 và 1999 kim ngạch nhập khẩu gần như
không tăng đã làm giảm tốc độ chung của cả thời kỳ, đến năm 2000 lại tăng nhanh,
dự kiến đạt 14,8 tỷ USD, tăng 27,3%.
Thời kỳ này, các mặt hàng phục vụ sản xuất luôn luôn chiếm tỷ trọng cao trong
tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam, cụ thể là: Nhóm máy móc, thiết bị, phụ
17
tùng và nguyên, nhiên, vật liệu chiếm tỷ trọng 91,3% và đã tăng từ 83,5% năm 1995
lên 94,8% năm 1999 và năm 2000 dự kiến đạt 92%; Nhóm hàng tiêu dùng thời kỳ
này chiếm 8,7% và giảm dần từ 16,5% năm 1995 xuống 5,2% năm 1999 và năm
2000 dự kiến 8,7%. Về tốc độ tăng trưởng: Nhóm máy móc, thiết bị, phụ tùng và
nguyên, nhiên, vật liệu tăng bình quân 14,1%/năm, trong đó năm 2000 dự kiến tăng
21%. Nhóm hàng tiêu dùng giảm bình quân 2%/năm, trong đó năm 2000 dự kiến tăng
tới 90%.
Một điều đáng chú ý là trong giai đoạn này, cán cân ngoại thương của Việt
Nam luôn trong tình trạng nhập siêu, tuy nhiên mức nhập siêu đã giảm đáng kể vào
các năm cuối giai đoạn. So với kim ngạch xuất khẩu, mức nhập siêu thời kỳ 1996 1999 đạt khoảng 8,5 tỷ USD, bằng 22,8 %. Tuy nhiên, mức nhập siêu đã giảm đáng
kể: từ 3,9 tỷ USD năm 1996 (bằng 53,6% kim ngạch xuất khẩu) xuống 82 triệu USD
năm 1999 (chỉ còn bằng 0,7% kim ngạch xuất khẩu) và năm 2000 dự kiến 800 tỷ
USD (bằng 5,7% kim ngạch xuất khẩu). Một trong các nguyên nhân làm giảm nhập
siêu là do kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh. Ngoài ra còn do kim ngạch nhập khẩu
trong hai năm 1998, 1999 hầu như không tăng.
Về cơ cấu thị trường nhập khẩu
Các năm 1996 - 2000 khu vực châu á-Thái Bình Dương luôn là thị trường nhập
khẩu quan trọng nhất của Việt Nam, chiếm tỷ trọng bình quân 78,3% và có tốc độ
tăng trưởng bình quân hàng năm là 9,7%. Trong khu vực này, Việt Nam nhập khẩu
chủ yếu từ Xinh-ga-po, Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan, bốn thị trường này chiếm
tỷ trọng đến 54% - 56%. Khối các nước ASEAN chiếm tỷ trọng 28,5%, trong đó chủ
yếu là Xinh-ga-po.
Khu vực Âu-Mỹ chỉ chiếm vị trí khiêm tốn với tỷ trọng 17,2%. Tuy nhiên, khu
vực này cũng đang dần trở thành thị trường nhập khẩu quan trọng hơn, với tốc độ
tăng trưởng bình quân 1996 - 2000 là 12,6%/năm, cao hơn khu vực châu á - Thái
Bình Dương. Các thị trường chủ yếu trong khu vực này là Pháp, Đức và Hoa Kỳ;
Khu vực châu Phi - Tây Nam á chỉ chiếm tỷ trọng 2,2%, nhưng thời kỳ 1996 2000 đạt tốc độ tăng khá cao 22,5%/năm.
Thị trường khác chiếm tỷ trọng 2,3%.
Dưới đây là bảng thống kê tỷ trọng và tốc độ tăng trưởng của 10 thị trường
nhập khẩu chủ yếu trong giai đoạn 1996 - 2000:
Bảng 5: Tỷ trọng và tốc độ tăng trưởng của 10 thị trường nhập khẩu chủ yếu
giai đoạn 1996 - 2000
18
Nước/thị trường
Xinh-ga-po
Hàn Quốc
Nhật Bản
Đài Loan
Hồng Kông
Thái Lan
Trung Quốc
Pháp
Đức
Hoa Kỳ
Tỷ trọng (%)
Tốc độ tăng trưởng (%)
18,2
13,5
12,5
12,2
5,6
5,0
4,2
3,6
2,7
2,5
7,0
3,5
12,7
13,5
8,8
6,1
2,0
2,1
11,5
26,6
3.Tác động của chính sách xuất nhập khẩu đến kết quả thương mại thời
kỳ 1996-2000.
3.1.Đối với lưu thông trong nước.
- Thị trường phát triển liên tục, phát huy được sức mạnh tổng hợp của nhiều
thành phần kinh tế, góp phần tạo nên những biến đổi sâu sắc trong sự phát triển và
chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế quốc dân;
- Thị trường là một thể thống nhất, được chuyển đổi một cách căn bản việc
mua bán hàng hóa từ cơ chế kế hoạch hóa hành chính tập trung bao cấp sang cơ chế
thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, chủ thể kinh doanh tăng trưởng mạnh và có
sự chuyển dịch khá rõ trong cơ cấu;
- Quản lý Nhà nước về thương mại có tiến bộ trong việc hoạch định chính sách
vĩ mô và điều hành, tạo môi trường pháp lý và điều kiện thuận lợi cho sản xuất và lưu
thông phát triển;
- Thị trường nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa được quan tâm đúng mức,
có nhiều tiến bộ.
3.2.Đối với xuất, nhập khẩu.
- Quy mô và tốc độ xuất, nhập khẩu trong 5 năm qua đã liên tục được mở rộng
và tăng trưởng không ngừng, thúc đẩy sự phát triển kinh tế trong nước, góp phần hình
thành nhiều ngành sản xuất, nhiều đơn vị sản xuất mới; tạo thêm việc làm cho người
lao động và đóng góp tích cực vào GDP;
- Cơ cấu nhóm, mặt hàng và thị trường xuất khẩu đã có những cải thiện nhất
định, góp phần tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng xuất khẩu;
- Số lượng mặt hàng xuất nhập khẩu ngày càng được mở rộng, chất lượng hàng
xuất khẩu đã nâng lên đáng kể;
19
- Số lượng doanh nghiệp trực tiếp kinh doanh xuất-nhập khẩu ngày càng tăng
và có sự chuyển dịch rõ nét trong cơ cấu chủ thể;
- Xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng trưởng khá
nhanh cả về quy mô và tốc độ;
- Kim ngạch và cơ cấu hàng nhập khẩu bảo đảm được nhu cầu tiêu dùng nhất
là về máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên liệu cho sản xuất và cho tiêu dùng thiết yếu,
góp phần cung ứng đầy đủ và làm phong phú thêm lượng hàng lưu thông trên thị
trường.
3.3.Tác động của chính sách thị trường ngoài nước đến sự phát triển
thương mại song phương và đa phương.
Trong những năm qua, công tác thị trường nước ngoài đã đóng góp tích cực và
trực tiếp đến hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp trong nước; các cam kết
song phương, đa phương đã tạo điều kiện phát triển và chuyển dịch cơ cấu thị trường,
mặt hàng xuất nhập khẩu.
Từ 1996 đến 2000 đã có nhiều bước tiến quan trọng trong quan hệ thương mại
với các nước, nhất các nước trong khu vực châu á - Thái Bình Dương: Việt Nam
chính thức tham gia ASEAN (1995), ASEM (1996) và APEC (1998); đã ký các Hiệp
định thương mại với các nước: úc, Niu Dilân, Malaysia, Thái Lan, Brunây, Hàn
Quốc, Hoa Kỳ... Thị trường châu Âu, châu Mỹ và châu Phi đều có những bước tiến
triển mạnh mẽ.
ii.Tổng quan khả năng cạnh tranh của Việt Nam thời kỳ 1996-2000.
Thời kỳ 1996 - 2000, Việt Nam tiếp tục thực hiện điều chỉnh cơ cấu kinh tế và
chủ động hội nhập quốc tế với bước đi thích hợp. Thực tế thời kỳ vừa qua cho thấy
quá trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế và chủ động hội nhập quốc tế đã ngày càng tăng
cường khả năng cạnh tranh của Việt Nam. Tuy nhiên tốc độ tăng khả năng cạnh tranh
của Việt Nam diễn ra còn chậm so với yêu cầu.
Khả năng cạnh tranh có thể được phân biệt ở 3 cấp độ: Quốc gia, Doanh
nghiệp/Ngành và Sản phẩm. Về mặt sản phẩm cụ thể bao gồm: hàng hóa và dịch vụ,
sau đây xin chỉ đề cập tới hàng hóa.
1.Khả năng cạnh tranh quốc gia của Việt Nam.
Khả năng cạnh tranh quốc gia có thể được hiểu là việc xây dựng một môi
trường kinh tế chung, đảm bảo phân bố các nguồn lực, đạt và duy trì mức tăng trưởng
cao, bền vững. Môi trường cạnh tranh kinh tế chung có ý nghĩa rất lớn đối với việc
thúc đẩy quá trình tự điều chỉnh, lựa chọn của các nhà kinh doanh theo tín hiệu của
thị trường được thông tin đầy đủ. Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng ngày
càng hiệu quả hơn với tốc độ tăng trưởng nhanh, phụ thuộc rất nhiều vào sự năng
động của các doanh nghiệp/ngành.
Cho đến nay Việt Nam vẫn được đánh giá có khả năng cạnh tranh quốc gia
thấp. Theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF), xét theo tính cạnh tranh
tầm quốc gia thì:
- Năm 1997 Việt Nam đứng thứ 49 trong 53 nước được phân hạng.
- Năm 1998 Việt Nam đứng thứ 39 trong 53 nước được phân hạng (Chỉ số khả
năng cạnh tranh của Việt Nam được nâng lên chủ yếu do sự giảm sút kinh tế
20
- Xem thêm -