Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nâng cao hiệu quả cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ ở ngân hàng công thươn...

Tài liệu Nâng cao hiệu quả cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ ở ngân hàng công thương việt nam chi nhánh ba đình

.DOC
77
79475
183

Mô tả:

Chuyên đề thực tập Huệ GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh LỜI MỞ ĐẦU Như chúng ta đã biết, hiện nay doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) chiếm hơn 95% số lượng doanh nghiệp ở nước ta. Cùng với sự phát triển của đất nước thì DNVVN cũng đang trên đà phát triển mạnh mẽ và đúng một vai trò cực kỳ quan trọng trong nền kinh tế nước nhà. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò rất quan trọng trong tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển và đóng góp vào ngân sách nhà nước. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vốn đầu tư ban đầu tuy không lớn nhưng được hình thành và phát triển rộng khắp ở cả thành thị và nông thôn, ở hầu hết các ngành nghề và lĩnh vực, là khu vực khai thác và huy động các nguồn lực, tiềm năng, tạo cơ hội cho đông đảo dân cư có thể tham gia đầu tư. Thực tế cho thấy, những năm qua nền kinh tế thế giới khủng hoảng kéo theo sự suy giảm của nền kinh tế trong nước. Các doanh nghiệp lớn thì tỏ ra rất khó khăn trong việc đối phó với tình trạng giảm sút về số lượng khách hàng cũng như lợi nhuận. Trong khi đó các doanh nghiệp nhỏ lại rất linh hoạt trong việc chủ động thay đổi chiến lược kinh doanh như : cắt giảm những chi phí không cần thiết, xây dựng mối quan hệ với khách hàng và nhà cung cấp, đánh giá những nhân viên giỏi, cắt giảm một số khoản tiền lương. Với những thay đổi trên thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang hồi phục một cách nhanh chóng sau thời kỳ khủng hoảng, đang dần tạo ra đà tăng trưởng cho toàn bộ nền kinh tế của đất nước. Với những kết quả đạt được đó thì doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng đang gặp phải một số khó khăn nhất định, đặc biệt là việc tìm kiếm nguồn vốn để mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị, công nghệ nhằm nâng cao năng suất lao động tạo ra hiệu quả sản xuất cho doanh nghiệp. Do đó, việc tìm hiểu thực trạng tín dụng ngân hàng nhằm tìm ra các biện pháp nhằm giải quyết khó khăn trên của doanh nghiệp vừa và nhỏ trở nên bức thiết hơn bao giờ hết. Xuất phát từ nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, em xin chọn đề tài : “Nâng cao hiệu quả cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Ngân hàng Công thương Việt Nam chi nhánh Ba Đình” Trần Anh Vũ 1 Thị trường chứng khoán 49 Chuyên đề thực tập Huệ GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh CHƯƠNG I MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Tổng quan về ngân hàng thương mại 1.1.1. Khái niệm Theo cách tiếp cận trên phương diện những loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp. Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Theo luật Tổ chức tín dụng của Việt Nam thì : “ Ngân hàng thương mại là tổ chức tín dụng được phép thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan. Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi và dựng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng một số dịch vụ thanh toán. 1.1.2. Chức năng của ngân hàng a. Trung gian tài chính Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế : (1) các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những người cần bổ sung vốn ; và (2) các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hóa, dịch vụ và do vậy họ có tiền tiết kiệm. Sự tồn tại của hai loại cá nhân và tổ chức trên hoàn toàn độc lập với Ngân hàng. Điều tất yếu là tiền sẽ chuyển từ nhóm (2) sang nhóm (1) nếu cả hai cùng có lợi. Như vậy thu nhập gia tăng là động lực tạo mối quan hệ giữa hai nhóm. Nếu dòng tiền di chuyển với điều kiện phải quay trở lại với một lượng lớn hơn trong một khoảng thời gian nhất định thì đó là quan hệ tín dụng. Nếu không thì đó là quan hệ cấp phát hoặc hùn vốn. Lấy quan hệ tín dụng làm ví dụ. người có tiền tiết kiệm đòi 1% cho chi phí giao dịch, 2% phòng rủi ro và 3% là thu nhập ròng từ số tiền tiết Trần Anh Vũ 2 Thị trường chứng khoán 49 Chuyên đề thực tập Huệ GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh kiệm mà anh ta đang phải tạm thời từ bỏ quyền sử dụng. Tổng cộng anh ta đòi 6% trên số tiền cho vay. Người vay phải chi 1% chi phí giao dịch, 6% trả cho người có tiền, tổng cộng phí tổn tín dụng là 7%. Nếu việc sử dụng tiền vay có thể tạo ra cho anh ta một tỷ suất thu nhập lớn hơn 7% ( giả sử 10% ) thì quan hệ tín dụng sẽ được thiết lập. Quan hệ tín dụng trực tiếp đã có rất lâu và tồn tại cho đến ngày nay, tạo ra mối liên kết giữa người có thu nhập thừa và người có thu nhập thiếu. Tuy nhiên, quan hệ trực tiếp bị nhiều giới hạn do sự không phù hợp về quy mô, thời gian, không gian...Điều này cản trở quan hệ trực tiếp phát triển và là điều kiện nảy sinh trung gian tài chính. Do chuyên môn hóa, trung gian tài chính có thể làm giảm chi phí giao dịch ví dụ từ 2% xuống 1% ở ví dụ trên, chi phí rủi ro từ 2% xuống 1%. Trung gian có thể trả cho người tiết kiệm 3,5% với cam kết không có rủi ro ( lớn hơn 3% thu nhập trước đó ), và đòi người sử dụng 6,5% ( nhỏ hơn 7% trước đó ). Chênh lệch 6,5% - 3,5%= 3% chính là thu nhập của trung gian. Như vậy trung gian tài chính đã làm tăng thu nhập cho người tiết kiệm, từ đó mà khuyến khích tiết kiệm, đồng thời giảm phí tổn tín dụng cho người đầu tư ( tăng thu nhập cho người đầu tư ), từ đó khuyến khích các nhà đầu tư. Trung gian tài chính đã tập hợp những người tiết kiệm và đầu tư, vì vậy mà giải quyết được mâu thuẫn của tín dụng trực tiếp. Cơ chế hoạt động của trung gian sẽ rất hiệu quả khi nó gánh chịu rủi ro và sử dụng các kỹ thuât nghiệp vụ để hạn chế, phân tán rủi ro và giảm phí giao dịch. Hầu hết các lý thuyết hiện đại đều giải thích sự tồn tại của ngân hàng bằng cách chỉ ra sự không hoàn hảo trong hệ thông tài chính của mỗi quốc gia. Chẳng hạn các khoản tín dụng và chứng khoán không thể chia thành những khoản nhỏ mà mọi người có thể mua. Ngân hàng cung cấp một dịch vụ có giá trị trong việc chia các chứng khoán đó thành các chứng khoán nhỏ hơn ( dưới dạng tiền gửi ) phục vụ cho hàng triệu người. Trong ví dụ này, hệ thống tài chính kém hoàn hảo tạo ra vai trò cho các ngân hàng phục vụ những người tiết kiệm. Một đóng góp khác của ngân hàng là họ sẵn sàng chấp nhận các khoản cho vay nhiều rủi ro trong khi lại phát hành các chứng khoán ít rủi ro cho người gửi tiền. Thực tế các ngân hàng tham gia vào kinh doanh rủi ro. Ngân hàng cũng thừa mãn nhu cầu thanh khoản của nhiều khách hàng. Một lý do nữa làm cho ngân hàng phát triển thịnh vượng là khả năng thẩm định thông tin. Sự phân bổ không đều thông tin và năng lực phân tích thông tin được gọi là tình trạng " thông tin không cân xứng " làm giảm tính hiệu quả của thị trường nhưng tạo ra một khả năng sinh lợi cho ngân hàng, nơi có chuyên môn và kinh nghiệm đánh giá các công cụ tài chính và có khả năng lựa chọn những công cụ với các yếu tố rủi ro – lợi nhuận hấp dẫn nhất. b. Tạo phương tiện thanh toán. Trần Anh Vũ 3 Thị trường chứng khoán 49 Chuyên đề thực tập Huệ GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh Tiền vàng có một chức năng quan trọng là tạo phương tiện thanh toán. Các ngân hàng đã không tạo được tiền kim loại. Các ngân hàng thợ vàng tạo phương tiện thanh toán khi phát hành giấy nhận nợ với khách hàng. Giấy nhận nợ do ngân hàng phát hành có ưu điểm nhất định đã trở thành phương tiện thanh toán rộng rãi được nhiều người chấp nhận. Như vậy, ban đầu các ngân hàng đã tạo phương tiện thanh toán thay cho tiền kim loại dựa trên số lượng tiền kim loại đang nắm giữ. Với nhiều ưu thế, dần dần giấy nợ của ngân hàng đã thay thế tiền kim loại làm phương tiện lưu thông và phương tiện cất giữ, nó trở thành tiền giấy. Việc in tiền mang lại lợi nhuận rất lớn, đồng thời với nhu cầu có đồng tiền quốc gia duy nhất đã dẫn đến việc Nhà nước tập trung quyền lực phát hành tiền giấy vào một tổ chức hoặc là bộ tài chính hoặc là Ngân hàng Trung ương. Từ đó chấm dứt việc các ngân hàng thương mại tạo ra giấy bạc của riêng mình. Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, các khách hàng nhận thấy nếu họ có được số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có thể chi trả để có được hàng hóa và dịch vụ theo yêu cầu. Theo quan điểm hiện đại, đại lượng tiền tệ bao gồm nhiều bộ phận. Thứ nhất là tiền giấy trong lưu thông (Mo) , thứ hai là số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dựng để mua hàng và dịch vụ. Do đó, bằng việc cho vay ( hay tạo tín dụng ) các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán ( tham gia tạo ra M1 ). Toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo phương tiện thanh toán khi các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay. Khi khách hàng tại một ngân hàng sử dụng khoản tiền vay để chi trả thì sẽ tạo nên khoản thu ( tức làm tăng số dư tiền gửi ) của một khách hàng khác tại một ngân hàng khác từ đó tạo ra các khoản cho vay mới. Trong khi không một ngân hàng riêng lẻ nào có thể cho vay lớn hơn dự trữ dư thừa, toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể tạo ra khố lượng tiền gửi gấp bội thông qua hoạt động cho vay. Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra lượng tiền gửi mà hệ thống ngân hàng tạo ra chịu tác động trực tiếp của các nhân tố như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ vượt bắt buộc, tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt qua ngân hàng, tỷ lệ tiền gửi không phải là tiền gửi thanh toán... c. Trung gian thanh toán. Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thay mặt thực hiện thanh toán giá trị hàng hóa và dịch vụ. Để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ... cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các ngân hàng còn thực hiện Trần Anh Vũ 4 Thị trường chứng khoán 49 Chuyên đề thực tập Huệ GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân hàng Trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán qua ngân hàng càng đạt hiệu quả cao khi quy mô sử dụng công nghệ đó càng được mở rộng. Vì vậy, công nghệ thanh toán hiện đại qua ngân hàng thường được các nhà quản lý tìm cách áp dụng rộng rãi. Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hóa góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán không chỉ giữa các ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên toàn thế giới. Các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng hiệu quả của thanh toán qua ngân hàng, biến ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu. 1.1.2. Các dịch vụ của ngân hàng. Ngân hàng là một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho công chúng và doanh nghiệp. Thành công của ngân hàng phụ thuộc vào năng lực xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu, thực hiện các dịch vụ đó một cách có hiệu quả. a. Nhận tiền gửi. Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng đã tìm mọi cách để huy động được tiền. Một trong những nguồn quan trọng là việc nhận tiền gửi. Ngân hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền với cam kết hoàn trả đúng hạn. Trong cuộc cạnh tranh để tìm và dành được các khoản tiền gửi, các ngân hàng đã trả lãi cho tiền gửi như là phần thưởng cho khách hàng về việc sẵn sàng hy sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và cho phép ngân hàng tạm thời sử dụng để kinh doanh. Trong lịch sử đã có những kỷ lục vê lãi suất, chẳng hạn các ngân hàng Hy Lạp đã trả 16%/ một năm để thu hút các khoản tiền tiết kiệm nhằm mục đích cho vay đối với các chủ tàu ở Địa Trung Hải với lãi suất gấp đôi hay gấp 3 lãi suất tiết kiệm. b. Cho vay. - Cho vay thương mại. Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với những người bán ( người bán chuyển khoản phải thu cho ngân hàng để lấy tiền trước ). Sau đó là bước chuyển tiếp từ chiết khấu thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các khách hàng ( là người mua ), giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh. - Cho vay tiêu dùng. Trong giai đoạn đầu hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng rủi ro vỡ nợ khá cao. Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh trong cho vay đã buộc các ngân hàng phải hướng tới người tiêu dùng như là một khách hàng tiềm năng. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín dụng tăng trưởng nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế phát triển. Trần Anh Vũ 5 Thị trường chứng khoán 49 Chuyên đề thực tập Huệ GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh - Tài trợ cho dự án. Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn, các ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ cho xây dựng nhà máy mới đặc biệt là trong các ngành công nghệ cao. Do rủi ro trong loại hình tín dụng này nói chung là cao song lãi lại lớn. Một số ngân hàng còn cho vay để đầu tư vào bất động sản. c. Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán. Khi các doanh nhân gửi tiền vào ngân hàng, họ nhận thấy ngân hàng không chỉ bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng của họ. Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt, tức là người gửi tiền không cần phải đến ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết giấy chi trả cho khách ( còn được gọi là séc ), khách hàng mang giấy đến ngân hàng sẽ nhận được tiền. Các tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt (an toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí ) đã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho các doanh nhân. Điều này đã khuyến khích các doanh nhân gửi tiền vào ngân hàng để nhờ ngân hàng thanh toán hộ. Như vậy, một dịch vụ mới, quan trọng nhất được phát triển đó là tài khoản tiền gửi giao dịch, cho phép người gửi tiền viết séc thanh toán cho việc mua hàng hóa và dịch vụ. Việc đưa ra loại tài sản tiền gửi mới này được xem là một trong những bước đi quan trọng nhất trong công nghiệp ngân hàng. Cùng vơi sự phát triển của công nghệ thông tin, nhiều thể thức thanh toán được phát triển như Ủy nhiệm chi, nhờ thu, L/C, thanh toán bằng điện, thẻ... d. Quản lý ngân quỹ. Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp và nhiều cá nhân. Nhờ đó, ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều khách hàng. Do có kinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ, trong đó ngân hàng đồng ý quản lý việc thu và chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lời và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán. e. Tài trợ các hoạt động của chính phủ. Khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của ngân hàng đã trở thành trọng tâm chú ý của các Chính phủ. Do nhu cầu chi tiêu lớn và thường là cấp bách trong khi thu không đủ; Chính phủ các nước đều muốn tiếp cận với các khoản cho vay của ngân hàng. Trong điều kiện các ngân hàng tư nhân không muốn tài trợ cho chính phủ vì rủi ro cao, chính phủ thường dùng một số đặc quyền trao đổi lấy các khoản vay của những ngân hàng lớn. Khi ngân hàng Trung ương thành lập, chính phủ đều tìm cách tham dự, hoặc trực tiếp can thiệp để có được các khoản tín dụng lớn. Ngày nay, Chính phủ giành quyền cấp phép hoạt động và kiểm soát ngân hàng. Các ngân hàng được cấp giấy phép thành lập với điều kiện là họ phải cam kết thực Trần Anh Vũ 6 Thị trường chứng khoán 49 Chuyên đề thực tập Huệ GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh hiện với mức độ nào đó các chính sách của Chính phủ và tài trợ cho Chính phủ. Các ngân hàng phải mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động được; hoặc phải cho vay với các điều kiện ưu đãi cho các doanh nghiệp của Chính phủ. f. Bảo lãnh. Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một khách hàng rất lớn và do ngân hàng nắm giữ tiền gửi của các khách hàng nên ngân hàng có uy tín trong bảo lãnh cho khách hàng. Trong những năm gần đây, nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng đa dạng và phát triển mạnh. Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hóa và trang thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn của tổ chức tín dụng khác... g. Cung cấp các dịch vụ ủy thác và tư vấn. Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính các ngân hàng có nhiều chuyên gia về quản lý tài chính. Vì vậy, nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã nhờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Dịch vụ ủy thác phát triển sang cả ủy thác vay hộ, ủy phát cho vay hộ, ủy thác phát hành, ủy thác đầu tư...Thậm chí các ngân hàng đóng vai trị là người được ủy thác trong di chúc, quản lý tài sản cho khách hàng đã qua đời bằng cách công bố tài sản, bảo quản các tài sản có giá. Nhiều khách hàng còn coi ngân hàng như một chuyên gia tư vấn tài chính. Ngân hàng sẵn sàng tư vấn về đầu tư, về quản lý tài chính, về thành lập, mua bán, sáp nhập doanh nghiệp... h. Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán. Nhiều ngân hàng đang phấn đấu cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho phép khách hàng thừa mãn mọi nhu cầu. Đây là một trong những lý do chính khiến các ngân hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà không phải nhờ đến kinh doanh chứng khoán. Trong một vài trường hợp, các ngân hàng tổ chức ra công ty chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán. i. Cung cấp các dịch vụ đại lý. Nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi nhánh hoặc văn phòng ở khắp mọi nơi. Nhiều ngân hàng cung cấp dịch vụ đại lý cho các ngân hàng khác như thanh toán hộ, phát hành hộ chứng chỉ tiền gửi , làm ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ... 1.1.3. Các loại hình ngân hàng thương mại Có thể chia ngân hàng thương mại theo nhiều hình thức khác nhau tùy thuộc vào yêu cầu của người quản lý. 1.1.3.1. Các loại hình ngân hàng thương mại chia theo hình thức sở hữu a. Ngân hàng sở hữu tư nhân. Là ngân hàng do cá nhân thành lập bằng vốn của cá nhân. Loại ngân hàng thường nhỏ, phạm vi hoạt động hẹp trong từng địa phương mụt. Các ngân hàng này thường gắn liền với cá nhân và các doanh nghiệp ở địa phương. Chủ ngân hàng Trần Anh Vũ 7 Thị trường chứng khoán 49 Chuyên đề thực tập Huệ GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh thường rất am hiểu tình hình của người vay, vì vậy hạn chế được sự lừa đảo của khách. Tuy nhiên, do kém đa dạng, nên khi địa phương đó gặp rủi ro ngân hàng thường không tránh được tổn thất. b. Ngân hàng sở hữu của các cổ đông ( ngân hàng cổ phần ). Ngân hàng này được thành lập thông qua phát hành các cổ phiếu. Việc nắm giữ cổ phiếu cho phép người sở hữu có quyền tham gia quyết định các hoạt động của ngân hàng, tham gia chia cổ tức từ thu nhập của ngân hàng đồng thời phải gánh chịu các tổn thất có thể xảy ra. Do vốn sở hữu được hình thành thông qua tập trung, các ngân hàng cổ phần có khả năng tăng vốn nhanh chóng, vì vậy thường là các ngân hàng lớn. Các tổ chức ngân hàng lớn nhất trên thế giới hiện nay là ngân hàng cổ phần. Các ngân hàng cổ phần thường có phạm vi hoạt động rộng, hoạt động đa năng, có nhiều chi nhánh hoặc công ty con. Khả năng đa dạng hóa cao nên các ngân hàng cổ phần có thể giảm rủi ro gây nên bởi tính chuyên môn hóa ( thiên tai tại một vùng, sự suy thoái của một ngành hoặc một quốc gia...), song chúng thường phải gánh chịu các rủi ro từ cơ chế quản lý phân quyền ( nhiều chi nhánh được phân quyền lớn và hoạt động tương đối độc lập với trụ sở ngân hàng mẹ, giám đốc các chi nhánh này có thể có hành vi lạm dụng hoặc bất cẩn gây tổn thất cho ngân hàng. c. Ngân hàng sở hữu Nhà nước. Đây là loại hình ngân hàng mà vốn sở hữu do nhà nước cấp, có thể là Nhà nước trung ương hoặc tỉnh, thành phố. Các ngân hàng này được thành lập nhằm thực hiện một số mục tiêu nhất định thường là do chính sách của chính quyền trung ương hoặc địa phương quy định. Tại các nước đi theo con đường phát triển Xã hội Chủ nghĩa, Nhà nước thường quốc hữu hóa các ngân hàng tư nhân hoặc cổ phần lớn, hoặc tự xây dựng nên các ngân hàng. Những ngân hàng sỡ hữu nhà nước thường được nhà nước hỗ trợ về tài chính và bảo lãnh phát hành giấy nợ, do vậy rất ít khi bị phá sản. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, các ngân hàng này phải thực hiện chính sách của nhà nước có thể gây bất lợi cho hoạt động kinh doanh. d. Ngân hàng liên doanh. Ngân hàng này được hình thành dựa trên góp vốn của 2 hoặc nhiều bên, thường là giữa ngân hàng trong nước với ngân hàng nước ngoài để tận dụng các ưu thế của nhau. 1.1.3.2. Các loại hình ngân hàng thương mại chia theo tính chất hoạt động. a. Hoạt động chuyên doanh và đa năng. Ngân hàng hoạt động theo hướng chuyên doanh: loại ngân hàng này chỉ tập trung cung cấp một số dịch vụ ngân hàng ví dụ như chỉ cho vay đối với xây dựng cơ bản, hoặc đối với nông nghiệp hoặc chỉ cho vay... Tính chuyên môn hóa cao cho phép ngân hàng có được đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm, tinh thông nghiệp vụ. Trần Anh Vũ 8 Thị trường chứng khoán 49 Chuyên đề thực tập Huệ GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh Tuy nhiên, loại ngân hàng này thường gặp rủi ro lớn khi ngành hoặc lĩnh vực hoạt động mà ngân hàng phục vụ sa sút. Ngân hàng đơn năng thường là ngân hàng nhỏ, phạm vi hoạt động hẹp, trình độ cán bộ không đa dạng, hoặc là những ngân hàng sở hữu của công ty. Ngân hàng đa năng : là ngân hàng cung cấp mọi dịch vụ ngân hàng cho mọi đối tượng. Đây là xu hướng hoạt động chủ yếu hiện nay của các ngân hàng thương mại. Ngân hàng đa năng thường là ngân hàng lớn ( hoặc sở hữu công ty ). Tính đa năng sẽ giúp ngân hàng tăng thu nhập và hạn chế rủi ro. b. Hoạt động bán buôn và ngân hàng bán lẻ. Hoạt động ngân hàng bán buôn : cung cấp các dịch vụ cho ngân hàng, các công ty tài chính, cho nhà nước, cho các doanh nghiệp lớn. Những ngân hàng có hoạt động bán buôn phát triển thường là các ngân hàng lớn hoạt động tại các trung tâm tài chính quốc tế, cung cấp các khoản tín dụng lớn. Hoạt động ngân hàng bán lẻ: cung cấp các dịch vụ trực tiếp cho doanh nghiệp, hộ gia đình và các cá nhân, với các khoản tín dụng nhỏ. Dịch vụ bán lẻ thường kết hợp đa tiện ích, được xây dựng trên cơ sở công nghệ hiện đại. Ví dụ như thẻ tín dụng vừa là phương tiện để cung cấp các khoản vay, vừa là phương tiện để thanh toán, truy vấn tin tài khoản...cung cấp dịch vụ ngân hàng 24h/ ngày. Xu hướng hiện nay là ngân hàng cung cấp kết hợp cả dịch vụ bán buôn và dịch vụ bán lẻ. 1.1.3.3. Các loại hình ngân hàng thương mại chia theo cơ cấu tổ chức. Ngân hàng sở hữu công ty và công ty sở hữu ngân hàng. Ngân hàng sở hữu công ty là ngân hàng nắm giữ phần vốn chi phối của công ty, cho phép ngân hàng được quyền tham gia quyết định các hoạt động cơ bản của công ty. Do luật nhiều nước cấm hoặc hạn chế ngân hàng thương mại được quyền tham gia trực tiếp vào một số loại hình kinh doanh như bất động sản, chứng khoán... nên các ngân hàng lớn đã thành lập hoặc mua lại một số công ty chứng khoán, quỹ đầu tư... nhằm mở rộng hoạt động trên một số lĩnh vực liên quan mật thiết với kinh doanh tiền tệ. Ngân hàng thuộc sở hữu công ty : các tập đoàn kinh tế ( công nghiệp, thương mại, dịch vụ ) thường tổ chức thành lập ngân hàng nhằm cung cấp dịch vụ tài chính cho các đơn vị thành viên của tập đoàn và ngoài tập đoàn. Ngân hàng đơn nhất và ngân hàng có chi nhánh. Ngân hàng đơn nhất được hiểu là ngân hàng không có chi nhánh, tức là các dịch vụ ngân hàng chỉ do một hội sở ngân hàng cung cấp. Ngân hàng có chi nhánh thường là ngân hàng có vốn tương đối lớn, cung cấp dịch vụ ngân hàng thông qua nhiều đơn vị ngân hàng. Việc thành lập chi nhánh thường bị kiểm soát chặt chẽ bởi ngân hàng Nhà nước thông qua các quy định về mức vốn sở hữu, về chuyên môn của đội ngũ cán bộ, về sự cần thiết của dịch vụ ngân hàng trong vùng... Trần Anh Vũ 9 Thị trường chứng khoán 49 Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh Huệ 1.2. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối với DNVVN 1.2.1. Một số vấn đề cơ bản về DNVVN 1.2.1.1. Khái Niệm Hiện nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, Các doanh nghiệp vừa và nhỏ là loại hình doanh nghiệp ngày càng phổ biến ở hầu hết các nước trên thế giới. Tuy nhiên, không có một tiêu chuẩn chung cho việc phân định ranh giới quy mô doanh nghiệp giữa các nước đó. Ở nhiều nước trên thế giới, người ta dựa vào hai tiêu thức chủ yếu là quy mô về vốn và lao động để phân loại doanh nghiệp thành doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên, việc lượng hóa quy mô vừa và nhỏ theo tiêu thức vốn và lao động chỉ mang tính tương đối, bởi hai tiêu thức này phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: trình độ phát triển của mỗi nước, tính chất từng ngành nghề, tính chất vùng, lãnh thổ, tính chất lịch sử... Ở Việt Nam, theo điều 3 nghị định của chính phủ số 56/2009/ND-CP của chính phủ ngày 30 tháng 06 năm 2009 về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ có núi : “Doanh nghiệp vừa nhỏ là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật,được chia thành 3 cấp:siêu nhỏ,nhỏ,vừa theo quy mô tổng nguồn vốn(tổng nguồn vốn tương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp)hoặc số lao động bình quân năm(Tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên).” Với tiêu chí xác định như trên thì tỷ trọng DNVVN hiện nay đã tăng lên đáng kể với số lượng trên 120.000 doanh nghiệp, chiếm khoảng hơn 95% tổng số doanh nghiệp trong cả nước. Đa phần các DNVVN hoạt động trong các lĩnh vực Thương mại dịch vụ, công nghiệp chế biến, xây dựng và vận tải...với mức đóng góp đáng kể trong cơ cấu GDP hằng năm của đất nước. 1.2.1.2. Tiêu chí phân loại Nói đến DNVVN là nói đến phân loại doanh nghiệp dựa trên độ lớn hay quy mô các doanh nghiệp. Việc phân loại DNVVN phụ thuộc vào loại tiêu thức sử dụng quy định, giới hạn các tiêu thức phân loại quy mô doanh nghiệp.Tuy nhiên, không có tiêu thức thống nhất để phân loại DNVVN cho tất cả các nước vì điều kiện kinh tế-xã hội mỗi nước khác nhau và ngay trong một nước, sự phân loại cũng khác nhau tùy theo từng thời kỳ, từng ngành nghề, từng vùng lãnh thổ. Ở Việt Nam thì tiêu chí phân loại của DNVVN được đưa vào ngay trong điều 3 nghị định chính phủ số 56/2009/NĐ-CP với nội dung như sau : Quy mô Khu vực DN siêu nhỏ Số lao Trần Anh Vũ DN nhỏ Tổng Số lao 10 DN vừa Tổng Số lao Thị trường chứng khoán 49 Chuyên đề thực tập Huệ GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh động nguồn vốn động nguồn vốn động Nông,lâm nghiệp và thủy sản 10 người trở xuống 20 tỷ đồng trở xuống Từ 10 người đến 200 người Từ trên 20 Từ trên 200 tỷ đồng đến người đến 100 tỷ đồng 300 người Công nghiệp và xây dựng 10 người trở xuống 20 tỷ đồng trở xuống Từ 10 người đến 200 người Từ trên 20 Từ trên 200 tỷ đồng đến người đến 100 tỷ đồng 300 người Thương mại và dịch vụ 10 người trở xuống 10 tỷ đồng trở xuống Từ 10 người đến 50 người Từ trên 10 tỷ đồng đến 50 tỷ đồng Từ trên 50 người đến 100 người 1.2.1.3. Vai trò của DNVVN 1.2.1.3.1. Tạo ra nhiều việc làm với chi phí thấp Các cơ sở DNVVN rất thích hợp với các phương pháp tiết kiệm vốn và do đó chúng được xem là phương pháp giải quyết tình trạng thất nghiệp hiệu quả nhất mà các nước có được. Thứ nhât, do đặc tính phân bố rải rác của chúng. Các doanh nghiệp loại này thường phân tán nên chúng có thể đảm bảo cơ hội việc làm cho nhiều vùng địa lý và nhiều đối tượng lao động, đặc biệt là các vùng sâu, vùng xa, vùng chưa phát triển kinh tế, với các đối tượng lao động có trình độ thấp. Nhờ vậy chúng vừa giúp giảm tình trạng thất nghiệp và tình trạng dân cư đổ xô về thành phố để tìm việc làm Thứ hai, do tính linh hoạt, uyển chuyển dễ thích nghi với những thay đổi thị trường của DNVVN. Trong trường hợp có biến động xảy ra, các doanh nghiệp lớn sẽ đối phó khá chậm chạp, không phải vì cấp quản lý không có năng lực mà vì bộ máy doanh nghiệp lớn khá là cồng kềnh. Họ sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong hoạt động, sau đó sẽ phải sa thải bớt lao động để cắt giảm chi phí đến mức có thể tồn tại và phát triển được trong điều kiện cung lớn hơn cầu khi nền kinh tế bị suy thoái. Trong khi đó do khả năng linh hoạt, có thể thích ứng nhanh với thay đổi của thị trường, các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn có thể tồn tại được mà không phải sử dụng đến việc cắt giảm lao động. 1.2.1.3.2. Cung cấp cho xã hội một khối lượng hàng hóa đáng kể về cả chất lượng, số lượng cũng như chủng loại Các công ty, DNVVN thu hút một lượng lớn lao động và tài nguyên để sản xuất ra hàng hóa. Để có thêm sức cạnh tranh đối với các công ty và các tập đoàn lớn, hàng hóa của họ tập trung thiên về sự đa dạng về chất lượng và chủng loại, tạo cho người tiêu dùng có nhiều cơ hội để được lựa chọn. Bên cạnh đó họ cũng tiến Trần Anh Vũ 11 Thị trường chứng khoán 49 Chuyên đề thực tập Huệ GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh vào nhiều thị trường nhỏ mà các công ty lớn bỏ qua vì doanh thu của nó quá ít. 1.2.1.3.3. Tăng nguồn tiết kiệm cho dân địa phương Nhìn chung các doanh nghiệp vừa và nhỏ mở ra ở địa phương nào đều có chủ doanh nghiệp và người lao động ở địa phương đó. Khi các doanh nghiệp loại đó được mở ra thì người dân lao động ở địa phương có công ăn việc làm, có nguồn thu nhập. Từ đó làm tăng nguồn tiết kiệm cho dân địa phương. 1.2.1.3.4. Làm cho nền kinh tế trở nên năng động và hiệu quả hơn Các công ty lớn và các tập đoàn không có được tính năng động của các đơn vị kinh tế nhỏ hơn chúng vì một lý do đơn giản là quy mô của chúng quá lớn, bộ máy làm việc cồng kềnh. Các đơn vị kinh tế càng to lớn thì càng thiếu tính linh hoạt, thiếu khả năng phản ứng nhanh, nói cách khác là sức ì càng lớn. Một nền kinh tế đặt một tỷ lệ quá lớn nguồn lao động và tài nguyên vào tay các doanh nghiệp quy mô lớn sẽ trở nên chậm chạp không bắt kịp và phản ứng kịp với các thay đổi trên thị trường. Ngược lại, một nền kinh tế có một tỷ lệ thích hợp các DNVVN sẽ trở nên "nhanh nhạy" hơn, phản ứng kịp thời hơn. Tính hiệu quả của nên kinh tế sẽ được nâng cao. 1.2.1.3.5. Phát huy và tận dụng các nguồn lực của địa phương, góp phần tăng trưởng kinh tế Một đất nước bao giờ cũng có vùng biên giới, vùng sâu, vùng xa. Đó là các khu vực địa lý hoặc các thị trường có quy mô nhỏ, kém phát triển hoặc xa tuyến giao thông, kém tài nguyên... Các công ty lớn thường bỏ qua các khu vực đó vì họ cho rằng nguồn lợi thu được từ đó quá nhỏ. Nếu một nền kinh tế chỉ có các doanh nghiệp lớn thì sẽ dẫn đến một sự phát triển không đồng đểu giữa các vùng, không tận dụng được hết tài nguyên và giảm hiệu quả của hoạt động kinh tế cũng như gây ra các thiệt hại tiềm tàng cho nền kinh tế. Tuy nhiên đối với các DNVVN thì chi phí cơ hội của các vùng này là chấp nhận được, xứng đáng với nguồn lợi thu lại. Vì vậy họ sẵn sàng đầu tư vào những nơi này và do đó làm cho nó phát triển lên. 1.2.1.3.6. Có khả năng thu hút các nguồn vốn, nguồn lực đầu tư trong dân cư và sử dụng hiệu quả các nguồn lực của xã hội cho phát triển kinh tế Việc tạo lập một DNVVN sẽ tạo điều kiện cho đông đảo dân cư có thể huy động vốn từ bạn bè và người thân. Nên DNVVN được coi là phương tiện hiệu quả trong việc huy động, sử dụng các khoản tiền nhàn rỗi trong dân và biến nó thành nguồn vốn phát triển sản xuất kinh doanh quan trọng. Số lượng lớn các DNVVN cùng với các hình thức huy động vốn đa dạng và linh hoạt, phương thức sử dụng vốn có hiệu quả đã làm cho các DNVVN góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. 1.2.1.3.7. Giữ gìn và phát huy các ngành nghề truyền thống, thể hiện bản sắc dân tộc Trong quá trình hiện đại hóa, công nghiệp hóa các ngành nghề truyền thống Trần Anh Vũ 12 Thị trường chứng khoán 49 Chuyên đề thực tập Huệ GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh đang đứng trước những cạnh tranh khốc liệt giữa chế tạo sản phẩm thủ công với sản xuất dây chuyền hàng loạt. Một ví dụ như: một người thợ đúng giày có thể đúng được một đôi giày tương đối tụt nhưng lại mất khá nhiều thời gian và chi phí trong khi đó các xí nghiệp sản xuất giày thì lại sản xuất được với số lượng lớn, thay đổi kiểu dáng theo thị hiếu của khách hàng và rẻ hơn so với giày thủ công. Một người thợ hay vài người thợ cũng không thể đương đầu với các doanh nghiệp lớn đó. Muốn tồn tại được các thợ thủ công phải tập hợp lại với nhau thành lập một doanh nghiệp, sau đó quảng cáo xa rộng để tìm kiếm các khách hàng có thị hiếu dựng hàng thủ công. Trong xã hội luôn tồn tại nhu cầu đối với các sản phẩm truyền thống, vấn đề là phải làm cho những khách hàng đó biết đến sản phẩm của mình. Loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể nói là thích hợp cho sản xuất thủ công. Các ngành nghề truyền thống có thể dựa vào đó để sản xuất, kinh doanh, quảng cáo. Bên cạnh đó công nghệ tiên tiến cũng sẽ dần tiếp cận vào các ngành nghề này và đó cũng là một điều cần phải xảy ra đối với thời đại công nghiệp. 1.2.1.4. Những hạn chế và ưu thế của DNVVN 1.2.1.4.1. Ưu thế của DNVVN Doanh nghiệp vừa và nhỏ có những ưu thế rõ ràng, đó là khả năng thừa mãn nhu cầu có hạn trong những thị trường chuyên môn hóa, khuynh hướng sử dụng nhiều lao động với trình độ kỹ thuật lao động trung bình thấp, đặc biệt là rất linh hoạt, có khả năng nhanh chóng thích nghi với những nhu cầu thay đổi của thị trường. DNVVN có thể bước vào thị trường mới mà không thu hút sự chú ý của các doanh nghiệp lớn nên sẽ ít bị gây khó dễ khi tham gia vào thị trường, sẵn sàng phục vụ những nơi xa xôi nhất, những khoảng trống vừa và nhỏ trên thị trường vì các doanh nghiệp lớn không đáp ứng vì mối quan tâm của họ đặt vào các thị trường có các nhu cầu lớn. Doanh nghiệp vừa và nhỏ là loại hình sản xuất có địa điểm sản xuất phân tán, tổ chức chỉ đạo bộ máy gọn nhẹ nên có nhiều điểm mạnh a. Dễ dàng thành lập, bộ máy chỉ đạo gọn nhẹ và năng động, nhạy bén với thay đổi của thị trường, môi trường xung quanh. Doanh nghiệp chỉ cần một số vốn hạn chế, mặt bằng không lớn, các điều kiện sản xuất đơn giản là đã có thể bắt đầu hoạt động được rồi. Vòng quay sản phẩm nhanh và quy mô sản xuất không lớn lắm nên có thể sử dụng vốn tự có, hoặc vay mượn bạn bè, người thân dễ dàng. Bộ máy tổ chức gọn nhẹ, linh hoạt, dễ đưa ra các quyết đinh khi chỉ có một ít người quản lý. Đồng thời, do tính chất linh hoạt cũng như quy mô nhỏ của nó doanh nghiệp có thể dễ dàng phát hiện sự thay đổi nhu cầu của thị trường, nhanh chóng chuyển đổi hướng kinh doanh, phát huy tính năng động sáng tạo, tự chủ, nhạy bén trong lựa chọn thay đổi mặt hàng. Từ đó doanh nghiệp sẽ tạo ra sự sống động trong phát triển kinh tế. Trần Anh Vũ 13 Thị trường chứng khoán 49 Chuyên đề thực tập Huệ GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh b. DNVVN có phạm vi hoạt động rộng lớn,lĩnh vực hoạt động rất phong phu và đa dạng,tạo điều kiện khai thác tôi ưu tiềm lực trong nước. DNVVN kinh doanh ở mọi ngành nghề,phát triển rộng rãi ở mọi vùng lãnh thổ,kể cả nông thôn và miền núi,cung cấp hàng hóa dịch vụ cho dân cư địa phương và các vùng phụ cận,góp phần tạo lập sự phát triển cân bằng giữa các vùng trong cả nước.Các DNVVN rất có lợi thế trong việc tuyển dụng lao động địa phương và tận dụng các nguồn tài nguyên,tư liệu sản xuất sẵn có,phát huy hết lợi thế vùng kinh tế cho sản xuất kinh doanh.Sự đa dạng về loại hình hoạt động,phương thức quản lý,sản phẩm của các DNVVN giúp họ đứng vững được trong thị trường. c. Sẵn sàng đầu tư vào những lĩnh vực mới, lĩnh vực có mức độ rủi ro cao. Đó là bởi vì các doanh nghiệp loại này có mức vốn đầu tư nhỏ, sử dụng ít lao động nên có khả năng sẵn sàng mạo hiểm, đi đầu trong các lĩnh vực phát triển mới có quy mô nhỏ. Trong trường hợp thất bại thì cũng không bị thiệt hại nặng nề như các doanh nghiệp lớn nên cũng có cơ hội làm lại từ đầu được. Bên cạnh đó các DNVVN cũng rất khó có thể cạnh tranh với các mặt hàng truyền thống của các doanh nghiệp lớn nên họ phải tiên phong cũng như sẵn sàng đầu tư vào những lĩnh vực mới, lĩnh vực có mức độ rủi ro mới có thể có chỗ đứng trong thương trường. d. Dễ dàng trong việc thay đổi trang thiết bị, chuyển hướng sản xuất khi nhu cầu thị trường thay đổi. DNVVN là doanh nghiệp có số vốn khá ít nên việc đầu tư vào tài sản cố định cũng chiếm một tỷ trọng nhỏ, do đó doanh nghiệp có thể đổi mới trang thiết bị khi điều kiện cho phép. Với lại DNVVN cũng sử dụng một sơ lượng lớn lao động thay cho các dây chuyền sản xuât hiện đại. Khi doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong sản xuât cũng như kinh doanh thì doanh nghiệp có thể cắt giảm số lượng lao động để giảm bớt chi phí nhằm vượt qua thời kỳ khó khăn. Do việc dễ dàng trong việc thay đổi trang thiết bị, chuyển hướng sản xuất khi nhu cầu thị trường thay đổi nên DNVVN có thể linh hoạt hơn, dễ thích ứng với thị trường hơn, đem lại cho nó khả năng "sinh tồn" trên thị trường. e. DNVVN luôn nhận được sự hỗ trợ tích cực từ phía chính phủ. Biết được tầm quan trọng của doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với sự phát triển nền kinh tế của đất nước, Chính phủ đã ban hành nhiều nghị định nhằm hỗ trợ DNVVN, trong đó có nghị định 56/2009/NĐ-CP. Trong nghị định này Chính phủ đã tập trung vào trợ giúp tài chính, trợ giúp về mặt bằng sản xuất, trợ giúp về đổi Trần Anh Vũ 14 Thị trường chứng khoán 49 Chuyên đề thực tập Huệ GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh mới nâng cao công nghệ kỹ thuật, trợ giúp về việc xúc tiến thị trường, trợ giúp về thông tin tư vấn, trợ giúp về phát triển nguồn nhân lực. 1.2.1.4.2. Hạn chế của DNVVN. Các hạn chế của DNVVN xuất phát từ 2 nguyên nhân : nguyên nhân xuất phát từ khách quan bên ngoài và nguyên nhân từ chính các lợi thế của DNVVN. a. Do khả năng tài chính của DNVVN còn nhiều hạn chế. Hạn chế đầu tiên và cũng là hạn chế lớn nhất của doanh nghiệp vừa và nhỏ đó chính là hạn chế về vốn. Do DNVVN được thành lập dựa trên sơ vốn ban đầu khá ít nên tình trạng thiếu vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh hay tiến hành đổi mới công nghệ, từ đó ảnh hưởng đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và tính cạnh tranh trên thị trường. b. Đội ngũ công nhân còn nhiều yếu kém, công nghệ sản xuất còn nhiều lạc hậu. Có nhiều hạn chế trong đào tạo công nhân và chủ doanh nghiệp, thiếu bí quyết cũng như trình độ kỹ thuật còn yếu kém, không có tính sáng tạo trong công việc. Điều đó dẫn đến là đội ngũ công nhân không đủ khả năng sản xuất để đáp ứng với các yêu cầu về chất lượng, khó nâng cao được sản xuất và hiệu quả kinh doanh. Một thực trạng còn rất nan giải đối với rất nhiều DNVVN hiện nay là thiết bị công nghệ còn nhiều lạc hậu ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sản xuất cũng như chất lượng sản phẩm. Do đó, sức cạnh tranh của các DNVVN sẽ giảm sút rất nhiều so với các tập đoàn lớn, những tập đoàn lớn thường có dây chuyền công nghệ hiện đại, sản phẩm chất lượng và bám sát vào thị hiếu của người tiêu dùng. c. DNVVN thiếu thông tin, trình độ quản lý điều hành thường bị hạn chế. Trong thời đại ngày nay, công nghệ thông tin ngày càng phát triển, đây là một lợi thế lớn để cho các doanh nghiệp quảng bá sản phấm của mình và tìm kiếm khách hàng một cách hiệu quả nhất. Các doanh nghiệp lớn thường có bộ máy quản lý hiện đại, kiến thức của nhà quản lý sâu rộng nên có thể điều hành tốt mọi hoạt động, cũng như tìm kiếm thông tin, quảng cáo sản phẩm, duy trì và phát triển thương hiệu công ty. Còn đối với DNVVN,khó có thể cạnh tranh thu hút những người quản lý và lao động giỏi so với những doanh nghiệp lớn, do vậy những cán bộ quản lý này thường là những người thân quen trong công ty, trình độ quản lý còn nhiều yếu kém. Đây cũng là một khó khăn mà DNVVN phải đối mặt trong nền kinh tế thị Trần Anh Vũ 15 Thị trường chứng khoán 49 Chuyên đề thực tập Huệ GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh trường đầy biến động như ngày nay. d. Hoạt động của DNVVN thiếu tính vững chắc. Mặc dù DNVVN dễ dàng thành lập, bộ máy quản lý nhẹ, năng động và nhạy bén đối với những thay đổi của thị trường nhưng do khả năng tài chính hạn chế nên khi thị trường biến động, nếu không bắt kịp được thì lại rất dễ bị phá sản. Hơn nữa, trong quá trình phát triển của mình, không ít các DNVVN còn nảy sinh một số tiêu cực ảnh hưởng không tốt đến đời sống kinh tế xã hội như hiện tượng trốn thuế, hiện tượng chạy theo lợi nhuận quá mức mà không chú ý đến hậu quả xã hội phải gánh chịu, kể cả một các hành vi phạm pháp như làm dối, làm ẩu không đảm bảo chất lượng, làm hàng giả, gây ô nhiễm môi trường xung quanh gây phản cảm cho người dân sinh sống gần khu vực sản xuất... 1.2.2. Cho vay đối với DNVVN 1.2.2.1. Khái niệm Cho vay là một hoạt động chủ chốt và quan trọng đối với các ngân hàng thương mại vì nó tạo ra lợi nhuận lớn nhất trong các hoạt động. Nhận thức được điều đó, nhà nước đã ban hành các luật liên quan đến hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối với khách hàng. “Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối với khách hàng là một quan hệ về tài sản (tiền hoặc tài sản) giữa bên cho vay(NHTM) và bên đi vay ,trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận,đồng thời bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.” 1.2.2.2. Các phương thức cho vay đối với DNVVN Việc tạo ra các phương thức cho vay khác nhau của ngân hàng là một việc hêt sức cần thiết. Việc này sẽ làm cho doanh nghiệp có thể vay ngân hàng theo từng phương thức khác nhau sao cho phù hợp với tình hình tài chính, môi trường sản xuất của doanh nghiệp minh, từ đó tạo ra thuận lợi trong việc huy động vốn của doanh nghiệp. Nó cũng làm cho mối quan hệ giữa doanh nghiệp và ngân hàng ngày càng phát triển hơn, tạo ra những khách hàng bền vững cho khách hàng. Nếu đa dạng hóa được các phương thức cho vay thì sẽ thu hút được rất nhiều khách hàng tiềm năng cho ngân hàng. Hiện nay các ngân hàng thương mại thực hiện các hình thức cho vay sau: Trần Anh Vũ 16 Thị trường chứng khoán 49 Chuyên đề thực tập Huệ GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh 1.2.2.3. Cho vay ngắn hạn theo món. Cho vay ngắn hạn theo món là hình thức cấp tín dụng của ngân hàng thương mại mà theo đó làm một bộ hồ sơ vay một lần nhất định với mức tín dụng ngân hàng và khách hàng thừa thuận. Người vay phải làm hồ sơ vay vốn cho từng lần vay với lãi suất, thời hạn trả tiền và số tiền nhất định. Ưu điểm của phương thức này là thủ tục rõ ràng, ngân hàng chủ động trong việc cho vay. Phương thức này cũng khá phổ biến ở Việt Nam do doanh nghiệp không cần vốn thường thường xuyên, trong khi ngân hàng với nghiệp vụ chưa cao nên cho vay theo hình thức này ít rủi ro hơn. Nhược điểm của phương thức này là thủ tục rườm ra, doanh nghiệp không linh động trong việc sử dụng vốn do phải lập hồ sơ từng lần, chỉ thích hợp với những doanh nghiệp có nhu cầu vốn không định kỳ 1.2.2.4. Cho vay theo hạn mức tín dụng. Cho vay theoo hạn mức tín dụng là hình thức cấp tín dụng của ngân hàng thương mại mà theo đó, khách hàng chỉ việc làm 1 bộ hồ sơ để vay trong một kỳ nhất định với mức tín dụng mà khách hàng và ngân hàng đã thừa thuận. Người vay chỉ lập hồ sơ 1 lần cho nhiều khoản vay, ngân hàng cấp cho khách hàng một hạn mức, chỉ giới hạn dư nợ, không giới hạn doanh số, ví dụ như: Vay hạn mức 50 triệu một tháng, bạn có thể vay tối đa 50 triệu, nếu trả 30 triệu trong tháng có thể vay tiếp 30 triệu nữa, có thể giải ngân làm nhiều lần theo nhu cầu vay vốn của mình miễn sao số dư cuối tháng không vượt quá 50 triệu. Đây là hình thức vay tiên tiến, có nhiều ưu điểm và đem lại lợi ích cho doanh nghiệp như chủ động vốn, thủ tục đơn giản. Phương thức này chỉ áp dụng cho doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn thường xuyên, mục đích sử dụng vốn rõ ràng và có tín nhiệm đối với ngân hàng ( có khả năng tài chính, sản xuất kinh doanh ổn định, có lãi...) 1.2.2.5. Cho vay theo dự án đầu tư. Ngân hàng cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời sống.Trường hợp trong thời gian chưa vay được vốn ngân hàng, khách hàng đã dựng nguồn vốn huy động tạm thời khác để chi phí theo dự án được duyệt thì ngân hàng có thể xem xét cho vay bù đắp nguồn vốn đó trên cơ sở phẩi có chứng từ pháp lý chứng minh rõ nguồn vốn đã sử dụng trước.Trường hợp hết thời gian giải ngân theo lịch đã thoả thuận ban đầu mà khách hàng chưa sử dụng hết mức vốn vay ghi trong hợp đồng tín dụng, nếu khách hàng đề nghị thì ngân hàng xem xét có thể thoả thuận và ký kết bổ Trần Anh Vũ 17 Thị trường chứng khoán 49 Chuyên đề thực tập Huệ GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh sung hợp đồng tín dụng tiếp tục phát tiền vay phù hợp với tiến độ thi công cụ thể. 1.2.2.6.Cho vay theo hạn mức thấu chi. NHTM cung cấp cho khách hàng một hạn mức thấu chi,qua đó khách hàng có thể chi vượt số tiền trên tài khoản của khách hàng tại NHTM đó trong một khoảng thời gian nhất định hình thức cho vay này tạo điều kiện thuận lợi cho DN trong quá trình thanh toán,chủ động,kịp thời. Thấu chi là hình thức cho vay ngắn hạn,linh hoạt,thủ tục đơn giản,phần lớn là không có tài sản đảm bảo,có thể thế chấp cho cả DN lẫn cá nhân vài ngày,tháng trong năm,dùng để trả lương,chi các khoản phải nộp,mua hàng...Hình thức này nhìn chung chỉ sử dụng đối với DN có độ tin cậy cao,thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn . 1.2.2.7. Chiết khấu chứng từ có giá. Chiết khấu chứng từ có giá là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn do các tổ chức tín dụng nhận được các chứng từ có giá chưa đến hạn thanh toán của các doanh nghiệp và trả cho một số tiền bằng số tiền ghi trên chứng từ có giá trị trừ đi phần lợi tức ngân hàng được hưởng. Tỉ lệ phần trăm giữa phần lợi tức ngân hàng được hưởng so với số tiền ghi trên chứng từ có giá gọi là lợi suất chiết khấu. Chứng từ có giá được nhận chiết khấu bao gồm các loại thương phiếu có kỳ hạn như lệnh phiếu, hối phiếu, trái phiếu ngắn hạn…do các đơn vị được phép phát hành hợp pháp, còn thời hạn thanh toán và được bảo toàn mệnh giá. Khi chiết khấu chứng từ có giá các doanh nghiệp phải theo các quy định sau đây: 1, Làm đơn xin chiết khấuvà nộp bảng kê có kèm theo các bản gốc của những chứng từ xin chiết khấu. 2,Tổ cức tín dụng xem xét và tính toán trong ngày làm việc và chọn các chứng từ có giá có thể chấp nhận chiết khấu và báo cho doanh nghiệp biết mức tiền chiết khấu. 3, Khi chiết khấu, tổ chức tín dụng khấu trừ ngay phần lợi tức được hưởng theo chiết khấu từ 80-120% mức sinh lợi của chứng từ xin chiết khấu, số tiền còn lại xin chuyển vào tài khoản tiền gửi của doanh nghiệp xin chiết khấu hoặc trả tiền mặt hay ngân phiếu. Trường hợp chứng từ có giá không ghi rõ lợi suất chiết khấu thì tổ chức tín dụng tính suất chiết khấu bằng lãi suất cho vay. 4,Thời hạn chiết khấu tối đa bằng thời hạn có hiệu lực của chứng từ chiết khấu nhưng không quá 3 tháng. 5, Khi hết hạn chiết khấu, tổ chức tín dụng trích tài khoản tiền gửi của doanh Trần Anh Vũ 18 Thị trường chứng khoán 49 Chuyên đề thực tập Huệ GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh nghiệp để thu hồi số tiền đó nhận chiết khấu và hoàn trả chứng từ đó nhận chiết khấu. Nếu doanh nghiệp không có khả năng trả nợ sẽ chuyển sang nợ quá hạn và xử lý như đối với từng trường hợp cho vay nợ quá hạn. 1.2.2.8. Một số phương thức cho vay khác. Ngân hàng thực hiện một số phương thức cho vay khác phù hợp và nằm trong luật ngân hàng nhà nước Việt Nam. 1.2.3. Đặc điểm cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Như ta đã biết, doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò quan trọng trong nền kinh tế và cũng chiếm hơn 95% số lượng doanh nghiệp tại Việt Nam. DNVVN ngày càng phát triển về quy mô lẫn chất lượng, để có thể mở rộng phát triển được thì DNVVN cần phải huy động được mốt số lượng vốn nhất định và đây cũng là những khách hàng tiềm năng trong tương lai của các Ngân hàng. Nhận thấy được điều này, ngân hàng đã cố gắng phát triển các dịch vụ cho nhóm đối tượng khách hàng là DNVVN. Các đặc điểm của hoạt động cho vay đối với DNVVN được hiểu như sau: 1.2.3.1. Doanh nghiệp phải thực hiện đầy đủ các cam kết với ngân hàng. Doanh nghiệp phải cam kết đảm bảo thực hiện đúng nguyên tắc của hoạt động cho vay là hoàn trả vốn gốc và lãi với thời gian xác định và sử dụng vốn vay đúng mục đích theo thỏa thuận đã kí kết trong hợp đồng tín dụng. Các khoản cho vay của NH chủ yếu có nguồn gốc từ các khoản tiền gửi,tiền vay của các đối tượng khác trong nền kinh tế nên phải có nghĩa vụ hoàn trả cả gốc lẫn lãi cho các khoản vay đó. Các khoản vay phải đúng mục đích sử dụng đã thỏa thuận nhằm đảm bảo phương châm hoạt động của NHTM và mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước. Có như thế, ngân hàng mới đảm bảo an toàn cho quyết định cho vay của mình. 1.2.3.2. Hầu hết các doanh nghiệp phải có tài sản đảm bảo. Trong hầu hết các trường hợp, ngân hàng thường yêu cầu các doanh nghiệp phải có tài sản đảm bảo. Lý do cho điều này là các doanh nghiệp thường gặp rủi ro trong kinh doanh, khả năng thanh toán nợ gốc và lãi bị ảnh hưởng hoặc không thể trả được. Những biến cố không mong đợi này thường gây ảnh hưởng lớn cho ngân hàng vì bị mất đi một phần vốn của mình. Chính vì vậy, trừ những doanh nghiệp có uy tín cao thì hầu hết các doanh nghiệp còn lại phải có tài sản đảm bảo khi nhận tín dụng của ngân hàng. Đặt điều kiện phải có tài sản đảm bảo để các ngân hàng có thể Trần Anh Vũ 19 Thị trường chứng khoán 49 Chuyên đề thực tập Huệ GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh thu hồi nguồn trả nợ thứ hai khi nguồn trả nợ thứ nhất không thể thực hiện được. 1.2.3.3. Thủ tục cấp tín dụng cho DNVVN còn chậm, rườm rà. Vì DNVVN thường là những DN mới thành lập chưa có nhiều uy tín,chưa được minh bạch về tài chính và cũng chưa có nhiều thông tin đối với ngân hàng nên quá trình đánh giá,thẩm định thường khắt khe,chặt chẽ hơn nhăm giảm thiểu rủi ro trong hoạt động cho vay đối với các DN lớn làm ăn lâu năm. Do vậy nên việc cấp tín dụng cho DNVVN còn có nhiều thủ tục rườm rà, mât nhiều thời gian cho doanh nghiệp cũng như làm mất đi cơ hội trong kinh doanh của DNVVN. 1.2.3.4. Thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt đối với DNVVN. Có đến 41% kêu gọi hỗ trợ từ phía Chính phủ nhằm cắt giảm lãi suất vay vốn, giảm bớt gánh nặng tài chính, vì hiện tại một số ngân hàng vẫn áp dụng mức lãi suất đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên 14% một năm. Mức này vượt khả năng chịu đựng của doanh nghiệp. Trong khi đó, 23% cho rằng họ cần hỗ trợ tài chính để nâng cấp công nghệ và trang thiết bị, 19% mong muốn Chính phủ sẽ có chính sách hỗ trợ thương hiệu Việt. Do vậy trên cơ sở lãi suất cơ bản từng thời kỳ,áp dụng cơ chế lãi suất ưu đãi đối với các DNVVN,đảm bảo mức lãi suất cho vay đối với các DNVVN thấp hơn từ 0,5% - 1%/năm so với mức cho vay thông thường. 1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động cho vay đối với DNVVN của ngân hàng thương mại. 1.2.4.1. Nhân tố chủ quan. a. Chiến lược kinh doanh của các ngân hàng thương mại. Như ta đã biết : " Chiến lược kinh doanh là một kế hoạch dài hạn mang tính tổng thể hay là một hành động mang tính tổng quát nhằm triển khai các nguồn lực để đạt được mục tiêu đề ra của các ngân hàng đảm bảo sự phù hợp với sự thay đổi của môi trường ". Chiến lược kinh doanh có vai trò quan trọng trong hoạt động của các ngân hàng ngày nay. Nó xác định phương hướng hoạt động dài hạn cho ngân hàng, cung cấp cho các nhà quản trị ngân hàng bộ khung nhằm hướng dẫn tư duy và hành động của họ trong cả dài hạn và ngắn hạn ( tiền đề cho việc thực hiện các chức năng cơ bản của mỗi cấp quản trị ), tạo ra những căn cứ vững chắc cho việc đề ra các chính Trần Anh Vũ 20 Thị trường chứng khoán 49
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng