Luận Văn Tốt Nghiệp
TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍ NH TRỊ
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Đề Tài:
LÝ LUẬN PHẢN ÁNH VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA Ý
THỨC CON NGƢỜI
Chuyên ngành: Sƣ phạm Giáo Dục Công Dân
Mã ngành: 52140204
Giảng viên hƣớng dẫn
Sinh viên thực hiện
Ths. GVC. Nguyễn Thanh Sơn
Trần Trọng Tuân
MSSV: 6108761
Lớp: SP GDCD_02 K36
Cần Thơ, tháng 10
năm 2013
GVHD: Ths. GVC Nguyễn Thanh Sơn
SVTH: Trần Trọng Tuân 6108761
1
Luận Văn Tốt Nghiệp
MỤC LỤC
Trang
A. PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 4
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 4
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu..................................................................... 5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 5
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ........................................................ 5
5. Kết cấu của luận văn .......................................................................................... 6
B. PHẦN NỘI DUNG .......................................................................................... 7
CHƢƠNG 1: PHẢN ÁNH VÀ CÁC CẤP ĐỘ PHẢN ÁNH........................... 7
1.1 Lý luận về phản ánh và các cấp độ phản ánh .................................................. 7
1.1.1 Lý luận về phản ánh của chủ nghĩa duy vật biện chứng ........................... 7
1.1.2 Các cấp độ của phản ánh........................................................................... 12
1.1.2.1 Phản ánh tiền ý thức........................................................................... 12
1.1.2.2 Phản ánh ý thức.................................................................................. 16
1.2 Vấn đề của ý thức và bản chất của ý thức ....................................................... 26
1.2.1 Vấn đề của ý thức ...................................................................................... 26
1.2.2 Bản chất của ý thức .................................................................................... 27
CHƢƠNG 2: PHẢN ÁNH Ở TRÌNH ĐỘ THÔNG TIN VÀ THÔNG TIN TRONG
THỜI ĐẠI NGAY NAY ĐỐI VỚI SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN Ý THỨC
CON NGƢỜI ........................................................................................................ 32
2.1 Phản ánh thông tin và sự tác động của thông tin với sự hình thành và phát triển
ý thức con người .................................................................................................... 32
2.1.1 Khái niệm thông tinvà thông tin với tư cách là kết quả của phản ánh sang tạo.
................................................................................................................................ 32
2.1.2 Vai trò của thông tin đối với sự phát triển ý thức con người hiện nay. .... 41
GVHD: Ths. GVC Nguyễn Thanh Sơn
SVTH: Trần Trọng Tuân 6108761
2
Luận Văn Tốt Nghiệp
2.1.3 Sự tác động của thông tin hiện đại đối với sự phát triển ý thức con người
................................................................................................................................ 47
2.2 Thông tin và những những vấn đề thực tiễn xã hội đối với sự phát triển ý thức cộng
đồng ở nước ta hiện nay ......................................................................................... 51
2.3 Nâng cao trình độ dân trí để tiếp thu xử lý thông tin khoa học hiện đại, định hướng
cho sự phát triển kinh tế - xã hội và ý thức cộng đồng .......................................... 64
2.4 Nâng cao chất lượng thông tin, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng tác
động vào xã hội, góp phần xây dựng phát triển ý thức xã hội ở nước ta ............... 72
C. KẾT LUẬN ...................................................................................................... 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 80
GVHD: Ths. GVC Nguyễn Thanh Sơn
SVTH: Trần Trọng Tuân 6108761
3
Luận Văn Tốt Nghiệp
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lý luận phản ánh và sự phát triển của ý thức con người từ lâu đã được nghiên
cứu ở nhiều ngành khoa học khác nhau. Tuy nhiên, cho đến nay vấn đề này là
một trong những đề tài được nhiều người ở trong và ngoài nước quan tâm, nhất
là trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học – công nghệ hiện đại.
Xu hướng chung của các công trình nghiên cứu là tập trung sâu sắc hơn lý
luận phản ánh của Lênin trên các khía cạnh: bản chất của sự phản ánh, tính tích
cực của sự phản ánh, đặc trưng của sự phản ánh ý thức, phản ánh và sáng tạo, các
hình thức của phản ánh, vai trò phương pháp luận của lý luận phản ánh đối với
nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn.
Trên cơ sở thành quả các công trình nghiên cứu tập trung bảo vệ và phát triển
lý luận Mác – xít, phê phán những quan điểm chống lại lý luận phản ánh trên một
số mặt: Việc cho rằng lý luận phản ánh không thống nhất với thực tiễn sáng tạo,
xem phản ánh như là sự tách khỏi thế giới quan của Triết học mà chỉ đảm bảo
chức năng về nhận thức luận.
“Lý luận phản ánh và sự phát triển của ý thức con ngƣời” là đề tài
nghiêng về nghiên cứu lý luận cơ bản, nhằm góp phần làm sáng tỏ thế giới quan
duy vật mác – xít về vai trò của phản ánh đối với sự ra đời và phát triển của ý
thức.
Từ những kết quả đạt được của vấn đề nghiên cứu, đề tài có ý nghĩa thiết thực
đối với việc nghiên cứu giảng dạy triết học nói chung và chuyên đề ý thức, lý
luận nhận thức nói riêng trong xã hội hiện nay.
GVHD: Ths. GVC Nguyễn Thanh Sơn
SVTH: Trần Trọng Tuân 6108761
4
Luận Văn Tốt Nghiệp
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu:
Đề tài tìm hiểu, phân tích về lý luận phản ánh và sự hình thành và phát
triển ý thức của con người trong giai đoạn hiện nay. Từ đó, đưa ra những giải
pháp nhằm nâng cao ý thức của con người trong thời đại của thông tin, khoa
học – công nghệ trong xã hội hiện đại ngày nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Phân tích vai trò của lý luận phản ánh và sự phát triển của ý thức con
người.
- Tìm hiểu một số nội dung và đặc điểm phản ánh ý thức trong xã hội hiện
đại.
- Góp phần khẳng định quan điểm mác – xít về vấn đề ý thức trước sự phát
triển của khoa học – công nghệ và vai trò của thông tin đối với sự phát
triển của ý thức con người trong xã hội hiện đại.
- Nghiên cứu những vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận đối với sự phát
triển của ý thức và ảnh hưởng của thông tin đối với sự hình thành và phát
triển ý thức trong đời sống xã hội ở nước ta hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn giới hạn và tập trung hướng vào tìm hiểu, nghiên cứu vai trò
của lý luận phản ánh và sự phát triển của ý thức con người nói chung và ý
thức trong xã hội hiện đại nói riêng ở nước ta hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và một số thành
tựu của khoa học hiện đại có liên quan để nghiên cứu.
- Logic và lịch sử là phương pháp chủ yếu, kết hợp với phân tích và tổng
hợp để nghiên cứu và trình bày luận văn.
GVHD: Ths. GVC Nguyễn Thanh Sơn
SVTH: Trần Trọng Tuân 6108761
5
Luận Văn Tốt Nghiệp
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu gồm 2 chương 6 tiết.
GVHD: Ths. GVC Nguyễn Thanh Sơn
SVTH: Trần Trọng Tuân 6108761
6
Luận Văn Tốt Nghiệp
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
PHẢN ÁNH VÀ CÁC CẤP ĐỘ PHẢN ÁNH
1.1 Lý luận về phản ánh và các cấp độ phản ánh
1.1.1 Lý luận về phản ánh của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Lý luận phản ánh chiếm vị trí quan trọng trong triết học Mác – Lênin nói
chung và chủ nghĩa duy vật biện chứng nói riêng. Nó là một trong những cơ sở của
nhận thức luận duy vật biện chứng. Thiếu sự nghiên cứu đầy đủ về vấn đề này sẽ
không có quan điểm đúng về nhận thức luận, về ý thức và sự phát triển của ý thức.
Theo nghĩa chung nhất phản ánh là sự tái hiện những đặc trưng, thuộc tính
quan hệ của một đối tượng này trong đối tượng khác. Trong lịch sử phát triển của
loài người quan niệm về phản ánh ngày càng được hoàn chỉnh hơn và chính xác hơn
nhờ thành tựu khoa học trong quá trình phát triển của xã hội. Quan niệm về vật chất
phản ánh ngay từ thời cổ đại các nhà triết học đã đề cập khi nói đến mối quan hệ
giữa thế giới bên ngoài với tinh thần ý thức con người. Tuy nhiên, đó mới chỉ là
những ý tưởng sơ khai còn thiếu nhất quán và mang yếu tố trực quan, máy móc.
Hê – ra – clit (530 – 470 TCN), đã nói đến sự tác động của thế giới bên ngoài
vào cảm giác con người với vấn đề tư tưởng, trí tuệ. Theo ông: “Tư tưởng là ưu
điểm lớn nhất. Trí tuệ là ở chỗ nói lên chân lý và hành động theo tự nhiên, lắng
nghe tự nhiên”[5, tr.23]. Như vậy, đối tượng nhận thức như Hê – ra – clit quan niệm
không phải cái bên trong mà là cái bên ngoài mà cảm giác con người là cầu nối. Tuy
nhiên, đôi khi ông lại tỏ ra lúng túng khi nói về cội nguồn của nhận thức, ông cho
rằng: “Mọi người đều có bẩm tính về năng lực nhận thức, năng lực tư tưởng”[5,
GVHD: Ths. GVC Nguyễn Thanh Sơn
SVTH: Trần Trọng Tuân 6108761
7
Luận Văn Tốt Nghiệp
tr.23]. Nếu quan niệm như vậy thì năng lực nhận thức ở đâu ra, làm sao có được, hay
cái “bẩm sinh” như ông quan niệm ?
Đê – mô – crit (460 – 370 TCN), nhà triết học duy vật xuất sắc thời Hy Lạp
cổ đại, người sáng lập “Nguyên tử luận” cũng nói đến sự tác động lẫn nhau giữa thế
giới khách quan và giác quan của con người. Ông cho rằng, các vật thể phóng ra
những chất rất mỏng tác động vào giác quan và gây ra cảm giác – cơ sở hình thành ý
thức[19, tr.172]. Cảm giác là giai đoạn phản ánh đầu tiên của quá trình nhận thức,
nhưng ông lại không đánh giá cao nhận thức cảm tính – kết quả của cảm giác. Về
mặt này C. Mác đã nhận xét như sau trong luận án tiến sỹ của mình: “Đê – mô – crit
tự làm hỏng mắt mình để cho ánh sáng của cảm tính không đến nỗi bịt bùng sự nhạy
bén của lý trí”[19, tr.173].
Trong thời kỳ Phục hưng và khai sáng, các nhà triết học duy vật khi đối lập
với thế giới quan duy tâm, tôn giáo cũng đã khẳng định sự tồn tại của thế giới khách
quan và sự tác động của nó đối với ý thức con người.
Đi – đơ – rô (1713 – 1748), người đứng đầu phái Bách khoa toàn thư thời kỳ
khai sáng ở Pháp cho rằng cảm giác là thuộc tính của vật chất. Mọi vật chất đều có
tính cảm giác. Tư duy là một hình thức cao cấp của tính cảm giác của vật chất.
Nguồn gốc của nhận thức là cảm giác do các sự vật trong tự nhiên tác động vào giác
quan mà có. Từ những luận điểm trên ông đã phê phán quan điểm của Becơli:
“Người ta gọi là duy tâm những nhà triết học nào chỉ biết có sự tồn tại của bản thân
họ và những cảm giác nối tiếp nhau trong bản thân họ, ngoài ra không thừa nhận
một cái gì khác, ông nói rằng hệ thống ấy chỉ do “người mù sáng tạo ra mà thôi” và
hệ thống này thật đáng hổ thẹn cho trí tuệ loài người…”[27, tr.58]. Luận điểm này
đã đưa Đi – đơ – rô tiến sát đến chủ nghĩa duy vật hiện đại trong việc dùng phản ánh
để giải thích hành vi và nguồn gốc của ý thức con người. Tuy nhiên, Đi – đơ – rô
còn hạn chế ở chỗ đồng nhất cảm giác với tất cả mọi dạng vật chất chứ không phải
chỉ có ở vật chất sống. Đây chính là sự thiếu triệt để và máy móc của Đi – đơ – rô
GVHD: Ths. GVC Nguyễn Thanh Sơn
SVTH: Trần Trọng Tuân 6108761
8
Luận Văn Tốt Nghiệp
trên lập trường duy vật . Trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa kinh nghiệm, phê phán”, V. I. Lênin đã trích dẫn câu trả lời của Đi – đơ – rô
với G. Đa – lăm – be (Giăng – lô – rông Đa – lăm – be (1717 – 1783), nhà toán học
và triết học khai sáng người Pháp): “Anh há lại không thấy rằng tất cả những tính
chất tất cả những hình thái có thể cảm biết được của vật chất, về bản chất đều
không thể phân chia được hay sao?”[27, tr.61]. Thiếu sót trên của ông đã thể hiện ở
chỗ ông cho rằng giữa những hình thái cảm biết (cảm giác) và vật chất về bản chất
là không thể phân chia được.
Phơ – bách (1804 – 1872 ), nhà triết học duy vật của nên triết học cổ điển
Đức, trong khi phê phán “Bất khả tri” của Kant ông đã khẳng định rằng: “Cảm giác
không bao giờ tách chúng ta ra khỏi thế giới khách quan được, mà nó nối liền vơi
thế giới khách quan”. Quan niệm này đã được Lênin bình dẫn trong tác phẩm “Chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa kinh nghiệm, phê phán”: Các bạn hãy nhớ lại
một đoạn đã được dẫn…của L. Phơ – bách, trong đó Kant bị buộc tội là đã quan
niệm “vật tự nó” là một sự trừu tượng không có tính thực tại, tức là thế giới tồn tại
ngoài chúng ta, hoàn toàn là có thể nhận thức được và về nguyên tắc không có gì
khác với hiện tượng cả. Tuy nhiên, do tính trực quan trong lý luận về nhận thức, Phơ
– bách đã không thấy được tính biện chứng từ cảm giác đến tư duy, không thấy được
sự phản ánh thực tiễn sinh động của ý thức con người. Chính ông đã nói: “Lý luận là
một việc còn thực tiễn là một việc khác, thực tiễn như là “hành động bẩn thỉu của
con buôn Do thái”. Đương nhiên, Phơ – bách đã xa lạ với quan điểm khoa học của
chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng: “Nếu tách khỏi thực tiễn thì sự phản ánh thế
giới bên ngoài bằng cách cảm tính sẽ không đưa lại được thông tin cho sự phát triển
của ý thức”. Thiếu nội dung khách quan này thì ý thức sẽ không có điều kiện ra đời,
nói gì đến phát triển.
Nói chung chủ nghĩa duy vật trước C. Mác có những đóng góp to lớn cho sự
phát triển của tri thức nhân loại nói chung và triết học nói riêng. Nhưng do những
GVHD: Ths. GVC Nguyễn Thanh Sơn
SVTH: Trần Trọng Tuân 6108761
9
Luận Văn Tốt Nghiệp
hạn chế về mặt lịch sử, chủ yếu là sự phát triển của khoa học và một phần không
nhỏ là thế giới quan, nên tư tưởng duy vật của họ đều chưa triệt để và mang nặng
yếu tố trực quan máy móc, siêu hình. Hạn chế ấy đã chi phối đến tư tưởng của họ về
vấn đề ý thức, nhận thức luận, về sự tác động qua lại giữa giới tự nhiên và con
người. Trong mối quan hệ ấy, các nhà triết học trước C. Mác chỉ thấy được đặc tính
phản ánh một chiều, cơ học của vật chất. Đặc biệt họ chưa thấy được vai trò của
thực tiễn với tính cách là hình thức phản ánh cao nhất của ý thức con người. C. Mác
viết: “Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ trước tới nay, kể cả
chủ nghĩa duy vật của Phơ – bách là sự vật, hiện tượng, cái cảm giác được, chỉ
nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực quan, chứ không được nhận
thức là hoạt động cảm giác của con người hoặc hạn chế ở cảm giác bề ngoài của sự
vật”.[7, tr.9]
Chủ nghĩa duy vật ra đời đã khắc phục được những thiếu sót và sai lầm của
quan niệm trước đó về thuộc tính phản ánh của vật chất. C. Mác và Ph. Ăng – ghen
trong các tác phẩm của mình đã nhấn mạnh tính biện chứng trong quan hệ giữa thế
giới khách quan và tư duy con người. Các ông đã chỉ ra: “Ảnh hưởng của thế giới
bên ngoài vào con người, phản ánh vào đây dưới cảm giác, tư tưởng, động cơ, ý chí
– Nói tóm lại dưới hình thức nguyện vọng lý tưởng”[3, tr.162]. C. Mác và Ph. Ăng –
ghen cho rằng bất kỳ lúc nào ý thức cũng không là cái khác hơn mà chỉ tồn tại được
nhận thức và theo các ông, tồn tại được nhận thức ấy chính là hình ảnh của thế giới
bên ngoài được di chuyển và biến hình vào óc con người. Đó là sự phản ánh thế giới
khách quan vào óc con người và được cải biến đi trong đó.
V. I. Lênin đã coi tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăng – ghen là cơ sở cho quan
điểm của mình về lý luận phản ánh.
Trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm, phê phán” V.
I. Lênin đã nói về vấn đề trên rằng: “…nhà duy vật Ph. Ăng – ghen, người cộng tác
nổi tiếng của C. Mác và là một người sáng lập ra chủ nghĩa Mác đã luôn luôn
GVHD: Ths. GVC Nguyễn Thanh Sơn
SVTH: Trần Trọng Tuân 6108761
10
Luận Văn Tốt Nghiệp
không trừ một trường hợp nào nói đến trong tác phẩm của mình những vật và những
hình ảnh hoặc phản ánh của vật trong tư tưởng và đương nhiên là những hình ảnh
tư tưởng đó chỉ có thế bắt nguồn từ cảm giác thôi”[27, tr.337]. Kế thừa tư tưởng ấy
V. I. Lênin viết: “Chủ nghĩa duy vật hoàn toàn nhất trí với khoa học tự nhiên, coi
vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, vì cảm giác trong hình thái rõ rệt của
nó, chỉ gắn liền với hình thái cao của vật chất (vật chất hữu cơ) và người ta chỉ có
thể giả định là “trên nền móng của lâu đài vật chất” có sự tồn tại một năng lực
giống như cảm giác”[27, tr.243], đó chính là thuộc tính phản ánh của vật chất. Ở chỗ
khác V. I. Lênin nói: “Cảm giác của chúng ta, ý thức của chúng ta chỉ là hình ảnh
của thế giới bên ngoài và dĩ nhiên là nếu không có cái bị phản ánh thì không thể có
cái phản ánh…”[27, tr.274]. Tư tưởng trên không khẳng định được tính thứ nhất của
vật chất tính thứ hai của ý thức, mà còn là cơ sở của lý thuyết phản ánh. Theo V. I.
Lênin, cảm giác do phản ánh mà có nhưng không phải tất cả sự phản ánh đều là cảm
giác, vật chất ở trình độ thấp, thuộc tính phản ánh ấy lại chỉ gần giống như cảm giác
mà thôi. V.I. Lênin viết: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy
trừu tượng đến thực tiễn – đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý,
của sự nhận thức thực tại khách quan”.[28, tr.179]
Căn cứ vào ý kiến của V. I. Lênin, nhận thức của con người gồm hai giai
đoạn có quan hệ biện chứng với nhau: giai đoạn nhận thức cảm tính (trực quan sinh
động) và giai đoạn nhận thức lý tính (tư duy trừu tượng).
Phản ánh là thuộc tính của toàn bộ thế giới vật chất. Nhưng vật chất có kết
cấu, trình độ, thuộc tính khác nhau thì cấp độ phản ánh cũng khác nhau. Không chỉ
trong triết học mà khoa học tự nhiên đã có nhiều thành tựu đã khẳng định rằng sự
phản ánh của vật chất vô cơ khác sự phản ánh của vật chất có sự sống và sự phản
ánh của con người lại càng khác hơn các hình thức phản ánh đã nêu về mặt trình độ
và bản chất.
GVHD: Ths. GVC Nguyễn Thanh Sơn
SVTH: Trần Trọng Tuân 6108761
11
Luận Văn Tốt Nghiệp
Tư tưởng phản ánh với tính cách là thuộc tính chung của vật chất là một cống
hiến to lớn của V. I. Lênin đối với lý luận nhận thức. Sự phát triển của khoa học tự
nhiên và những thành tựu của nó sau này đã chứng minh cho luận điểm về đặc tính
phản ánh của vật chất của V. I. Lênin là đúng đắn.
1.1.2 Các cấp độ của phản ánh
1.1.2.1 Phản ánh tiền ý thức
Trong quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, thuộc tính phản ánh
của vật chất cũng phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.
1.
Phản ánh vật lý: Là hình thức phản ánh đơn giản nhất ở giới vô sinh,
thể hiện qua các quá trình biến đổi cơ, lý, hoá.
2.
Phản ánh sinh học: Là những phản ánh trong giới hữu sinh và trong
bản than giới hữu sinh cũng có nhiều hình thức khác nhau ứng với mỗi trình độ phát
triển của thế giới sinh vật.
3.
Phản ánh ý thức: là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện
thực, ý thức chỉ nảy sinh ở giai đoạn phát triển cao của thế giới vật chất, cùng với sự
xuất hiện của con người.
Tùy theo trình độ phát triển của tổ chức vật chất nhất định mà phản ánh cũng
có thể là phản ánh như gương soi, ảnh chụp; phản ánh còn là sự phản ứng nào đó
của thế giới bên ngoài; phản ánh cũng có thể ở trình độ cao hơn là tái hiện lại những
đặc trưng thuộc tính của quan hệ một đối tượng nào đó, chẳng hạn như sự tái hiện
một sự vật, hiện tượng nào đó của thế giới khách quan trong óc con người mà có thể
không có sự vật hiện tượng đó trực tiếp nhưng nó lại là những sự vật, hiện tượng có
thể trong thế giới khách quan.
Hình thức phản ánh đơn giản nhất là phản ánh vật lý – nó đặc trưng cho giới
tự nhiên vô sinh. Phản ánh sinh vật đặc trưng cho giới hữu sinh. Phản ánh sinh vật
có thể phân ra làm hai mức độ là tính cảm ứng và tính khích thích. Tính cảm ứng
đặc trưng cho sinh vật bậc thấp (cả thực vật và động vật). Tính kích thích đặc trưng
GVHD: Ths. GVC Nguyễn Thanh Sơn
SVTH: Trần Trọng Tuân 6108761
12
Luận Văn Tốt Nghiệp
cho sinh vật bậc cao, đặc biệt là động vật có hệ thần kinh trung ương. Mối liên hệ
của cơ thể với môi trường khi sinh vật có hệ thần kinh được thực hiện trên cơ sở các
phản xạ không có điều kiện. Với sự xuất hiện của hệ thần kinh trung ương – đó cũng
là một trong những đặc trưng tiến hóa ở trình độ cao của giới sinh vật, của vật chất
thì hoạt động phản ánh lúc này có những biến đổi cơ bản, trên cơ sở của phản xạ
không có điều kiện, ở sinh vật có hệ thần kinh trung ương có thêm phản xạ có điều
kiện.
Sự xuất hiện của hệ thần kinh trung ương và khả năng tạo thành các phản xạ
có điều kiện đã làm nảy sinh một hình thức phản ánh mới trên cơ sở phản ánh sinh
vật, đó là phản ánh tâm lý.
Nhờ hình thức phản ánh mới này – phản ánh tâm lý mà động vật có thể phản
ứng được một cách nhạy bén và mau lẹ hơn với môi trường sống, không chỉ phản
ứng lại kích thích có ý nghĩa sống còn mà bằng những tín hiệu của chúng đối với
hiện tượng bên ngoài mà ít loài không trực tiếp ảnh hưởng đến sự tồn tại của chúng.
Phản ánh tâm lý là một hình thức phản ánh mới cao hơn về chất so với phản
ánh sinh vật. Nó chưa phải là phản ánh ý thức nhưng không còn là phản ánh sinh vật
thuần túy nữa.
Tóm lại phản ánh là thuộc tính của vật chất nói chung. Nhưng trên bậc thang
tiến hóa của tự nhiên, các dạng vật chất ở bậc thang tiến hóa khác nhau thì cấp độ
phản ánh khác nhau. Trong thế giới vô sinh, đặc trưng của nó là phản ánh vật lý mà
sự tương tác giữa các vật thể không có mặt của chủ thể. Kết quả của nó để lại là sự
biến đổi nào đó như là sự biến đổi của những vật thể, sự đàn hồi, từ trường hấp dẫn,
sự han rỉ do oxy hóa đối với kim loại, tia chớp, sấm sét, sự va chạm của các vật thể,
sự kết hợp của các chất để tạo thành chất mới…Nếu quan sát thế giới xung quanh,
trong các sự vật và hiện tượng tự nhiên nào chúng ta cũng đều thấy được dấu ấn của
sự tác động qua lại trong mối quan hệ để lại dấu ấn của nó. Nhưng quan hệ ấy là
quan hệ phản ánh của vật chất muôn màu muôn vẻ.
GVHD: Ths. GVC Nguyễn Thanh Sơn
SVTH: Trần Trọng Tuân 6108761
13
Luận Văn Tốt Nghiệp
Phản ánh thuộc hệ thống vô sinh là thụ động, “thờ ơ”, “lãnh đạm”, vô tri với
tác động của bên ngoài; không phân biệt được những tác động lợi hại; không có sử
dụng được kinh nghiệm quá khứ, hiện tại và không có khả năng dự báo trước được
tương lai. Phản ánh của vật chất vô sinh không thụ cảm được tín hiệu thực tại nào.
Ai cũng có thể hiểu được rằng dãy núi đá dù to lớn, hùng vĩ đến đâu nó vẫn hoàn
toàn là vật chất “vô tư” với dự báo động đất sắp xảy ra. Phản ánh vô sinh không có
khả năng tiếp thu, tái tạo, xỷ lý tín hiệu thông tin. Sự tác động tương hỗ của vật chất
vô sinh chỉ có thể giải thích bằng quy luật vật lý mà thôi.
Khác với phản ánh của thế giới vô sinh, phản ánh của thế giới hữu sinh đã ít
nhiều mang tính độc lập có sự lựa chọn tùy thuộc vào trình độ của sự phát triển vật
chất. Nó là một loại phản ánh có tác dụng tích cực. Điều đó thể hiện ở tính thích
nghi của sinh vật đối với môi trường tồn tại của nó.
Như vậy là, “Phản ứng – Ph. Ăng – ghen viết – sau mỗi lần phát sinh phản
ứng thì phản ứng cơ giới vật lý chấm dứt. Phản ứng hóa học làm thay đổi thành
phần của vật tham gia phản ứng và nó chỉ tái diễn khi ta thêm vào một số lượng của
vật lý. Chỉ có thể hữu cơ mới phản ứng một cách độc lập tự chủ, đương nhiên là
phản ứng nằm trong phạm vi năng lực của nó…Phải có chất dinh dưỡng thì mới có
được – nhưng chỉ sau khi được đồng hóa, chất dinh dưỡng được thêm vào đó mới có
thể gây tác dụng trực tiếp như ở giai đoạn thấp. Do đó, trong trường hợp này, cơ
thể sẵn có lực lượng phản ứng một cách độc lập, tự chủ; cẫn thông qua cơ thể mới
có thể thực hiện một cách gián tiếp được sự phản ứng mới”.[8, tr.476]
Lực lượng phản ứng một cách độc lập, tự chủ mà Ph. Ăng – ghen nói chính là
phản ánh của sinh vật, khác với những phản ánh ở trình độ thấp của giới vô sinh. Ở
động vật phát triển, tính phản ánh độc lập tự chủ ấy đã dẫn đến quá trình tâm lý mà
thường gọi là tâm lý độc vật. Tâm lý động vật trở thành phương tiện dinh dưỡng,
xác định “vị trí” và “hành động” trong mối quan hệ với môi trường xung quanh.
Phản ứng như vậy không chỉ là thu nhận sự tác động của môi trường mà còn bao
GVHD: Ths. GVC Nguyễn Thanh Sơn
SVTH: Trần Trọng Tuân 6108761
14
Luận Văn Tốt Nghiệp
hàm sự phản ứng ngược trở lại có tính chất lựa chọn để duy trì sự sinh tồn của mình
trước quy luật tự nhiên. Hình thức phản ánh của sinh vật là hình thức phản ánh của
những lực lượng phản ứng độc lập, có phần tự chủ của cá thể sinh vật. Đồng thời nó
cũng là một lực lượng có tác dụng ngược trở lại một cách “tích cực” đối với môi
trường xung quanh, thể hiện của quá trình chọn lọc tự nhiên thích ứng nhau, duy trì,
bảo tồn và phát triển giống nòi.
Phản ánh tâm lý động vật đã được chứng minh và khẳng định bởi khoa học,
tâm lý, sinh lý học thần kinh… Trong tâm lý học, người ta gọi giai đoạn này giai
đoạn tiền nhận thức. Giai đoạn này là giai đoạn của ranh giới giữa hiện tượng chưa
có ý thức và hiện tượng có ý thức (theo nghĩa tương đối).
Tâm lý động vật dù sao cũng chỉ là phản ánh sao chép thế giới khách quan và
chủ yếu do quy luật sinh vật chi phối mà thôi.
Tóm lại, sự phản ánh phụ thuộc vào trình độ phát triển khác nhau của đối
tượng vật chất. Sự phản ánh thụ động, máy móc, phi chủ thể là đặc trưng của vật
chất vô sinh. Trong thế giới động vật, thực vật đã có sự phản ánh, mang tính lựa
chọn, nhất là động vật đã phát triển cao, những động vật có hệ thần kinh trung ương.
Phản ánh ấy không chỉ là sự tiếp nhận tác động bên ngoài mà còn bao hàm sự phản
hồi có tính lựa chọn với môi trường xung quanh. Không có đặc trưng phản ánh này
thì giới hữu sinh không tồn tại được. Những đặc trưng của sự phản ánh này tiển để
cà cũng là cơ sở, là điều kiện “cần” để chuyển từ tâm lý động vật thành tâm lý con
người.
Một trong những khái niệm về phản ánh dựa trên những vấn đề đã phân tích
trên đây tương đối hoàn chỉnh là: “Phản ánh là quá trình tác động của đối tượng
này lên đối tượng khác và để lại những dấu vết nhất định, tái tạo lại những đặc điểm
nào đó của đối tượng này lên đối tượng khác”[23, tr.9]. Chắc rằng khoa học ngày
càng phát triển sẽ cung cấp cho chúng ta những thành tựu bổ sung cho nội dung
phạm trù phản ánh. Tuy nhiên, cũng có một vài kết luận tóm tắt liên quan đến vấn đề
GVHD: Ths. GVC Nguyễn Thanh Sơn
SVTH: Trần Trọng Tuân 6108761
15
Luận Văn Tốt Nghiệp
trên rằng: Phản ánh là thuộc tính của mọi đối tượng vật chất mà nội dung của nó vừa
là phản ánh, vừa là phản ứng với sự vận động tương tác của trình độ phát triển của
vật chất. Sự tương tác giữa cái phản ánh và cái bị phản ánh bao giờ cũng gây ra
những biến đổi nào đó dưới dạng những dấu ấn “vô hình” hoặc hữu hình mà trong
đó đỉnh cao của nó là sự hình thành biến đổi ý thức con người.
1.1.2.2 Phản ánh ý thức
Quan điểm Mác – xít cho rằng, ý thức là kết quả của sự phản ánh sáng tạo
hiện thực khách quan trong đầu óc của con người.
Theo C. Mác, ý thức của con người “chẳng qua chỉ là vật chất được đem
chuyển vào đầu óc con người và được cải biến đi trong đó”.[7, tr.35]
V. I. Lênin quan niệm: “ý thức chẳng qua chỉ là hình ảnh chủ quan của thế
giới khách quan”.[27, tr.138]
Tư tưởng C. Mác và V. I. Lênin về ý thức là: ý thức là hoạt động tinh thần
của con người bao gồm tri thức, tình cảm, ý chí, tư tưởng…được phản ánh sáng tạo
từ hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người theo một quy luật nhất định.
Nội dung của những quan niệm trên đã nói lên được nguồn gốc bản chất và
nội dung của ý thức theo quan điểm duy vật biện chứng. Thế giới khách quan là đối
tượng phản ánh, óc người là cơ quan phản ánh. Nếu thiếu một trong hai yếu tố này
cũng không có ý thức.
Óc người không phải là một kết cấu vật chất thông thường mà là một kiểu vật
chất có tổ chức cao, tổ chức đặc biệt với hang chục tỷ tế bào thần kinh cùng chức
năng hoạt động tinh vi, phức tạp khác nhau.
Óc người, một tổ chức vật chất đặc biệt trước hết là sự tiến hóa sinh vật. Tổ
chức đặc biệt của óc người là sản phẩm của quá trình phát triển vật chất lâu dài do
sự phát triển của vật chất theo quy luật mà có. Ph. Ăng – ghen viết: “Người ta đã
xác định trên những nét chủ yếu các chuỗi tiến hóa của cơ thể từ những hình thức
giản đơn đến những hình thức muôn màu muôn vẻ và phức tạp như chúng ta trông
GVHD: Ths. GVC Nguyễn Thanh Sơn
SVTH: Trần Trọng Tuân 6108761
16
Luận Văn Tốt Nghiệp
thấy ngày nay, để tiến lên con nguời…Nếu không có cái tền sử này thì tồn tại của tư
duy của con người vẫn là sự kỳ lạ”[8, tr.298]. Sau nữa, óc người được hoàn thiện
với tính cách là cơ quan chức năng của ý thức còn do điều kiện, quy luật xã hội chi
phối – đó là điều kiện “đủ”. Những kết luận trên đã được nhiều môn khoa học
nghiên cứu và khẳng định.
Quy luật xã hội, điều kiện xã hội trước tiên phải nói đến là lao động. Lao
động là quá trình con nguời tác động vào giới tự nhiên để làm ra nhiều sản phẩm để
duy trì sự tồn tại và phát triển của con người. Nhờ hoạt động lao động mà óc người
đã dần dần được hoàn thiện về chất. Các giác quan và bộ óc của con người hiện đại
đã khác xa các giác quan và bộ óc của các loài sinh vật, kể cả vượn người. Đó chính
là nguyên nhân và cũng là điều kiện trực tiếp gây nên sự biến đổi dần dần từ hành
động phản xạ thành hành động có ý thức. Cũng chính trong quá trình lao động đã
làm cho cá thể sinh vật có quan hệ liên kết với nhau thành những quan hệ xã hội.
Trong quan hệ diễn ra hàng trăm triệu năm ấy, bầy đàn thấy “cần thiết phải nói với
nhau một cái gì đấy” và ngôn ngữ - phương tiện chủ yếu và quan trọng nhất cho sự
xuất hiện của ý thức đã ra đời – như Ph. Ăng – ghen đã phân tích. Thành tựu của
nhiều bộ môn khoa học đã chứng minh, nhờ ngôn ngữ mà phản ánh của con người
không còn lệ thuộc vào hoạt động cảm tính và trực tiếp nữa mà đã đi sâu vào được
bản chất của sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan thông qua sự phản ánh trực
tiếp và cả gián tiếp.
Tóm lại, óc con người là cơ quan thực hiện quá trình phản ánh của ý thức. Đó
là sự thu nhận những tín hiệu vật chất từ thế giới khách quan vào trong óc người.
Thế giới khách quan và óc con người chỉ là điều kiện “cần” chứ chưa đủ để ý thức
ra đời và phát triển mà chính lao động và đồng thời với lao động và ngôn ngữ, điều
kiện xã hội cực kỳ quan trọng này đã thúc đẩy quá trình chuyển biến sự phản ánh
tâm lý ở động vật thành phản ánh ý thức của con người. Hay nói như Ph. Ăng –
ghen, lao động và ngôn ngữ là hai yếu tố để biến óc vượn thành óc người, tâm lý của
GVHD: Ths. GVC Nguyễn Thanh Sơn
SVTH: Trần Trọng Tuân 6108761
17
Luận Văn Tốt Nghiệp
động vật thành ý thức của con người. Thuộc tính phản ánh sáng tạo cũng dựa trên
những điều kiện xã hội đó.
Phản ánh thế giới hiện thực vào đầu óc con người là thuộc tính cơ bản của ý
thức, nó quy định sự ra đời và tồn tại của các hình thức khác, kể cả thuộc tính tái tạo
hiện thực và thuộc tính sáng tạo. Đó chính là thuộc tính phản ánh của óc người –
trình độ phản ánh cao nhất của vật chất.
Ý thức được hiểu là tất cả những hoạt động tinh thần của con người được
phản ánh thế giới khách quan chủ động sáng tạo vào đầu óc con người. Nếu óc
người bị tổn thương mất khả năng phản ánh hiện thực khách quan thì sẽ không tránh
khỏi mất cả nội dung của ý thức.
Trên thực tế, sự hiểu biết của chủ thể về những gì xảy ra xung quanh chính là
nhờ vào sự phản ánh chủ động tiếp thu, xử lý, tái tạo thông tin tương ứng với những
“hình ảnh” được phản ánh trong hiện thực bởi sự vận động biện chứng bên trong óc
người và những hoạt động thực tiễn xã hội bên ngoài của con người mà có.
Những người không tán thành lý thuyết phản ánh của Mác – xít cho rằng
phản ánh chỉ có ở động vật cấp thấp và vật chất vô sinh (như là một sự sao chép máy
móc, thụ động). Bản chất hoạt động của con người trong mối quan hệ với hiện thực
(kể cả hoạt động của ý thức) không phải là phản ánh mà là sáng tạo. Quan điểm bày
đã không thể hiện được tính biện chứng của vấn đề giữa phản ánh và sáng tạo.
G. Pe – trô – vích cho rằng: “Mọi sự giải thích, nhận thức thế giới là xây
dựng sáng tạo chứ không phải là phản ánh, phản ánh không đi đôi với sáng tạo.
Trong phản ánh không có gì là sáng tạo”.[24, tr.257]
Hoạt động của con người là hoạt động sáng tạo. Nhưng quan điểm trên không
hiểu rằng: không có phản ánh với tư cách là thuộc tính của mọi đối tượng vật chất,
từ vật chất vô cơ đến óc người là vật chất có tổ chức cao thì ý thức không thể ra đời
phát triển. Như vậy, đương nhiên cũng không có sự sáng tạo nào. Tách rời phản ánh
GVHD: Ths. GVC Nguyễn Thanh Sơn
SVTH: Trần Trọng Tuân 6108761
18
Luận Văn Tốt Nghiệp
với sáng tạo chỉ có thế giới vô sinh nhưng lại không xảy ra đối với sinh vật và lại
càng không thể có đối với con người.
Khi C. Mác cho rằng ý thức của con người là do thế giới khách quan được di
chuyển và biến hình vào đầu óc con người mà có, cũng như V. I. Lênin khẳng định:
ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Như vậy, các ông đã chỉ ra
nguồn gốc khách quan của ý thức, nhưng đồng thời các ông cũng khẳng định ý thức
của con người không phải là sự phản ánh sao chép đơn giản, máy móc mà nó được
“cải biến” đi trong đầu óc con người do hoạt động thực tiễn và lao động sáng tạo mà
có. Thực tiễn lao động tác động vào thế giới khách quan, bắt thé giới khách quan
phải bộc lộ những thuộc tính vốn có của nó để con người nhận thức, tiếp thu, phản
ánh vào trong đầu óc mình. Hành động ấy cứ lặp đi lặp lại nhiều lần trong lịch sử từ
thế hệ này sang thế hệ khác trở thành “công lý logic” cho sự phát triển của ý thức
con người.
Khác với động vật, con người phản ánh thế giới bên ngoài một cách có ý
thức. Sở dĩ có sự khác biệt đó chính là nhờ con người có hoạt động lao động mà con
vật không có. Phản ánh ý thức mang bản chất xã hội là do quy luật xã hôi quy định –
mà lao động, đồng thời với lao động là ngôn ngữ - đó là hai sức kích thích chính để
tâm lý động vật trở thành ý thức – mà lao động ngôn ngữ là do kết quả hoạt động
thực tiễn tạo nên. Sự phản ánh của ý thức là phản ánh có mục đích cuối cùng là phát
triển xã hội ngày càng văn minh hơn trong đó có bản thân con người.
Về mục đích và tính sáng tạo của hoạt động thực tiễn xã hội của con người,
C. Mác viết: “Con nhện làm động tác giống như động tác của người thợ dệt và bằng
việc xây dựng những ngăn tổ sáp của mình, con ong con làm cho một nhà kiến trúc
phải hổ thẹn Những điều ngay từ đầu phân biệt nhà kiến trúc tồi nhất với con ong
giỏi nhất là trước khi xây dựng những ngăn tổ ong bằng sáp thì nhà kiến trúc xây
dựng nó trong đầu. Cuối quá trình lao động, người lao động đạt cái kết quả mà họ
đã hình dung được ngay từ đầu quá trình ấy, tức là đã có trong ý niệm rồi”[5,
GVHD: Ths. GVC Nguyễn Thanh Sơn
SVTH: Trần Trọng Tuân 6108761
19
Luận Văn Tốt Nghiệp
tr.334, 335]. Sở dĩ có được những cái khác nhau đó lại chính là do hoạt động thực
tiễn mà có.
Không phải ngẫu nhiên mà C. Mác so sánh con nhện với người thợ dệt, con
ong với hoạt động của nhà kiến trúc sư. Bởi lẽ chính yếu tố xã hội của phản ánh đã
giúp cho người kiến trúc sư có tất cả những hình ảnh trong đầu mình trước khi tiến
hành nó trong thực tiễn. Con vật không thể có được khả năng ấy như con người vì
nó không có hoạt động lao động.
Phản ánh sáng tạo của ý thức con người được thể hiện trong quá trình hoạt
động thực tiễn cỉa tạo hiện thực một cách có mục đích vì sự tồn tại và phát triển của
con người. Hoạt động thực tiễn đầu tiên và chủ yếu nhất chính là hoạt động lao động
sản xuất ra của cải vật chất.
Nếu chỉ chiêm ngưỡng hiện thực thì con người giỏi lắm cũng chỉ nhận thức
được cái bề ngoài của thế giới khách quan, mà cai bản chất thì “tự nhiên luôn luôn
tự dấu mình”. Thực tiễn lao động tác động vào giới tự nhiên bộ lộ những thuộc tính
vốn có của nó. Chỉ trong trường hợp này, những bí mật của thế giới khách quan mới
dần dần được khám phá. Có thể nói, trong quá trình lao động, con người vừa tác
động vào thế giới vật chất, đồng thời vừa khám phá, nghiên cứu nó trong quá trình
thực hiện các hoạt động đó, con người đã đồng thời hoàn thiện chính mình. Những
thông tin tri thức và lĩnh vực tinh thần khác được ý thức con người tiếp thu, bảo
quản và phát triển.
Khi nói đến phản ánh ý thức thì cần phải thấy được hai mặt: một mặt là thu
nhận những thông tin từ sự tác động của môi trường. Mặt khác, ý thức tái tạo lại
hiện thực trong đầu óc mình. Phản ánh ý thức bao hàm hai nội dung đó chứ không
chỉ là thu nhận hay chủ yếu là thu nhận coi như kết thúc một giai đoạn nhận thức.
Do vậy, không thể cắt nghĩa ý thức như là sự chép lại hiện thực một cách giản đơn.
Khi V. I. Lênin nói đến sự “sao lại, chép lại, phản ánh” của ý thức là ông dụng ý
nhận mạnh đến nguồn gốc bản chất của ý thức để chống lại chủ nghĩa duy tâm của
GVHD: Ths. GVC Nguyễn Thanh Sơn
SVTH: Trần Trọng Tuân 6108761
20
- Xem thêm -