TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA SƯ PHẠM
ĐẶNG VĂN HÙNG
SỰ GIAO THOA
GIỮA CẢM THỨC AWARE VÀ ZEN
TRONG TIỂU THUYẾT YASUNARI KAWABATA
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
NGÀNH SƯ PHẠM NGỮ VĂN
Cần Thơ, 2014
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Chúng ta hãy cùng nhau chiêm nghiệm lại nỗi lòng của Thạch Lam trong lời
tựa của tập truyện ngắn Gió lạnh đầu mùa: “Đối với tôi, văn chương không phải là
cách đem đến cho người đọc sự thoát li trong sự quên, trái lại văn chương là một thứ
khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có để vừa tố cáo và thay đổi một thế giới
giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”. Có thể
nói, đó là tâm tình của một tập truyện, của một kiếp kết duyên với văn chương và cũng
là mộng của biết bao văn nhân. Từ những khúc hát của người nghệ sĩ mù Homeros,
tiếng đàn trên bến Tầm Dương đến những cung đàn của nàng Kiều, bao khúc ca đã đi
vào vĩnh cửu. Ta nhận ra rằng, khi bước vào nghiệp văn chương, mỗi người sẽ có một
khúc hát riêng để tôn vinh giá trị của cái đẹp. Cái cốt yếu mà họ hướng đến là sự thanh
lọc tâm hồn và “làm cho người gần với người hơn”. Nỗi niềm của ngày xưa nay vọng
về cùng người nghệ sĩ lớn của thế kỉ XX, đó là Yasunari Kawabata.
Kawabata luôn tìm kiếm và đến với cái đẹp bằng tất cả niềm thiết tha, say mê
và rạo rực. Chỉ thiết tha và say mê không vẫn chưa đủ, mà trên hết là cả ý thức về tinh
thần dân tộc và nhân loại. Thế kỉ XX là thời đại của tiến bộ khoa học kĩ thuật chưa
từng có và của các cuộc chiến tranh đẫm máu. Cái ác vẫn diễn ra theo tiếng gọi của
lòng tham con người. Tác giả tìm đến ánh sáng diệu kì của Thiền để soi chiếu vào con
người, để gìn giữ và cứu vớt cái đẹp. Với Kawabata, cái đẹp cũng có một số phận, có
một linh hồn riêng. Và linh hồn ấy thật mong manh, dễ vỡ. Nhà văn đang lắng nghe
những tiếng rạn nứt trong lòng dân tộc mình. Lúc đó, không biết thế giới có nghe được
tiếng rạn nứt đang ngấm ngầm? Điều cao quý trong tư cách của ông đó là, ông đã dùng
cái đẹp để xóa nhòa mọi khoảng cách và chữa lành những rạn ứt ấy. Cho nên, ai mà
không rung động, không muốn tìm đến nhà văn nhân hậu này.
Trên đài vinh quang của giải Nobel, nhà văn ấy đã tâm sự rằng: “Mỗi khi ta
chiêm ngưỡng vẻ đẹp của tuyết hay vẻ đẹp của trăng, khi ta mê đắm vẻ đẹp của bốn
mùa, khi nhận thức được khơi dậy và ta cảm thấy hạnh phúc được tiếp xúc với cái đẹp,
lúc đó ta đặc biệt nhớ đến bạn bè, khao khát được chia sẻ niềm vui với bạn. Tóm lại,
sự chiêm ngưỡng cái đẹp đánh thức trong ta cảm xúc mãnh liệt về sự cảm thông và
tình yêu, và lúc đó hai tiếng “con người” vang lên như bạn bè” [24; 963-964]. Chân
thành như thế, tha thiết như thế nhưng để hiểu hết con người ấy thật khó. Tuy giản dị
và sáng trong như một sắc hoa anh đào hay một ánh trăng nhưng cũng đủ làm ta giật
mình về bao câu chuyện của thế nhân.
1
Với đề tài “Sự giao thoa giữa cảm thức Aware và Zen trong tiểu thuyết
Yasunari Kawabata”, người viết muốn hòa trong dòng chảy của thời gian và ngược về
quá khứ để đi tìm vẻ đẹp của linh hồn Nhật Bản trong chiều sâu thẳm của Thiền và
Aware.
Hoa rồi cũng sẽ tàn, đọc tác phẩm của ông ta như lạc vào vườn hoa để lần theo
dấu chân của nàng gheisa đi nhặt những cánh hoa rơi. Nhặt hoa rơi để tưởng nhớ về xa
xưa và nghĩ về hiện tại. Rồi ta mãi say xưa, mãi đắm đuối để rồi luyến tiếc một thứ gì
sắp tan vỡ. Cùng với Basho, Kawabata trở thành người lữ khách ưu sầu đi tìm cái đẹp.
Đó không phải là sứ mệnh, mà đó là một con đường. Thiền là con đường không có
giới hạn. Ta hãy cùng mở lòng đi trên con đường đó, cùng tìm về dấu chân của người
xưa.
2. Lịch sử vấn đề
Mishima Yukio gọi Kawabata là Eien-no-Tabibito: Vĩnh Viễn Lữ Nhân.
Nghĩa là, “Người lữ khách muôn đời” đi tìm cái đẹp. Nỗi buồn song hành cùng người
lữ nhân như một duyên kiếp, như định mệnh. Nét Aware cũng từ đó ẩn hiện trong
Thiền, để dạo nên bao cung đàn về số phận của cái đẹp. Mỗi nhà nghiên cứu, khi tìm
đến Kawabata như tìm kiếm một điều gì rất cần cho hôm qua, hôm nay và mai sau.
Anders Sterling trong Giới thiệu giải Nobel văn chương năm 1968 đã nhận
ra, từ Vũ nữ Izu, nỗi buồn và sự thuần khiết đã dạo nên những nốt lặng đầu tiên cho
“một điệp khúc buồn” cho những bản dân ca về sau. Nhật Chiêu có một bài viết giàu
chất thơ: Yasunari Kawabata – người cứu rỗi cái đẹp. Chất thơ khởi phát từ tâm hồn
của một con người yêu cái đẹp. Có lẽ, giữa hồn thơ trong văn xuôi của Kawabata đang
hội ngộ cùng trang viết đậm chất nghệ sĩ và có chiều sâu trong linh hồn của cái đẹp
của Nhật Chiêu. Trong dòng chảy xuyên suốt của dân tộc, Kawabata đã làm nên một
cuộc tương hợp lạ kì giữa thơ Haiku và tiểu thuyết, giữa thơ và văn xuôi, giữa tự sự và
trữ tình. Nhật Chiêu nhận ra, cội nguồn sâu xa để tạo nên dòng chảy tươi mát này
chính là Thiền: “Đối với Kawabata, người thuộc văn hóa Thiền Tông, thì nghệ thuật
vô ngôn và dư tình thuộc về truyền thống. Ông vận dụng một cách tuyệt vời vào tiểu
thuyết hiện đại” [24; 1074]. Cái đẹp đang bị đọa đày nên con người cần phải cứu rỗi
cái đẹp. Đó là tiếng lòng của Kawabata, của Nhật Chiêu, và của những ai đang tìm
kiếm và nâng niu cái đẹp.
Không chỉ riêng gì Nhật Chiêu, một con người phương Đông đã quá say mê
một người nghệ sĩ phương Đông. Cái say mê của những người cùng nét văn hóa Á
Đông. Nhân cách của Kawabata còn làm rung động cả người phương Tây, văn hóa
phương Tây. Người ta đã tìm thấy nhụy làm nên hương trong văn phẩm của Kawabata
chính là Thiền.
2
Kawabata – con mắt nhìn thấu cái đẹp của N.T. Phedorenko là bài viết mang
phong vị Aware, là niềm luyến tiếc về những khoảnh khắc của cuộc đời. Kawabata đã
kiên trì đi tìm khoảnh khắc, rồi ngày hôm nay, chúng ta lại thấy rưng rưng khi nghĩ về
những khoảnh khắc ấy. Phedorenko và Kawabata gặp nhau để rồi không bao giờ gặp
nhau nữa. Cái còn lại trong kí ức của người bạn phương Tây kia là vẻ đẹp bình dị, tao
nhã và u huyền của thiên nhiên và con người Nhật Bản. Những vẻ đẹp của tâm hồn
Nhật Bản thoáng qua tựa một làn hương trong cách thể hiện như những bức tranh
cuộn. Từng trang viết, từng đề mục như những bức tranh mang tinh thần hội họa
phương Đông dưới nhãn quan phương Tây. Và nét vẽ kết lại của Phedorenko là: “Kinh
nghiệm nghệ thuật của Kawabata chịu ảnh hưởng rõ rệt của mĩ học Thiền luận, dựa
vào sự suy nghiệm bên trong. Thiền nghĩa là bộc lộ tất cả sức mạnh tinh thần của
mình đến độ trở thành “vô ngã”, hòa nhập vào cái tổng thể của thiên nhiên” [24;
1052]. Như vậy, nhà nghiên cứu phương Tây đã hòa nhập hồn mình vào cái màu
nhiệm của Thiền bằng tất cả lòng thành kính cái đẹp.
Qua bài viết Yasunari Kawabata giữa dòng chảy Đông – Tây, ta thấy, bằng
ngòi bút hướng về thi pháp, Đào Thị Thu Hằng đã lột tả được đặc trưng nghệ thuật của
Kawabata qua hệ thống nhân vật, chi tiết liên truyện, độc thoại nội tâm, dòng ý thức,
sử dụng hình ảnh mang tính biểu tượng. Đặc biệt, tác giả vẫn không quên nhận ra:
“Cái “chân không, trống vắng” của thơ Haiku cũng hiện hữu trong nhiều tiểu thuyết
của ông, nơi độc giả thường bắt gặp những quan cảnh bao la, tĩnh lặng của thiên
nhiên, khoảnh khắc trầm tư suy tưởng của con người…Cái “chất” đó là chất nền của
văn minh phương Đông, phát triển trên cơ sở lấy thiên nhiên làm gốc” [24; 1105]. Và,
cái “chân không, trống vắng” của thơ Haiku kia chính là sự hiện hữu của Thiền.
Một chuyên luận khác của Đào Thị Thu Hằng đi sâu tìm hiểu thi pháp của nhà
văn và sự giao hòa giữa Kawabata với mạch nguồn văn hóa dân tộc là Văn hóa Nhật
Bản và Yasunari Kawabata. Trong mạch nguồn văn hóa ấy, Thiền đã xuyên thấm vào
nghệ thuật của Kawabata để nuôi dưỡng linh hồn văn hóa xứ sở.
Đi sâu hơn vào long mạch của tâm hồn Nhật Bản, Thụy Khê có bài viết Từ
Murasaki đến Kawabata. Tác giả đã thực hiện một cuộc hành trình du ngoạn trên văn
đàn Nhật Bản và của cả hồn cốt phương Đông, nắm lấy những vì sao sáng để mang về
và tạo nên một cuộc hòa điệu của tâm linh phương Đông. Thông qua biểu tượng, Thụy
Khê chỉ rõ, làn hương của Murasaki đã âm thầm nuôi dưỡng cho linh hồn dân tộc qua
những bước thăng trầm của bao thời đại. Vì thế, thấp thoáng trên những trang văn thơ
mộng của Kawabata, ta thấy cái mềm mại, duyên dáng, thướt tha, yêu kiều đầy nữ tính
của nàng Murasaki. Vì đã mang bóng dáng của nàng nên tình thần bi cảm (Aware) đã
hòa tan vào trong thế giới của Kawabata.
3
Thế giới của Kawabata là thế giới của những cuộc hòa điệu. Hòa điệu trong
nội tại của nền văn học Nhật Bản và hòa điệu giữa Nhật Bản với thế giới. Ai cũng
nhận ra điều đó vì nó mang tầm vĩ mô, khái quát. Nhưng có một sự hòa điệu, một sự
kết hợp tinh tế nữa ở tầm vi mô, đó là: Aware và Thiền. Aware thuộc về thẩm mĩ Nhật
Bản (Aware, Sabi, Wabi, Yugen). Thiền thuộc về mạch nguồn trong bản chất tâm linh
Nhật Bản. Cả hai đều tôn tạo linh hồn của xứ sở hoa anh đào. Các nhà nghiên cứu đã
chỉ ra được những nét độc đáo của Aware và Thiền, nhưng với tư cách là những nhân
tố riêng biệt chứ chưa thấy sự hòa điệu diệu kì của hai yếu tố này để hình thành nên
nét riêng biệt trong phong cách của Kawabata. Chúng đã kiến tạo nên diện mạo riêng
của nền văn học Nhật Bản, một nền văn học tôn thờ cái đẹp. Chính vì thế, đây là điều
mà chúng ta cần phải khơi nguồn và làm sáng rõ.
Ta có thể thấy, đã có nhiều nghiên cứu về thi pháp và nhất là về cách sử dụng
biểu tượng của Kawabata, nhưng đi sâu vào sự giao thoa giữa Aware và Thiền hầu như
không có. Một số bài nghiên cứu đã đề cập đến Thiền hoặc Aware trong sáng tác của
Kawabata nhưng chưa đi sâu vào những giá trị tương hợp của chúng trong sáng tác của
Kawabata, dù vậy, đó vẫn là những kiến thức quý giá cho bài nghiên cứu này. Bởi vì
nó giúp người viết bước đầu đi vào thế giới của thẩm mĩ và cái khôn cùng của Thiền
trong dòng chảy của văn học Nhật Bản, đồng thời kích thích và tạo ra động lực cho
niềm say mê một nền văn học vừa gần gũi, vừa hấp dẫn và thần bí.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi muốn tìm ra những nét riêng biệt trong
phong cách của Kawabata khi ông kết hợp nhuần nhuyễn giữa thẩm mĩ Nhật Bản và
Thiền trong thể loại tiểu thuyết. Ngoài ra, việc làm sáng rõ sự kế thừa nền văn học dân
tộc và đổi mới trong tư duy tiểu thuyết của tác giả là điều tất yếu. Nghĩa là, chúng tôi
muốn làm nổi bật những vẻ đẹp của tâm hồn phương Đông nói chung, hồn cốt Nhật
Bản nói riêng và sự tiếp thu làn gió của ánh sáng phương Tây. Thông qua đó, chúng ta
sẽ nhận ra rằng, những giá trị trong tác phẩm của ông không chỉ nằm trong khu vực mà
nó đã vươn lên mang tầm nhân loại. Đối với Kawabata, một người đã đắm mình trong
những cơn gió thời đại và mang chúng hòa vào tâm thức Nhật thì việc thẩm thấu
những giá trị trong sáng tác của ông là không dễ dàng. Vì thế, trong quá trình nghiên
cứu, chúng tôi đã vận dụng ánh sáng của phương Tây trong mối tương quan với tâm
thức Nhật để làm sáng tỏ những giá trị ấy. Để ta hiểu vì sao các nhà nghiên cứu lại cho
rằng, Kawabata chính là người đã bắt nhịp cầu nối hai bờ Đông, Tây.
4. Đối tượng nghiên cứu
Chúng tôi tập trung nghiên cứu vào một số tiểu thuyết tiêu biểu của Kawabata
như: Xứ tuyết, Ngàn cánh hạc, Tiếng rền của núi, Cố đô và Người đẹp say ngủ. Toàn
4
bộ trích dẫn của những tác phẩm được rút ra từ quyền Tuyển tập Y. Kawabata của Nhà
xuất bản Hội nhà văn, năm 2001 và Yasunari Kawabata – tuyển tập tác phẩm của Nhà
xuất bản Lao động, Hà Hội, năm 2005. Nhằm tạo nên sự thuyết phục cho cơ sở lập
luận của mình, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng thêm những tài liệu trên
báo chí, sách, internet về lịch sử, văn hóa, văn học nghệ thuật có liên quan.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp xã hội học và phương pháp tiểu sử: chúng tôi tìm hiểu sáng tác
của Kawabata trong mối tương quan với cuộc đời, số phận của nhà văn, bối cảnh lịch
sử, văn hóa, xã hội nước Nhật những thập niên đầu thế kỉ XX và trong dòng chảy của
văn hóa, văn học Nhật Bản để lí giải nguyên nhân hình thành cũng như đặc trưng riêng
về mối tương giao giữa cảm thức Aware và Thiền của ông so với nền văn hóa, văn học
truyền thống.
Phương pháp hệ thống: chúng tôi đi sâu vào những thủ pháp nghệ thuật đặc
trưng của Kawabata, khảo sát, phân loại các dạng nhân vật từ trong giọng điệu, tính
cách, hay về kết cấu của tác phẩm,…đồng thời kết hợp với thống kê, phân tích, tổng
hợp để đáp ứng với những mục đích nghiên cứu cụ thể.
Với phương pháp so sánh văn học, chúng tôi tiến hành so sánh về mối quan hệ
giữa tinh thần thẩm mĩ Aware và Thiền trong sáng tác của Kawabata so với nền văn
học cổ điển Nhật Bản để chỉ ra những nét riêng độc đáo khi ông dùng hai yếu tố này
cùng soi chiếu lẫn nhau. Ngoài ra, chúng tôi đặt sáng tác của Kawabata trong văn học
thế giới và trong mối liên hệ so sánh với những học thuyết triết học hiện đại phương
Tây để làm nổi bật về góc nhìn thẩm mĩ đầy sáng tạo của nhà văn.
5
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG
1.1. Khái niệm chung về cảm thức thẩm mĩ Nhật Bản
Trước khi nói về cảm thức thẩm mĩ Nhật Bản, chúng tôi xin bàn về nội hàm
của hai từ cảm thức và tâm thức.
Người ta vẫn thường hay sử dụng từ cảm thức hay tâm thức trong đời sống
hay trong nghiên cứu văn hóa, văn học. Dường như, khi nói về những vấn đề mà trong
quá trình vận động và phát triển, nó vẫn tồn tại ở một góc nào đó trong suy nghĩ của
con người thì khi đó người ta sẽ dùng hai từ rất tinh gọn, cô đọng và giàu ý nghĩa này.
Chẳng hạng, cảm thức văn hóa hay tâm thức văn hóa trong sáng tác của Vũ Bằng,
Thạch Lam, Sơn Nam hay Bình Nguyên Lộc. Thế nhưng hai từ này vẫn có sự khác
biệt. Hai từ này, giống như mùi hương đã thoáng bay đi nhưng ta không bao giờ quên
được cái dự vị của nó. Tuy nhiên, mùi hương của chúng không hoàn toàn giống nhau.
Khi nói về tâm thức là xét ở cả hai góc độ là tình cảm và lí trí, nó chỉ một trạng thái
thức nhận rõ ràng về một giá trị, chân lí vĩnh hằng và bất biến. Tâm thức là những gì
đã lắng sâu, được đúc kết trong tiến trình lịch sử và mang một màu sắc đậm đặc để tri
nhận. Còn từ cảm thức, ta cũng thấy nó tồn tại cả hai yếu tố tình cảm và lí trí, nhưng từ
này màu sắc chỉ bàng bạc như ánh trăng mờ, ta chỉ biết đó là trăng nhưng khó lòng
nhìn rõ. Cảm thức là nghiêng về mức độ đậm đặc của cảm xúc mà mỗi người sẽ có
một cảm nhận riêng về đối tượng, theo thời gian nó có vẫn tồn tại nhưng sẽ có thể mờ
đi và lãng đãng như mây khói. Đôi khi có những cảm xúc không thể nói thành lời mà
ta chỉ có thể cảm nhận. Cảm thức thuộc về tình cảm, nhận thức của một cá nhân, để họ
tìm một thứ gì đã lùi xa và tái hiện lại trong tâm tư của mình. Còn tâm thức là nó thuộc
về diện rộng của cả một cộng đồng, tồn tại như một sự thật hiển nhiên, ta muốn phủ
nhận cũng không được. Ngược lại, cảm thức thì đôi khi không dễ để nhận ra và có thể
không đi tìm tùy vào thiên hướng tinh cảm cá nhân. Chính vì thế, chúng ta có thể gọi
tâm thức là một trạng thái tinh thần cao hơn cảm thức, nhưng chính cảm thức là tiền đề
để đi đến tâm thức.
Nền văn học Nhật Bản là nền văn học đặc trưng riêng bởi những cảm thức
thẩm mĩ. Trong quá trình phát triển của lịch sử và văn hóa, bằng sự nghiên cứu, tìm tòi
từ trong bản tính của con người và chìm sâu trong thiên nhiên, vũ trụ, các nghệ nhân
đã đúc kết nên những nguyên lí thẩm mĩ riêng và độc đáo. Bốn nguyên lí chủ đạo thể
hiện được bản chất và vẻ đẹp tâm hồn Nhật Bản, đó là: Sabi, Wabi, Aware và Yugen.
6
Như thế, cảm thức thẩm mĩ Nhật Bản là mối tổng hòa của những nguyên lí thẩm mĩ,
mà nó được tạo nên trong quá trình lịch sử, thể hiện được vẻ đẹp của thiên nhiên và
con người Nhật Bản. Cảm thức thẩm mĩ Nhật Bản được thể hiện qua văn hóa, nghệ
thuật và tôn giáo Nhật Bản. Những cảm thức này, không chỉ là nét riêng của cốt cách
tâm hồn Nhật mà còn thể hiện được vẻ đẹp hài hòa, sâu lắng và bí ẩn của phương
Đông.
Sabi đưa ta vào cõi tịch lặng, cổ kính, rêu phong, cô tịch và trầm mặc đến
khôn cùng theo dấu ấn của thời gian. Hình ảnh một chú quạ đơn độc đợi bình minh
trong thơ haiku có gì như cô đơn, như đường bệ đến huy hoàng của niềm tịch tĩnh theo
không gian và thời gian.
Wabi mang vẻ đẹp bình dị, đời thường. Wabi là “sự vắng mặt một cái gì đấy
cầu kì, sặc sỡ, cố ý, mà theo quan niệm của người Nhật là sự tầm thường”. Điều này
gắn liền với văn hóa Samurai hay sự thể hiện ở những chén trà, tuy giản đơn nhưng vô
cùng an nhiên, thanh nhàn.
Một vẻ đẹp vừa quyến rũ, thanh tao vừa u buồn, dịu dàng và sâu lắng về sự vật
đó là cảm thức Aware. Aware gọi đầy đủ hơn là mono no aware, nghĩa là nỗi buồn sự
vật, “gợi lên vẻ đẹp tao nhã, nỗi buồn dịu dàng pha lẫn cảm thức vô thường của Phật
giáo”. Đây là cảm thức thẩm mĩ đã hằn sâu trong huyết mạch của người Nhật, hương
thơm của nó nồng nàn từ thời đại Heian, xuyên qua bao thế kỉ mà vẫn lắng sâu trong
tâm hồn Nhật Bản.
Yugen là vẻ đẹp u huyền, gợi lên cái hư không của vũ trụ và nhìn ra được cái
“Diệu” của sự vật. Aware nghiêng về cảm xúc, còn Yugen đi vào chiều sâu của tâm
linh. Khơi gợi lên cái khôn cùng của vạn vật và nhìn thấy cả cái vô hình. Đó là những
khoảng trống trên những bức tranh thủy mặc của Catzan, trong vườn đá tảng và trong
sân khấu Nô.
Đó là bốn nguyên lí chủ đạo chi phối các loại hình nghệ thuật trong văn hóa
Nhật Bản. Ngoài ra, còn có những yếu tố thẩm mĩ khác như: Iki (khí), Jojo (dư tình),
Furyu (phong lưu), Shibui (khiêm nhường),,…mỗi thẩm mĩ là một bông hoa góp nên
hương thơm quyến rũ và tô thắm vẻ đẹp của cuộc đời. Theo thời gian, những yếu tố
thẩm mĩ ấy trở thành cảm thức thẩm mĩ trên xứ sở mặt trời mọc này. Trong tiến trình
của văn học Nhật Bản sau này, chúng ta vẫn tìm thấy vẻ đẹp của những cảm thức ấy
trong văn học đương đại, điển hình là các sáng tác của Haruki Murakami.
1.2. Vài cảm nhận về Thiền và tâm thức Thiền Nhật Bản
Khi xét về nguồn cội, Zen (Thiền) là hành trang trở về của Eisai (1141 – 1215)
và Dogen (1200 – 1253) khi họ du học ở Trung Quốc trở về. Công lao lớn nhất là của
Dogen. Bằng tư tưởng Thiền Tào động (Sotozen), ông đã tạo nên một sinh khí mới cho
7
Phật giáo Nhật Bản. Ông mang tới một chủ trương mới, đề cao việc tọa thiền, mong
muốn tìm lại tâm mình, tìm lại Phật tính cho chính mình. Nhật Chiêu đã có nhận xét
rất chân tình: “Một thế giới loạn lạc như thời Kamakura và Muromachi lại có thể tự
biểu hiện qua những cái đẹp tinh tế đầy hượng vị Thiền như thế thực là một điều đáng
ngượng mộ” [1; 145]. Vượt qua những bước thăng trầm, có lúc nó bị phản bác nhưng
rồi nó đã khẳng định sức mạnh nội tại trong tinh thần và lan tỏa vào đời sống văn hóa
Nhật Bản. “Vậy là Thiền, phát triển ở Trung Hoa thế kỉ thứ VI và ở Nhật từ thế kỉ XIII,
mà phương pháp đạt ngộ dựa vào trực cảm, đã tìm thấy đất lành, hòa nhập vào mọi
sinh hoạt văn hóa. Vườn đá kiểu Kare – sansui (khô sơn thủy), tranh thủy mặc
(Sesshu), trà đạo (Rikyu), sân khấu Nô (Zeami). Trong khi đó, Thiền ở Trung Quốc
không vượt qua được Khổng giáo và Lão giáo về ảnh hưởng đối với văn hóa nghệ
thuật” [1; 145]. Thiền đã gặp được mảnh đất lành và phát huy tính ưu việt của nó khi
dung hòa với tâm hồn Nhật Bản. Tính cách của người Nhật Bản bị ảnh hưởng rất nhiều
từ văn hóa của Thiền. Mọi cử chỉ hành động, lời nói, cách nghĩ, cách sống đã hình
thành nên một hệ giá trị văn hóa riêng biệt. Thiền phát triển ở Trung Hoa từ rất sớm, ở
Nhật tuy phát triển muộn hơn nhưng khi Zen đã bắt trúng ngay vào huyết mạch của
bản chất tâm hồn Nhật Bản thì tỏa sáng đến lạ lùng. Charles – Eliote, khi nói đến Phật
giáo Nhật Bản đã khẳng định rằng: “Tính cách của Nhật Bản chính là Thiền, đó thật
là một điều khẳng định chính xác, không có gì phải bàn cãi cả” [4; 82]. Điều này
giống như một cơ duyên thần bí, thời cơ chín muồi thì đá cũng nở ra hoa.
Đến đây, chúng ta đã hiểu vì sao phải dùng từ tâm thức để chỉ mối tương quan
giữa Thiền và tâm hồn Nhật Bản. Nội hàm về khái niệm và ý nghĩa của Thiền nằm
trong khoảnh khắc của một cánh hoa anh đào rơi, trong âm thanh ngân vang của tiếng
chuông chùa và trong cú nhảy của một con ếch. Thiền là nghệ thuật, nghệ thuật nắm
bắt cái “Diệu” của cuộc sống. Trong các giai thoại về Thiền, bằng những câu chuyện
“trong lòng bàn tay” mà gợi lên cái thâm sâu của Thiền đòi hỏi ta phải có sự trải
nghiệm, dấn thân mới hiểu hết chân giá trị của nó. Nên Thiền thường không có khái
niệm rõ ràng để gọi là cơ sở khoa học. Thuyết giáo là dùng lí trí, logic và văn tự ngôn
ngữ làm cơ sở cho sự đối thoại giữa hai hay nhiều đối tượng với nhau, mà phương
pháp Thiền thì ngược lại. Một cánh hoa của đức Phật nâng lên đã giúp cho Ca Diếp
tìm thấy ánh sáng của Phật pháp, hay nói đúng hơn đó chính là tuệ giác tự thân của Ca
Diếp. Chúng ta chỉ có thể lãnh ngộ được Thiền Nhật Bản không phải bằng một pho
sách về Thiền mà bằng con đường duy nhất thôi, đó là trải nghiệm. Cũng giống như
giai thoại này, ta phải dùng kokoro (tâm) của mình để thấu cảm về tâm thức Nhật, để
cùng nhau suy ngẫm và trả lời câu hỏi Cỏ cây sẽ giác ngộ như thế nào:
“Vào thời Kamakura (1183-1331), Shinkan học ở trường Tendai sáu năm, học
thiền bảy năm; xong Shinkan sang Trung Hoa chiêm ngưỡng thiền mười ba năm.
8
Khi trở về Nhật, nhiều người muốn viếng Shinkan và hỏi nhiều câu hỏi khó.
Nhưng lúc tiếp khách, thường Shinkan hiếm khi trả lời những câu hỏi của khách.
Một hôm thiền sinh năm mươi tuổi đạo đến nói với Shinkan:
“Tôi đã học ở Tendai về tư tưởng khi tôi còn bé, nhưng có một điều tôi không
thể hiểu được. Tendai dạy rằng cả đến cỏ cây cũng sẽ giác ngộ. Đối với tôi điều này
có vẻ kì lạ quá”.
Shinkan hỏi:
“Bàn luận về cỏ cây sẽ giác ngộ thế nào có ích chi đâu? Vấn đề là làm sao
chính ông có thể giác ngộ được; ông có xét thấy điều này không?”.
Người già lạ lùng:
“Tôi chưa bao giờ nghĩ đến điều này”.
Shinkan kết thúc:
“Rồi, hãy về nghĩ kĩ xem” [7; 238].
Trong Thánh kinh đã nói về âm thanh của một tiếng gõ: “Chỉ cần gõ cửa thì
cửa sẽ mở”. Nhưng nội hàm của từ gõ cửa này thật ảo diệu vô cùng, có phải gõ cửa thì
cửa sẽ mở? Đối với mỗi thiền nhân, để mở được cánh cửa kia, thì tiếng gõ ấy phải là
sự thông tuệ của một trạng thái bừng ngộ. Và chính Kawabata đã nhẹ nhàng mở ra
cánh cửa để ta bước vào thưởng ngoạn vẻ đẹp của tâm hồn Phù Tang. Vẻ khoan thai,
nhẹ nhàng và điềm tĩnh của người nghệ sĩ ấy như điệu Hoa luân vũ khúc (Điệu vũ của
loài hoa) mà ông đã từng viết. Những điệu vũ nhẹ như hoa nâng bước chân ta vào xứ
sở hoa anh đào.
Trong một bức kakemono, Ikkyu đã viết một bức thư pháp với dòng chữ:
“Phật giới nhập dị, ma giới nhập nan” (Vào cõi Phật dễ, vào cõi ma khó). Câu nói đó
đã ám ảnh Kawabata. Lời quả quyết này thật giống với câu nói trong Thánh kinh làm
sao. Với Kawabata, một con người sinh ra từ trong lòng của cái đẹp rồi mang trong
mình sứ mệnh đi tìm Chân – Thiện – Mĩ của cuộc đời thì tất yếu phải lĩnh hội được
ánh sáng của Phật pháp: Vào cõi ma khó.
Vào thế kỉ thứ VI, khi văn minh Trung Hoa và Phật giáo được truyền bá sang
đã đem lại những thay đổi lớn về văn hóa và tôn giáo ở những giai đoạn sau của lịch
sử Nhật Bản. Trong đó, Phật giáo có ảnh hưởng rất lớn đến cốt cách tinh thần của
người Nhật. Kawabata vô cùng ngưỡng mộ kinh Phật, có lẽ một phần vì nó dung hòa
với tính cách của người Nhật, một phần vì kinh Phật là nơi để con người ngã mái đầu
vào, hướng về cõi nhiệm màu của sự cứu rỗi. Ánh hào quang của nó thật vĩ đại, ông
cho rằng, “những kinh điển của phương Đông, đặc biệt là kinh Phật, là những tác
phẩm quan trong nhất của văn chương thế giới”.
9
Khi cánh cửa của cõi Phật được mở ra là muôn ngàn hương sắc được đến với
trần gian này để cứu độ thế giới. Ngàn cánh hạc có dịp hòa theo điệu hoa luân vũ khúc
tràn đầy tình yêu, trong ngần và thánh thiện. Hòa trong hơi ấm của cõi Phật, Kawabata
thốt lên: Nhật Bản, cái đẹp và tôi.
Nếu các môn nghệ thuật Nhật Bản là những hành tinh thì chúng đang tự quay
quanh trục của mình mà tâm điểm chính là ánh mặt trời. Và mặt trời kia chính là
Thiền, nó mang nguồn ánh sáng nồng ấm đến nhân loại để hướng thiện con người.
Chẳng phải, những lời diễn từ của Kawabata đã rót vào hồn ta một nguồn cảm xúc yêu
thương và chan hòa hay sao? Bao tình yêu và thù hận cùng hội tụ cùng không gian
trong trẻo không chút bụi mà Kawabata đã dẫn ta vào. Đó là thế giới của ánh trăng
mùa đông trong thơ của nhà hiền triết Myoe, của hoa mùa xuân, cu gù, tuyết đông
trong thơ của Dogen, của nghệ thuật trà đạo, của nghệ thuật cắm hoa, của vườn đá
tảng, thư pháp đang hội tụ cùng tình yêu chân thành. Kawabata hay chép tặng mọi
người bài thơ Vầng trăng mùa đông đi cùng ta, vì ông cảm nhận được ở chúng “chan
chứa lòng nhân hậu, tình cảm ấm áp, đằm thắm đối với thiên nhiên và con người” và
quan trọng hơn hết là nó “thể hiện sự dịu dàng sâu lắng của tâm hồn Nhật Bản”. Và
đây là cảm xúc hiền hòa của bài thơ:
“Ôi vầng trăng mùa đông, khi ẩn trong mây, khi ló dạng, em soi sáng bước
chân ta khi ta vào điện thiền hoặc trở ra từ đó. Với em, ta không sợ cả chó sói đang
rào rú ngoài thung. Tuyết trắng có làm em lạnh? Gió hàn có thổi em run?”.
Sự e thẹn, đằm thắm, tinh tế và kín đáo khi vầng trăng ẩn trong mây kia có gì
đáng yêu. Phải có một tâm hồn nhạy cảm lắm, Myoe mới phát hiện ra vẻ đẹp yêu kiều
và duyên dáng của vầng trăng trong sự vô thường. Khoảnh khắc ấy thật hiếm hoi giữa
cuộc sống Nhật Bản lúc bấy giờ.
Nữ sĩ Kaga no Chiyo (1703 – 1775) có một bài Haiku về hoa Khiên Ngưu,
khoảnh khắc này cũng mang một vẻ đẹp mong manh, tế vi như vầng trăng kia:
Tỉnh biên liễu quán quải
Khiên Ngưu mạn nhi ba mãn liễu
Đề thủy đáo lân gia.
Dịch:
Chiếc gàu treo trên cành liễu bên giếng,
Hoa Khiên Ngưu bám đầy
Phải sang hàng xóm xin nước.
10
Hoa Khiên Ngưu hay còn gọi là hoa Triêu nhan – Asagazu, có nghĩa là: nhan
sắc buổi sớm. Trăng rồi cũng ra đi, hoa rồi cũng sẽ tàn, chỉ có cái đẹp lưu giữ trong đôi
mắt và trái tim con người là sẽ còn mãi. Trước khi mất, nhà sư Ryoukan (1758 –
1831), có để lại những câu thơ này:
Cái gì sẽ còn
Sau khi ta mất?
Hoa thắm mùa xuân,
Cu gù trong núi,
Lá rụng mùa thu.
Như thế, những câu thơ sẽ xanh tươi cùng hoa thắm và vang mãi cùng tiếng
chim.
Bây giờ, chúng ta hãy tự hỏi: Thiền là gì?
Ta chỉ biết rằng, nó tồn tại ở một góc nào đó trong ta, trong tình yêu, trong
tiếng hát, trong vầng trăng, trong hoa, và trong cả tiếng khóc khi ta nhận ra rằng, cái
đẹp sẽ cứu rỗi cuộc đời.
1.3. Mối quan hệ giữa tinh thần thẩm mĩ và tinh thần Thiền tông Nhật Bản
Thật ra, mọi sự biểu hiện của những tinh thần thẩm mĩ Nhật Bản đều mang
bóng dáng của Thiền. Thiền đã giúp cho từng nguyên lí thẩm mĩ toát lên một mĩ cảm
riêng, vì thế, ta có thể khẳng định rằng, Thiền đã nhập hồn vào thẩm mĩ Nhật Bản, rồi
giữa các nguyên lí lại biểu dương cho Thiền. Từ bốn nguyên lí, chúng tôi tập trung đi
sâu chỉ ra mối quan hệ giữa Yugen, Aware với tinh thần Thiền tông Nhật Bản. Yugen
chính là cốt lõi của tư tưởng Thiền Nhật Bản, còn cốt tủy văn chương Nhật Bản là cảm
thức Aware.
1.3.1. Yugen – đi tìm cái “Diệu” của vạn vật
Buson (1716 – 1783) được mệnh danh là thi sĩ của mùa xuân, đã có lần tạo
nên nét chấm phá hồn nhiên:
Thanh thanh chung đồng thượng
Hồ điệp du nhiên miên.
Dịch:
Trên chuông đồng xanh xanh
Con bướm miên man ngủ.
Từ ý thơ này, ta lại nhớ đến một câu thơ trong Trại đầu xuân độ của Nguyễn
Trãi, đó là:
11
Cô chu trấn nhật các sa miên.
Dịch:
Thuyền côi gác bãi ngủ thâu ngày.
Hình ảnh con bướm và con thuyền với dáng điệu miên man ngủ kia gợi lên
trong tâm hồn ta những ý nghĩ gì? Như thế, có phải “Nghệ thuật gia chân chính cũng
giống như một bậc thầy về Thiền, nghĩa là họ đều lãnh ngộ được cái “Diệu” của sự
vật” ?
Trong văn học Nhật Bản, có lúc “Diệu” được gọi là “U huyền” (Yugen). Có
bình luận gia cho rằng, trong tất cả các tác phẩm nghệ thuật vĩ đại đều thể hiện sự “U
huyền”. Thật vậy, làm sao ta có thể quên được một Mùa thu vàng tịch lặng và thơ
mộng của Levitan, một Nàng Monalisa với nụ cười bí ẩn đã đi vào huyền thoại của
Leonard De Vinci, hay những bài thơ haiku, một tách trà, một bức thư họa,...Còn rất
nhiều môn nghệ thuật khác nữa, tất cả đều tìm đến cái “Diệu” của sự vật. Là nghệ
thuật gia chân chính, họ luôn tìm thấy linh hồn của vạn vật và cảm thấy sự rung động
mãnh liệt. Đó là cách để ta lí giải vì sao lại khó tách biệt được, giữa Aware và Yugen,
đâu là nguyên lí thẩm mĩ chủ đạo trong sáng tác của Yasunari Kawabata. Dễ nhận
thấy, hai nguyên lí thẩm mĩ này đã nhẹ nhàng thẩm thấu vào từng trang viết của ông
như một làn hương.
Vì sao Yugen chính là nguyên lí thẩm mĩ cốt lõi trong tư tưởng của Thiền
Nhật Bản? Để lí giải được điều này ta phải xét về nguồn cội của văn hóa Nhật.
Trong quyển Nghiên cứu tôn giáo Nhật Bản, Joshep. M.Kitagawa có viết:
“Chúng ta có thể nói rằng, một trong những đặc điểm của thế giới tôn giáo Nhật Bản
cổ là cấu trúc đơn nghĩa của nó. Cấu trúc đó khẳng định niềm tin rằng thế giới tự
nhiên là thế giới đầu tiên, và niềm tin đó quan niệm rằng toàn bộ vũ trụ đều thấm
đượm bản chất thiêng liêng hay thần thánh (Kami) [15; 207]. Nghĩa là từ hoa, cỏ,
dòng sông đều có linh hồn riêng, một sự sống riêng đang giao hòa với con người. Các
tác phẩm cổ từ Kojiki (năm 712) đến Nihongi (năm 720) đều phản ánh rõ tư tưởng sơ
khai đó. Trong Kojiki cảm thức hòa quyện giữa con người và vạn vật cũng manh nha
trong tâm hồn Nhật Bản. Đó là, một câu hát buồn rầu khi nhìn cây thông của
Yamatotakeni, người anh hùng lừng danh, lê đôi chân què quặt về gần xứ xở, chàng
cất tiếng hát:
Nhìn về Ohari
Trên núi Otsu
Cây thông đơn độc
Em trai của ta ơi
12
Ôi cây thông đơn độc
Nếu như em là người
Ta sẽ cho em kiếm đeo
Ta sẽ cho em áo mặc
Ôi cây thông đơn độc
Em trai của ta ơi.
Trong cô đơn, người ta đã tìm thấy mối thân tình với cây thông đơn độc. Do
đó, giữa vạn vật và chàng đã có một đời sống chung, một cảm thức sau này thấm sâu
vào mọi biểu hiện của văn hóa Nhật Bản.
Và trong tác phẩm Nihongi thì “cả loài cây và các loài cỏ, tất cả đều có thể
nói được”.
Trong lời giới thiệu tuyển tập thơ Vạn diệp tập (Manyoshu) – tuyển tập thơ cổ
nhất Nhật Bản từ thế kỉ IV đến thế kỉ VIII, sẽ cho ta hiểu về cội nguồn của Yugen:
“Nhận thức Nhật Bản về tự nhiên, có nguồn gốc tình cảm tôn giáo sâu xa, đã được
vun đắp qua sự liên hệ mật thiết giữa con người với thiên nhiên. Trong tập thơ Vạn
diệp (Manyo), thiên nhiên cổ xưa được miêu tả một cách sinh động bằng chính những
hiện tượng tự nhiên được cường điệu lên theo sự tôn sùng tôn giáo và được đồng nhất
với cảm xúc con người...Thậm chí trong các trường hợp, khi các đối tượng tự nhiên
được đối xử thuần túy như chất liệu thơ, thì dường như chúng vẫn còn giữ được cái
riêng tư và sự sống của chúng – mỗi thực thể tinh thần thấm đượm một không khí thần
bí. Chúng chưa bao giờ là những áng thơ sáo rỗng khô cứng thiếu sức sống, hay
những phép ẩn dụ khô khan” [15; 156]. Vì vậy, ta hãy cùng chiêm ngưỡng vẻ đẹp của
một ngọn núi trong Manyo:
Núi Futagami, suối Imizu uốn quanh
Ngẩng đầu nhìn lên ngọn núi
Xuân đến mùa hoa rực rỡ,
Thu về mùa lá đỏ rực
Hùng vĩ thay
Thiêng liêng thay,
Ngọn núi đứng đó đẹp biết nhường nào
Với những đỉnh núi ngút cao.
Ta cảm nhận được rằng, núi không còn là núi mà đó chính là các Kami.
13
Tư tưởng Shinto (Thần đạo) kết hợp với tư tưởng Phật giáo đã tạo nên một nền
văn hóa tôn sùng tự nhiên rất riêng biệt và độc đáo. Sau này, Thiền đã nâng tư tưởng
ấy lên đến đỉnh cao của nghệ thuật, bởi khả năng chiếu diệu từ bên trong là bản chất
của Thiền. Giờ đây, trong mỗi sự vật, không chỉ là thế giới, là sự sống, là linh hồn mà
đó còn là cái đẹp. Điều này gọi là thuyết Vạn vật hữu linh. Nhật Bản là một vũ trụ thần
bí từ tuyết, trăng, hoa đến con người, nên người ta vẫn muôn đời đi tìm cái “Diệu” của
thiên nhiên và của chính con người. Yugen chính là sự khải thị của Thiền.
Kawabata đã áp dụng thuyết Vạn vật hữu linh vào sáng tác của mình rất thành
công. Những âm thanh, ánh sáng, màu sắc, hương thơm, cử chỉ điệu bộ,..trong văn
phẩm của ông đều được gói gọn trong khoảnh khắc, chúng như được đi vào vĩnh cửu
và tạo nên một vũ trụ tương giao. Mà sự tương giao ấy rất khác với sự tương giao
trong thơ Pháp, sự khác biệt nằm trong cội rễ của hai nền văn hóa. Trong tiểu thuyết
Ngàn cánh hạc, vì sao hình ảnh chiếc khăn thêu ngàn cánh hạc, chiếc bình shino hay
cặp chén Raku cứ ám ảnh ta, và như có một phép nhiệm màu cuốn ta vào thế giới của
nó? Hay vì ta đang ngộ ra một điều gì trong linh hồn của vạn vật mà ta không thể lí
giải hết, nên cứ mãi kiếm tìm... Nghệ thuật của Kawabata đã dẫn ta đi từ cái Diệu này
đến cái Diệu khác. Dẫn ta vào thế giới thâm diệu của Thiền, thế giới trong lòng bàn
tay. Bàn tay của người đã ươm mầm cho cái đẹp.
Đó chính là màu sắc Yugen. Yugen là sản phẩm của sự ngộ. Suzuki đã lí giải
điều này rất thuyết phục: “ “Ngộ” mang một sắc thái đặc biệt của Phật giáo, tác dụng
của nó chính là phát hiện ra mối tương quan giữa tính thực tế của sự vật và tính thần
bí của cuộc sống, với chân lí của Phật giáo. Khi “Ngộ” trở thành một thứ nghệ thuật
biểu diễn, thì nó sẽ sản sinh ra tác phẩm mang đầy tính “U huyền”, hiển thị cái
“Diệu” theo thể điệu của thần tính và linh hồn cho chúng ta thấy, đồng thời cũng triển
thị sự coi thường về tính thần bí khôn lường của sự vật. Tất cả những thứ ấy đã khiến
Thiền giúp cho người Nhật Bản dung nạp, tiếp nhận và lãnh ngộ sự tồn tại của bản
năng sáng tạo về thần bí, trong tất cả các bộ môn nghệ thuật” [4; 183]. Như vậy,
Kawabata chính là một bậc thầy về Thiền. Vẻ đẹp u huyền của nghệ thuật thư họa, trà
đạo, kimono trong sáng tác của ông đã đi đến sự toàn bích.
Ở Ngàn cánh hạc, chiếc chén Raku như chứa đựng những mảnh hồn tan tác
của con người, của tình yêu, của văn hóa Nhật Bản. Vẻ u uẩn và huyền diệu đọng lại
trong chén trà như hội ngộ cùng chén ngọc lưu ly, mong đợi một giọt nước mắt để
được nát tan. Vẻ đẹp u huyền chìm sâu trong linh hồn vạn vật được Kawabata vẽ nên
từ chính kokoro của mình. Không biết Kawabata có phải là thiền gia hay không vì với
đức tính khiêm tốn của mình, ông chưa bao giờ nhận mình là một thiền gia cả, nhưng
ông chính là một nghệ thuật gia chân chính. Người Nhật là thế, họ không nói nhiều về
tư tưởng, tư tưởng của họ hiện diện trong hoa, cỏ mà thôi.
14
Như chúng tôi đã đề cập, Thiền chính là long mạch nuôi dưỡng cho tâm hồn
Nhật Bản. Thiền và Yugen soi chiếu lẫn nhau để dệt nên những sợi tơ muôn màu, phủ
lên đất nước mặt trời mọc một tấm thảm đầy u huyền. “Biểu hiện của Thiền chính là
phá trừ tất cả các hình thức nhân tạo, thật sự nắm bắt tinh túy ẩn chứa đằng sau nó!
Chính cái biểu hiện đó đã nuôi nấng cho người Nhật Bản nhớ về đại địa, gần gũi với
tự nhiên, không ngừng nếm trải sự hồn nhiên chất phác vốn có” [4; 23]. Trong thế giới
của kịch Nô, Yugen được thể hiện sâu sắc nhất, bởi các diễn viên rất kiệm lời nói và
kiệm hành động. Phần lớn các diễn viên đều thể hiện sự trầm mặc và tịch tĩnh với
chiếc mặt nạ. Đòi hỏi người xem cũng hòa vào cái không cùng của không gian kịch
Nô. Những vườn đá tảng, những bức thư họa của catzan đều mang đậm chất u huyền.
Tóm lại, hầu như từ văn hóa, nghệ thuật đến tôn giáo Nhật Bản đều mang bóng dáng
của Yugen. Nó như ánh mặt trời chiếu vào cái hư không của cuộc đời. Những tác
phẩm của Kawabata cũng lột tả được tinh thần Yugen đó, nhưng nếu ta đi sâu hơn sẽ
thấy rõ, cốt tủy thẩm mĩ làm nên sự bất tử trong sáng tác của ông đó là Aware. Yugen
sẽ giúp ta đi sâu vào cái đẹp trong vũ trụ để rồi ta thấy luyến tiếc về cái hư hư ảo ảo
của thế gian. Từ xa xưa, Aware đã thổi hồn vào truyện Genji để bây giờ người ta vẫn
không quên làn hương của nó, vì làn hương đó vẫn có sức ám ảnh và quyến rũ trong
hôm nay. Thế nên, Yugen là diện mạo chung trong tư tưởng, văn hóa Nhật Bản, còn
Aware chính là bàn tay êm mát cho sự nở rộ của nền văn học đậm chất bi cảm. Giống
như những bông tuyết, trong trắng, thanh tao và tinh khôi rồi cũng tan đi trong phút
chốc. Vẻ đẹp u buồn, dịu dàng đến nao lòng đó mới là diện mạo trong tác phẩm của
Kawabata và của nền văn học Nhật Bản.
Một đám mây hoa
Chuông đền Ueno vang vọng
Hay đền Asakusa
Trong bài thơ, nét u huyền đã tạo nên bản hòa ca giữa tiếng chuông, mây và
hoa anh đào. Tiếng chuông hòa vào trong hoa, hoa lẫn vào trong mây. Và thi sĩ Basho
đang hòa tan, phiêu du cùng khoảnh khắc diệu kì ấy.
1.3.2. Một nền văn học của sự bi cảm (Aware)
Nhật Chiêu đã khẳng định: “Vô thường quan thật ra là quan niệm cốt tủy của
văn chương Nhật Bản, có mặt trong hầu hết các trang sách của nó ngay từ khởi
nguyên. Văn chương cổ điển phương Tây thường tìm sự vĩnh cửu, hướng về linh hồn
bất tử để tạo ý nghĩa cho đời sống. Văn chương Nhật trái lại cố gắng tìm kiếm ý nghĩa
ngay giữa lòng vô thường. Nhưng ít tác giả Nhật nào diễn tả tinh thần ấy đầy đủ và
mãnh liệt như Kenko”. Kenko viết rằng: “Nếu con người không bao giờ tan biến như
những giọt sương trên cánh đồng Adashi; không bao giờ mất hút như làn khói trên
15
miệng núi Toribe, mà lại đeo đẳng vĩnh viễn trên thế gian này thì còn gì làm cho ta
xúc động nữa! Điều quý báu nhất trong đời sống chính là nỗi vô thường” [1; 178]. Đó
là những lời tâm sự trong Trầm tư trên cỏ. Không phải ngẫu nhiên mà Aware được gọi
là cốt tủy thẩm mĩ trong văn học Nhật Bản. Khi ta ngắm một vầng trăng đang độ đẹp
nhất thì ta lại nghĩ rồi ngày mai đây trăng có còn như thế không? Đến mùa hoa anh
đào khoe sắc thắm, ta vừa ngồi nhâm nhi tách trà vừa than thở, hoa rồi cũng sẽ buôn
mình theo làn gió. Không phải Nguyễn Du cũng từng tự hỏi đó sao: “Người đâu gặp
gỡ làm chi, trăm năm biết có duyên gì hay không”. Nguyễn Du nói đến chữ duyên,
còn ta nói đến chữ mệnh trong văn học Nhật Bản. Số mệnh của văn nhân trên xứ sở
hoa anh đào này là gắn với Aware. Càng yêu, càng thiết tha với hương sắc của thế
gian, họ lại càng đắm chìm trong niềm luyến tiếc.
Được xếp ở vị trí thứ hai sau Truyện Genji, Truyện Heike là một trong những
áng văn xuôi cổ điển lớn nhất thời đại Kamakura và của cả dân tộc. Tác phẩm mở đầu
bằng một tiếng chuông chùa: “Chuông đền Ghiôn rung lên trong trái tim mỗi người
luôn nhắc ta rằng cuộc đời tất cả chỉ là phù du. Những bông hoa héo tàn của những
cây bồ đề đặt bên chiếc giường Đức Phật nhập Niết Bàn đã làm nhân chứng cho một
chân lí: đời có thịnh ắt có suy. Quả vậy, niềm kiêu hãnh cũng có ngày tàn bởi vì nó chỉ
thoảng qua như giấc mộng đêm xuân. Người dũng cảm, kẻ kiêu hùng, rồi cũng về với
cát bụi” [16; 508]. Truyện có kết cấu như một bản giao hưởng. Mở đầu bằng một tiếng
chuông rồi khép lại cũng bằng một tiếng chuông. Tiếng chuông vang lên để kể về sự
hưng vong của một dòng họ, về sự vô thường của thế gian:
Tiếng chuông chùa Ghion
Vang lên nỗi vô thường
Những người đầy tham vọng
Như giấc mộng đêm xuân
Anh hùng rồi tuyệt diệt
Như bụi giữa cuồng phong.
Một bài thơ trong tác phẩm cũng hòa vang cùng tiếng chuông:
Cỏ kia trên đồng nội
Mọc lên rồi tàn lụi
Cỏ nào cũng vậy thôi.
Muôn loài đều phải đợi
Mùa thu, trả kiếp đời.
16
Nhật Chiêu đã tìm ra ba yếu tố trong trong văn hóa Nhật, đó là: Cái đẹp, tư
tưởng và sức mạnh. Những chiếc lá cuối thu sở dĩ nó tuyệt đẹp bởi vì khoảnh khắc mà
nó lìa cành thật đẹp, thật xao xuyến, thật oai hùng. Phải chăng, đó là sức mạnh tiềm ẩn
trong cái đẹp của chiếc lá vàng. Nếu ai đó cho rằng, niềm bi cảm này cũng chỉ là sự bi
lụy thì họ đã không nhìn thấy cái “Diệu” khi chiếc lá lìa cành. Ai mà không cảm thấy
rung động bằng tất cả xúc cảm khi bước vào thế giới của truyện Genji, truyện Heike và
tiểu thuyết của Kawabata. Chất dịu dàng và sâu lắng cứ làm trái tim ta tan theo không
gian và thời gian. Trong tiểu thuyết Cố đô, ta làm sao quên được cảnh chia tay đượm
chất thơ và cảm động của hai chị em Chieko và Naeko, từng lời nói đến những cử chỉ,
hành động của các nhân vật dường như cô đọng, thu lại, nó dịu dàng và êm ái, mong
manh như những hạt tuyết đang rơi ngoài trời. Cái kết lại thật nhẹ nhàng như lẽ tự
nhiên của cuộc đời: “Thành phố vẫn còn ngủ”. Người đọc như say nhòe theo những
giọt lệ mà Kawabata đã đánh rơi trong tác phẩm để rồi ta tự hỏi, gặp lại làm chi để rồi
chia tay. Phải chăng, khi thốt lên những lời đó là ta đang vang lên tiếng nấc nghẹn
ngào của niềm bi cảm. Nó cứ ngân mãi, ngân mãi cùng tuyết rơi...
Trong ba nền văn hóa của Á Đông, nếu Trung Hoa là duy lí, Ấn Độ duy linh,
thì Nhật Bản mang đậm chất duy cảm, duy tình. Người Nhật thường đề cao tình cảm,
cái đẹp. Cũng chính vì căn nguyên đó đã hun đúc nên một nền văn học giàu chất trữ
tình. Aware thể hiện rõ tính chất đó. Trong bài viết tham dự hội thảo về văn học Nhật
Bản – Văn học Nhật Bản – Lịch sử và đặc trưng – giáo sư Nunamo Mitsuyoshi đã
nhắc đến tính trữ tình như một đặc trưng nổi bật của văn học Nhật Bản: “Nếu chuyển
cái nhìn từ các yếu tố bên ngoài vào bản thân nội dung tác phẩm để xem xét cách diễn
đạt và nhịp điệu, có thể thấy rõ, trong phần lớn các tác phẩm văn học từ trước đến nay
của Nhật Bản tính chất trữ tình và cảm tính rất mạnh mẽ” [24; 99]. Trong văn học
Nhật Bản, truyền thống trữ tình đã lướt qua và hòa nhập vào trong thơ ca và cả văn
xuôi. Từ những vần thơ haiku của Basho, Saygo, Myoe, Buson đến cả những thể loại
mang đậm dấu ấn cá nhân như nhật kí, tùy bút, du kí,.. đều phảng phất hương vị nồng
nàn của chất trữ tình. Thi hào Basho đâu chỉ tài hoa trong địa hạt thơ ca mà còn uyên
bác trong văn xuôi, tác phẩm Oku no hosomichi (Áo chi tế đạo hoặc con đường sâu
thẳm) là cảm xúc dạt dào về vũ trụ, thiên nhiên và con người. Trong văn học nữ lưu
thời Heian, kiệt tác Genji monogatari – được coi là cuốn tiểu thuyết đầu tiên, những
cảm xúc dịu dàng, tinh tế và tao nhã đã làm nao lòng cả thế giới. Bài tiểu luận mở đầu
cho Kokinshu của Jsurayuki viết vào khoảng năm 922, có những lời dạt dào cảm xúc:
“Thơ ca mọc lên từ trái tim con người và lời thơ trở thành vô số lá cành. Trong cuộc
đời, biết bao điều làm con người xao xuyến xúc động, họ tìm thấy cách thể hiện cảm
xúc của mình qua những hình ảnh mà họ nghe thấy. Khi nghe dạ oanh ca hát trong
hoa, nghe ếch nhái kêu vang trong nước, ai mà không muốn làm thơ. Vì nhận ra sự
17
thật là mọi sinh vật đều phát tiết thơ ca. Chính là thơ ca đã làm chuyển động đất trời,
ngay cả quỷ thần vô hình cũng phải xuyến xao” [1; 70]. Qua đây, ta thấy rằng, nghệ
thuật phải gắn liền với cảm xúc. Trong tập Kokinshu, Tomonori có một bài thơ giản dị
nhưng chứa chan tình cảm:
Khi tôi treo áo
trước khi đi nằm
thì bên trái tim
một niềm thương nhớ
treo hoài trong đêm.
Và rồi, người ta tìm đến văn học Nhật Bản để hiểu ra, vì sao đất nước Kimono
này lại vô cùng yêu quý cái đẹp đến thế? Cho nên, yếu tố trữ tình là mảnh đất màu mỡ
cho sự lên ngôi của Aware.
Bao thời đại đã kinh qua biết bao thử thách, thịnh rồi suy, suy rồi thịnh, đến
một ngày kia khi cơn gió phương Tây ập đến vậy mà họ vẫn giữ được cốt cách riêng
của tâm hồn Nhật Bản. Nhưng ai biết được rằng, chính bao biến cố đó đã khẳng định
vai trò và vị trí của Aware trong văn chương Nhật Bản. Nếu Sầu là nét chữ tiêu biểu
của thơ ca Trung Quốc thì chất Aware lại là điểm sáng trong văn chương Nhật Bản.
Nhật Bản chịu ảnh hưởng rất nhiều từ văn hóa Trung Hoa nhưng trong sự giao thoa đó
họ đã xây dựng cho mình một nền văn hóa mang bản sắc rất riêng. Nếu Trung Quốc có
đường Thi vang danh, Việt Nam có tinh hoa lục bát, thì Nhật Bản có quốc bảo Haiku.
Từ Murasaki Shikibu đến Kawabata, trải qua nhiều thế kỉ như thế, chất Aware vẫn
đường bệ và đứng vững trong văn học.
Đến đây, ta đã có thể phân biệt rạch ròi và tìm ra những nét tinh tế trong sự
khác biệt giữa, Yugen – truy tìm cái “Diệu” của sự vật và Aware – niềm bi cảm của
cảm xúc. Aware chú trọng đến khoảnh khắc, nỗi vô thường, đến bản thân sự vật,
không mấy quan tâm đến cái bóng vô tận ở sau hoặc ở trong sự vật. Yugen thì không
dừng lại ở hình sắc đó, nó còn gợi tính chất huyền diệu thăm thẳm của cuộc sống, cái
ẩn giấu nhưng lại là sự sống, là linh hồn của hình sắc. Cách lí giải này của Nhật Chiêu
thật sâu sắc.
Đây là niềm bi cảm của Izumi Shukibu khi lắng nghe tiếng chuông, lắng nghe
tiếng lòng mình:
Trong bóng hoàng hôn
Nghe tiếng chuông ngân
Ta buồn
18
Biết còn nghe lại
Vào ngày mai không?
Cái buồn kia bỗng lắng lại khi ta nghe lời tâm sự vui tươi của thi sĩ Myoe:
Và ta sẽ sang bên kia núi.
Này trăng ơi, hãy đến mau,
Đêm nay
Và nhiều đêm nữa
Ta sẽ bên nhau.
Izumi thấy bóng tối của sự vô thường, còn Myoe thì thấy được ánh sáng của
sự vô thường.
19
- Xem thêm -