thiết kế nghiên cứu, khoa xã hội học, đề tài bạo lực gia đình
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là tế bào của xã hội, là nền tảng cho sự ổn định và phát triển. Bước vào
thế kỉ XXI, gia đình có nhiều sự biến đổi sâu sắc về mặt quy mô, cấu trúc và phương
pháp tổ chức hoạt động sống. Dưới tác động của nền kinh tế thị trường, hiện nay
không ít những vấn đề khó khăn và phức tạp nảy sinh trong các mô hình gia đình.
Nhiều nghiên cứu cho thấy sự khủng hoảng trong các mối quan hệ gia đình là nguyên
nhân dẫn đến sự gia tăng của các hiện tượng tiêu cực của ly thân, ly hôn, cha mẹ bỏ bê
không chăm sóc con cái … Bạo lực gia đình cũng nằm trong vòng xoáy của những tác
động tiêu cực đó, dần dần xuất hiện và trở thành một hiện tượng nhức nhối không có
lời giải đáp. Bạo lực gia đình ngày càng gây nên những hậu quả nghiêm trọng đến mỗi
nạn nhân, đặc biệt là trẻ em.
Bạo hành gia đình/Bạo lực gia đình là thuật ngữ dùng để chỉ các hành vi bạo lực
giữa các thành viên trong cùng một gia đình. Hành vi bạo lực đó có thể xảy ra ở nhiều
đối tượng khác nhau như: người lớn với trẻ em (cha mẹ bạo hành con cái, ông bà bạo
lực cháu, anh chị em bạo lực với nhau), bạo lực giữa các thành viên lớn tuổi hơn (vợ
chồng, anh chị em bạo lực với nhau, mẹ chồng nàng dâu, em chồng chị dâu) hay bạo
lực ngược (con cái bạo lực với cha mẹ, cháu ngược đãi ông bà)… Nạn nhân của bạo
lực thường xuất hiện trên các phương tiện thông tin đại chúng là phụ nữ - vợ, mẹ, con
cái, người tình của đối tượng và ở Việt Nam dường như có sự tuyệt đối hóa bạo lực
giới một chiều. Nhưng cần cẩn thận thấy rằng cũng tồn tại dạng bạo lực đối với nam
giới. Bạo lực gia đình dù ở dưới hình thức nào, nếu không được cứu vãn sẽ trở thành
chiếc ổ khóa lạnh lùng, khép chặt cách cửa hạnh phúc hôn nhân.
Bạo lực gia đình đang trở thành một vấn nạn nghiêm trọng, nó xảy ra ở mọi
quốc gia mọi nền văn hóa, mọi tôn giáo, không phân biệt giàu nghèo và trình độ học
vấn cao hay thấp. Gia đình luôn được coi là mái ấm yên bình chở che của mỗi con
1
người, bởi lẽ đó, sự xuất hiện ngày càng mạnh mẽ của hiện tượng bạo lực gia đình đã
làm cho rất nhiều thành viên trong các gia đình rơi vào trạng thái bất ổn thật sự. Sự
gia tăng của nạn bạo lực gia đình đang nhận được rất nhiều sự quan tâm, lo lắng của
dư luận xã hội.
Bạo lực gia đình vi phạm quyền con người, danh dự, nhận phẩm và tính mạng
của mỗi cá nhân; là nguyên nhân làm suy giảm sự bền vững hạnh phúc gia đình…
Ngoài những hậu quả về xã hội, đạo đức và sự bền vững của gia đình; bạo lực gia đình
còn tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế - xã hội, làm mất ổn định an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội và gây thiệt hại về kinh tế của gia đình có bạo lực nói riêng và
kinh tế xã hội nói chung. Trẻ em lớn lên trong gia đình có bạo lực cũng chịu những
tác động tiêu cực do bạo lực gia đình gây ra, ví dụ như buồn bã, rối loạn tâm lý, thiếu
động cơ học tập, tách mình ra khỏi bạn bè, ít nói, nếu tình trạng đó kéo dài có thể dẫn
đến mắc bệnh trầm cảm. Nhiều trường hợp người mẹ quá mệt mỏi, sức khỏe giảm sút
không đủ điều kiện chăm sóc cho con, hay bị đuổi khỏi nhà khiến những đứa trẻ
không được chăm sóc đầy đủ cũng làm cho chúng bị suy dinh dưỡng, vệ sinh kém, cơ
thể yếu là điều kiện để vi khẩn xâm nhập và mắc nhiều loại bệnh nguy hiểm, gây ảnh
hưởng tới sức khỏe. Nghiêm trọng hơn, khi trẻ em trực tiếp chứng kiến cảnh bảo lực
ngay trong gia đình, chúng có thể sao chép những hành vi của bố, mẹ từ đó hình thành
nên những thói xấu, thậm trí cha mẹ không thể giáo dục con cái khi chúng trưởng
thành.
Trẻ em ở thành phố và nông thôn có những ảnh hưởng tâm lí khác nhau do môi
trường, cách giáo dục và hoàn cảnh sống của các em. Ở những vùng nông thôn, bạo
hành gia đình diễn ra phổ biến hơn so với thành phố, khi mà điều kiện dân trí thấp và
các gia đình không chú trọng vào việc giáo dục cho trẻ, chính nhận thức của cha mẹ
cũng chưa cao dẫn đến việc bạo hành ngày một trở nên phổ biến. Những hệ quả mà
bạo hành mang đến cho trẻ em ở những điều kiện khác nhau cũng sẽ rất khác nhau.
2
Hiện trạng đã và đang xảy ra cho thấy nạn bạo hành vẫn đang hiện hữu rất rõ rệt.
Theo Báo cáo tình trạng trẻ em trên thế của UNICEF năm 2009, hiện có khoảng 500
triệu trẻ em bị ảnh hưởng của bạo lực, chiếm khoảng ¼ tổng số trẻ em trên thế giới.
Đối với nước ta, tình trạng bạo lực gia đình trong những năm gần đây diễn ra phức tạp
và tỷ lệ bạo lực gia đình ở mức cao . Trong năm 2005, 66% các vụ ly hôn ở Việt Nam
liên quan đến bạo hành gia đình. Trong 5 năm từ 2000 - 2005, có 186.954 vụ ly hôn
do bạo lực gia đình, hành vi đánh đập, ngược đãi chiếm 53,1% trong các nguyên nhân
dẫn tới ly hôn.
Mặc dù bạo lực gia đình xảy ra phổ biến đối với phụ nữ nhưng trẻ em cũng là
nạn nhân của bạo lực gia đình. Cứ bốn phụ nữ có con dưới 15 tuổi thì có một người
cho biết con của họ đã từng bị chồng họ bạo hành thể xác. Nghiên cứu này đã chỉ ra
rằng bạo lực gia đình là một mối đe dọa nghiêm trọng đối với cuộc sống của trẻ em.
Ví dụ, báo cáo nghiên cứu cho biết trẻ em sống trong những gia đình mà mẹ bị cha
bạo hành sẽ có nhiều khả năng có các vấn đề về hành vi hơn so với những trẻ em
khác.
“Những người chồng bạo hành có nhiều khả năng đã từng chứng kiến mẹ mình
bị cha đánh đập, hoặc chính họ đã từng bị đánh đập khi còn nhỏ. Những điều đã trải
qua thời thơ ấu chính là một yếu tố nguy cơ quan trọng liên quan đến việc bản thân
họ sau này trở thành người gây ra bạo lực gia đình”, bà Jansen cho biết thêm. Điều
này củng cố cho quan điểm rằng bạo lực là một hành vi do con người học từ người
khác. Hơn nữa số phụ nữ bị bạo lực thể xác do chồng gây ra cũng cho biết rằng con
cái họ đã từng chứng kiến cảnh bạo hành ít nhất một lần. Hầu hết mọi người nói rằng
tốt hơn hết là không để cho trẻ em biết về bạo lực gia đình đối với phụ nữ. Mục đích
là nhằm bảo vệ trẻ em khỏinhững tác động tiêu cực của bạo lực. Tuy nhiên, qua nhiều
cuộc điều tra cho thấy việc giấu không cho trẻ biết tình trạng bạo lực không phải là
một việc làm hiệu quả. Tất cả những người bị bạo lực nói rằng con của họ biết gia
3
Hình thức biểu
hiện (hành vi)
đình đang bị bạo lực hoành hành. Chúng phải chứng kiến và chịu tác động của bạo
lực.
Những vấn đề này thường được giấu kín, e ngại khi đề cập, chia sẻ và tìm kiếm
sự giúp đỡ và nguyên nhân cũng do sự thiếu sự hỗ trợ từ phía các thành viên gia đình
và cơ quan chức năng hoặc lo sợ hậu quả đối với chính bản thân họ và con cái họ về
việc chấp nhận các hành vi bạo lực gia đình cũng do được củng cố bởi tư tưởng văn
hóa. Bên cạnh đó, xét về phương diện gia đình , thì bạo lực gia đình ảnh hưởng rất
nhiều đến việc hình thành tính cách, nhân cách của trẻ sau này. Tuy nhiên hiện nay,
thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, các thông tin về bạo hành gia đình ảnh
hưởng đến trẻ càng được hiểu biết nhiều hơn, đem lại cái nhìn rõ hơn, từ đó trong dư
luận xã hội cũng có nhiều ý kiến cũng như thái độ khác nhau đối với trẻ em khi bị ảnh
hưởng của bạo hành cũng như những người thực hiện hành vi bạo hành. Đặc biệt đối
với trẻ ở độ tuổi từ 5 đến 10 tuổi là giai đoạn hình thành nhân cách, trẻ còn non nớt
trong nhận thức, nếu bị tác động mạnh về tâm lí sẽ dẫn đến sự méo mó trong phát
triển trí tuệ và tâm hôn sau này.
Tôi cũng là một trong những nạn nhân của bạo lực gia đình đối với trẻ em. Hơn
ai hết, tôi mong muốn thực hiện đề tài này vì xuất phát từ chính bản thân và trái tim
mình, tôi muốn thuyết phục các bậc cha mẹ, đặc biệt là với những người cha, người
mẹ đang đối xử không công bằng với những đứa con.
Vì vậy, tôi tiến hành nghiên cứu “Nhận thức của cha mẹ về bạo lực gia đình đối
với trẻ em ở độ tuổi từ 5 đến 10 tại TP Hà Nội hiện nay” với mục đích tìm hiểu quan
điểm thái độ của mọi người trong cộng đồng về nạn bạo hành gia đỉnh ảnh hưởng tới
trẻ em. Bởi lẽ họ nhận thức như thế nào thì sẽ có thái độ, hành vi biểu hiện ra như thế.
Mặt khác, nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng về vấn đề này và thay đổi thái độ,
hành vi của những người có hành vi bạo hành đề bạo hành gia đình không còn là một
4
vấn đề cần phải che đậy, trẻ em chịu ảnh hưởng của bạo lực gia đình có thể tìm kiếm
sự trợ giúp và hỗ trợ của cộng đồng.
2. Tổng quan nghiên cứu
2.1. Mô tả thực địa
Hà Nội là thủ đô của nước Việt Nam từ năm 1976 đến nay, và là thủ đô của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ năm 1946, là thành phố lớn nhất Việt Nam về
diện tích với 3328,9 km2, đồng thời cũng là địa phương đứng thứ nhì về dân số với
6.699.600 người (2011). Sau đợt mở rộng địa giới hành chính vào tháng 8 năm 2008,
Hà Nội hiện nay gồm 12 quận, 1 thị xã và 17 huyện ngoại thành. Hiện nay, Hà Nội và
Thành phố Hồ Chí Minh là hai trung tâm kinh tế - xã hội đặc biệt quan trọng của Việt
Nam. Năm 2009, sau khi mở rộng, GDP của thành phố tăng khoảng 6,67%, tổng thu
ngân sách khoảng 70.054 tỷ đồng. Hà Nội cũng là một trung tâm văn hóa, giáo dục
với các nhà hát, bảo tàng, các làng nghề truyền thống, những cơ quan truyền thông
cấp quốc gia và các trường đại học lớn. Thành phố Hà Nội có tốc độ đô thị hoá nhanh,
tốc độ đô thị hoá nhanh khiến cho nảy sinh nhiều vấn đề xã hội đòi hỏi phải có những
sự quan tâm đúng đắn của Đảng và Nhà Nước. Các bậc cha mẹ, phụ huynh dành nhiều
thời gian làm kinh tế, nhiều khi dẫn tới bỏ bê con trẻ. Từ đây nảy sinh ra rất nhiều vấn
đề bức thiết của tuổi thiếu niên cần được quan tâm, nghiên cứu. Bên cạnh đó, Hà Nội
cũng là một trung tâm kinh tế, văn hoá, chính trị lớn đóng vai trò quan trọng của cả
nước. Quá trình đô thị hóa nhanh, các gia đình hạt nhân dần được hình thành thay thế
các gia đình truyền thống.
5
2.2 Thực trạng về nhận thức của cha mẹ về bạo lực gia đình đối với trẻ em
ở Hà Nội hiện nay.
Trong các tác phẩm viết về bạo lực gia đình bằng tiếng anh có thể kể đến tác
phẩm “Freedom from Violence Women’s Strategies from Aroud the World ( Tự do từ
bạo lực – Chiến lược toàn cầu của phụ nữ) của nhiều tác giả do Margaret Schuler chủ
biên năm 1992. Tác phẩm này đã phản ánh tình trạng bạo lực từ nước Mỹ đến các
nước phát triển ở Châu Á đến Châu Phi và Châu Mỹ La Tinh. Tính đa dạng của hoàn
cảnh, văn hóa, nguyên nhân, các hình thức bạo lực diễn ra ở cả nơi làm việc, đường
phố gia đình mà các tác giả phản ánh đã nói lên tính phổ biến của các dạnh bạo lực
chống lại phụ nữ trong đó có bạo lực gia đình.Bài viết cung cấp một cái nhìn toàn
cảnh về vấn đề và chiến lược liên quan đến bạo lực giới. Đó là mở rộng tuyên truyền
giáo dục, cải cách pháp luật và hành động chống bạo lực đối với phụ nữ.
Tác phẩm “Violence, Silence, and Anger – Women’s Writing as Transgression”
(Bạo lực, sự im lặng và sự giận giữ - Các bài viết của phụ nữ như một lời tội lỗi) của
nhiều tác giả do Deirdre Lashgari chủ biên. Cuốn sách là cơ sở cho nhà nữ quyền trình
bày các tư tưởng về sự im lặng, sự tức giận và nhu cầu nói lên tiếng nói chống lại bạo
lực. Nhiều hình thức bạo lực như áp bức tình dục, áp bức của chủ nghĩa thực dân, sự
đối kháng giữa cha mẹ và con cái, các chủ thể chống chiến tranh và hậu quả của nó
đối với phụ nữ và trẻ em, các vấn đề giới, chủng tộc, giai cấp, văn hóa cũng được đề
cập tới.
Macarenco A.S, Sách dành cho các bậc cha mẹ, M.1939 và Từ điển Bách khoa
toàn thư Xô Viết có viết Nhiều bậc cha mẹ còn có quan niệm rằng: “Phải đánh mới
nênngười”. Vì vậy, một số phụ huynh thậm chí ủng hộ thầy, cô giáo sử dụng roi vọt
như một biện pháp trừng phạt giúp trẻ biết lỗi để trẻ không dám tái phạm. Quan niệm
“yêu cho roi, cho vọt” đã hậu thuẫn cho biện pháp giáo dục lạc hậu và hiệu quả hạn
chế của nó, mà nhà sư phạm Xô Viết lỗi lạc Macarenco A.S. đã gọi là “sự bất lực của
khả năng sư phạm”.
6
Bạo lực gia đình là vấn đề được các nhà khoa học Việt Nam quan tâm nghiên cứu
trong vài năm gần đây. Trong nghiên cứu có tính chuyên sâu về bạo lực gia đình ở
Việt Nam được bắt đầu từ những năm 90 của thế kỷ trước. Quan niệm bạo lực gia
đình là “chuyện riêng” nên chủ đề này trước đây chưa được đem ra thảo luận công
khai và chưa thực sự thu hút được sự quan tâm của dư luận, do đó nạn nhân của bạo
lực luôn phải chịu thiệt thòi mà lẽ ra họ không phải chịu, họ phải giữ im lặng cho dù
luôn phai đối mặt với nỗi sợ hãi bị bạo lực bất cứ lúc nào. Nhận thức được điều trên
nên bạo lực gia đình trở thành chủ đề quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu và các tổ
chức xã hội.
Có thể nói, một trong những nhà nghiên cứu quan tâm sớm nhất đến vấn đề
bạo lực gia đình ở Việt Nam là Lê Thị Quý. Tác giả Lê Thị Quý và Đặng Vũ Cảnh
Linh cũng đã nêu khá rõ bức tranh bạo lực gia đình: “ Bạo lực gia đình – một sự sai
lệch giá trị”. Kết quả nghiên cứu cho thấy có 63,5% hiện tượng cha mẹ đánh đập con
cái; 14.5% con cái đánh đập cha mẹ; 81,1% chồng đánh vợ; 13,2 % vợ đánh chồng;
66,1% vợ mắng chửi chồng; 68,7% chồng chửi mắng vợ; 24,7% vợ chồng con cái
đánh nhau và 41,1% anh em đánh nhau. Tác gải cũng đưa ra nguyên nhân dẫn đến
mâu thuẫn, xung đột gia đình bao gồm: coi nhẹ nề nếp gia phong (69,7%), nghèo đói
thiếu việc (75,7%), không quan tâm lẫn nhau (61,8%), ông bà cha mẹ chưa gương
mẫu (60,9%), vợ hay nói nhiều (57,6%), con cái không hiếu thảo (63,5%), tư tưởng
trọng nam khinh nữ (53,9%), cơ bạc rược chè (81,9%) , con cái bỏ bê học hành
(56,9%), ngoại tình (69,4%), ghen tuông thái quá (62,5%), học vấn không phù hợp
(38,2%), thói quen đàn ông (36,5%), sức khỏe không phù hợp (31,3%), tình dục
không phù hợp (33,6%).
Trong đề tài nghiên cứu : “Nhận thức, thái độ, hành vi của công chúng đối với
các bài viết về bạo lực gia đình trên báo điện tử tuổi trẻ Việt Nam” của tác giả
Nguyễn Thị Trâm Anh, 2011, đã chỉ ra rằng: “Nhận thức của công chúng về các hình
thức bạo lực gia đình chưa chính xác còn rất mờ nhạt và nhiều hạn chế: đa số người
7
dân chỉ biết có bạo lực thể xác mà không có bạo lực tinh thần hay tình dục và công
chúng có nhận thức không quá khắc khe, thậm chí dễ dàng chấp nhận đối với một số
hình thức bạo lực không gây thương tích hoặc gây thương tích nhẹ. Điều này sẽ là
một cản trở không nhỏ trong việc nâng cao bình đẳng giới và phòng chống bạo lực
gia đình. Tác phẩm nghiên cứu đối với công chúng nói chung về bạo lực gia đình cho
mọi đối tượng.
Công trình nghiên cứu “Nghiên cứu bạo lực gia đình trên cơ sở giới ở Việt
Nam” của Nguyễn Hữu Minh, Lê Ngọc Lân, Nguyễn Thị Mai Hoa và Trần Thị Cẩm
Nhung năm 2005 đã đi sâu và xem xét thực trạng bạo lực gia đình ở Việt Nam dưới
nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau đồng thời phân tích các yêu tố tác động đến bạo
lực gia đình dựa trên các nghiên cứu đã được triển khai về bạo lực gia đình. Các yếu
tố được đề cập là: khung pháp lý và chính sách các chủ thể liên quan, tình trạng
nghèo khổ, yếu tố văn hóa: định kiến giới và các yêu tố khác bao gồm: rượu, cờ bạc,
ngoại tình… Đồng thời nghiên cứu cũng chỉ ra những khó khăn, trở ngại trong quá
trình can thiệp của tổ chức chính quyền các cấp. Nghiên cứu đã nêu được hậu quả
của bạo lực gia đình, mức độ gia tăng của tình trạng bạo lực đối với phụ nữ, cũng như
đưa ra các giải pháp khắc phục. Công trình này giúp cho người nghiên cứu biết thêm
về nguyên nhân của bạo lực gia đình, mức độ gia tăng của bạo lực, các khuyến nghị
để làm giảm bạo lực gia đình. Qua đó người nghiên cứu hiểu rõ được hơn thực trạng
vấn đề mà mình đang nghiên cứu để chỉnh sửa cho phù hợp.
Đề tài nghiên cứu khoa học của Ủy Ban dân số gia đình về trẻ em 2005; khu
vực biến đổi của cấu trúc gia đình nông thôn Đồng bằng sông Hồng dưới tác động
của kinh tế thị trường” nghiên cứu về hành vi bạo lực; bạo lực của chồng đối với vợ;
bạo lực của vợ đối với chồng; hành xử bạo lực giữa những người anh em họ hàng;
bạo lực với hàng xóm, cộng đồng; bạo lực của người lớn với trẻ em. Đề tài cho rằng
“nghiện rượu” là nguyên nhân chính gây ra bạo lực trong gia đình, tư tưởng phong
kiến cổ hủ lạc hậu , tính cam chịu của vợ. Sau đó là các nguyên nhân như do người
8
vợ khiêu khích chồng, do người chồng bị căng thẳng… Đề tài góp phần cho người
nghiên cứu biết thêm về những nguyên nhân hơn với nội dung nghiên cứu của đề tài.
Nghiên cứu về ảnh hưởng của bạo lực gia đình tới trẻ em của Liên hợp quốc
tiến hành trên phạm vi toàn cầu được công bố vào tháng 8/ 2006 cho hay, trên thế
giới hiện có 275 triệu trẻ em là nạn nhân của bạo lực gia đình, phải chịu sự bóc lột về
tinh thần và thể xác và cả tình dục của cha mẹ cũng như người giám hộ (Nguồn
http.www.unicef.org/media/media_35151.html). Trong các rủi ro mà trẻ em có thể
mắc phải thì có lẽ bạo lực gia đình là khó khắc phục hơn cả tính phụ thuộc đặc điểm
của trẻ với người lớn và bởi lẽ nó không chịu ảnh hưởng tới hiện tại mà con ảnh
hưởng đến tương lai lâu dài của trẻ. Trẻ nhỏ có thể là mục tiêu trực tiếp của bạo lực
thân thể hoặc có thể bị thương khi cố gắng bảo vệ các thành viên khác trong gia đình
(thường là người mẹ) hoặc cố gắng ngăn cản hành vi bạo lực của bố mẹ. Có thể
chúng chỉ chứng kiến cảnh người thân có những hành động xô xát, thô bạo. Báo cáo
của UNICEF cũng chỉ ra rằng những hình ảnh bạo lực gia đình mà trẻ em phải chứng
kiến, cho dù không phải là nạn nhân trực tiếp cũng có thể in sâu vĩnh viễn và gây ra
những ảnh hưởng tiêu cực nặng nề trong suốt thời ấu thơ, cũng như cuộc sống sau
này của trẻ. Trẻ em càng nhỏ càng có xu hướng bị tác động của nạn bạo lực gia đình
nặng nề do bị ảnh hưởng nghiêm trọng về tinh thần và tình cảm trong suốt gia đoạn
phát triển hình thành nhân cách và xã hội hóa.
Theo cuốn “Sách xanh gia đình Việt Nam” của Văn hóa thể thao và du lịch,
NXB Lao động 2012. Theo thống kê của Bộ văn hóa, Thể thao và Du lịch, từ 2009
đến năm 2012 cả nước có 178.847 vụ bạo lực gia đình. Trong đó bạo lực gia đình đối
với phụ nữ là 106.520, bạo lực gia đình với trẻ em là 23.346 vụ, bạo lực gia đình đối
với người cao tuổi là 16.148 vụ. Các đối tượng của bạo lực gia đình gồm trẻ em , phụ
nữ và người già. Một trong những nguyên nhân dẫn đến ly hôn/ ly thân ở Việt Nam
ngày càng tăng cũng do bạo lực gia đình. Bạo lực gia đình tồn tại dưới nhiều hình
thức: thể chất, tinh thân, kinh tế, giáo dục. Bạo lực gia đình không chỉ ảnh hưởng về
9
thể chất và tinh thần của người bị bạo hành, mà còn ảnh hưởng tới quá trình phát
triển của trẻ sống trong gia đình có bạo lực, vì trong tương lai, trẻ em có thể trở thành
đối tượng bị lạm dụng bạo lực hoặc gây bạo lực.
Nhìn chung những nghiên cứu kể trên đã phân tích được thực trạng và nguyên
nhân của bạo lực gia đình và những biện pháp khắc phục. Trẻ em cũng là nạn nhân
chính và cũng là nguyên nhân của nhiều bạo lực gia đình. Các nghiên cứu của Viện
Nghiên cứu Thanh niên đã hướng tới vấn đề này. Kết quả nghiên cứu thăm dò dư luận
trẻ em được tiến hành vào năm 1998 do PGS.TS Đặng Cảnh Khanh và CN. Nguyễn
Văn Buồm thực hiện phỏng vấn các em về hình thức xử phạt của cha mẹ đối với con
cái. Kết quả bất ngờ trong số 1240 em nhỏ được hỏi tới 90,52% thường bị bố mẹ đánh
đập khi có lỗi, trong đó vừa đánh vừa mắng là 25,6, đánh đau là 62,92%. Những
thương tích trên cơ thể dù có đau có thể xóa nhòa, còn những thương tích về tinh thần
đời sống tâm lý trẻ đâu dễ quên đi. Cũng theo tác giả Lê Thị Quý bạo lực gia đình có
ảnh hưởng lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ em.
Một nghiên cứu khác Căn cứ vào Công ước quyền trẻ em, Luật Chăm sóc bảo vệ
trẻ em Việt Nam ta có thể hiểu rằng, bạo lực trẻ em là hành vi do một hoặc một số
người có thể là gia đình, người thân người chăm sóc trẻ… gây ra làm tổn hại đến cả
sức khỏe và tinh thần của trẻ. “Nếu chiếu theo khái niệm này thì có lẽ phải có tới 99%
số trẻ em ở Việt Nam đã từng bị bạo hành chứ không phải con số như UNICEF công
bố (gần 75%) trước đó”, ông Lê Thế Nhân - Chủ tịch Trung tâm phát triển cộng đồng
và công tác xã hội (Huế) nói. Chiếu theo công ước về Quyền trẻ em, Luật Chăm sóc
bảo vệ trẻ em Việt Nam nhiều nghiên cứu, thống kê liên quan bạo lực trẻ em đã được
đưa ra. Mới đây, tháng 4.2014 tổng cụ thống kê dưới sự trợ giúp của tổ chức UNICEF
đã công bố số liệu khiến dư luận phải giật mình, gần 75% số trẻ em từ 2 - 14 tuổi ở
Việt Nam từng bị cha mẹ, người chăm sóc và các thành viên khác trong gia đình bạo
hành.
10
Phóng viên Dân Việt từng tham khảo ý kiến của nhiều công bố tại Hà Nội, đa
phần trong số họ đều ủng hộ với cách dạy con bằng roi vọt. Anh Nguyễn Huy Tùng
(Xuân La, Tây Hồ, Hà Nội) cho rằng: dạy con bằng roi vọt không hoàn toàn là bạo lực
với trẻ. “Đánh con để nhằm mục đích dạy bảo cho con tiến bộ là vì mục tiêu tốt nhất
của trẻ. Không thể nói đây là bạo lực được” – anh Tùng phân bua.
Công bố của UNICEF trong thời gian qua cũng cho thấy gần 24% số phụ nữ đã
lập gia đình và có con dưới 15 tuổi ở Việt Nam cũng cho biết, chồng của họ đã từng
có hành vi bạo lực đối với con cái. 11% trong số các vụ bạo lực đó là dưới dạng đấm,
đá, đánh; 15,7% dưới dạng tát, đẩy ngã hoặc ném đồ vật vào người và 56,6% dưới
dạng chửi mắng hoặc đe dọa. Cứ 10 trẻ khi được hỏi thì có 9 trẻ nói rằng, các em đã
từng chứng kiến bạo lực trong gia đình mình. Khảo sát ý kiến Nghiên cứu về bạo hành
trẻ em nằm trong “Dự án đường dây tư vấn và hỗ trợ trẻ em” (18001567) cho thấy bạo
hành trẻ em tồn tại ở những dạng hình thức khác nhau. Lạm dụng thân thể là hình thức
phạt đánh bằng công cụ (roi, gậy…) khi trẻ mắc lỗi hoặc khi người trừng phạt muốn
trẻ học tập tiến bộ hơn trở nên phổ biến. Không chỉ bạo lực về roi vọt, nhiều bố mẹ
còn lạm dụng ngôn từ chửi mắng con một cách thô bạo.
Theo các chuyên gia tâm lý của Trung tâm phát triển cộng đồng và công tác xã
hội (Huế) thì hành vi bạo hành trẻ em có tính chất lặp lại. Đa số bố mẹ hay dùng bạo
lực với con cái cho biết họ đã từng bị bố mẹ dùng roi vọt để dạy bảo. Thậm chí có
người dù làm cha mẹ, nhưng vẫn không thể quên những trận đánh đập của ba mẹ họ
trước đây. Thạc sĩ Tâm lý học Lưu Lịch cho biết: “Vấn đề ở đây là Quyền trẻ em và
quan niệm của người lớn về giáo dục trẻ bằng roi. Chính sự thiếu hiểu biết và lạm
dụng quyền làm bố mẹ của người lớn đã gây tổn hại đến trẻ. Ngoài ra, cha mẹ không
nhận biết được những thay đổi trong tâm sinh lý của con cũng thiếu phương pháp
giáo dục, chưa tìm được phương pháp thay thế cách giáo dục bằng roi vọt, nên khi
bất lực chỉ nghĩ đến cách lấy roi ra quất”.
11
Công trình nghiên cứu bài báo được xuất bản đề cập đến vấn đề này trong số đó
có thể kể đến: công trình Nỗi đau thời đại của tác giả Lê Thị Quý xuất bản năm 1996
cho rằng bạo lực phát triển khá mạnh và khó kiểm soát, bạo lực gia đình không chỉ
xảy ra trong mối quan hệ giữa vợ với chồng mà còn giữa cha mẹ với con cái, và con
cái với cha mẹ. Tác phẩm cũng chỉ ra được những nguyên nhân của nạn bạo hành
trong gia đình bao gồm những nguyên nhân về kinh tế, nhận thức vấn đề xã hội và sức
khỏe.
Như vậy, qua tổng quan nghiên cứu có thể thấy những nghiên cứu về bạo lực
hiện nay khá phong phú, bao phủ được nhiều đối tượng và nhiều vùng miền trên khắp
cả nước. Một thực trạng rõ nét là bạo lực gia đình đối với trẻ em trong gia đình Việt
Nam chưa được nhìn nhận một cách xác thực.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu nhận thức của các bậc cha mẹ về nạn bạo hành gia đình (bao gồm bạo
hành do cha mẹ ruột hay cha mẹ nuôi, hoặc những người trong gia đình) đối với trẻ
em ở độ tuổi từ 5 đến 10 ở Hà Nội hiện nay.
Đưa ra những khuyến nghị nhằm nâng cao nhận thức của các bậc cha mẹ và cộng
đồng để trẻ em có điều kiện phát triển tốt nhất về cả vật chất và tinh thần và bảo
đảm được các quyền của mình.
3.2Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, phải đặt ra một số nhiệm vụ cấp thiết như:
Xây dựng và hoàn thành đề cương chi tiết.
12
Làm rõ một số lý thuyết được áp dụng vào nghiên cứu.
Thao tác hóa các khái niệm liên quan đến đề tài “ nhận thức, bạo lực gia đình, trẻ
em, bạo lực gia đình đối với trẻ em”, xây dựng khung lý thuyết, mô tả các biến
số…
Thu thập thông tin và phân tích thông tin từ những tài liệu, báo cáo sẵn có nhằm:
Phân tích thực trạng nạn bạo lực gia đình hiện nay: Mức độ nghiêm trọng, động
cơ hành vi bạo lực…
Tìm hiểu những yếu tố, nguyên nhân dẫn đến nạn bạo lực gia đình.
Phân tích những yếu tố tiêu cực của nạn bạo lực gia đình ảnh hưởng đến sự phát
triển của trẻ em.
Mô tả nhận thức của cha mẹ về bạo lực gia đình đối với trẻ em ở độ tuổi từ 5 đến
10 tại TP Hà Nội hiện nay.
Đề xuất một số khuyến nghị về giải pháp nhằm giúp các cơ quan chức năng có
liên quan đưa ra những chính sách, giải pháp nhằm ngăn chặn và hạn chế tình
trạng bạo lực gia đình ảnh hưởng đến trẻ em, nâng cao công tác tuyên truyền để
nâng cao nhận thức của các bậc làm cha mẹ.
4.
Đối tượng, khách thể nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
4.1Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là nhận thức của cha mẹ về bạo lực gia đình đối với trẻ
em ở độ tuổi từ 5 đến 10 ở Hà Nội hiện nay.
4.2Khách thể nghiên cứu
Các bậc cha mẹ ( cha mẹ ruột hoặc cha mẹ nuôi) ở khu vực Hà Nội.
13
4.3 Phạm vi nghiên cứu
Không gian : Nghiên cứu được tiến hành trên địa bàn Hà Nội, tại 2 quận
Cầu Giấy, Ba đình và 2 huyện Từ Liêm và Sóc Sơn.
Thời gian nghiên cứu: 1/2014 – 3/2014
5 Giả thuyết nghiên cứu, khung lý thuyết và các biến số
5.1 Giả thuyết nghiên cứu
Đa số cha mẹ cho rằng việc bạo hành gia đình không có ảnh hưởng đến con cái và
có thể chấp nhận được.
Đa số bố mẹ ở nông thôn không để ý đến bạo lực gia đình.
Những người có trình độ học vấn cao thì có nhận thức về bạo lực gia đình tốt hơn.
Những người ở khu vực thành phố có nhận thức tốt hơn những người ở khu vực
nông thôn.
Nữ giới có nhận thức bạo lực gia đình cao hơn nam giới.
Phần lớn bạo lực thường là bố.
14
5.2 Khung lý thuyết
Nhận thức của cha mẹ về thực trạng bạo
hành gia đình đối với trẻ em ở độ tuổi từ 5
đến 10 ở Hà Nội hiện nay.
Đặc điểm nhân khẩu học: giới
tính, năm iinh, uuế uunn, ình
trạng hôn nhân…
Đặc điểm gia đình: mức iôếng,
nghếề nghiệp của những
người thân trong gia đình,
môếi uuan hệ giữa cha mẹ (ly
thân, ly dị)
Nhận thức của cha mẹ vếề nguyến nhân
bạo lực gia đình đôếi với trẻ em ở độ tuổi
từ 5 đếến 10 ở Hà Nội hiện nay.
Nhận thức của cha mẹ vếề hậu uuả bạo lực
gia đình đôếi với trẻ em ở độ tuổi từ 5 đếến
10 ở Hà Nội hiện nay.
Mức độ tếếp cận truyếền
thông đại chúng vếề vâến đếề
bạo lực gia đình, mức độ
chia iẻ thông tn vếề vâến đếề
bạo lực gia đình
Chính inch của Đảng và Nhà N ước
15
Môi trường văn hóa – kinh tếế - xã hội
5.3 Mô tả các biến số
5.3.1 Biến độc lập
Biến đặc điểm nhân khẩu học: giới tính, chủng tộc, thu nhập, trình độ học vấn, địa
bàn sinh sống của người được điều tra…
Đặc điểm gia đình: mức sống, nghề nghiệp của những người thân trong gia đình,
mối quan hệ giữa cha mẹ (ly thân, ly dị).
Mức độ tiếp cận truyền thông đại chúng về vấn đề bạo lực gia đình, mức độ chia sẻ
thông tin về vấn đề bạo lực gia đình.
5.3.2 Biến phụ thuộc
Nhận thức của cha mẹ về nạn bạo lực gia đình đối với trẻ em ở độ tuổi từ 5 đến 10
ở Hà Nội hiện nay:
Nhận thức của cha mẹ về thực trạng bạo lực gia đình đối với trẻ em ở độ tuổi từ 5
đến 10 ở Hà Nội hiện nay.
Nhận thức của cha mẹ về nguyên nhân bạo lực gia đình đối với trẻ em ở độ tuổi từ
5 đến 10 ở Hà Nội hiện nay.
Nhận thức của sinh viên về hậu quả bạo lực gia đình đối với trẻ em ở độ tuổi từ 5
đến 10 ở Hà Nội hiện nay.
5.3.3 Biến can thiệp
Môi trường kinh tế - chính trị - xã hội.
Chính sách của Đảng và Nhà Nước
16
6 Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
6.1 Cơ sở lý luận
Sử dụng lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử làm nền móng tiếp cận.
Vận dụng quan điểm đường lối của Đảng và Pháp luật của Nhà nước được ghi
trong Luật phòng, chống bạo lực bạo gia đình.
Sử dụng các lý thuyết: lý thuyết mạng xã hội, lý thuyết hành vi và lý thuyết tương
tác biểu trưng.
6.2Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng phương pháp định lượng là chính.
6.2.1 Phương pháp nghiên cứu định lượng
Điều tra bằng bảng hỏi anket với tổng mẫu nghiên cứu là 100 các bậc cha mẹ. Đề
tài sử dụng phương pháp ngẫu nhiên hệ thống. Nghiên cứu sử dụng phiếu điều tra
nhằm tìm hiểu những quan điểm, thái độ của các bậc cha mẹ về nạn bạo lực gia đình
trong đó có sự so sánh giữa nhóm nông thôn và thành thị và người đã kết hôn và ly
thân/ly dị.
6.2.2 Phương pháp nghiên cứu định tính
6.2.2.1
Phương pháp phân tích tài liệu
Phương pháp phân tích tài liệu dựa trên công trình nghiên cứu, các báo cáo khoa
học của tập thể và của các cá nhân, các tài liệu có liên quan đến vấn đề bạo lực trong
gia đình nói riêng nhằm làm rõ các khái niệm cơ bản của để tài đó chính là tiền đề cho
nghiên cứu
6.2.2.2
Phương pháp phỏng vấn sâu
Sử dụng phương pháp chọn mẫu có chủ định để chọn ra 5 người ở 4 địa điểm của
địa bàn nghiên cứu để tiến hành thu thập thông tin. Từ đó, số lượng phỏng vấn sâu có
được là 20 người.
17
7. Ý nghĩa của đề tài
7.1 Ý nghĩa khoa học: Nghiên cứu góp phần làm phong thú thêm những nghiên cứu
về bạo lực gia đình, là tài liệu tham khảo cho những nghiên cứu tiếp theo về bạo
lực gia đình và nó giúp cho chúng ta có cái nhìn đúng đắn hơn về bạo lực gia đình
nói chung và bạo lực gia đình đối với trẻ em ở độ tuổi từ 5 đến 10 ở Hà Nội nói
riêng.
7.2Ý nghĩa thực tiễn: Nghiên cứu mong muốn tìm hiểu nhận thức của cha mẹ về bạo
lực gia đình đối với trẻ em ở độ tuổi từ 5 đến 10 ở Hà Nội hiện nay, trên cơ sở đó
đưa ra các khuyến nghị nhằm nâng cao nhận thức của cha mẹ, thay đổi nhận thức
của cha mẹ nói chung và cộng đồng xã hội – các nhà truyền thông để công tác
phòng chống bạo lực gia đình ngày một hiệu quả hơn.
18
7.3PHẦN NỘI DUNG
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CÁCH TIẾP CẬN NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
1 Thao tác hóa khái niệm
1.1Nhận thức
Nhận thức là quá trình hoặc kết quả phản ánh và tái hiện hiện thực vào trong tư
duy. Nhận thức là kết quả con người nhận biết, hiểu biết thế giới khách quan.
Theo quan điểm Triết học Mác – Lênin: Nhận thức là quá trình phản ánh và tái
tạo lại hiện thực trong tư duy của con người, được quy định bởi những quy luật phát
triển của xã hội và không thể tách rời thực tiễn. Mục tiêu của nhận thức là đạt đến
chân lý khách quan. Quá trình nhận thức là thu thập kiến thức, hình thành khác niệm
về hiện thực, giúp con người hiểu biết về thế giới xung quanh. Quá trình nhận thức là
để tích lũy tri thức, kinh nghiệm để từ đó cải tạo thế giới.
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Duy vật biện chứng: Nhận thức là sự phản ánh
thế giới khách quan vào trong bộ óc con người. Nhận thức không phải sự phản ánh
một cách đơn giản, máy móc. Nó là quá trình phát triển một cách biện chứng, quá
trình không ngừng nảy sinh và giải quyết mâu thuẫn. Nhận thức không phải là kết quả
của sự tác động một chiều của các sự vật vào trong giác quan của con người mà nó
hình thành phát triển trên cơ sở tác động một cách tiêu cực của con người vào sự vật
trên cơ sở thực tiễn xã hội. Sự vận động phát triển của nhận thức diễn ra một cách
biện chứng, từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng tới
thực tiễn, đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý ( Nguyễn Hữu Vui,
Nguyễn Ngọc Long, Giáo trình triết học Mác – lênin, NXB Chính Trị Quốc gia Hà
Nội, 2005).
Nhận thức nảy sinh, bộc lộ và phát triển trong sự tương tác giữa chủ thể nhận
thức và khách thể nhận thức trong quá trình phản ánh hiện thực khách quan. Nhận
thức không phải là hoạt động tức thời, đơn giản, máy móc và thụ động mà quá trình
19
biện chứng, tích cực sáng tạo. Quá trình nhận thức diễn ra theo con đường từ trực
quan sinh động đến tư duy trừu tượng rồi từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Đó là
quá trình đi từ chưa biết đến biết, từ bản chất kém sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn.
Trong phạm vi nghiên cứu của tiểu luận, nhận thức của cha mẹ bao gồm việc cha mẹ
hiểu biết và mức độ hiểu biết của cha mẹ về thực trạng, nguyên nhân cũng như hậu
quả của bạo lực gia đình đối với trẻ em ở độ tuổi từ 5 đến 10 ở Hà Nội hiện nay được
phân chia theo các hình thức bạo lực như thế nào.
1.2Bạo lực gia đình
Bạo lực gia đình là bất kỳ hành động nào xảy ra trong gia đình, do các thành
viên của gia đình gây ra, làm tổn thương nghiêm trọng đến cơ thể và cuộc sống tinh
thần hoặc xâm hại quyền tự do của các thành viên khác.
Cho đến nay, trên thế giới và ở Việt Nam có khá nhiều định nghĩa về bạo lực gia đình.
Nó được coi là một dạng đặc biệt của bạo lực trên cơ sở giới nhưng xảy ra trong
khuôn khổ gia đình.
Ở Việt Nam, khái niệm bạo lực gia đình được hiểu là tất cả các loại bạo lực mà
một hay nhiều thành viên trong gia đình gây ra cho một hay nhiều thành viên khác bất
kể giới tính của nạn nhân. Hay có thể hiểu bạo lực gia đình là những hành vi bạo lực
xảy ra trong phạm vi gia đình, đó là sự xâm hại và ngược đãi thân thể hay tinh thần,
tình cảm hay tình dục, kinh tế hay xã hội giữa các thành viên trong gia đình. Nó còn là
sự lạm dụng quyền lực hay hành vi sử dụng vũ lực nhằm hăm dọa hoặc đánh đập
người thân trong gia đình để điều khiển hay kiểm soát người đó.
Tại điều 1, Luật phòng chống Bạo lực gia đình có ghi: “Bạo lực gia đình là hành
vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả nằng gây tổn hại về thể
chất, tinh thần, kinh tế đối với các thành viên khác trong gia đình”.
Tại khoản 1, điều 2 chỉ rõ hành vi bạo lực gia đình:
20
- Xem thêm -