Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng cách mạng trong tiến trình vận động k...

Tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng cách mạng trong tiến trình vận động khởi nghĩa giành chính quyền năm 1945

.PDF
113
64857
148

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN SỸ HÙNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NGOẠI GIAO VÀ SỰ VẬN DỤNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ HÀ NỘI – 2011 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN SỸ HÙNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NGOẠI GIAO VÀ SỰ VẬN DỤNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ Chuyên ngành: Hồ Chí Minh Mã số: 603127 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HOÀNG VĂN TUỆ HÀ NỘI – 2011 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………..1 1. Tính cấp thiết của đề tài.......................................................................................1 2. Tình hình nghiên cứu............................................................................................2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu........................................................................4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.........................................................................4 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu............................................................5 6. Những đóng góp của luận văn...............................................................................6 7. Kết cấu của luận văn..............................................................................................6 Chương 1: NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU TRONG TƯ TƯỞNG NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH ………………………………………………....7 1.1 Khái quát chung về tư tưởng ngọại giao Hồ Chí Minh………………….....7 1.1.1. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh…………………………………………...7 1.1.2. Khái niệm tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh……………………………….7 1.2 Những nội dung chủ yếu trong tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh………10 1.2.1 Cơ sở hình thành tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh………………………..10 a. Chủ nghĩa yêu nước Việt nam…………………………………………………..10 b. Truyền thống văn hóa và truyền thống ngoại giao Việt Nam…………………..13 c. Lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin về quan hệ quốc tế……………………………...26 d. Tiếp thu văn hóa phương Đông, phương Tây và kinh nghiệm ngoại giao thế giới………………………………………………………………………………...30 đ. Tố chất và bản lĩnh ngoại giao Hồ Chí Minh…………………………………...33 1.2.2 Những luận điểm chủ yếu của Hồ Chí Minh về ngoại giao…………………35 a. Tầm quan trọng của ngoại giao và quan hệ quốc tế…………………………….36 b. Ngoại giao phải tôn trọng đảm bảo các quyền dân tộc cơ bản………………….42 c. Độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, gắn liền với đoàn kết và hợp tác quốc tế…….48 d. Kết hợp giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại………………………....52 đ. Đề cao đạo lý và pháp lý trong quan hệ quốc tế cùng với tư tưởng hòa bình chống chiến tranh xâm lược………………………………………………………56 e. Quan tâm xây dựng và phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác bền lâu với các nước láng giềng, coi trọng xử lý đúng đắn mối quan hệ với các nước lớn.......... 63 g. Ngoại giao là một mặt trận……………………………………………………..73 Chương 2: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY…………………….......................................78 2.1 Tình hình thế giới và trong nước……………………………………………78 2.1.1 Xu thế, đặc điểm tình hình thế giới………………….………………………78 2.1.2 Tình hình trong nước………………………………………………………..82 2.2 Vận dụng tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay ….86 2.2.1. Những thành tựu của ngoại giao Việt Nam trong giai đoạn đất nước đổi mới…………………………………………………………………………………86 2.2.2 Một số tồn tại, khó khăn, thách thức của ngoại giao Việt Nam hiện nay (nguyên nhân của nó)…………………………………………………………..….99 2.2.3 Những giải pháp để ngoại giao Việt Nam đáp ứng được yêu cầu phát triển đất nước…………………………………………………………………………….….91 a. Xây dựng đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đặt lợi ích dân tộc lên trên hết cùng với tăng cường đoàn kết mở rộng hợp tác quốc tế, phát huy tinh thần quốc tế trong sáng thuỷ chung……………………………………………………………..91 b. Ngoại giao phải biết đánh giá đúng tình hình trong nước và quốc tế, nắm được xu thế vận động và động cơ của đối tác; tạo khuôn khổ ổn định, lâu dài và ngày càng đi vào chiều sâu quan hệ với các nước lớn và các nước láng giềng chung biên giới. kết hợp giữa tư duy biện chứng với thực tiễn………………………………..95 c. Phối hợp chặt chẽ giữa các mặt trận chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Đặc biệt ngoại giao Việt Nam phải chuyển mạnh sang ngoại giao kinh tế và tiến hành ngoại giao kinh tế một cách hiệu quả…………………………………...98 d. Đẩy mạnh ngoại giao văn hóa…………………………………………………101 đ. Yêu cầu thích nghi với sự đa dạng về đối tác trong bối cảnh hội nhập và đẩy mạnh hơn nữa các hình thức ngoại giao khác……………………………………102 e. Phải thích nghi với sự phát triển của các lực lượng trong nước tham gia hoạt động đối ngoại……………………………………………………………………104 g. Ngoại giao phải hoàn thiện những năng lực mới……………………………..104 KẾT LUẬN……………………………………………………………………...105 TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………..………………….109 DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT ADB: Ngân hàng phát triển châu Á ASEM: Diễn đàn hợp tác Á – Âu ASEAN: Hiệp hội các nước Đông Nam Á AFTA: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN ARE: Diễn đàn khu vực ASEAN IMF: Quỹ tiền tệ quốc tế WTO: Tổ chức thương mại thế giới VNDCCH: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ vĩ đại của Đảng và dân tộc Việt Nam, là anh hùng giải phóng dân tộc và danh nhân văn hóa thế giới. Người chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Hồ Chí Minh không chỉ là người sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, Quân đội nhân dân và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Người còn là nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Trên lĩnh vực ngoại giao, Hồ Chí Minh là nhà ngoại giao kiệt xuất, người sáng lập ra nền ngoại giao Việt Nam hiện đại. Đại hội VII của Đảng 1991 đã khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động”. Đảng đã nhận thức được những giá trị có ý nghĩa chiến lược, đúng đắn và phù hợp với thực tế cách mạng Việt Nam trong tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh nói riêng. Thực tế đã cho thấy những tư tưởng của Người về ngoại giao ngày hôm nay được Đảng ta vận dụng trong quan hệ quốc tế đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ càng chứng tỏ tính đúng đắn trong tư tưởng của Hồ Chí Minh. Qua đó, chúng ta có thể khẳng định tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh thực sự là kho tàng lý luận, là cẩm nang cho hoạt động quan hệ quốc tế của Đảng và ngoại giao của Nhà nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sau hơn 25 năm qua đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử trong đó phải kể tới những đóng góp của mặt trận ngoại giao. Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về các văn kiện Đại hội X do Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh trình bày nêu rõ: “ Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao, sức mạnh tổng hợp của Quốc gia đã tăng lên rất nhiều, 1 tạo ra thế lực và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp.”[17, tr.17] Như vậy, việc nghiên cứu và xây dựng đường lối, chiến lược, phương pháp ngoại giao được coi là một trong những nhiệm vụ trọng yếu của Đảng và Nhà nước ta. Việt Nam cần phải có đường lối, chiến lược, phương pháp ngoại giao đúng đắn phù hợp với tình hình thực tiễn Việt Nam hiện nay và phù hợp với từng đối tượng, từng lĩnh vực ngoại giao cụ thể; có như vậy mới có thể đảm bảo cho sự phát triển và ổn định kinh tế, chính trị, xã hội và sự khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Chính vì lẽ đó, việc nghiên cứu vấn đề: “Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh và sự vận dụng trong giai đoạn hiện nay”, là một đề tài nghiên cứu có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc. 2. Tình hình nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh nói riêng là mảng đề tài được học tập, nghiên cứu, vận dụng phát triển mạnh mẽ và rộng khắp trong nhân dân, giới học giả và các nhà nghiên cứu. Việc nghiên cứu và bàn luận về tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh đã có rất nhiều công trình nghiên cứu như: Công trình nghiên cứu “phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh” của giáo sư Đặng Xuân Kỳ, NXB LLCT, 2004 cũng đã trình bày một số vấn đề có liên quan đến khái niệm “ phương pháp” và “phong cách” Hồ Chí Minh, từ khái niệm tác giả xây dựng hệ thống các phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh và hệ thống các phong cách đặc trưng tiêu biểu của Người, từ đó tác giả cũng khẳng định tầm quan trọng của việc nghiên cứu và vận dụng sáng tạo phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh. Công trình nghiên cứu “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại và sự vận dụng của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới” của Tiến sĩ Đinh Xuân Lý, NXB CTQG, 2007, tác giả đã đi sâu vào việc tìm hiểu những nội dung tư tưởng Hồ 2 Chí Minh về đối ngoại, thành tựu của hoạt động đối ngoại Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, quá trình Đảng ta nhận thức và vận dụng tư tưởng đối ngoại của Người trong thời kỳ đổi mới. Công trình nghiên cứu “Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh” của nguyên Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Dy Niên, NXB CTQG, 2002 tác giả đã đi sâu vào việc phân tích một số vấn đề về nguồn gốc hình thành tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, lý giải những luận điểm và quan điểm của Hồ Chí Minh về các vấn đề thế giới, thời đại, quan hệ quốc tế, chính sách đối ngoại của Đảng và nhà nước Việt Nam, ngoại giao Việt Nam, tác giả còn đưa ra một số phương pháp, phong cách và nghệ thuật đặc sắc trong hoạt động quốc tế và ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng thời đưa ra ý kiến về vận dụng tư tưởng, khẳng định sự cần thiết phải xây dựng một hệ thống lý luận ngoại giao và trường phái ngoại giao Việt Nam đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ đối ngoại ngày càng cao của đất nước. Cuốn “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại - một số nội dung cơ bản”, của Đỗ Đức Hinh, NXB CTQG, 2005 nội dung cuốn sách phản ánh một cách khái quát, có hệ thống những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đối ngoại qua đó rút ra một số nhận xét ban đầu về tư tưởng đối ngoại của Hồ Chí Minh. Công trình nghiên cứu “Hồ Chí Minh – Nhà tư tuởng lỗi lạc” của GS. Song Thành, NXB LLCT, 2005 cũng đã bàn tới “ Tư tưởng và phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh”. Ở chương XII, tác giả đã tóm lược nguồn gốc hình thành, nội dung tư tưởng Ngoại giao Hồ Chí Minh - nền tảng của đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta, phong cách ngoại giao của Hồ Chí Minh - một phong cách văn hoá, đồng thời tác giả còn đề ra mấy vấn đề vận dụng và phát triển tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh trong bối cảnh quốc tế hiện nay. Công trình nghiên cứu “Việt Nam thế giới và hội nhập” của nhà giáo nhân dân – Giáo sư Vũ Dương Ninh, NXB GD, 2007 cũng nhấn mạnh đến quan hệ 3 đối ngoại của Việt Nam qua 60 năm chiến đấu và xây dựng, về quan hệ Việt Nam – ASEAN. Đồng thời, cuốn sách là công trình nghiên cứu về lịch sử cận hiện đại và lịch sử quan hệ quốc tế. Ngoài ra, một số khía cạnh cũng được đề cập trên các báo cáo, tạp chí, nhưng còn mang tính rải rác chưa được tổng kết, đánh giá. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích: Nhằm làm rõ những nội dung ngoại giao nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Qua đó cũng nêu ra những vấn đề vận dụng tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay. Nhiệm vụ: - Làm rõ các khái niệm: “ngoại giao”. “công tác đối ngoại”, “hoạt động ngoại giao”, “quan hệ quốc tế”, “chính sách đối ngoại Hồ Chí Minh”. - Cơ sở hình thành và nội dung tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh. - Sự vận dụng tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh của Đảng ta trong quan hệ quốc tế hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng: Tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng tư tưởng đó của Đảng ta trong quan hệ quốc tế hiện nay. Phạm vi: Trên cơ sở các nguồn tài liệu tản mạn, có phần hạn hẹp, tác giả luận văn cố gắng tập hợp, khái quát, đánh giá, một cách có hệ thống tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng ta trong quan hệ quốc tế hiện nay. Trọng tâm của đề tài là nghiên cứu và giải quyết các nhiệm vụ sau: - Cơ sở hình thành tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh. - Những nội dung cơ bản trong tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh. 4 - Sự vận dụng tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh của Đảng ta trong quan hệ quốc tế hiện nay. Từ đó, luận văn đề xuất một số giải pháp trong đường lối đối ngoại của Đảng ta hiện nay. Đây là vấn đề phức tạp, nhạy cảm, sự vận dụng còn đang tiếp diễn; luận văn chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quan hệ quốc tế ( từ 1986 đến nay). 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm, đường lối đối ngoại của Đảng. Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận mácxit, Luận văn sử dụng một số phương pháp chủ yếu sau: - Phương pháp lịch sử, phương pháp logic và sự kết hợp cả hai phương pháp ấy. - Các phương pháp nghiên cứu liên ngành khác: tổng hợp, so sánh, thống kê. 6. Những đóng góp khoa học của luận văn Luận văn là công trình nghiên cứu có hệ thống về tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở đó Luận văn đề ra một số giải pháp trong đường lối ngoại giao của Đảng. Luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ quốc tế và ngoại giao. 7. Kết cấu luận văn 5 Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, phần nội dung của luận văn gồm 2 chương, 4 tiết. Chương 1: Những nội dung chủ yếu trong tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh. Chương 2: Sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay. Chương 1 NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU TRONG TƯ TƯỞNG NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH 1. 1. Khái quát chung về tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh 1. 1. 1 Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh Khi đề cập đến khái niệm tư tưởng không nên hiểu chỉ là một tập hợp giản đơn những ý tưởng, những suy nghĩ cụ thể trong những hoàn cảnh cụ thể của một con người cụ thể, mà chúng ta muốn nói đến một hàm nghĩa lớn, một hệ thống quan điểm, lý luận mang giá trị như một học thuyết được xây dựng trên một thế giới quan và phương pháp luận nhất định, đại biểu cho ý chí, 6 nguyện vọng của một giai cấp, một dân tộc, phù hợp với nhu cầu tiến hóa của thực tiễn nhất định, trở lại chỉ đạo và cải tạo thực tiễn đó. Về khái niệm Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng cần được hiểu như vậy. Đúng như Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII trước Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX viết: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu văn hóa nhân loại”[15, tr. 83;84]. 1. 1. 2 Khái niệm tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh Trước khi đi đến khái niệm thế nào là “tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh” chúng ta cần tìm hiểu thêm một số khái niệm mang tính công cụ có liên quan trong việc xác định nội hàm và ngoại diên của khái niệm “tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh”. Khái niệm “Ngoại giao”: Có rất nhiều cách hiểu, cách định nghĩa khác nhau về khái niệm ngoại giao, ở đây chúng ta tìm hiểu một số quan điểm được nhiều người cho là xác đáng nhất. Trước hết có quan điểm cho rằng: Ngoại là ngoài, giao là giao tiếp; vậy giao tiếp với ( hoặc ra) nước ngoài gọi là đối ngoại hay ngoại giao để thể hiện mình trong mắt họ có oai hay không? để người ta có tôn trọng mình hay không. Chính là công tác ngoại giao đó. Giữ được nước hay mất nước vấn đề ngoại giao quan trọng lắm. Ngoại giao giỏi thì họ tôn trọng mình, giúp đỡ mình còn không là ngược lại... Ý kiến khác lại cho rằng: Ngoại giao là một nghệ thuật tiến hành trong việc đàm phán, dàn xếp, thương lượng giữa những người đại diện cho một nhóm hay một quốc gia. Thuật ngữ này thông thường đề cập đến ngoại giao quốc tế, việc chỉ đạo, thực hiện các mối quan hệ quốc tế thông qua sự can 7 thiệp hay hoà giải của các nhà ngoại giao liên quan đến các vấn đề như kinh tế, thương mại, văn hoá, du lịch, chiến tranh và kiến tạo nền hòa bình ... Các hiệp ước quốc tế thường được đàm phán bởi các nhà ngoại giao trước tiên để đi đến việc xác nhận chính thức bởi các chính trị gia của các nước. Về mặt xã hội, ngoại giao là việc sử dụng tài xử trí, ứng biến để giành được sự thuận lợi. Nó là một công cụ tạo ra cách diễn đạt các tuyên bố một cách không đối đầu, hay là một cách cư xử lịch thiệp. Theo Từ điển Tiếng Việt, nhà xuất bản Đà Nẵng, năm 2000, “ngoại giao là thuật ngữ chỉ sự giao thiệp với nước ngoài để bảo vệ quyền lợi quốc gia mình và góp phần vào việc giải quyết những vấn đề quốc tế chung. Chỉ sự giao thiệp với bên ngoài, người ngoài”. Ở đây chúng tôi đề cập đến một số khái niệm có liên quan đến khái niệm ngoại giao. “Công tác ngoại giao”: là thuật ngữ dùng để chỉ việc cần phải làm để thực hiện chính sách đối ngoại. Công tác ngoại giao là phương tiện để thực hiện chính sách đối ngoại. Nó bao gồm: vận động ngoại giao, thăm viếng, đàm phán, kí kết hiệp định, hiệp ước…Công tác ngoại giao phải luôn luôn nhằm mục tiêu thực hiện chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước và chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước phải đặt lợi ích dân tộc chân chính lên hàng đầu.[24, tr.5] “Hoạt động ngoại giao”: Là thuật ngữ để chỉ việc làm cụ thể của các vị lãnh đạo, các chính khách, các nhà ngoại giao chuyên nghiệp để thực hiện công tác ngoại giao.[24, tr. 7] “Quan hệ quốc tế”: Là thuật ngữ để chỉ một dạng đặc thù của quan hệ xã hội. Quan hệ quốc tế bao gồm quan hệ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học giữa các quốc gia-dân tộc và các tổ chức chính trị xã hội khác nhau và các cá nhân cụ thể.[24, tr. 6] “Hợp tác quốc tế” là mối quan hệ qua lại giữa các quốc gia bao gồm nhiều lĩnh vực, các công việc, những vấn đề cụ thể, được tiến hành theo 8 những nguyên tắc đã thống nhất trên cơ sở giúp đỡ lẫn nhau, đồng thuận về mục đích và lợi ích.[62, tr.11] “Chính sách đối ngoại”: Là thuật ngữ chỉ toàn bộ phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung, và phương pháp hoạt động của mọi quốc gia trong quan hệ quốc tế tức là quan hệ với các nước khác, các chủ thể khác nhằm tạo điều kiện bên ngoài để bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia, xây dựng và phát triển đất nước, nâng cao vị thế của quốc gia trên trường quốc tế; đồng thời góp phần vào giải quyết những vấn đề quốc tế chung, những vấn đề toàn cầu. Nội dung của chính sách đối ngoại bao gồm: + Các vấn đề liên quan đến bảo vệ độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia, có ý nghĩa an ninh quốc gia + Các vấn đề có liên quan đến xây dựng và và phát triển quốc gia + Các vấn đề có liên quan đến vị thế của quốc gia trên trường quốc tế, có nghĩa là địa vị, uy tín, vai trò của quốc gia trong cộng đồng quốc tế, trong quan hệ với các nước khác trên thế giới. [24, tr.8] Có thể nói, từ những khái niệm trên các chính khách, các chính trị gia, các nhà nghiên cứu và tác giả luận văn, đều chưa đưa ra được một khái niệm nào khác hoàn chỉnh hơn so với khái niệm trong công trình nghiên cứu của nguyên Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao Nguyễn Dy Niên, đó là: “Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh là hệ thống những nguyên lý, quan điểm, quan niệm về các vấn đề thế giới và thời đại, về đường lối quốc tế, chiến lược, sách lược, chính sách đối ngoại và hoạt động ngoại giao Việt Nam thời kỳ hiện đại. Tư tưởng này còn thể hiện trong hoạt động đối ngoại thực tiễn của Hồ Chí Minh và của Đảng, Nhà nước Việt Nam”.[58, tr.89] 1. 2. Những nội dung chủ yếu trong tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh 1. 2. 1. Cơ sở hình thành tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh a. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam 9 Vị trí địa lý tự nhiên của mỗi nước ảnh hưởng lớn đến sự hình thành quốc gia- dân tộc của nước đó. Đồng thời nó cũng hình thành nên cách sinh hoạt và ứng xử của con người với môi trường tự nhiên và con người với môi trường xã hội. Hình thành nên loại hình kinh tế đặc trưng của quốc gia và lịch sử văn hóa của dân tộc cũng như trách nhiệm và quyền lợi chung của tất cả các thành viên của cộng đồng dân tộc. Ngay từ thời kỳ nhà nước Văn Lang, ý thức cộng đồng dân tộc của cha ông ta đã nảy nở. Sự tích con Rồng cháu Tiên, sự tích về bọc trăm trứng nhằm khẳng định một tổ tiên chung, một nguồn gốc chung, đó cũng là bằng chứng hùng hồn nhất về ý thức cộng đồng dân tộc, đó cũng là biểu hiện của tinh thần yêu nước nồng nàn: “Bầu ơi thương lấy bí cùng Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn” Vì vậy: “Không thể nói yêu đất nước mà lại không yêu con người, yêu đồng bào với những truyền thống lịch sử hào hùng. Ngược lại, không thể nói yêu con người, đồng bào, dân tộc Việt Nam lại không yêu non sông đất nước. Yêu nước Việt Nam cũng có nghĩa là yêu non sông, đất nước, yêu dân tộc, con người, nhân dân Việt Nam, yêu đồng bào, yêu quê hương, quốc gia, Tổ quốc, yêu những truyền thống văn hóa hào hùng của dân tộc”. [29, tr. 11] Chủ nghĩa yêu nước cũng biểu hiện ở các cuộc chiến âm ỉ nhưng cũng quyết liệt của nhân dân ta chống lại chính sách đồng hóa của ngoại bang. Chính vì đó, dân tộc ta tránh được sự đồng hóa qua hơn 1000 năm Bắc thuộc. Chủ nghĩa yêu nước còn thể hiện rất rõ ở bài thơ Thần của Lý Thường Kiệt: “Sông núi nước Nam vua Nam ở Rành rành đã định ở sách trời Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời” 10 Đến thời Trần, đất nước phải liên tiếp chống lại các cuộc tiến công mạnh mẽ như vũ bão của quân xâm lược Nguyên Mông thì tinh thần yêu nước được thể hiện rõ trong hào khí Đông A, ý chí quyết tâm đánh giặc của toàn dân tộc được thể hiện ở các bô lão trong hội nghị Diên Hồng, với tiếng vang “Đánh” như khích lệ tinh thần quả cảm của cả một dân tộc anh hùng. Đó là tinh thần khảng khái, quyết tâm chống giặc không chịu đầu hàng của Quốc công tiết chế Trần Quốc Tuấn khi trả lời nhà vua Trần Nhân Tông: “Nếu bệ hạ muốn hàng, trước hết hãy chém đầu thần đi đã” và sự đồng lòng của các tướng sĩ khi thích vào cánh tay hai chữ “Thát sát”. Đặc biệt tinh thần đó được thể hiện rỏ nét và sâu đậm trong “Hịch tướng sĩ”. Đến thời nhà Lê thì tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, và khẳng định độc lập và chủ quyền quốc gia được thể hiện rõ trong “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi: Như nước Việt ta từ trước, Vốn xưng nền văn hiến đã lâu, Sơn hà cương vực đã chia, Phong tục Bắc Nam cũng khác. Từ Đinh, Lê, Lý, Trần, gây nền độc lập, Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, hùng cứ một phương Dẫu cường nhược có lúc khác nhau, Song hào kiệt đời nào cũng có. Đến triều đại Tây Sơn tinh thần yêu nước đó được thể hiện rõ qua tờ chiếu lên ngôi của vua Quang Trung: “Trẩm có cả thiên hạ, sẽ cùng dắt díu dân trên con đường lớn, đặt vào đài xuân”. Trong lễ “thệ sư”, Nhà vua đã hiểu dụ tướng sĩ quyết tâm “Đánh cho sử chi Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”. Trong quá trình đấu tranh chống lại bọn xâm lược thì tinh thần yêu nước của dân ta được phát huy cao độ thành chủ nghĩa anh hùng: “Dân ta có một lòng 11 nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước. Lịch sử ta đã có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của nhân dân ta. Chúng ta có quyền tự hào vì những trang lịch sử vẽ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, v.v. Các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng”.[49, tr.171;172] Như vậy chủ nghĩa yêu nước ở Việt Nam là sự biểu hiện của tự ý thức dân tộc dưới dạng hệ thống quan điểm tư tưởng lý luận và hệ giá trị của dân tộc. Đó là ý thức hệ dân tộc hoặc chủ nghĩa dân tộc - yêu nước. Ý thức hệ đó bắt đầu từ lòng tự hào về : Dân tộc ta là con Rồng cháu Tiên, có nhiều người tài giỏi đánh Bắc dẹp Nam, yên dân trị nước tiếng để muôn đời. Tiếp đó là ý thức về quyền độc lập dân tộc, bắt đầu từ “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” cho đến quyết tâm "Sát Thát” ở đời Trần, tinh thần quyết chiến của Nguyễn Huệ "Đánh cho phiến giáp bất hoàn, đánh cho Nam quốc sơn hà chi hữu chủ”, từ triết lý "Nước là của chung chứ không phải của một dòng họ nào" (Nguyễn Bỉnh Khiêm) đến nhà nước của dân vì dân, do dân và "lòng căm ghét bọn xâm lược". cai trị, can thiệp dưới các chiêu bài khác nhau; chống lại chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi. Chủ nghĩa yêu nước ấy đã được phát huy cao độ trong thời đại Hồ Chí Minh. Ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp với chủ nghĩa quốc tế trong sáng thể hiện việc chống lại các tư tưởng áp bức, thống trị, can thiệp dưới các chiêu bài khác nhau, chống lại chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, ích kỷ; chống lại sự áp đặt xâm hại lợi ích các dân tộc khác dưới các hình thức khác nhau…Hồ Chí Minh suốt đời đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc mình và phấn đấu vì hòa bình, tiến bộ của nhân loại. b. Truyền thống văn hóa và truyền thống ngoại giao Việt Nam 12 Truyền thống văn hóa Việt Nam Văn hóa là một khái niệm rộng, đã có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa. Tuy nhiên, vẫn có một điểm chung được mọi người thừa nhận: Văn hóa là một hệ thống các giá trị về vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. Vậy truyền thống văn hóa Việt Nam có những đặc trưng gì nổi bật? Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước đã tạo cho Việt Nam có một truyền thống lâu đời, bền vững đó là truyền thống lịch sử, truyền thống dân tộc. Cái hồn của truyền thống ấy là văn hóa và bản lĩnh sáng tạo, sức sống của con người Việt Nam. Dân tộc Việt Nam có một truyền thống từ lâu đời về văn hóa và văn hiến, kết tinh thành hệ giá trị chân - thiện - mỹ như một hệ giá trị phổ quát của văn hóa, của mọi dân tộc trong quốc gia mình và trong cộng đồng nhân loại. Song mỗi dân tộc, do những điều kiện và hoàn cảnh lịch sử riêng của mình, từ những trải nghiệm trực tiếp trong thực tiễn lao động và đấu tranh, trong môi trường tự nhiên và xã hội để tồn tại và phát triển, lại có những quan niệm và cách thức biểu hiện riêng của mình về chân - thiện - mỹ. Nó biểu hiện thành tâm lý và ý thức, phong tục tập quán và lối sống, tạo thành tính cách của con người và cộng đồng dân tộc. Các giá trị văn hóa truyền thống đó kết tinh lại trong quan niệm, tư tưởng, triết lý, trong đạo đức và cách thức ứng xử, phản ánh diện mạo tinh thần, tâm hồn và tình cảm của cả một dân tộc, có trong các sản phẩm vật thể và phi vật thể của văn hóa. Trong văn hóa tinh thần (phi vật thể) và đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc Việt Nam truyền thống, qua các thời đại lịch sử cần đặc biệt chú trọng tới một lĩnh vực rất phong phú và tinh tế nằm chung trong cấu trúc của văn hóa, ấy là văn học, nghệ thuật, bao gồm cả dòng văn học dân gian và dòng văn học bác học. Đây là di sản tinh thần rất quan trọng mà các thế hệ người Việt Nam từ xa xưa - tổ tiên, ông cha chúng ta đã sáng tạo ra, đã để lại cho đời sau. Nó phải được bảo tồn và phát huy, được kế thừa và phát triển trong những điều kiện lịch sử mới. Nó cần phải có mặt trong hành trang của những con người Việt Nam hiện 13 nay, nhất là thế hệ trẻ nhập cuộc với đổi mới để phát triển, đổi mới trong nội tại của đất nước, con người và dân tộc mình đồng thời hội nhập với bên ngoài để phát triển và hiện đại hóa. Việt Nam là quốc gia có khí hậu và điều kiện tự nhiên rất thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp, đặc biệt rất phù hợp cho việc trồng cây lúa nước. Từ xa xưa cây lúa nước đã trở thành cây trồng chủ yếu nuôi sống con người Việt từ thế hệ này đến thế hệ khác, cây lúa luôn gắn liền với hoạt động sản xuất của cư dân Việt. Vì vậy cũng có thể khẳng định rằng nền văn minh của người Việt là nền văn minh lúa nước. Việc phát triển nền nông nghiệp lúa nước không thể là việc của một số ít người mà đòi hỏi sự chung sức của số đông, của cả cộng đồng. Do đó, từ rất sớm những cư dân Việt đã sớm ý thức được rằng họ không thể sống biệt lập mà phải cố kết lại với nhau để cùng tồn tại, phát triển. Cốt cách Việt Nam định hình trong thử thách khắc nghiệt chống thiên tai và chống ngoại xâm, đoàn kết và cố kết cộng đồng, nương tựa vào nhau để tồn tại và phát triển, bởi sức mạnh của hợp tác và đồng thuận. Sức mạnh ấy chẳng những được quy định thành văn mà còn được tổng kết thành triết lý sống và thành phương châm ứng xử, chỉ dẫn hành động, sự khẳng định các giá trị. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống có trong mối liên kết giữa Nhà với Làng với Nước, là liên kết cộng đồng, lấy sức mạnh ở tổng thể, trong đó từng cái riêng, đơn lẻ và cá thể được tập hợp và hòa đồng trong cái chung của cộng đồng rộng lớn, lấy tương đồng, cố kết cộng đồng để khắc phục những khác biệt và những xung đột. Từ bao đời nay, sức sống của nền văn hóa truyền thống Việt Nam được lưu giữ và thể hiện mạnh mẽ nhất ở văn hóa làng. Làng là đơn vị cư trú cơ bản của nông thôn người Việt và đã hình thành từ rất sớm ( trước khi có nhà nước). Làng xã là kết quả của một chế độ xã hội riêng của Việt Nam, một chế độ thống nhất trên cả nước, nảy sinh trên nền tảng sinh hoạt của con người trong khung cảnh làng xã ở nông thôn. Trong làng có đủ sĩ, nông, công, thương, có đình, có chùa, có trường học, từ đó mà văn hóa làng xã có tính đa 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan