A. Đặt vấn đề
I. Lý do chọn đề tài :
1. Cơ sở lý luận :
Mục tiêu của giáo dục trung học cơ sở theo điều 23 luật giáo dục là “Giúp
học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục tiểu học, có trình độ
học vấn THCS và có những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để
tiếp tục học THPT, THCN, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động…” quán
triệt mục tiêu đó, chúng ta đã có một chương trình THCS và SGK mới. Môn
Ngữ văn là môn học có nhiều thay đổi nhất trong các môn học ở trường THCS.
Sự thay đổi rõ thể hiện ở tên môn học và nguyên tắc tích hợp chương trình góp
phần hình thành cho học sinh năng lực phân tích, bình giá và cảm thụ văn học
với việc hình thành 4 kỹ năng nghe, nói, đọc, viết vốn là hai quá trình gắn bó
hữu cơ và hỗ trợ nhau hết sức đắc lực. Sự sắp xếp chương trình cũng trên cơ sở
quy đồng, đồng tâm, tích cực hoá hoạt động của học sinh trong quá trình dạy
học. Nó thể hiện sự kế thừa và phát triển nâng cao của hệ thống kỹ năng, tri
thức phù hợp với sự phát triển tâm sinh lý lứa tuổi, lớp, bậc học.
2. Cơ sở thực tiễn :
Chương trình và SGK ngữ văn lớp 7 tiếp tục thể hiện nguyên tắc hai tích
(tích hợp và tích cực) trên cơ sở đồng quy, đồng tâm và tích cực hoá hoạt động
của học sinh để các yêu cầu : Giảm tải, gắn thực tiễn, tăng thực hành, rèn luyện
kỹ năng cơ bản : Đọc, nghe, nói, viết… nhằm tạo ra hiệu quả tổng hợp cao, chất
lượng học mới chương trình và SGK Ngữ văn 7 đã có sự đổi mới trong việc
thừa kế và phát triển những ưu điểm của chương trình cũ. Điều đó được thể
hiện ở việc chương trình và SGK Ngữ văn 7 đã láy lại không ít văn bản - tác
phẩm hay của chương trình và SGK chỉnh lý năm học 1995.
Thơ Đường luật chiếm vị trí quan trọng trong chương trình và SGK Ngữ
văn 7. Trong số đó phải kể đến những bài thơ trung đại Việt Nam: Tụng giá
hoàn Kinh sư ( Phò giá về kinh) - Trần Quang Khải, Côn Sơn ca (Bài ca Côn
trích) - Nguyễn Trãi; Bánh trôi nước - Hồ Xuân Hương, Qua Đèo Ngang - Bà
Huyện Thanh Quan…Bên cạnh đó, là một số bài thơ đường của các tác giả
Trung Quốc : Vọng Lưu Sơn bộc bố (Xa ngắm thác núi Lư), Tĩnh dạ từ (Cảm
nghĩ trong đêm thanh tĩnh)- Lý Bạch; Mao ốc vị thu phóng ở phà ca (Bài ca nhà
tranh bị gió thu phá) - Đỗ Phủ từ lớp 9 chuyển xuống. Ngoài ba bài thơ Đường
trên học sinh lớp 7 còn được học và đọc thêm bài: Hồi hương ngẫu thư (Ngẫu
nhiên viết nhân buổi mời về quê) - Hạ Tri Chương; Phong Kiều dạ bạc (Đêm đỗ
thuyền ở bến phong kiều- Trương Kế. Những văn bản thơ Đường được học đã
đạt các yêu cầu tốt, hay đẹp và phù hợp tâm sinh lí và tầm đón nhận của học
sinh lớp 7. Vấn đề đặt ra ở đây là tổ chức giờ dạy học, hướng dẫn học sinh tiếp
thu tri thức, phân tích, bình giá, cảm thụ những tác phẩm đó như thế nào để đạt
1
hiệu quả cao nhất? Năm học 2005 - 2006 là năm thứ ba thực hiện đại trà
chương trình và SGK ngữ văn 7 mới ; tuy nhiên giáo viên vẫn còn có những
khó khăn trong việc hướng dẫn tìm hiểu văn bản thơ Đường.
II. Mục đích đề tài :
Với cơ chế trước đây, thơ Đường được dạy một cách cô lập. Nay hoàn toàn
khác tiếng Việt, Tập làm văn đều dùng chất liệu thơ Đường không chỉ để khắc
hoạ kiến thức mới mà còn để làm đề luyện tập. Nhờ vào các kiến thức tiếng
Việt, Tập làm văn mà việc khai thác văn bản sâu sắc và kỹ càng hơn. Để đi sâu
vào việc nghiên cứu, soạn giáo án cho bài học văn bản thơ Đường, giáo viên
cần có thời gian và dày công tìm tòi, học hỏi. Vì điều kiện thời gian cũng như
khả năng có hạn, chuyên đề bước đầu nghiên cứu và mạnh dạn có những suy
nghĩ “Bước đầu tìm hiểu phương pháp giảng dạy văn bản thơ Đường trong
chương trình Ngữ văn 7 theo hướng tích hợp”. Hy vọng rằng chuyên đề sẽ có
ích với các đồng chí giáo viên bộ môn trong việc soạn giáo án và hướng dẫn
học sinh học tập có hiệu quả các văn bản thơ Đường trong chương trình và
SGK mới. Đồng thời, nó cũng là tài liệu cho các đồng chí giáo viên giảng dạy
môn Văn - Tiếng Việt tham khảo để dạy các tác phẩm thơ Việt Nam viết theo
thể Đường luật đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính
tích cực của học sinh trong quá trình học tập.
III. Đối tượng nghiên cứu :
- Chuyên đề tập trung khảo sát 5 văn bản thơ Đường trong chương trình
SGK Ngữ văn 7.
- 2 lớp học khối 7 của trường
IV. Phương pháp nghiên cứu :
Thống kê, phân loại, so sánh, phân tích, tổng hợp.
2
B. Giải quyết vấn đề
I. Vài nét về thơ đường :
1. Khái quát về xã hội, các giai đoạn phát triển thơ Đường :
Trong lịch sử xã hội phong kiến Trung Quốc, đời Đường có vị trí khá đặc
biệt. Nhà Đường (618 - 907) khởi đầu là Cao Tổ Lý Uyên) hiệu Vũ Đế cho đến
Ai Đế (hiệu Thiên Hựu) tồn tại gần ba thế kỷ. Trung Quốc thời kỳ này là một
quốc gia độc lập, giầu mạnh, phồn vinh trên tất cả các phương diện kinh tế,
chính trị, xã hội, văn hoá. Hoàn cảnh xã hội ấy đã tạo những cơ sở vật chất
thuận lợi cho sự phát triển Văn hoá nói chung của Văn học và thơ ca nói riêng.
Trong khoảng thời gian đó, thơ Đường - một sản phẩm thuộc lĩnh vực văn học
đã đạt được thành tựu rực rỡ. Ngày nay, nó đã trở thành một di sản văn hoá vô
cùng quý báu không chỉ cho nhân dân Trung Hoa mà cả toàn thế giới. Thơ
Đường hiện còn lưu giữ được hơn 48.000 bài của hơn 2.300 nhà thơ với nội
dung phong phú, nghệ thuật trác việt.
Các nhà nghiên cứu văn học sử Trung Quốc đã chia các giai đoạn sáng tác
làm 4 thời kỳ :
- Thời Sơ Đường (618 -713) có tứ kiệt là Dương Quýnh, Lô Chiến Lân,
Lạc Tân Vương và Vương Bột.
- Thời kỳ Thịnh Đường (713-766) kinh tế xã hội phát triển mạnh mẽ và
bước vào giai đoạn phồn vinh. Đây là nhân tố làm nẩy sinh nguồn cảm hứng
sáng tác, Lý Bạch là đỉnh cao của chủ nghĩa lãng mạn lúc đó, với mệnh danh là
“Tiên thơ”. Bên cạnh Lý Bạch là một đỉnh cao khác nhưng thuộc chủ nghĩa
hiện thực là Đỗ Phủ với mệnh danh là “Thánh thơ”
- Thời kỳ Trung Đường (766 - 835) nổi tiếng hơn cả là Bạch Cư Dị với 14
thể loại ông tự phân : phùng dụ, nhân thích, cảm thương và tạp luận. Bạch Cư
Dị còn là một nhà phê bình văn học nổi tiếng.
- Thời kỳ Vãn Đường (835 - 907) xã hội Trung Quốc bước vào giai đoạn
đen tối. Dòng thơ hiện thực về kỹ thuật biểu hiện không có gì đáng kể nhưng
nội dung tư tưởng thì tiến bộ. Dòng thơ lãng mạn thì kế thừa đời trước, trong
đó nổi danh là Đỗ Mục, Lý Thương ẩn, Ôn Đình Quân.
Như vậy thơ Đường phản ánh một cách toàn diện xã hội đời Đường, thể
hiện quan niệm, nhận thức, tâm tư, tình cảm…của con người đời Đường một
cách sâu sắc. Nội dung phong phú được thể hiện bằng hình thức toàn mĩ. Thành
tựu trên các phương diện của thơ Đường đều đạt đến đỉnh cao. ở Việt Nam việc
học tập thơ Đường đã có từ ngàn năm nay. Nhiều nhà thơ Việt Nam như : Hồ
Xuân Hương, Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Bà Huyện Thanh
Quan đã sử dụng thể thơ Đường luật để viết nhiều bài thơ có giá trị trong quá
trình sử dụng đã dân tộc hoá thể thơ này về nhiều phương diện. Do tính chất gò
bó về hình thức từ lâu, đối với số đông người làm thơ, thơ Đường luật khó diễn
tả được đầy đủ, sinh động tình cảm của con người hiện đại. Tuy vậy, thơ Đường
3
luật thỉnh thoảng vẫn còn xuất hiện trên một số lĩnh vực và một số trường hợp
nhất định trong đời sống văn hoá của nhân dân ta.
2. Hình thức nghệ thuật thơ Đường :
Thành quả sáng tác thơ Đường đã hình thành nên cao trào thi ca cổ điển
Trung Quốc với một nội dung rộng rãi mà sâu sắc, kĩ xảo biểu hiện trác việt và
đa dạng, mỗi người một vẻ đã phản ánh bộ mặt xã hội đời Đường một cách sâu
rộng.
a) Thể thơ :
Thơ Đường có 2 thể chính là cổ thể và cận thể.
* Cổ thể (cổ phong) : nguồn gốc xuất hiện trước đời Đường. Đặc điểm cổ
thể: chỉ cần có vần, không cần có đối, không hạn định chặt chẽ về cách gieo
vần, và quan hệ bằng trắc, không chặt chẽ về đối ngẫu. Có thể : gồm ngũ cổ
(mỗi câu 5 tiếng) và thất cổ (mỗi câu 7 tiếng) . Hình thức thất cổ tự do, có câu
không phải 7 tiếng (bài cổ thể: Mao ốc vị thu phong sở phá ca - Bài ca nhà
tranh bị gió thu phá - Đỗ Phủ).
* Cận thể (Kim thể - thơ Đường luật): thể thơ cách luật ngũ ngôn hoặc thất
ngôn được đặt ra từ đời Đường ở Trung Quốc, có 3 dạng chính :
- Thơ bát cú : mỗi bài 8 câu
- Thơ tứ tuyệt : mỗi bài 4 câu
- Bài Luật (trường luật) dạng kéo dài của thơ Đường luật.
b) Luật thơ :
Luật thơ Đường hết sức chặt chẽ, thể hiện ở những điểm sau :
* Về bố cục :
Bài bát cú : gồm 4 phần :
- Đề : Câu 1 (phá đề): nêu ý tổng quát được biểu thị ở đầu đề bài thơ.
Câu 2 (thừa đề) : chuyển ý thơ đi sâu vào nội dung.
- Thực : Câu 3, 4 (thích thực), (cập trạng) giải thích rõ ý của đầu bài.
- Luận : Câu 5, 6 phát triển rộng ý của đầu bài.
- Kết : Câu 7, 8 kết thúc ý toàn bài.
VD : Thu hứng (cảm xúc mùa thu)- Đỗ Phủ :
Đề : Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm
Vu Sơn Vu Hiệp khí tiêu sâm
Thực : Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng
Tái thượng phong vân tiếp địa âm
Luận : Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ
Cô châu nhất hệ cố viên tâm
Kết : Hàn ý xứ xứ thôi đao xích
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm
* Về luật bằng trắc:
Luật cả bài : Căn cứ vào chữ thứ 2 của câu 1
(Nếu là thanh bằng : bài luật bằng
Nếu là thanh trắc : bài thơ luật trắc)
4
VD : 1) Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ - Thôi Hiệu (luật bằng)
(Ông tiên thời xưa đã cưỡi con hạc vàng bai đi)
2) Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên - Lý Bạch (luật trắc)
(Mặt trời chiếu núi Hương Lô sinh làn khói tía)
Theo hệ thống ngang gọi là Luật : các chữ 1, 3, 5 (được tự do) nhất tam
ngữ bất luận. Các chữ 2, 4, 6 (đối nhau đúng luật) nhị tứ lục phân minh, tức
thanh của chữ thứ 4 ngược với thanh của hai chữ thứ 2 và thứ 6; cụ thể chỉ có
thể TBT, BTB.
VD : Giang gian ba lãnh kiêm thiên dũng
(Giữa
dòng
cả
1
2 sông
3
4sóng 5tung nuốt
6
7 bầu trời)
Tái thương phong vân tiếp địa âm
(Trên cửa ải mây bay sát đất làm tối sầm lại)
Thu hứng (Cảm xúc mùa thu) - Đỗ Phủ
Theo hệ thống dọc gọi là Niêm (dính nhau). Hệ thống này cũng lấy căn cứ
các chữ cái thứ hai, tư, sáu theo quy tắc nhị tứ lục phân minh, bằng niêm với
bằng, trắc niêm với trắc : Câu 1 - 8, câu 2 - 3, cần 4 - 5, câu 6 - 7.
VD : Vu Sơn Vu Hiệp khí tiêu sâm
(câu 2)
(Núi Vu kẽm Vu quạnh hơn thu)
Giang gian ba lãnh kiêm thiên dũng
(câu 3)
(Giữa dòng sông sóng tung nuốt cả bầu trời)
Thu hứng (cảm xúc mùa thu) - Đỗ Phủ
* Vần(vận) :
Một bài bát cú gồm 5 vần, thơ Đường luật cửi được gieo một vần và chỉ
dùng vần bằng (độc vận). Vần được gieo ở cuối các câu 1-2-4-6-8; cũng có hình
thức trốn vần (chiết vận) tức là hai câu đầu có thể không áp vần. Riêng cuối câu
1 (nhất là thơ ngũ ngôn) có thể không gieo vần.
VD : Bài thu hứng của Đỗ Phủ, vần được gieo cuối các câu 1 - 2 - 4 - 6 - 8
là : Lâm - sâm - âm - tâm - châm.
* Đối :
Đây là một nguyên tắc bắt buộc của luật thi; là biện pháp tu từ tạo nên sự
hài thanh và câu chỉnh, tăng hiệu quả biểu đạt. Đối ở phần thực và phần luận là
bắt buộc. Đối giữa câu trên và câu dưới gọi là đại đối.
VD : Cử đầu / vọng minh nguyệt
Đê đầu/ tư cố hương
(Ngẩng đầu ngắm vầng trăng sáng
Cúi đầu nhớ quê cũ)
(Tĩnh dạ từ - Cảm nghĩ trong đêm thanh
tĩnh
- Lý Bạch)
- Đối thanh :
5
VD : Giang bạn độc bộ tầm hoa - Một mình dạo chơi tìm hoa ven sông.
(Đỗ Phủ)
“ Lưu liên hí điệp thời cơ vũ
B B T T B B T
Tự tại Kiều oanh kháp kháp đề
T T B B
T
T B
(Chốc chốc lại có bướm vờn bay
Con chim oanh oanh xinh đẹp đáng yêu thảnh thơi hót lảnh lót)
Đối từ : Thực từ với thực thừ, hư từ với hư từ.
VD : Lưu liên/ tự tại (thực từ - thự từ)
điệp/ oanh (danh từ - danh từ)
Thời thời/ kháp kháp (từ lặp - từ lặp)
Vũ/ đế (động từ - động từ)
- Đối ý : Chính đối và phản đối. Chính đối là 2 câu có ý tương hợp. Phản
đối là 2 câu có ý tương phản, trái ngược nhau.
VD : Tĩnh dạ tứ (Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh) - Lý Bạch
Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê dầu tứ cố hương
Đối giữa hai hoạt động vận động và tâm tư về mặt trạng thái : thưởng
ngoạn / trầm tư.
Trong nội bộ một câu : đối giữa vế trước và vế sau thi pháp thơ Đường gọi
là tiểu đối.
VD : Hồi hương ngẫu thư (Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê)
(Hạ Tri Chương)
Thiếu tiểu li gia >
- Xem thêm -