Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Công cụ thuế quan trong chính sách ngoại thương của việt nam...

Tài liệu Công cụ thuế quan trong chính sách ngoại thương của việt nam

.DOCX
38
253
88

Mô tả:

CÔNG CỤ THUẾ QUAN TRONG CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG CỦA VIỆT NAM Lớp: Kinh tế quốc tế 1 (217)_1 Nhóm C1 Chương I: Tổng quan về chính sách ngoại thương và công cụ thuế quan 1.1. Chính sách ngoại thương 1.1.1. Khái niệm và vai trò 1.1.1.1. Khái niệm Chính sách ngoại thương là một hệ thống các nguyên tắc, biện pháp kinh tế, hành chính và pháp luật dùng để thực hiện các mục tiêu đã xác định trong lĩnh vực ngoại thương của một nước trong thời kỳ nhất định. Chính sách ngoại thương là một bộ phận quan trọng của chính sách kinh tế của một nước, nó góp phần thúc đẩy thực hiện các mục tiêu kinh tế của đất nước trong từng thời kỳ. Mục tiêu phát triển kinh tế của một đất nước trong từng thời kỳ có khác nhau, cho nên đường lối chính sách ngoại thương phải thay đổi để đạt được những mục tiêu cụ thể của chính sách kinh tế. Không có chính sách ngoại thương áp dụng cho mọi thời kỳ phát triển kinh tế. Tuy nhiên, các chính sách ngoại thương đều có tác dụng bảo vệ sản xuất trong nước, chống lại sự cạnh tranh từ bên ngoài, tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển và bành trướng ra bên ngoài. 1.1.1.2. Vai trò Không có chính sách ngoại thương áp dụng cho mọi thời kỳ phát triển kinh tế. Tuy nhiên, các chính sách ngoại thương đều có tác dụng bảo vệ sản xuất trong nước, chống lại sự cạnh tranh từ bên ngoài, tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển và bành trướng ra bên ngoài. Bên cạnh đó nó cũng có các vai trò sau : - Chính sách ngoại thương là cầu nối liên kết kinh tế trong nước với kinh tế thế giới, tạo cơ hội cho một quốc gia hội nhập về kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giơi theo những bước đi có hiệu quả . - Chính sach ngoại thương có nhiệm vụ cân bằng cán cân thanh toác thu chi. Các hoạt động ngoại thương không chỉ đơn thuần tác động đến sự phát triern và cân đối nền kinh tế trong nước mà còn có nhiệm vu đặc thù là cân bằng cán cân thanh toán quốc tế. 1.1.2. Các kiểu chính sách ngoại thương điển hình Mỗi nước đều có chính sách ngoại thương riêng phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế riêng của từng nước, ở từng thời kỳ phát triển. Tuy nhiên, chính sách phát triển ngoại thương của các nước có thể phân loại theo hai tiêu thức cơ bản sau: - Phân loại theo mức độ tham gia của Nhà nước trong điều tiết hoạt động ngoại thương. - Phân loại theo mức độ tiếp cận của nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới. 1.1.2.1. Phân loại trên mức độ tham gia của Nhà nước trong điều tiết hoạt động Chính ngoại sách mậu thương. dịch tự do: - Quá trình sản xuất, xuất khẩu và nhập khẩu được tiến hành một cách tự do, chính phủ không sử dụng các công cụ thuế quan, hạn ngạch để hạn chế xuất khẩu và nhập khẩu. - Quy luật cạnh tranh điều tiết sự hoạt động của sản xuất, tài chính và thương mại trong nước. Chính sách bảo hộ mậu dịch. - Chính phủ áp dụng những biện pháp thuế và phi thuế như thuế nội địa, giấy phép, hạn ngạch, các biện pháp kỹ thuật để hạn chế hàng hóa nhập khẩu. - Chính phủ nâng đỡ các nhà xuất khẩu nội địa bằng cách cắt, giảm hoặc miễn thuế xuất khẩu, doanh thu, lợi tức. Trợ cấp xuất khẩu đối với các mặt hàng khuyến khích để công ty có lợi thế cạnh tranh. Hiện nay, không nước nào thi hành chính sách này hay chính sách khác một cách tuyệt đối mà tùy từng trường hợp, trong một số ngành hàng, sản phẩm nếu thấy rằng áp dụng chính sách tự do sẽ phát triển tốt hơn, chính phủ sẽ để mậu dịch tự do. Còn một số ngành ảnh hưởng đến sức khỏe, an toàn an ninh của cộng đồng thì các chính phủ quản lý bằng việc thi hành chính sách bảo hộ mậu dịch. 1.1.2.2. Phân loại theo mức độ tiếp cận nền kinh tế quốc gia với thế giới. Chính sách hướng nội. ( Invard Oriented Trade Policies). - Kinh tế phát triển tự lực cánh sinh dựa trên tài nguyên sẵn có của quốc gia, chính phủ điều hành mọi hoạt động kinh tế nhằm sử dụng tối đa nguồn lực, tài nguyên, tạo ra sản phẩm hàng hóa phục vụ cho người dân trong nước. Chính phủ cũng điều hành và can thiệp tuyệt đối vào hoạt động xuất nhập khẩu, phân phối ngoại thương. - Cố gắng hình thành ngành công nghiệp riêng của nước mình, sản xuất hàng hóa phục vụ cho nhu cầu nội địa, hướng về thực hiện chiến lược công nghiệp hóa thay thế hàng nhập khẩu, . - Không khuyến khích và ít có quan hệ với thị trường thế giới. Chính sách hướng về xuất khẩu. (Qutward Oriented Trade Policies). - Tham gia vào quá trình phân công khu vực và quốc tế, hướng về thị trường, thực hiện chuyên môn hóa đễ cạnh tranh. - Nền kinh tế lấy xuất khẩu làm động lực phát triển, phát triển công nghiệp ưu tiên cho xuất khẩu. - Theo từng quốc gia, có thể hướng về xuất khẩu dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên, gia công sản phẩm hay dựa vào lợi thế so sánh. 1.1.3. Các công cụ chủ yếu 1.1.3.1. Công cụ thuế quan : là loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hóa xuất khẩu hay nhập khẩu của mỗi quốc gia hoặc hàng quá cảnh. 1.1.3.2. Công cụ phi thuế quan : Trong khuôn khổ WTo, khái niệm phi thuế quan được coi là :” Biện pháp phi thuế quan là biện pháp ngoài thuế quan , liên quan hoặc ảnh hưởng đến sự luân chuyển hàng hóa giữa các nước”, còn :” Hàng rào phi thuế quan là những biện pháp phi thuế quan mang tinh cản trợ đối với thương mại mà không dựa trên cơ sở pháp lý, khoa học hoặc bình đẳng ”. 1.2. Thuế quan 1.2.1. Khái niệm, phân loại và vai trò 1.2.1.1. Khái niệm Thuế quan hay thuế xuất nhập khẩu là tên gọi chung để gọi hai loại thuế trong lĩnh vực thương mại quốc tế đánh vào mỗi đơn vị hàng hóa xuất khẩu hay nhập khẩu của mỗi quốc gia. Thuế quan có 2 loại là thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu. Thuế nhập khẩu là thuế đánh vào hàng hóa nhập khẩu, còn thuế xuất khẩu là thuế đánh vào hàng hóa xuất khẩu. Thuế quan được biết đến như một hình thức lâu dài nhất của chính sách mậu dịch và là một công cụ truyền thống để làm tăng thu ngân sách nhà nước. 1.2.1.2. Phân loại Thuế quan được chia làm nhiều loại khác nhau theo những phương thức khác nhau: Theo phương thức tính thuế: Thuế quan theo đơn giá hàng: là một tỷ lệ phần trăm nào đó của mặt hàng, chẳng hạn 10% trên giá CÌ của hàng nhập khẩu hay 5% trên FOB của hàng xuất khẩu, được gọi là thuế suất. Thuế quan theo trọng lượng: được tính theo trọng lượng của mặt hàng, chẳng hạn 5$ trên 1 tấn. kiểu tính này gây khó khăn hơn trong việc quyết định số lượng tiền nộp thuế do sự thay đổi thường xuyên của thị trường hay lạm phát,… Thuế quan hỗn hợp: là loại thuế quy định bược người nhập khẩu phải trả hai loại thuế quan theo đơn giá hàng và thuế quan theo trọng lượng ( ví dụ: 5% và 5$ trên 1 tấn). Theo mục đích đánh thuế Thuế quan tăng thu ngân sách: là tập hợp các mức thuế suất được đưa ra mà mục đích chính là làm tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, còn mục đích bảo hộ cho sản xuất trong nước chỉ là thứ yếu. ví dụ một quốc gia không trồng lúa gạo cũng như chế biến lúa gạo mà chỉ nhập khẩu thì khi đó thuế nhập khẩu đánh vào lúa gạo chỉ với mục đích tăng thu cho ngân sách. Thuế quan bảo hộ: được đưa ra với mục đích làm tăng giá mật cách nhaanh tạo đối với hàng hóa nhập khẩu nhằm bảo hộ cho sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh từ các nước khác. Ví dụ các nước Nam Mỹ có thuế nhập khẩu cao cản trở việc nhập khẩu ô tô nguyên chiếc. Nói chung thuế quan bảo hộ được đưa ra khi người ta cho rằng ở mức thuế suất thấp hơn thì sản xuất trong nước sẽ gặp phải sự cạnh tranh rất quyết liệt từ các mặt hàng nhập khẩu, thị phần trong nước bị mất đi. Thuế quan cấm đoán: là thuế quan đưa ra với thuế xuất rất cao, gần như không còn là nhà nhập khẩu nào dám nhập mặt hàng đó nữa. 1.2.1.3. Vai trò Thuế quan có vai trò hết sức quan trong trong việc thu ngân sách nhà nước, tạo thêm công ăn việc là. Thuế quan còn đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ trong nước, chưa đủ sức cạnh tranh trên trường quốc tế. Thuế nhập khẩu Giảm nhập khẩu bằng cách làm cho chúng trở nên đắt hơn so với các mặt hàng thay thế có trong nước và điều này làm giảm thâm hụt trong cán cân thương mại. chống lại các hàng vi phá giá bằng cách tăng giá hàng nhập khẩu của mặt hàng phá giá lên tới giá chung của thị trường. Trả đũa trước các hành vi dựng hàng rào thuế quan do quốc gia khác đánh thuế đối với hàng hóa xuất khẩu của mình, nhất là các cuộc chiến tranh thương mại. Bảo hộ cho các lĩnh vực sản xuất then chốt, chẳng hạn nông nghiệp có các chính sách về thuế quan của Liên minh châu Âu đã thực hiện trong Chính sách nông nghiệp chung của họ. Bảo vệ các ngành công nghiệp non trẻ cho đến khi chúng đủ vững mạnh để có thể cạnh tranh công bằng trên thị trường quốc tế. Thuế xuất khẩu: Giảm xuất khẩu do nhà nước không khuyến kích xuất khẩu các mặt hàng sử dụng các nguồn tài nguyên khan hiếm đang bị cạn kiệt hay các mặt hàng mà tính chất quan trọng của nó đối với sự an toàn lương thực hay an ninh quốc gia được đặt lên hàng đầu. Thuế xuất khẩu có thể được dùng để tăng thu ngân sách cho nhà nước. Tùy từng nhu cầu mà một hay vài mujch đích nói trên được đề cao. Khi bị xác định là có mục đích bảo hộ mậu dịch, thuế nhập khẩ có thể trở thành đối tượng bị nước ngoài đòi cắt giảm. Tuy nhiên, khi sử dụng chính sách thuế quan cũng mang lại nhưng tác động tiêu cực. thuế sử dụng vào mục đích bảo vệ sẽ có những tác động tiêu cực tới sản xuất và tiêu dùng: khuyến khích khong hiệu quả trong nước, tăng giá khiến người tiêu dùng phải cắt giảm chi tiêu, mua sắm, gián tiếp tạo môi trường cho buôn lậu và những tệ nam tham nhũng ở các cơ quan thuế. Khuyến khích các mặt hàng có hiệu quả sản xuất kém trong nước. một khi nhà nước bảo hộ cho các mặt hàng này tức là đã khuyến khích nó phát triển mà những mặt hàng thuế cao thường là những mặt hàng không có lợi thế so sánh. Nhà nước phải chi thêm tiềm năng cho những mặt hàng kém hiệu quả dẫn đến giảm tổng lợi nhuận thu được. Giá tăng cao làm gia tăng lạm phát đồng thời người dẫn cắt giảm tiêu dùng cá nhân. 1.2.2. Quá trình phát triển của thuế quan trên thế giới Trong thời cổ đại và trung cổ, thuế xuất-nhập khẩu còn được các chính quyền địa phương thu, nhưng hiện nay điều này là rất hiếm và thông thường nó được nhà nước giao cho một tổ chức nhà nước chuyên trách về thuế xuất-nhập khẩu là hải quan thực hiện công việc kiểm tra, tính và thu thuế. Về mặt nguyên tắc, thuế xuất nhập khẩu phải được nộp trước khi thông quan để người xuất khẩu có thể giao hàng hóa cho người chuyên chở hay người nhập khẩu có thể đưa mặt hàng nhập khẩu vào lưu thông trong nội địa, trừ khi có các chính sách ân hạn thuế hay có bảo lãnh nộp thuế, nên chúng có thể coi là một trong những loại thuế dễ thu nhất, và chi phí để thu thuế xuất-nhập khẩu là khá nhỏ. Trong thời đại ngày nay, các chính sách về thương mại, thuế và thuế quan thường được xếp cùng nhau do ảnh hưởng chung của chúng đối với các chính sách công nghiệp, chính sách nông nghiệp và chính sách đầu tư. Các khối thương mại là nhóm các quốc gia liên minh thỏa thuận giảm thiểu hay loại trừ thuế quan đối với thương mại trong khối, cũng như khả năng áp đặt thuế quan có hiệu quả lên hàng nhập khẩu từ ngoài khối hay hàng xuất khẩu ra ngoài khối. Liên minh hải quan của khối thường có biểu thuế quan ngoài chung, và theo các quy định đã thỏa thuận thì các quốc gia thành viên chia sẻ các khoản thu nhập từ thuế quan đối với hàng hóa nhập khẩu vào trong khối. Chương II: Công cụ thuế quan trong chính sách ngoại thương Việt Nam từ Đổi mới đến nay 2.1. Thực trạng áp dụng thuế quan trong từng giai đoạn 2.1.1. Giai đoạn 1986- 2000 Luật thuế xuất, nhập khẩu đầu tiên Việt Nam ra đời vào tháng 12 năm 1987 để quản lý hoạt động xuất nhập khẩu và thay thế cho chế độ thu bù chênh lệch ngoại thương trước đó. Sau một thời gian áp dụng, Luật thuế xuất nhập khẩu được sửa đổi lần thứ nhất vào năm 1991, lần thứ hai vào năm 1993 và lần gần đây nhất là ngày 20/05/1998. Trong đó vấn đề mà thường xuyên được các thương gia và nhà nước quan tâm nhiều nhất là biểu thuế suất đối với hàng xuất khẩu và nhập khẩu. Đối với thuế xuất khẩu : Trong giai đoạn này thực hiện chiến lược hướng ra xuất khẩu nên nhà nước ta chủ chương đánh thuế thấp đối với các mặt hàng xuất khẩu. Năm 1991 biểu thuế xuất khẩu có 11 mức đánh vào 60 mặt hàng. Đặc biệt đối với mặt hàng gạo là mặt hàng có thế mạnh ở Việt Nam, trong năm này giảm thuế suất từ 10% xuống còn 1%. BIỂU THUẾ THUẾ XUẤT KHẨU (Ban hành kèm theo Quyết định số 67/1999/QĐ-BTC ngày 24 tháng 6 năm 1999 của Bộ trưởng Bộ Tài chính ) Mã số Mô tả nhóm mặt hàng Nhóm Phân nhóm 1 2 Thuế suất (%) 3 0801 4 5 Dừa, quả hạch Brazil, hạt đào lộn hột (hạt điều), tươi hoặc khô, đã hoặcchưa bóc vỏ hoặc lột vỏ Riêng: 0801 00 Hạt đào lộn hột (hạt điều) chưa bóc vỏ 4 0901 00 Cà phê 0 0902 00 Chè các loại 0 0904 00 Hạt tiêu 0 1006 00 Gạo các loại 0 2701 10 than 0 010 Dầu thô 4 20 Cao su 0 2709 31 00 4001 Nhìn vào biểu thuế xuất khẩu trên ta có thể thấy Việt Nam chủ yếu xuất khẩu các sản phẩm thô, sơ chế. Tuy nhiên, điều này có tác động không tốt đối với nguồn tài nguyên quốc gia gây cạn kiệt tài nguyên. Đối với thuế nhập khẩu : Nhìn chung trong giai đoạn này chính sách thuế nhập khẩu của nhà nước hầu hết nhằm tăng cường bảo hộ cho sản xuất trong nước nên mức thuế suất tương đối cao. BIỂU THUẾ THUẾ NHẬP KHẨU NĂM 1991 Mã số Mô tả nhóm mặt hàng Thuế suất (%) Nhóm 1 4 5 220400 Rượu vang làm từ nha tươi kể cả vang cao độ 100 220100 Các loại nước khoáng tự nhiên, nước khoáng nhân tạo và nước có ga 70 230300 Bia sản xuất từ Malt 100 240110 Thuốc lá chưa tước cọng 15 24012010 Thuốc lá lá chưa tước cọng 30 240200 Xì gà, xì gà nhá 120 Nhìn vào bảng trên ta thấy các mặt hàng này đánh thuế cao vì đối với thuốc lá và rượu là hai mặt hàng có hại cho sức khỏe nên hạn chế nhập khẩu, còn đối với ô tô nhằm bảo hộ sản xuất trong nước. - Ngày 29/4/1998 Bộ tài chính đã ra quyết định về việc ban hành giá mua tối thiểu để tính thuế nhập khẩu làm căn cứ xác định giá tính thuế nhập khẩu. Bảng giá mua tối thiểu với một số mặt hàng: Nhìn chung thì quy định trên là rất cần thiết và góp phần hạn chế tình trạng người mua và người bán thông đồng với nhau ghi giá hàng thấp . Đồng thời cũng giúp cho việc tính thuế được nhanh hơn và có thể hạn chế được việc bán phá giá; nhằm đẩy mạnh việc nhập hàng hoá vào trong nước. Thuế doanh thu: Giai đoạn 1996-1998 là giai đoạn cuối cùng thực hiện thuế doanh thu. Trong giai đoạn này nhà nước thực hiện thuế doanh thu với hàng xuất khẩu nhưng hiệu quả đạt được không cao. Thuế VAT : Tháng 5/1997, Quốc hội khóa IX đã thông qua Luật thuế giá trị gia tăng thay cho thuế doanh thu. Thuế giá trị gia tăng bao quát hầu hết các hoạt động sản xuất kinh doanh và dịch vụ, thu cả hàng hoá ở khâu nhập khẩu, tạo nguồn thu lớn, ổn định và kịp thời cho ngân sách Nhà nước.Trong giai đoạn đầu do tác động của khủng hoảng nên điều chỉnh thuế VAT xuống từ 20% xuống 10 % đối với các tư liệu sản xuất để kích thích sản xuất trong nước.Cũng để khuyến khích xuất khẩu một số hàng hóa dịch vụ áp thuế 0% đối với một số ngành như sửa chữa máy móc điện tử, xuất khẩu lao động để doanh nghiệp được khấu trừ hoặc hoàn thuế đầu vào. - Năm 1995 là năm Việt Nam gia nhập ASEAN. Cùng với quá trình hội nhập này Việt Nam thực hiện cam kết của Hiệp định thương mại mậu dịch tự do AFTA về chương trình ưu đãi thuế quan chung CEPT với ba vấn đề chủ yếu là: +Cắt giảm thuế +Loại bỏ các hàng rào phi thuế quan +Hài hòa các thủ tục hải quan. -Năm 1998, mức thuế suất cao nhất (trong CEPT) chỉ còn 60%. Trong năm này, Việt Nam chính thức giới thiệu lộ trình CEPT không chính thức 2006. Quốc hội thực hiện sửa đổi Luật thuế xuất nhập khẩu vào tháng 5 năm 1998 và theo đó kể từ ngày 1 tháng 1 năm1999, thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam bao gồm 3 mức là mức thông thường, mức tối huệ quốc và mức ưu đãi đặc biệt. Như vậy, trong giai đoạn này chính sách thuế của Việt Nam chủ yếu là bảo hộ sản xuất trong nước đồng thời hướng ra xuất khẩu. Mức thuế suất các mặt hàng trong biểu thuế xuất nhập khẩu thường xuyên thay đổi theo hướng ngày càng khai thác lợi thế so sánh của nước ta .Các mức thuế suất chỉ mang tính tạm thời chứ không phải là vĩnh viễn. 2.1.2. Giai đoạn 2000-2007 Trước khi gia nhập WTO Trong giai đoạn này nhà nước ta thực hiện các chính sách vừa nhằm bảo vệ sản xuất trong nước vừa tích cực chuẩn bị các điều kiện tham gia hội nhập kinh tế quốc tế. - Nhà nước chủ chương đánh thuế cao với một số mặt hàng như xe máy (80% năm 2004), thuốc lá 70% năm 2004 cấm nhập khẩu một số mặt hàng như xe đạp, xe hai bánh, ba bánh gắn máy cũ, các vật tư, phương tiện đã qua sử dụng. Hàng tiêu dùng như dệt may, giày dép, quần áo, đồ điện tử, điện lạnh, điện gia dụng, hàng trang trí nội thất, thiết bị y tế, đồ gia dụng, các sản phẩm công nghệ thông tin đã qua sử dụng cũng nằm trong danh mục hàng cấm nhập. Nhà nước còn quy định hạn ngạch XNK đối với mặt hàng thuốc lá nguyên liệu, bông, sữa nguyên liệu cô đặc, sữa 17 nguyên liệu chưa cô đặc, muối, ngô hạt và trứng gia cầm, Số lượng hàng hóa nhập khẩu sẽ được điều chỉnh thuế suất dựa trên sự cân đối giữa nhu cầu và năng lực sản xuất trong nước - Ban hành chính sách ân hạn thuế .Cụ thể, thời hạn nộp thuế nhập khẩu đối với hàng xuất khẩu là 15 ngày, với nguyên phụ liệu nhập khẩu để làm hàng xuất khẩu là 275 ngày kể từ ngày ra thông báo nộp thuế. - Về xác định trị giá tính thuế nhập khẩu. Năm 2006, Việt Nam thực hiện điều chỉnh thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đối với hàng linh kiện, phụ tùng điện tử, và ô tô; cho phép nhập khẩu ô tô cũ kể từ ngày 1 tháng 5 và ban hành mức thuế tuyệt đối đối với việc nhập khẩu ô tô cũ. Chính sách này có tác dụng làm tăng lượng nhập khẩu ô tô trong nước và đặc biệt với viêc áp dụng thuế tuyệt đối sẽ làm các nhà nhập khẩu nhập khẩu những loại xe có chất lượng tốt tránh cho việt Nam trở thành bãi rác của thế giới. - Cùng với đó trong giai đoạn này Việt Nam cũng tích cực thực hiện lộ trình cắt giảm thuế theo hiệp định CEPT. Lộ trình cắt giảm thuế theo chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung CEPT nhằm thực hiện giảm thuế quan với hàng nhập khẩu từ các nước trong nội khối với điều kiện tỉ lệ nội địa hóa 40% sau đến năm 2004 giảm còn 20% và 10%. Như bảng trên ta thấy số mặt hàng giảm thuế qua các năm ngày càng tăng cho thấy Việt Nam đang thực hiện cam kết cắt giảm thuế theo đúng lộ trình. Trên đây là lộ trình cắt giảm thuế quan chủ yếu áp dụng đối với hàng nhập khẩu Việt Nam - Cũng trong giai đoạn này một sự kiện quan trọng đó là Việc kí kết hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ vào tháng 7-2000. Đây có thể được xem là sự kiện quan trọng, là điều kiện để Việt Nam có thể gia nhập WTO.Đối với thương mại hàng hoá, Việt Nam cam kết giảm thuế nhập khẩu hàng nông nghiệp và công nghiệp từ Hoa Kỳ. Ngược lại, hàng hoá của Việt Nam sẽ chỉ chịu mức thuế suất bình quân 4,9% thay vì mức 35% (thuế suất không ưu đãi MFN). Hàng năm, Hoa Kỳ vẫn xem xét lại quy chế MFN đối với Việt Nam. Thuế nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam tại thị trường Hoa Kỳ được áp theo mức thuế MFN. Tuy còn một số bất cập trong chính sách nhưng Việt Nam đã có những sự chuẩn bị cần thiết cho quá trình hội nhập WTO Năm 2007 đánh dấu một năm quan trọng trong quá trình phát triển của kinh tế Việt Nam đặc biệt đối với hoạt động thương mại. Khi gia nhập tổ chức này Việt Nam phải cam kết thực hiện lộ trình giảm thuế quan theo qui định của tổ chức. Cam kết cắt giảm thuế trong WTO Việt nam cam kết giàng buộc với toàn bộ biểu thuế nhập khẩu hiện hành với 10.600 dòng thuế. Thuế suất bình quân giảm 23% so với mức thuế bình quân hiện hành, từ 17,4% xuống còn 13,4% thời gian ân hạn được thực hiện dần trong vòng 5 - 7 năm.Một số mặt hàng đang có mức thuế cao từ trên 20% sẽ được cắt giảm thuế ngay sau khi gia nhập. Những nhóm mặt hàng có cam kết cắt giảm thuế nhiều nhất gồm: Hàng dệt may, cá và sản phẩm cá, gỗ và giấy, hàng chế toạ khác, máy móc thiết bị - điện tử Đối với thuế xuất khẩu WTO không có nội dung nào yêu cầu cam kết về thuế xuất khẩu. Tuy nhiên, một số thành viên (chủ yếu là các nước phát triển) - Đối với thuế nội địa Việt Nam cam kết thực hiện thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu, bia trong vòng 3 năm kể từ khi gia nhập. Tất cả các loại rượu được chưng cất có nồng độ từ 20 độ cồn trở lên sẽ chịu mức thuế tuyệt đối tính theo lít của rượu cồn nguyên chất hoặc một mức thuế phần trăm. Đối với bia trong vòng 3 năm kể từ khi gia nhập sẽ áp dụng một mức thuế phần trăm chung, không phân biệt hình thức đóng gói, bao bì. - Về thuế nhập khẩu Mức thuế bình quân đối với hàng nông sản giảm từ mức hiện hành 23,5% xuống còn 20,9% thực hiện trong 5 – 7 năm. Cụ thể, có khoảng hơn 1/3 số dòng thuế sẽ phải cắt giảm, chủ yếu là các dòng có thuế suất trên 20%. Các mặt hàng trọng yếu, nhạy cảm đối với nền kinh tế như nông sản, xi măng, sắt thép, vật liệu xây dựng, ôtô – xe máy…vẫn duy trì được mức bảo hộ nhất đinh. Về việc xác định trị giá tính thuế nhập khẩu, áp dụng Hiệp định về xác định trị giá tính thuế của WTO (CVA) kể từ khi gia nhập: lấy giá trị để tính thuế nhập khẩu theo giá trị giao dịch thực tế; bỏ bảng giá tối thiểu. - Tăng cường trao đổi thương mại, tăng lượng FDI (đầu tư nước ngoài) chảy vào Việt Nam. Nhờ việc cắt giảm thuế quan mà ta có cơ hội nhập khẩu nguyên liệu đầu vào, máy móc vật tư kĩ thuật nhằm giúp sản xuất trong nước phát triển. - Gia nhập WTO chúng ta có thể thâm nhập vào thị trường nông sản thế giới (có kim ngạch tới 548 tỷ USD/ năm) do phải chịu mức thuế quan thấp. - Những thay đổi trong thuế XNK còn đẩy mạnh xuất khẩu tài nguyên, khoáng sản,…dẫn đến chảy máu tài nguyên quốc gia. Như vậy trong giai đoạn này Việt Nam tăng cường tham gia các hiệp định hợp tác nhằm tăng cường hội nhập sâu rộng trong khu vực và trên thế giới, tiến tới hoàn thành thực hiện các cam kết về thuế quan. Tất cả đều là sự chuẩn bị cho quá trình hội nhập vào tổ chức thương mại lớn nhất thế giới WTO. 2.1.3. Giai đoạn từ 2008 đến nay - Lộ trình cắt giảm thuế theo cam kết WTO Việt Nam tiếp tục giữ các mức thuế suất trần theo cam kết WTO đối với một số nhóm hàng có mức thuế cao và mang tính chất nhạy cảm như thuế thuốc lá 135%, xì gà 110%, ô tô nguyên chiếc 82% và 77% với rượu, bia.Nhìn chung các cam kết về thuế được thực hiện tuân thủ đầy đủ các cam kết trong WTO theo đúng lộ trình. Mức thuế bình quân giản đơn của Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi năm 2011 là 10,47% và trong một số trường hợp, mức thuế suất áp dụng đã được quy định thấp hơn so với mức cam kết để phù hợp với mục tiêu điều hành kinh tế vĩ mô và khuyến khích sản xuất kinh doanh trong nước, thúc đẩy xuất khẩu, trong đó chủ yếu là nhóm hàng vật tư, nguyên nhiên vật liệu, linh kiện phục tùng và máy móc, thiết bị trong nước không sản xuất được… Đặc biệt, năm 2012 là năm có sự thay đổi lớn, theo đó, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi năm 2012 gồm 9.558 dòng thuế, tăng 1.258 dòng thuế. Trong số 9.558 dòng thuế này thì phải cắt giảm 945 dòng thuế theo cam kết WTO cho năm 2012 với mức cắt giảm chủ yếu từ 13%, gồm các mặt hàng thủy hải sản, hoa quả, thực phẩm chế biến, bánh kẹo, rượu, thuốc lá . Các chính sách thuế khác trong giai đoạn này. - Năm 2008 chứng kiến một tần suất hiếm thấy trong điều chỉnh thuế xuất nhập khẩu đối với nhiều mặt hàng. Một mặt, những điều chỉnh này được thực hiện theo các cam kết thuế quan giữa các nước thành viên khối ASEAN và theo lộ trình gia nhập WTO; Mặt khác, đây cũng là ứng xử của nhà điều hành chính sách trước những biến động mạnh và bất thường trên thị trường thế giới nhằm hỗ trợ cho sản xuất, bình ổn thị trường trong nước, cũng như hỗ trợ các ngành hàng xuất khẩu. Thuế một loạt các mặt hàng nông sản, đồ gỗ, sắt thép, xăng dầu, gas, ôtô, giấy, nguyên vật liệu cho sản xuất… liên tục được điều chỉnh; điển hình như thuế xuất khẩu thép(tăng lên 20% sau đó lại giảm về 10%), thuế nhập khẩu xăng dầu giảm từ 5%-0% sau đó lại tăng 5% do dự đoán giá dầu thế giới tăng ảnh hưởng đến giá xăng. - Đối với thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu : thực hiện điều chỉnh linh hoạt thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trong khung thuế suất đã được Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định, phù hợp với diễn biến tình hình thị trường trong và ngoài nước và cam kết WTO; trong đó có những mặt hàng điều chỉnh tăng để bảo hộ sản xuất trong nước, giảm nhập siêu như: điều chỉnh tăng thuế hàng tiêu dùng không thiết yếu như ô tô. Việc giảm thuế GTGT đầu ra đối với 19 nhóm hàng hoá, dịch vụ năm 2009 với số tiền giảm 25.507 tỷ đồng nhằm mục tiêu kích thích tiêu dùng qua đó gián tiếp kích cầu đầu tư. Tuy nhiên, việc giảm thuế GTGT đối với một số hàng hoá, dịch vụ nhập khẩu chỉ giúp doanh nghiệp nhập khẩu giảm được gánh nặng về tài chính qua đó giảm được giá bán cho người tiêu dùng, nhưng lại gây sức ép rất lớn cho sản xuất trong nước vì tạo ra áp lực cạnh tranh với hàng nhập khẩu => Trong năm 2009, nhà nước đã có những chính sách thuế phù hợp để hạn chế nhập siêu, So với con số nhập siêu trên 18 tỷ USD của năm 2008, năm nay, chênh lệch thương mại quốc tế đã được kiềm chế chỉ còn khoảng 2/3, đạt gần 12,25 tỷ USD. - Biểu thuế năm 2012 có nhiều điểm thay đổi cả về danh mục hàng hóa và thuế suất. Cụ thể có 87 nhóm mặt hàng xuất khẩu thay đổi biểu thuế gồm tài nguyên khoáng sản, như quặng, đá, cát; mặt hàng kim loại, phế liệu kim loại, như vàng, sắt, đồng và một số mặt hàng không khuyến khích xuất khẩu khác. Ngoài ra, Bộ Tài chính cũng tiến hành giảm thuế nhập khẩu của 87 dòng thuế là các nguyên liệu, vật tư, linh kiện trong nước chưa sản xuất được hoặc để khắc phục bất hợp lý, bảo đảm phù hợp với mức thuế nhập khẩu thành phẩm. Trong số 87 dòng thuế giảm, có 7 dòng thuế có mức giảm từ 1-2%, 80 dòng thuế có mức giảm nhiều hơn. - Về chính sách ân hạn thuế vẫn là 275 ngày nhưng kèm theo một số điều kiện bắt buộc với doanh nghiệp: DN có cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu ở Việt Nam; có hoạt động xuất nhập khẩu ít nhất 2 năm liên tục đến ngày đăng ký tờ khai hải quan mà không có hành vi gian lận thương mại, trốn thuế, nợ thuế quá hạn; tuân thủ pháp luật kế toán, thống kê; thực hiện thanh toán qua ngân hàng => Việc ràng buộc các điều kiện như vậy sẽ làm tăng tính cạnh tranh hơn cho các DN thực hiện tốt và tuân thủ các quy định về kế toán, thuế và hải quan. 2.2. Đánh giá chung về việc áp dụng thuế quan trong chính sách ngoại thương Việt Nam Xét ở góc độ quốc gia đánh thuế thì thuế quan đã mang lại cho nước ta một nguồn thu nhập. Nhưng đứng trên giác độ của toàn bộ nền kinh tế thì thuế quan lại làm giảm phúc lợi chung do nó làm giảm hiệu quả khai thác nguồn lực của nền kinh tế. Nó làm thay đổi cán cân thương mại, điều tiết hoạt động xuất nhập khẩu của nước ta. Bên cạnh những thành công đạt được trong việc áp dụng thuế quan trong chính sách ngoại thương thì nó cũng mang lại những hạn chế ảnh hưởng tiêu cực đến nước nước ta. Thuế quan cao ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của hàng hóa và làm giảm lượng hàng hóa tiêu thụ được. Thuế quan cao làm nạn buôn lậu ngày càng tăng và phát triển. Thuế xuất khẩu làm tăng giá hàng hóa trên thị trường quốc tế và giữ giá thấp hơn pử thị trường nội địa. Điều đó làm giảm lượng khách hàng ở nước ngoài do họ cố gắng tìm kiếm các sản phẩm thay thế. Đồng thời nó không khích lệ các nhà sản sản xuất trong nước áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ để tăng năng xuất, chất lượng và giảm giá thành. Tuy nhiên, nếu khả năng thay thế thấp thì thuế xuất khẩu không làm giảm nhiều khối lượng hàng hóa xuất khẩu và vẫn mang lại lợi ích đáng kể cho nước ta. Ngoài ra, thuế quan nhập khẩu làm tăng giá hàng hóa do vậy khích lệ các nhà sản xuất trong nước. 2.2.1. Thành công đạt được Chính sách thuế xuất xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành đã có những tác động và đạt được nhiều thành công tích cực cho Việt Nam. Cụ thể: - Biểu thuế xuất khẩu và nhập khẩu hiện hành được xây dựng trên cơ sở danh mục điều hòa (HS) 1996 của Hội đồng hợp tác hải quan thế giới, đã từng bước đầu tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân loại hàng hóa dựa trên cấu tạo, đặc điểm của hàng hóa,… góp phần làm cho chính sách thuế xuất nhập khẩu dần dần phù hợp với thông lệ quốc tế. - Thuế suất thuế xuất khẩu, thuế nhập khấu cũng được thiết kế hợp lý hơn. Hiện nay đối với phần lớn hàng xuất khẩu có thuế suất 0%, trừ một số mặt hàng như dầu thô, một số loại quặng và sông mây. Thuế xuất khẩu được quy định ở 3 mực: + Thuế suất ưu đãi + Thuế suất thông thường + Thuế suất ưu đãi đặc biệt Những loại thuế suất được áp dụng trong những trường hợp khác nhau tùy thuộc vào mức độ quan hệ thương mại với các nước, tạo thuận lợi trong đàm phán về thuế, phù hợp với các quy định quốc tế mà nước ta cam kết thực hiện. Theo tài liệu của Bộ thương mại, hiện nay Việt Nam đã có thỏa thuận về đối xử ưu đã đặc biệt trong quan hệ thương mại với một số nước trong khu vực: Brunie. Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Philippines, Singapore, Thái Lan,… Nước ta đã có thỏa thuận đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với 172 nước trên thế giới (Kèm theo công văn số 8678/TCHQ-TXNK ngày 09/9/2016 của Tổng cục Hải quan). - Mức thuế nhập khẩu tối đa có xu hướng giảm. Ngoài việc giảm số lượng các mặt hàng chịu sự quản lý giá tối thiểu của nhà nước nhà nước còn bỏ quy định áp dụng giá tối thiểu đối với tất cả các mặt hàng nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. - Công tác quản lý thực thi chính sách thuế xuất nhập khẩu được hoàn thiện hơn. Từ ngày 2/7, Quyết định 1780/QĐ-TCHQ ngày 17/6/2016 của Tổng cục Hải quan quy định Quy trình hoàn thuế, không thu thuế, xét giảm thuế mới đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu bắt đầu có hiệu lực, thay thế Quy trình hoàn thuế, không thu thuế, xét miễn thuế, xét giảm thuế xuất khẩu, nhập khẩu ban hành kèm Quyết định 2424/QĐ-TCHQ ngày 27/11/2008. Quy trình này áp dụng đối với thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; thuế tự vệ, thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp; thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế bảo vệ môi trường và thuế giá trị gia tăng. Các thủ tục hải quan được thực hiện nhanh chóng, công khai, đảm bảo thông thoáng, nhanh chóng và thuận tiện tạo điều kiện tốt cho hoạt động xuất nhập khẩu. Do hệ thống chính sách, cơ chế quản lý trong lĩnh vực xuất nhập khẩu được cải tiến theo hương ngày càng đơn giản, thông thoáng hơn đã có tác dụng tích cực thúc đẩy sản xuất tăng nhanh và hướng nhập khẩu phục vụ tốt cho sản xuất và đời sống. Có thể nói rằng chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nước ta đã có tác động tích cực trong việc quản lý các hoạt động xuất nhập khẩu, mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu góp phần phát triển, bảo vệ sản xuất trong nước, hướng dẫ tiêu dùng và tạo nguồn thu cho ngân sách nhà
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng