DI SẢN GIÁO DỤC, Y HỌC và Y TẾ
thời PHÁP THUỘC
Biên soạn:
PGS.TS. Trần Xuân Mai
Khoa cử ở Nam Kỳ dưới
triều Nguyễn (9)
Kỳ thi Hương đầu tiên dưới triều Nguyễn vào năm 1807 chỉ dành cho sĩ tử ở xứ Đàng
Ngoài trước đây, lấy đậu 61 cử nhân. Ưu ái và vỗ về sĩ phu và nhân dân Bắc Hà
chăng?
Khoa sau, 1813, Vua Gia Long mới
cho thiết lập một trường thi ở Kinh
đô Huế và một trường ở Gia Định
thành (trường Gia Định). Trường
Gia Định được duy trì từ năm 1813
cho đến năm 1858, tổ chức được
19 kỳ thi Hương. Sau Hiệp ước
Nhâm Tuất (1862), trường An
Giang (1864) thay thế cho trường
Gia Định.
Tất cả 20 kỳ thi Hương ở Nam Kỳ
(1813-1864) tuyển chọn được 274 cử nhân. Kỳ lấy đỗ cao nhất là 20 cử nhân vào
các năm 1847, 1848 và thấp nhất là 8 cử nhân ở kỳ thi Hương đầu tiên (1813).
Có một sự kiện lạ lùng ít ai lưu tâm tìm hiểu và biết đến là 274 cử nhân thi đậu tại các
trường thi Gia Định và An Giang, duy nhất chỉ có Lương Khê Phan Thanh Giản là
đạt được học vị Tiến sĩ! Nếu kể thêm các cử nhân gốc Nam Kỳ thi ở các trường khác
thì trước sau Nam Kỳ, suốt thời kỳ khoa cử dưới triều Nguyễn chỉ có 3 vị Tiến sĩ.
Ngoài Phan Lương Khê đậu năm 1826, ba mươi năm sau mới có vị thứ hai là Phan
Hiển Đạo (1856). Phan Hiển Đạo thi cử nhân ở trường Thừa Thiên vào năm Đinh Mùi
(1847), đậu thứ ba và thi Hội, đậu Tiến sĩ khoa Bính Thìn (1856). Vị tiến sĩ thứ ba là
Nguyễn Chánh, người thôn Phú Mĩ Tây, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định. Nguyễn
Chánh đậu giải nguyên tại trường Thừa Thiên khoa Mậu Ngọ (1858) và đậu Tiến sĩ
(thứ 4) khoa Nhâm Tuất (1862), làm quan đến chức Thượng thư bộ Hình và Tổng đốc
Thanh Hóa.
Có đôi điều đáng suy nghĩ:
Thứ nhất, tại sao các sĩ phu Nam Kỳ ít người đạt đến bậc cao
nhất của Khoa cử dưới triều Nguyễn. Chỉ tính cùng thời gian
từ năm 1822 đến năm 1865 thì toàn quốc có 280 tiến sĩ
trong khi Nam Kỳ cùng thời gian trên chỉ có 3 tiến sĩ và
trong số 274 cử nhân thi Hương tại Nam Kỳ chỉ có một tiến sĩ
duy nhất đó là Phan Thanh Giản! Phan Thanh Giản là người
khai khoa và trong suốt 30 năm (1826-1856), Phan là người trí
thức tiêu biểu nhất của Nam Kỳ trong khoa cử và cũng là vị
đường quan cao nhất ở Nam Kỳ trong triều đình Huế.
Phải chăng vua Tự Đức không có lựa chọn nào khác khi cử vị
tiến sĩ đầu tiên và cũng là duy nhất trong số 274 sĩ tử Nam Kỳ
đậu cử nhân, làm Khâm sai đại thần để ký kết với thực dân
Pháp một hòa ước liên quan đến số phận ba tỉnh miền Đông
Nam Kỳ (1862) ? Và cũng chính ông, chứ không ai khác được cử đi Paris và Madrid để
chuộc lại Ba tỉnh miền Đông. Hòa ước Aubaret ký kết năm 1864 bị Pháp phủ nhận và
Phan Thanh Giản lại được cử vào chức Kinh lược sứ tại Ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ.
Phan Lương Khê có thể có chọn lựa nào khác là chén thuốc đắng khi Ba tỉnh Miền Tây
mất vào tay Pháp năm 1867!
Thứ hai, chúng ta cần ghi nhận là sĩ tử Nam Kỳ đáng cho chúng ta tự hào khi đã cùng
nhân dân xả thân bảo vệ đất nước. Một số cử nhân đã đi vào lịch sử dân tộc như Thủ
khoa Nguyễn Hữu Huân, Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa, cáa cử nhân Trương Gia Hội,
Phan Văn Trị, Nguyễn Thông, Nguyễn Thành Ý, Âu Dương Lân, Trương Minh
Giảng, Trương Văn Uyển, , Trần Xuân Hòa, Đỗ Trình Thoại, Phan Văn Đạt, Lưu
Tấn Thiện, Đinh Văn Huy ...
So với những vị khoa bảng ở các vùng khác, các sĩ phu xuất thân từ khoa cử ở Nam
Kỳ, trong công cuộc đấu tranh giữ nước, xứng đáng là niềm tự hào của nhân dân Nam
Kỳ và nhân dân cả nước.
Bảng thống kê sau đây cho chúng ta biết thêm về khoa cử ở Nam Kỳ dưới triều Nguyễn
STT
Khoa
Số cử
nhân
Thủ khoa
Ghi chú thêm
1
1813
8
Nguyễn Bảo Bang
Khoa Hương đầu tiên ở
Nam Kỳ
2
1819
12
Trương Hảo Hiệp
Trương Minh Giảng
3
1821
16
Nguyễn Văn Kỳ
(cùng khoa)
4
1825
15
Trương Phước Cang
Trương Văn Uyển
5
1828
16
Mai Hữu Điển
Phan Thanh Giản
6
1831
10
Đinh Văn Huy
Hy sinh ở Campuchia,
được lập đền thờ. Con là
Đinh Văn Khoa, hy sinh ở
Hà Tĩnh, cũng được lập
đền thờ
7
1835
9
Bùi Hữu Nghĩa
Cùng khoa
8
1837
11
Nguyễn Văn Triêm
Trần Xuân Hòa
9
1840
11
Nguyễn Hoài Vĩnh
Trần Thiện Chánh
10
1841
15
Hồ Đăng Phong
Đỗ Trình Thoại
11
1842
16
Võ Duy Quang
Phạm Hữu Chánh
(Án sát An Giang)
12
1843
15
Phạm Văn Trung
Lưu Tấn Thiện
13
1846
18
Nguyễn Xuân Ý
(Bố chánh An Giang)
Phan Văn Đạt
(hy sinh, được lập đền thờ)
14
1847
20
Nguyễn Công Hài
(Án sát Hà Tiên)
Nguyễn Thông đậu thứ hai
15
1848
20
Nguyễn Đức Hoành
Phan Văn Trị
16
1849
17
Võ Thế Tri
Trương Gia Hội
17
1852
13
Nguyễn Hữu Huân
Nguyễn Nùng Hương
18
1855
13
Nguyễn Tánh Thiện
Nguyễn Thành Ý
19
1858
9
Lê Đình Sâm
Âu Dương Lân
20
1864
10
Võ Doãn Xuân
Thi ở trường thi An Giang
Tổng cộng 20 kỳ thi Hương, lấy đỗ 274 cử nhân.
Thi cử và nền giáo dục Việt Nam dưới thời
Pháp thuộc (10)
Năm Nhâm Tuất (1862), Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ gồm 3 tỉnh Gia
Định, Định Tường và Biên Hòa. Năm Đinh Mão (1867), Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây
là Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Hòa ước Giáp Tuất (1874) công nhận chủ quyền
của Pháp trên toàn thể lãnh thổ Nam Kỳ. Nam Kỳ trở thành thuộc địa (colonie) của
Pháp.
Hai hòa ước năm Quí Mùi 1883 và Patenôtre năm Giáp Thân 1884 công nhận quyền
bảo hộ của Pháp ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Bắc Kỳ và Trung Kỳ trở thành đất bảo hộ
(protectorat) của Pháp. Ở miền Bắc, trên danh nghĩa, triều đình Huế còn quyền hành
nhưng trên thực tế mọi việc do người Pháp điều khiển. Trung Kỳ do triều đình Huế cai
trị nhưng được đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ của Pháp.
Khi đô hộ Việt Nam, nhu cầu cấp bách của người Pháp là phải hủy diệt nền Nho học và
thay thế bằng một hệ thống giáo dục phục vụ cho guồng máy cai trị. Do đó, chiếm được
Nam Kỳ xong là người Pháp lập tức khai tử nền giáo dục Nho học. Năm 1864 là kỳ thi
Hương cuối cùng ở Nam Kỳ (tổ chức ở ba tỉnh miền Tây trước khi bị Pháp chiếm).
Từ 1878 chữ Hán trong giấy tờ công văn các cơ quan hành chánh được thay thế bằng
chữ Pháp và chữ quốc ngữ.
Ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, dưới quy chế bảo hộ, sự thay đổi về giáo dục chậm hơn. Kỳ thi
Hương cuối cùng ở Bắc là năm Ất Mão 1915, và ở Huế năm Mậu Ngọ 1918. Chế độ
giáo dục và khoa cử Nho học thực sự cáo chung với khoa thi Hội chót năm Kỷ Mùi
1919 ở Huế. Tuy vậy mãi đến năm 1932 bộ máy quan lại của triều đình mới bỏ việc
dùng chữ Hán và thay thế bằng chữ Pháp hay chữ quốc ngữ.
MỤC ĐÍCH NỀN GIÁO DỤC CỦA NGƯỜI PHÁP Ở VIỆT NAM
Nhìn thấy quá khứ Việt Nam nặng về Hán học, chủ tâm của người Pháp là muốn cắt
đứt liên lạc văn hóa giữa người Việt với người Tàu. Để đạt mục đích hướng tinh thần
người Việt về với Pháp, chữ Hán cũng như chữ Nôm cần phải triệt bỏ và thay thế
bằng chữ Pháp, còn văn tự cho tiếng nói người bản xứ nếu cần đã có chữ quốc ngữ
cùng một họ mẫu tự La Tinh . Năm 1865 súy phủ Sài Gòn cho ra đời tờ Gia Định
Báo là tờ Công Báo đầu tiên viết bằng chữ quốc ngữ. Trong tinh thần ấy, trước tiên
người Pháp dựng lên những cơ sở văn hóa để truyền bá chữ Pháp và chữ quốc
ngữ. Đáp ứng nhu cầu cấp bách trong thời gian đầu Pháp thiết lập các trường đào tạo
thông ngôn. Ngày 8/5/1861 Đô Đốc Charner ký nghị định lập trường Collège d'Adran
để đào tạo thông ngôn người Việt và cho cả người Pháp muốn học tiếng Việt (5).
Trường Thông Ngôn (Collège des Interprètes) được thiết lập ở Sài Gòn năm 1864, ở
Hà Nội năm 1905. Pháp còn thiết lập các Trường Hậu Bổ (chuẩn bị bổ ra làm quan
Apprenti Mandarin) ở Hà Nội năm 1903 và ở Huế năm 1911. Đây là những bước đầu
trong việc thiết lập một nền giáo dục của Pháp.
Khi xây dựng nền giáo dục thay thế Nho giáo, người Pháp có ba mục đích. Mục đích
quan trọng nhất nhằm đào tạo lớp người thừa hành chính sách của Pháp là cai trị
và khai thác ở Việt Nam và cả Đông Dương. Tầng lớp này bao gồm các viên chức
trong các ngành hành chánh, giáo dục, y tế và xây dựng. Thứ đến là truyền bá tư
tưởng Pháp, lòng biết ơn sự khai hóa của Pháp và sự trung thành với Pháp. Cuối
cùng với mục đích mị dân, làm người Việt tin rằng hệ thống giáo dục của Pháp ở
Việt Nam là văn minh và tiến bộ. Hai mục đích đầu là căn bản, mục đích thứ ba chỉ
dùng để đối phó với sự đòi hỏi một nền giáo dục tiến bộ của người Việt trong tương lai
mà thôi.
Hệ thống giáo dục của nước Pháp đã được người Pháp ở Việt Nam điều chỉnh và thêm
bớt cho phù hợp với ba mục đích trên cũng như để thích hợp với thực tế ở Việt Nam.
Đây là hệ thống Giáo Dục Pháp Cho Người Bản Xứ" (Enseignement FrancoIndigène), thường được gọi là Giáo Dục Pháp-Việt. Trong nền giáo dục này tiếng Pháp
là chuyển ngữ tức tiếng Pháp được dùng để trao đổi trong lớp học (giảng bài, làm bài,
sách giáo khoa viết bằng tiếng Pháp). Riêng ba lớp tiểu học đầu là được dùng tiếng
Việt làm chuyển ngữ, sau đó tiếng Việt được học như một ngoại ngữ. Ngoại ngữ thứ hai
thường là tiếng Anh ở bậc Tú Tài. Chữ Hán được học theo tự nguyện. một tuần một giờ
ở các lớp trên của bậc tiểu học nếu có thày dạy.
Để điều hành, Pháp thiết lập tại mỗi kỳ một Sở Giáo Dục Cho Người Bản Xứ (Service
de L'Enseignement Local) do một Chánh Sở (Chef de Service) người Pháp đứng đầu.
Các cơ sở giáo dục này đặt trực thuộc tòa Khâm Sứ. Mọi sự bổ nhiệm, thuyên chuyển,
thăng thưởng, kỷ luật các giáo chức từ bậc tiểu học trở lên đều phải do khâm Sứ quyết
định. Khi Pháp thành lập liên bang Đông Dương (gồm Bắc, Trung, Nam Kỳ, Cao Miên
và Lào), một số việc phải được Toàn Quyền Đông Dương (Gouverneur de l'Indochine)
chuẩn y. Nha Học Chính Đông Pháp (Direction de l'Instruction Publique de
l'Indochine) ra đời do một Giám Đốc người Pháp chỉ đạo trực tiếp 5 sở giáo dục của
liên bang Đông Dương. Năm 1933, Phạm Quỳnh được Bảo Đại bổ nhiệm làm Thượng
Thư Bộ Học. Nhờ sự đòi hỏi quyết liệt của họ Phạm, Pháp phải nhượng bộ cho Việt
Nam quyền quản lý các trường tiểu học ở Trung Kỳ nhưng dưới sự kiểm soát của tòa
Khâm Sứ Pháp.
Hệ thống giáo dục Pháp-Việt gồm 2 phần: giáo dục phổ thông và giáo dục cao đẳng
chuyên nghiệp, đại học.
TỔ CHỨC CỦA HỆ THỐNG GIÁO DỤC PHỔ THÔNG PHÁP-VIỆT
Trong thời kỳ phôi thai, Pháp thiết lập vài trường để làm nòng cốt cho hệ thống giáo
dục phổ thông là các trường trung học Le Myre de Vilers ở Mỹ Tho (1879), trường
Quốc Học Huế (1896), trường trung học Bảo Hộ (Collège du Protectorat) tức trường
Bưởi Hà Nội (1908). Ba trường này khi mới mở chỉ có bậc tiểu học, mấy chục năm sau
mới giảng dạy đến các bậc cao hơn. Riêng chỉ có 2 trường Quốc Học Huế và trường
Bưởi sau này có đến bậc Tú Tài. Từ 1910 đến 1930 là thời kỳ hình thành hệ thống giáo
dục có tính cách hệ thống. Từ 1930 đến 1945 là thời kỳ tổ chức hệ thống giáo dục cho
người bản xứ của Pháp ở Việt Nam đã được hoàn chỉnh.
Song song với hệ thống giáo dục phổ thông Pháp-Việt, Pháp thiết lập 3 trường hoàn
toàn như ở Pháp dành riêng cho con cái người Pháp ở Việt Nam và con cái những
người Việt thân Pháp. Đó là các trường Chasseloup Laubat ở Sài Gòn (1874), trường
Albert Sarraut ở Hà Nội (1918) và trường Yersin ở Đà Lạt (1935). Cả 3 trường này lúc
đầu cũng được hình thành từ bậc tiểu học trước rồi sau mới có đến bậc Tú Tài.
KIẾN TRÚC CỦA NỀN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG PHÁP-VIỆT
Tới khi hình thành đầy đủ, hệ thống giáo dục phổ thông Pháp-Việt có 3 bậc với học
trình là 13 năm:
Bậc Tiểu Học 6 năm:
- Lớp Đồng Ấu (Cours Enfantin)
- Lớp Dự Bị (Cours Préparatoire)
- Lớp Sơ Đẳng (Cours Élémentaire)
- Lớp Nhì năm thứ nhất (Cours Moyen 1ère année)
- Lớp Nhì năm thứ hai (Cours Moyen 2è année)
- Lớp Nhất (Cours Supérieur)
Ba lớp đầu còn được gọi là bậc sơ học. Học xong lớp Sơ Đẳng học sinh thi lấy bằng
Sơ Học Yếu Lược (Primaire Élémentaire) Những học sinh được tuyển thẳng lên lớp
Nhì năm thứ nhất không bắt buộc phải thi Sơ Học Yếu Lược. Học hết lớp Nhất học sinh
được thi bằng Tiểu Học Yếu Lược hay Sơ Đẳng Tiểu Học (Certificat d'Études
Primaire Franco-Indigène, viết tắt là CEPFI), phải có bằng này mới được dự tuyển
học lên lớp trên.
Bậc Cao Đẳng Tiểu Học (Primaire) 4 năm:
Học xong 4 năm được thi lấy bằng Cao Đẳng Tiểu Học (Diplôme d'Étude Primaire
Supérieurs Franco-Indigène) còn gọi là bằng Thành Chung. Phải có bằng Thành
Chung mới được dự thi lên bậc Trung Học tức bậc Tú Tài. Các trường dạy bậc Cao
Đẳng Tiểu Học được gọi là Collège.
Bậc Trung Học (Enseignement Secondaire) 3 năm:
Còn được gọi là bậc Tú Tài Pháp-Việt, bậc Trung Học gồm 3 năm. Học xong 2 năm
đầu được thi lấy bằng Tú Tài phần thứ nhất (Baccalauréat, 1ère partie). Đậu bằng này
được học tiếp năm thứ ba không phải thi tuyển. Năm thứ 3 được chia làm 2 ban: ban
Triết và ban Toán. Hai ban có những môn học hoàn toàn giống nhau như Sử. Địa,
Ngoại Ngữ. Có những môn giống nhau nhưng số giờ học khác nhau như Đại Số, Thiên
Văn. Có những môn chỉ học ở ban này mà ban kia không có như ban Triết có Tâm Lý
Học, Siêu Hình Học, ban Toán có Hình Học, Cơ Học, Số Học. Từ niên học 1937-1938
trên toàn cõi Việt Nam đều áp dụng chương trình Pháp-Việt đủ 3 ban: Toán, Khoa Học,
Triết. Ngoài ban mình học, học sinh được phép thi tốt nghiệp các ban khác nhưng phải
tự học thêm những môn mà ở ban mình theo học không có. Học sinh cũng được phép
thi bằng Tú Tài Pháp. Học xong năm này thi lấy bằng Tú Tài Toàn Phần (Certificat de
Fin d'Études Secondaire Franco-Indigènes). Học sinh tốt nghiệp 2 hoặc 3 ban hoặc
thêm bằng Tú Tài Pháp được ưu tiên khi thi vào các trường Đại Học có thi tuyển như
các trường Grandes Écoles ở Pháp hoặc các trường Cao Đẳng Chuyên Nghiệp ở Hà
Nội lúc đó.
Từ niên học 1926-1927 Pháp thiết lập thêm chế độ Tú Tài Bản Xứ (Baccalauréat
Local) học thêm các môn về văn chương Việt Nam, lịch sử, triết học Đông Phương và
Cận Đông (Ấn Độ, Trung Hoa, Do Thái). Chương trình rất nặng, bị chỉ trích và ta thán
rất nhiều nên đã bị hủy bỏ từ niên học 1937-1938.
CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA NỀN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG PHÁP-VIỆT
Một đặc điểm của nền giáo dục phổ thông Pháp-Việt là hễ có bằng Tú Tài Toàn Phần
thì đương nhiên được vào học các trường Đại Học (Université), nhưng muốn vào
các trường Cao Đẳng thì phải qua một kỳ thi tuyển rất khó. Trước 1945, Việt Nam chỉ
có một trường Đại Học và vài trường Cao Đẳng Chuyên Nghiệp ở Hà Nội như Sư
Phạm, Canh Nông, Thú Y, Công Chánh và Mỹ Thuật.
Một đặc điểm khác nữa là chương trình học do nhà nước quy định có tính cách bắt
buộc trong việc giảng dạy nhưng sách giáo khoa lại hoàn toàn do các nhà xuất bản mời
người biên soạn và các sách này chỉ được dùng để tham khảo mà thôi. Tất nhiên
những sách giáo khoa do các nhà giáo có kinh nghiệm và uy tín được sử dụng nhiều
hơn. Riêng ở bậc Tiểu Học sách giáo khoa do Nha Học Chính Đông Pháp chủ trì việc
biên soạn và xuất bản, bán rẻ cho học sinh. Từ bậc Cao Đẳng Tiểu Học trở lên thì dùng
sách giáo khoa xuất bản ở Pháp (trừ vài quyển về Lịch Sử Việt Nam, Địa Lý Đông
Dương, Văn Học Việt Nam do các giáo chức người Pháp hay người Việt soạn và xuất
bản ở Hà Nội.
GIÁO CHỨC NỀN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG PHÁP-VIỆT
Các giáo chức giảng dạy tại các trường thuộc hệ thống giáo dục phổ thông Pháp-Việt
đa số là người Việt Nam. Ở các lớp thuộc bậc Cao Đẳng Tiểu Học và nhất là ở bậc Tú
Tài cũng có một số giáo chức người Pháp. Trái lại, tại các trường hoàn toàn Pháp như
Albert Sarraut, Chasseloup Laubat các giáo chức chủ yếu là người Pháp. Dạy bậc Sơ
Học giáo chức phải tốt nghiệp Tiểu Học và học thêm một năm lớp Sư Phạm (Cours de
Pédagogie). Giáo chức dạy bậc Tiểu Học phải tốt nghiệp bằng Cao Đẳng Tiểu Học và
được bổ túc về khoa Sư Phạm. Nhằm đào tạo các giáo viên tiểu học, có các lớp sư
phạm(Section Normal) vừa học sư phạm vừa học chương trình Cao Đẳng Tiểu Học.
Các giáo chức bậc Cao Đẳng Tiểu Học thì phải tốt nghiệp trường Cao đẳng Sư Phạm
Hà Nội. Dạy bậc Tú Tài thì phải tốt nghiệp Cử nhân ở Pháp về hoặc phải có bằng cao
hơn Cử Nhân như học vị Thạc Sĩ (Agrégé) .
TRƯỜNG ỐC CỦA HỆ THỐNG GIÁO DỤC PHỔ THÔNG PHÁP-VIỆT
Các trường phổ thông công lập Pháp-Việt là những nhà gạch lợp ngói kiên cố và có
phòng thí nghiệm. Xét vào thời điểm 1940-1945 thì trường ốc như thế thuộc loại tốt.
Ở các huyện lỵ có trường Sơ Học. Ở các tỉnh lỵ và một vài huyện lỵ lớn có trường Tiểu
Học. Các tỉnh lỵ lớn có trường Sơ Học hay Tiểu Học dành riêng cho nữ sinh. Trung
bình một tỉnh có khoảng từ 2 đến 4 trường Tiểu Học, mỗi trường có từ trên 100 đến vài
trăm học sinh. Các thành phố lớn mới có trường Cao Đẳng Tiểu Học như Hà Nội,
Hải Phòng, Nam Định Lạng Sơn (Bắc Kỳ), Thanh Hóa, Nghệ An (Vinh), Huế, Quy
Nhơn (Trung Kỳ), Sài Gòn, Cần Thơ, Mỹ Tho (Nam Kỳ). Các trường Cao Đẳng Tiểu
Học dành riêng cho nữ sinh chỉ có ở Hà Nội (trường Đồng Khánh), Huế (trường Đồng
Khánh), Sài Gòn (trường Gia Long còn gọi là trường Áo Tím). Bậc Trung Học (bậc Tú
Tài) chỉ có ở Hà Nội (trường Bưởi), Huế (trường Khải Định), Sài Gòn (trường
Pétrus Ký). Mỗi trường có khoảng từ 100 đến 200 học sinh. Bậc Tú Tài cũng có ở
các trường hoàn toàn Pháp tại Hà Nội (trường Albert Sarraut), Sài Gòn
(Chasseloup Laubat).
Ngoài hệ thống trường công còn có các trường tư phần lớn do giáo hội Thiên Chúa
Giáo xây dựng ngay từ những ngày đầu Pháp chiếm Việt Nam. Hai trường của Thiên
Chúa Giáo có tiếng là trường Pellerin ở Huế và trường Taberd ở Sài Gòn. Sau năm
1930 có một số tư thục do tư nhân mở ra ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn và ở một vài tỉnh lỵ
lớn đa số là các trường bậc Tiểu Học. Tư thục bậc Cao Đẳng Tiểu Học chỉ có ở Hà nội,
Huế và Sài gòn. Riêng tư thục bậc Tú Tài chỉ có ở Hà Nội và Sài Gòn. nhưng chỉ có lớp
cho 2 năm đầu vì học sinh đậu Tú Tài phần thứ nhất đương nhiên được thu nhận vào
trường công.
Hệ thống giáo dục phổ thông Pháp-Việt do Pháp thiết lập rất nhỏ. Trước nhất vì đó là
một chương trình giáo dục chỉ nhằm đào tạo một số người thừa hành cho mục tiêu cai
trị và khai thác của người Pháp. Thứ nũa vì dân số nước ta lúc đó không nhiều, chỉ có
khoảng 20 triệu người (12). Sau khi Nhật đảo chánh Pháp ở Đông Dương chương trình
giáo dục phổ thông Pháp-Việt bị bãi bỏ ở Bắc và Trung Kỳ năm 1945 và được thay thế
bằng chương trình Hoàng Xuân Hãn. Riêng miền Nam đến khi quốc trưởng Bảo Đại
thành lập chính quyền quôc gia mới chấm dứt áp dụng chương trình giáo dục PhápViệt vào năm 1949.
Học Chính Nam Kỳ Nhân sự
trong những năm 1871 - 1874 1887
INSTRUCTION PUBLIQUE (1871)
(trích : Annuaire de la Cochinchine Française, 1871
INSTITUTION MUNICIPALE DE SAIGON.
MM.
BASTIEN, directeur
CAMBAS, professeur.
BA-TUONG, idem.
COURS PUBLIC DE LANGUE ANNAMITE.
M.
JANNEAU, chargé du cours.
ÉCOLES DIRIGÉES PAR LES FRÈRES DE LA DOCTRINE CHRÉTIENNE.
École d'Adran à Saigon.
Frères
JAIME, directeur.
BLANDINIEN, Professeur.
IBONDIUS, idem.
BERTULIUS, idem.
ADILBERT-JEAN, idem.
NÉONILE DES ANGES, idem.
AUGUSTE-JOSEPH, idem..
École de Cholon.
Frères
BASILISSE-MARIE, directeur.
AIMARE-PIERRE, Professeur.
École de Vinh-Long.
Frères
NÉOPOLE DE JÉSUS, directeur.
GALLIQUE, Professeur.
JOSEPH-PIERRE, idem.
École de Bac-Trang.
Frères
ADGER, directeur.
BÉNILDE-HENRI, Professeur.
BÉRAIRE-FÉLIX, idem.
École de Mytho.
Frères
SARDOS (Jean-Baptiste), directeur.
THALE DE LA CROIX, Professeur.
INSTRUCTION PUBLIQUE (1874)
(trích : Annuaire de la Cochinchine Française, 1874)
ÉCOLE NORMALE.
MM.
ROBERT (Jules-Auguste), directeur
VINCENTI (Jean), professeur de 3e classe.
ROPERS (Joseph), idem.
TRUONG-VINH-KY, professeur auxiliaire.
TAO (Petrus), répétiteur de 1re classe.
TRUONG-MINH-KY, répétiteur de 2e classe.
ÉCOLES DIRIGÉES PAR LES FRÈRES.
Saigon, collège d'Adran.
Frères
LOTHAIRE, directeur.
BÉNILDE, sous-directeur
BLANDINIEN, professeur.
NÉONILE , professeur.
AUGUSTIN, professeur.
AUBERTIN, professeur.
JOSEPH, professeur.
SIMÉON, professeur.
GALLIQUE, professeur, en congé.
École de Mytho
Frères
IBONDIANUS, directeur.
NÉOPOLE, Professeur.
IBONDIUS, Professeur.
ANDRÉ, professeur.
École de Vinh-Long.
Frères
AGDER, directeur.
BASILISSE, Professeur.
THALE, Professeur.
ADRIEN, Professeur.
INSTRUCTION PUBLIQUE (1887)
(trích : Annuaire de la Cochinchine Française, 1887)
DIRECTION DE L'ENSEIGNEMENT.
MM.
RUL (Joseph), directeur de l'enseignement.
HUGON (Émile), commis rédacteur de 1re classe, secrétaire.
PAINCHAUD (Paul), commis de comptabilité de 1re classe.
NGUYEN-VAN-BON, secrétaire de 2e classe.
N..., secrétaire auxiliaire de 2e classe.
TRAN-DAC-SANG, idem.
N..., secrétaire auxiliaire de 2e classe.
COLLEGE CHASSELOUP-LAUBAT.
MM.
Mmes
MM.
ROUCOULES (Émile), directeur.
ROCCASERRA (Jean-Félix), sous-directeur.
JOSSELME (Léon), professeur de 1re classe.
BAJOT (Émile), idem.
GIAT (Placide-Hector), idem.
BOUTET (Joseph), professeur de 3e classe, en congé.
BERLAND (Émile), idem.
COTEL (Charles), idem, en congé.
LAHUPPE (Ferdinand), professeur de 4e classe.
VINSON (Émile), idem.
THIÉDEY (Charle), idem.
MARTIN (Marie-Joséphine-Sophie), institutrice.
MOREAU (Marie-Léonie), idem.
LACHAPELLE, idem, intérimaire.
KIEU-CONG-THIEN, professeur de 2e classe.
NGUYEN-VAN-BINH, idem.
TRUONG-VINH-THE, instituteur de 1re classe.
TRAN-DUY-THANH, instituteur de 2e classe.
DO-QUAN-DAU, idem.
NGUYEN-VAN-HUE, instituteur de 3e classe.
DUONG-VAN-CONG, idem.
TRAN-CHANH-CHIEU, idem.
TRUONG-VINH-VIET, idem.
HUYNH-CAO-VUI, idem.
DANG-VAN-HAN, idem.
TRAN-NHUT-THINH, idem.
HO-NGOC-NHON, idem.
TAN-QUAN-NINH, idem.
DANG-VAN-NGHI, instituteur provisoire.
TRAN-VAN-KHUE, professeur de caractères chinois.
TRAN-PHUONG-SACH, idem.
COLLÈGE D'ADRAN.
MM.
CARRIER (Alphonse), directeur.
BONNEAU (Siméon), professeur de 2e classe.
VÉRON (Jean-Marie), idem.
MERCIER (Ulysse-Adolphe), professeur de 3e classe, en congé.
COUFFINHAL (Étienne-Denis), professeur de 3e classe.
BERCOT (Émile), professeur de 4e classe.
MARMILLOT (François),idem.
DURAND (François), professeur stagiaire.
SYMPHOROSE (Louis-Basile), professeur stagiaire.
Mlle
Mme
MOEVUS (Jeanne), institutrice, en congé.
DURIVAULT (Eva), idem, intérimaire.
MM.
NGUYEN-VAN-GIAM, professeur de 1re classe.
TRAN-VAN-TRU, professeur de 2e classe.
NGUYEN-TRONG-QUAN, professeur de 4e classe.
NGUYEN-VAN-DUYEN, instituteur de 2e classe.
NGUYEN-VAN-SANH, idem.
NGUYEN-VAN-CHU, instituteur de 3e classe
LE-QUAN-TAN, idem.
NGUYEN-VAN-THAO, idem.
NGUYEN-VAN-PHAN, idem.
PHAM-VAN-LICH, idem.
HUYNH-VAN-NGUYEN, idem.
NGUYEN-VAN-PHAN, idem.
NGUYEN-VAN-HOANH, idem.
HO-VAN-CHAI, instituteur adjoint.
NGUYEN-VAN-AN, idem.
NGUYEN-VAN-CHAN, idem.
NGUYEN-VAN-DIEN, idem.
TRAN-VAN-CHINH, instituteur provisoire.
NGUYEN-VAN-NGUON, professeur de caractères chinois.
COLLÈGE DE MYTHO.
MM.
CERLIER (Pierre-Joseph), directeur.
BEFFORT (Léopold), professeur de 4e classe.
MARCELLIN (Isidore), idem.
PAILLOT (Auguste-Eugène), professeur stagiaire.
GALLAND (François), idem.
BAUDIN (Alexandre), idem.
GÉLÉDAN (André), idem.
DEFRANCE (Émile-Jean-Jacques), idem.
RÉVOUY (André-Joseph), idem.
NGUYEN-VAN-SOI, instituteur de 1re classe.
LE-VAN-YEN, idem.
NGUYEN-DANG-TAY, instituteur de 2e classe.
NGUYEN-VAN-CAM, instituteur de 2e classe.
NGUYEN-VAN-CHUONG, idem.
NGUYEN-VAN-NHIEU, idem.
NGUYEN-VAN-DONG, idem.
NGUYEN-VAN-KHUE, idem.
TRAN-VAN-THEM, idem.
VO-VAN-THOM, idem.
TRAN-VAN-TRUYEN, idem.
TRAN-VAN-CHANH, idem.
NGUYEN-VAN-LONG, instituteur de 3e classe.
NGUYEN-THANH-PHUNG, idem.
HUYNH-VAN-TOAN, idem.
VO-MINH-TRIET, professeur de caractères chinois.
ÉCOLE DE GIADINH.
MM.
MENGUY (Louis), directeur.
MALHOMME (Pierre), professeur de 4e classe.
LACHAPELLE (Emmanuel), idem.
NGUYEN-VAN-KHIEM, instituteur de 1re classe.
LE-QUAN-MINH, instituteur de 2e classe.
NGUYEN-VAN-DIEM, instituteur de 3e classe.
NGUYEN-DUC-TUAN, idem.
NGUYEN-VAN-HUNG, idem.
NGUYEN-SANG-TRONG, instituteur adjoint.
TRUONG-IT-KHIEM, professeur de caractéres chinois.
ÉCOLE DE BIEN HOA.
MM.
FERRU (Louis), directeur.
BIZARD (Clément), professeur stagiaire.
GIRARDOT (Louis-Émile), idem.
TONG-VAN-THAO, instituteur de 3e classe.
NGUYEN-VAN-CHINH, idem.
NGUYEN-VAN-THUAN, idem.
LE-PHUOC-AN, idem.
NGO-VAN-LOI, professeur de caractères chinois.
ÉCOLE DE BENTRE.
MM.
D'HÉNOUVILLE (Léon), directeur.
BEC (Remy), professeur stagiaire.
DARRÉ (Jules-Joseph), professeur de 4e classe.
VO-VAN-MANH, instituteur de 1re classe.
LE-NGOC-BUT, idem.
PHAM-VAN-NONG, instituteur de 3e classe.
LE-VAN-THO, idem.
NGUYEN-VAN-NGOI, instituteur de 3e classe.
LE-VAN-DAY, idem.
HUYNH-VAN-KHOA, instituteut provisoire.
HA-VAN-DANG, professeur de caractères.
ÉCOLE DE VINHLONG.
MM.
HOUSSIN (Gabriel), directeur.
GAUBERT (Jules-Bastien), professeur stagiaire.
LE-VAN-VI, instituteur de 1re classe.
NGUYEN-CHANH-VINH, instituteur de 2e classe.
NGUYEN-VAN-THOAI, instituteur de 3e classe.
LE-VAN-THIEP, idem.
NGUYEN-CHANH-THUAN, professeur de caractères chinois.
ÉCOLE DE SOCTRANG.
MM.
N..., directeur.
BRUNET (Jean), professeur stagiaire.
PHAM-VAN-XUYEN, instituteur de 1re classe.
NGUYEN-VAN-TRUOC, instituteur de 3e classe.
NGUYEN-VAN-VI, idem.
DANG-VAN-HUNG, professeur de caractères chinois.
ÉCOLE DE GOCONG.
MM.
LIEUTARD (Édouard), directeur.
NGUYEN-VAN-DINH, instituteur de 1re classe.
HUYNH-THIEN-HO, instituteur de 2e classe.
TRUONG-VAN-HUONG, idem.
TRAN-XUAN-PHUONG, professeur de caractères chinois.
ÉCOLE DE TAYNINH.
MM.
VIGNAUD (Pierre), directeur.
NGUYEN-VAN-NHUONG, instituteur de 3e classe.
NGUYEN-VAN-QUYEN, idem.
TRAN-VAN-HEN, idem.
NGUYEN-VAN-MUU, professeur de caractères chinois.
ÉCOLE DE SADEC.
MM.
ÉTELLIN (François), directeur.
NGUYEN-DANG-TRUONG, instituteur de 2e classe.
NGUYEN-HUU-THUC, instituteur de 3e classe.
NGUYEN-KY-NGHIEM, professeur de caractères chinois.
ÉCOLE DE TANAN.
MM.
NGUYEN-VAN-NGHIEP, instituteur de 2e classe.
HO-VAN-GIENG, instituteur de 3e classe.
TRUONG-TAN-BUU, professeur de caractères chinois.
ÉCOLE DE LONGXUYEN.
MM.
LE-CONG-XUAN, instituteur de 3e classe.
NGO-TUNG-CHAU, professeur de caractères chinois.
ÉCOLE DE RACHGIA.
MM.
NGUYEN-HUU-THANH, instituteur de 1re classe.
MAI-CHIEM-TIEN, professeur de caractères chinois.
ÉCOLE DE TRAVINH.
MM.
LE-CONG-LAN, instituteur adjoint.
VO-VAN-HUNG, professeur de caractères chinois.
ÉCOLE DE THUDAUMOT.
MM.
NGUYEN-VAN-CO, instituteur de 1re classe.
PHO-THANH-KHANH, professeur de caractères chinois.
ÉCOLE DE HATIEN.
MM.
PHAN-VAN-DINH, instituteur de 2e classe.
NGUYEN-VAN-NGHI, professeur de caractères chinois.
INSTITUTION MUNICIPALE DES GARCONS (SAIGON).
MM.
TAQUET (Théogène), directeur.
BERGER (Jean), professeur de 3e classe, en congé.
FAUR (Charles), professeur stagiaire.
INSTITUTION MUNICIPALE DES FILLES (SAIGON).
Mmes
DUSSUTOUR (Augustine), directrice.
BOUTEILLER (Élise), sous-directrice.
INSTITUTION MUNICIPALE DE CHOLON.
MM.
MÉRIC (Jean), directeur.
GUNET (Louis), professeur de 3e classe, en congé.
INSTITUTION MUNICIPALE DE PNOM-PENH.
MM.
PELLETIER (Émile), directeur.
JAMMES (Ludovic), professeur de 3e classe.
COLLEGE DES INTERPRÈTES.
MM.
A. LANDES, administrateur de 1re classe, directeur du collège, en congé.
A. NAVELLE, administrateur de 1re classe, directeur du collège p.i.
J. TAUPIN, professeur de 2e classe, professeur de cambodgien.
J. CHÉON, professeur de 3e classe, professeur d'annamite, en congé.
M. BRÉGEGÈRE, professeur de 3e classe, professeur de français, en congé.
LACHAPELLE, professeur de 4e classe, professeur de français p.i.
P. TRUONG-VINH-KY, professeur de chinois aux Européens.
TRUONG-MINH-KY, professeur de 1re classe, répétiteur de français.
PHAN-DUC-HOA, professeur de chinois aux Annamites.
NGUYEN-VAN-TO (Charles), secrétaire de 1re classe, comptable du collège.
NGUYEN-VAN-TRI, expéditionnaire.
LE-CONG-NHON, idem.
NGUYEN-VAN-PHUOC, idem.
KIEN WAR, répétiteur de cambodgien.
TRAN-KHAI-SA, répétiteur de cantonnais.
ÉLÈVES INTERPRÈTES EUROPÉENS.
MM.
BOSCQ, élève interprète de 1re classe.
LORIN, idem.
AGEN, élève interprète de 2e classe.
BABIN, idem, en congé.
HERLOIN, idem.
THIRODE, idem.
ÉLÈVES INTERPRÈTES ANNAMITES.
MM.
N...
ÉLÈVES INTERPRÈTES CAMBODGIENS.
MM.
DY, élève interprète de 2e classe.
NIOU, élève interprète de 3e classe.
RUONG, idem.
WONG, idem.
- Các trường học tại Bắc Kỳ năm 1886
"Khi Paul Bert tới Bắc Kỳ, khắp xứ chỉ có 3 trường Pháp. Trong vòng chưa tới một
năm, ngày hội chợ (exposition), ta tính được :
1 trường thông ngôn
9 trường tiểu học (nam)
4 trường tiểu học (nữ)
1 trường tư dạy vẽ
117 trường tư dạy chữ quốc ngữ."
(Les débuts de l'enseignement français au Tonkin, par M.G.Dumoutier,
Organisateur et Inspecteur des écoles franco-annamites.)
Paul Bert được cử làm Thống sứ An Nam Bắc Kỳ ngày 8 tháng 4 năm 1886
- Các trường học tại Bắc Kỳ năm 1889
"Tiểu dẫn về nền học chính tiểu học tại Bắc Kỳ
"Số trường được ngân sách Chính quyền Bảo hộ tài trợ tại Bắc Kỳ và An Nam là
mười sáu, gồm có một trường thông ngôn tại Hà Nội, mười hai trường PhápAnnam cho nam học sinh tại các địa điểm sau đây: Nam Định, Hà Nội, Hải Phòng,
Bắc Ninh, Ninh Bình, Hưng Yên, Quảng Yên, Hải Dương, Sơn Tây, Tuyên Quang,
Bình Định và Qui Nhơn; ba trường nữ (écoles de filles), quy tụ các học sinh người Âu
hai phái nam và nữ, và các nữ sinh người An Nam, tại Hà Nội, Nam Định và Hải
Phòng.
Ngoài ra, tại Hà Nội còn có thêm:
Một trường dạy tiếng An Nam cho công chức,
Một trường Pháp, do các giáo sĩ của Hội truyền giáo nước ngoài điều hành;
Và tại Hải Phòng, một trường nữ do các nữ tu sĩ điều hành.
Các giáo sĩ Hội truyền giáo nước ngoài và các giáo sĩ Tây Ba Nha còn có một số
trường riêng, quan trọng nhất là trường Phúc Nhạc.
Ngoài các trường của Chính quyền Bảo hộ, chữ Quốc ngữ và vài khái niệm sơ đẳng
tiếng Pháp còn được dạy tại khoảng hai mươi trường tư của người An Nam. vào các
năm 1886 và 1887 , số trường tư lên rất cao; có 42 trường gửi công trình trưng bày
tới Hội chợ triển lãm tại Hà Nội."
(trích : Annuaire de l'Indochine pour l'année 1889 - IIe Partie - Annam et Tonkin.
trang 270)
- Nhân sự các trường học công tại Bắc
Kỳ năm 1889
(trích : Annuaire de pour l'année 1889 - IIe Partie - Annam et Tonkin.
trang 270)
Y HỌC CỒ TRUYỀN VIỆT NAM
(8)
Việt Nam có trên 4000 năm lịch sử dựng nước. Trong nền văn minh Văn Lang
và văn minh Ðại Việt những y lý và y thuật dựa trên nền tảng của sự kết hợp lý luận y
học phương Ðông với các kinh nghiệm chữa bệnh của dân gian của 54 dân tộc Việt
Nam, cùng với kinh nghiệm sử dụng các nguồn dược liệu phong phú của đất nước
trong vùng nhiệt đới tạo thành một nền y học truyền thống.
1- Thời Kỳ Dựng Nước (Thời Kỳ Hùng Vương - 2900 năm trước Công Nguyên).
Thời kỳ này y học còn truyền miệng nhưng đã biết dùng thức ăn trị bệnh : ăn trầu cho
ấm cơ thể, nhuộm răng để bảo vệ răng...
2- Thời Kỳ Đấu Tranh Giành Độc Lập Lần Thứ I (năm 111 trước Công
nguyên).
Giao lưu và tiếp thu nền y học Trung Quốc. Các vị thuốc được đưa sang Trung Quốc
Trầm hương, Tê giác... 1 số thầy thuốc Trung Quốc sang Việt Nam trị bệnh như : Đổng
Phụng, Lâm Thắng...
3- Thời kỳ Độc Lập Giữa Các Triều Đại Ngô, Đình, Lê, Lý, Trần, Hồ (năm
939-1406).
+Thời Nhà Lý (1010-1224)
Tổ chức Ty Thái Y chăm lo bảo vệ sức khỏe cho vua quan trong triều, có nhiều
thầy thuốc chuyên nghiệp lo việc chữa bệnh cho nhân dân, phát triển việc tổ
chức trồng thuốc...
Phương pháp trị bệnh bằng tâm lý phát triển : Lương y Nguyễn Chí Thành dùng
tâm lý trị liệu trị cho vua Lý Thần Tông khỏi bệnh.
+Thời Nhà Trần (1225-1399)
Ty Lương Y đổi thành Viện Thái Y từ năm 1362.
Chủ trương phát thuốc cho nhân dân ở các vùng có dịch bệnh.
Tổ chức trồng và thu hái thuốc dùng cho quân đội và nhân dân.
Thời kỳ này có Nguyễn Bá Tĩnh (Tuệ Tĩnh) với tác phẩm Nam Dược Thần Hiệu,
Hồng Nghĩa Giác Tư Y Thư , Chu Văn An với tác phẩm Y Học Yếu Giản Tập
Chú Di Biên
Tuệ Tĩnh
Nguyễn bá Tĩnh
Nam Dược Thàn Hiệu
+Thời Nhà Hồ (1400-1406)
Danh y thời này là Nguyễn Đại Năng với tác phẩm Châm Cứu Tiệp Hiệu Diễn Ca .
4- Thời Kỳ Đấu Tranh Giành Độc Lập Lần Thứ II (1407-1427)
Nhà Minh xâm lược cướp hết các sách vở, thuốc và đem các danh y Việt Nam về nước
... do đó Y học không phát triển được.
5-Thời Kỳ Độc Lập Dưới Các Triều Đại Hậu Lê, Tây sơn, Nguyễn (1428-1876)
+Thời Nhà Hậu Lê 1428-1788)
Bộ Luật Hồng Đức có đặt quy chế về nghề Y : trừng phạt thầy thuốc kém đạo
đức, ban hành quy chế pháp y khám án mạng tử thi...
Cấm phá thai, phổ biến phương pháp vệ sinh phòng dịch, luyện tập giữ gìn sức
khỏe... Tác phẩm có Bảo Sinh Diên Thọ Toát Yếu của Đào Công Chính.
Ở triều đình có Thái Y Viện, ở các tỉnh có Tế Sinh Đường lo chữa bệnh cho nhân
dân nhất là công tác chống dịch.
Mở các khóa thi tuyển lương y, tổ chức khoa giảng dạy ở Thái y viện, đặt các học
chức ở phủ, huyện để dạy nghề thuốc. Soạn các tác phẩm : Y Học Nhập Môn
Diễn Ca, Nhân Thân Phú... Thời gian này có nhiều danh y : Nguyễn Trực với tác
phẩm Bảo Anh Lương Phương , Lê Hữu Trác với tác phẩm Hải Thượng Y Tông
Tâm Lĩnh 28 tập 66 quyễn, Hoàng Đôn Hòa với tác phẩm Hoạt Nhân Toát Yếu
bàn về tổ chức y tế quân đội.
Hải Thượng Lãn Ông
Lê Hữu Trác
+Thời Tây Sơn (1788-1802)
Tổ chức được Cục Nam Dược nghiên cứu thuốc trị bệnh cho quân đội và nhân
dân.
Tác phẩm : Liệu Dịch Phương Pháp Toàn Tập + Hộ Nhi Phương Pháp của
Nguyễn Gia Phan, La Khê Phương Dược + Kim Ngọc Quyển của Nguyễn
Quang Tuấn.
+Thời Nhà Nguyễn (1802-1883)
Ở triều đình có Thái y viện, ở các tỉnh có Ty Lương y, có mở trường dậy thuốc
ở Huế (1850).
Tác phẩm: Nam Dược Tập Nghiệm Quốc Âm của Nguyễn Quang Lương, Nam
Thiên Đức Bảo Toàn của Lê Đức Huệ...
6-Thời Kỳ Pháp thuộc (1884-1945)
Giải tán các tổ chức y tế thời nhà Nguyễn, loại YHCT ra khỏi tổ chức y tế bảo hộ, đưa
nền y tế thực dân vào. thầy thuốc YHCT chỉ hoạt động nhỏ lẻ trong dân gian.
7-Thời kỳ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (1945-1976)
Phục hồi nền YHCT.
Chủ trương kết hợp YHCT & YHHĐ để phục vụ tốt sức khỏe cho nhân dân.
Ngày 10-12 - 1957 thành lập Hội Đông Y Việt Nam, Sau năm 1975 đến nay qua
nhiều lần đổi tên: Hội Y Học Dân Tộc, Hội Y Học Cổ Truyền Dân Tộc, Hội Y Học
Cổ Truyền, nay lấy lại tên củ là Hội Đông y Việt Nam. Năm 1995 do hợp tác quốc
tế Việt Nam thành viên của Hiệp Hội Châm Cứu Thế Giới nên Hội Đông y tách ra
thêm Hội Châm Cứu Việt Nam. Phổ biến các phương pháp trị bệnh không dùng
thuốc.
Tóm lại:
Nền Đông y Việt Nam đã được văn bản hoá từ năm 1010 (thời nhà Lý). Thế kỷ
thứ 13, nhà bác học Chu Văn An đã nêu đường lối chữa bệnh không dùng mê
tín dị đoan. Thế kỷ 14, đại danh y Tuệ Tĩnh nghiên cứu cây con thuốc Việt Nam
để chữa bệnh (580 vị thuốc trong 3873 đơn thuốc cho 10 loại chuyên khoa trị
bệnh). Thế kỷ 18 đại danh y Lê Hữu Trác với tên hiệu là Hải Thượng Lãn Ông
đã biên soạn tập sách thuốc "Y TÔNG TÂM LỈNH" gồm 28 bộ có 66 tập sách nói
về y đức, vệ sinh phòng bệnh, y lý cơ bản, dược lý, bệnh lý, các đơn thuốc có
công hiệu, bệnh án, một số trường hợp bệnh ...
Trong nền Văn Minh Ðại Việt đã có 155 vị danh y với 497 tập tuyển sách y
học cổ truyền dân tộc được viết bằng tiếng Hán và tiếng Nôm.
Trong thế kỷ 20 các vị danh y Việt Nam cũng đã biên soạn trên 200 tập sách có
giá trị về Đông y bằng tiếng Quốc ngữ.
Nền y học dân gian của 54 dân tộc trong cộng đồng Việt Nam gắn liền với sự
sinh sống từng vùng địa dư sinh thái và xã hội. Từng dân tộc trong quá trình tồn
sinh và phát triển đều tích luỹ được những kinh nghiệm về sử dụng cây con
thuốc có ở từng địa phương.
Ðông y Việt Nam với hệ thống lý luận chặt chẻ, với các phương pháp phòng và
chữa bệnh có hiệu quả, đã phục vụ đắc lực cho việc giữ gìn và bảo vệ sức khoẻ
cho nhân dân từ xưa tới nay.
Trong nhiều năm qua Ðảng và Nhà nước đã có nhiều Nghị quyết, Chỉ thị chỉ đạo
ngành y tế phối hợp với các ngành, các tổ chức xã hội nghiên cứu kế thừa, bảo
tồn và phát triển YDHCT, kết hợp YDHCT với YDHHÐ nhằm xây dựng nền Y
Dược học Việt Nam hiện đại, khoa học, dân tộc và đại chúng.
- Ðã đưa YDHCT có vị trí trong việc chăm sóc sức khoẻ nhân dân; có hệ thống
tổ chức từ trung ương đến các địa phương. Cả nước có 5 Viện nghiên cứu; 46 bệnh
viện YHCT cấp tỉnh; có khoa hoặc tổ YHCT ở 80% viện, bệnh viện YHHÐ cấp quận,
huyện; 30% trạm y tế xã có hoạt động khám chữa bệnh bằng YHCT; có trên 10.000 cơ
sở YDHCT tư nhân.
- Ðã đào tạo được đội ngũ thầy thuốc YHCT và kết hợp YDHCT với YDHHÐ gồm
35 tiến sĩ; 100 thạc sĩ; 100 bác sĩ chuyên khoa cấp 2; 500 bác sĩ chuyên khoa cấp 1;
2000 bác sĩ y học cổ truyền; 5000 cán bộ trung học YDHCT.
- Tổ chức kế thừa được nhiều bài thuốc hay, cây thuốc quý của các lương y trên
mọi miền đất nước. Nhiều địa phương như Lạng Sơn, Thanh Hoá, Sóc Trăng, Thái
Nguyên,... đã sưu tầm và lưu lại hàng ngàn cây thuốc, bài thuốc kinh nghiệm của đồng
bào các dân tộc ít người; tổ chức nghiên cứu ứng dụng và nghiên cứu kết hợp, từng
bước phát huy được tiềm năng của YDHCT phục vụ cho sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ
sức khoẻ nhân dân.
- Dược liệu nói chung và thuốc YHCT nói riêng đã có trong danh mục thuốc
thiết yếu. Ðã điều tra khảo sát có 3850 loài thực vật được sử dụng làm thuốc thuộc 309
họ, trong đó đại đa số là cây mọc tư nhiên. Về động vật, có 406 loài thuộc 22 lớp, 6
ngành được sử dụng làm thuốc. Về khoáng vật, thống kê được 70 loại khoáng vật có ở
Việt Nam được sử dụng làm thuốc.
Các cơ sở sản xuất thuốc YHCT ngày càng được nâng lên cả về chất lượng và số
lượng. Hiện nay, cả nước có trên 450 cơ sở, xí nghiệp sản xuất, kinh doanh thuốc YHCT
(Nhà nước, dân lập, tư nhân, cổ phần). Bộ Y tế đã cấp số đăng ký cho trên 2000 chế
phẩm thuốc YHCT được sản xuất lưu hành trên thị trường. Thuốc YHCT đã đa dạng về
chủng loại với giá cả phù hợp đáp ứng nhu cầu phòng và chữa bệnh của nhân dân.
Thuốc YHCT Việt Nam đã được xuất khẩu sang nhiều nước như Cộng hoà Liên bang
Nga, Cộng hoà Ucraina, Cu Ba, Lào, Thái Lan, Campuchia,...
- Hàng năm tuy số cơ sở YDHCT còn ít, nhưng số lượng bệnh nhân đến khám và
điều trị ngày một nhiều. Có khoảng 30% số bệnh nhân trong cả nước được khám và
điều trị bằng YHCT, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng còn nhiều khó khăn. YHCT đã
góp phần thực hiện chính sách xã hội và công bằng xã hội trong chăm sóc sức khoẻ cho
nhân dân.
- Công tác xã hội hoá về YDHCT cũng được đẩy mạnh. Ngành y tế đã phối hợp với
Hội Ðông y tổ chức tuyên truyền và vận động nhân dân trồng, sử dụng những cây thuốc
sẵn có ở địa phương, những bài thuốc đơn giản để tự phòng và chữa một số bệnh thông
thường, không những đã góp phần tích cực thực hiện chiến lược chăm sóc và bảo vệ
sức khoẻ nhân dân mà còn góp phần thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo và cải
thiện môi trường.
- Hợp tác quốc tế ngày càng mở rộng, uy tín của các phương pháp chữa bệnh của
YHCT Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Hiện tại, Việt Nam có
quan hệ hợp tác về YDHCT với hơn 40 nước.
Nhìn lại chặng đường phát triển của nền Y dược Việt Nam nói chung và nền
YDHCT nói riêng từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhất là sau hơn mười lăm
năm đổi mới, có thể khẳng định rằng sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho nhân
dân đã đạt được những thành tựu to lớn. Ðường lối kế thừa, bảo tồn và phát triển
YDHCT, kết hợp YDHCT với YDHHÐ mà Ðảng và Nhà nước ta đã vạch ra là hoàn toàn
đúng đắn. Nền y dược học xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã thể hiện được tính ưu việt
của chế độ tốt đẹp do Ðảng Cộng sản Việt Nam mang lại.
DI SẢN THỜI PHÁP THUỘC
GIÁO DỤC Y DƯỢC HỌC (12, 19)
1898: Toàn quyền Paul Doumer bổ nhiệm một ủy ban nghiên cứu việc thành lập một
trường y khoa tại Sài Gòn do bác sĩ R. Henaff làm chủ tịch. Đồng thời Giáo sư Thạc
sĩ Edouard Janselme nhận sứ mạng của Bộ Thuộc Địa Pháp sang nghiên cứu tại
Đông Dương trong 2 năm, cũng khuyến cáo mở trường y khoa.
1902: École de Médecine de l’Indochine (Trường Y khoa Đông Dương)
được thành lập tại Hà Nội, Bác sĩ Alexandre Yersin được bổ nhiệm Hiệu trưởng đầu
tiên của nhà trường. Lể khánh thành cử hành vào ngày 27 tháng 1 năm 1902 dưới sự
chủ tọa của Toàn quyền Paul Doumer.
Paul Doumer
Alexandre Yersin
Khóa học đầu tiên của trường khai giảng ngày 1 tháng 3 năm 1902 gồm có 29 khóa
sinh, được hưởng học bổng mỗi người 8 đồng bạc/tháng, thành phần như sau :
- 15 người thuộc Bắc kỳ
- 8 người gốc Nam kỳ
- 5 người Trung kỳ
- 1 người gốc Cao Miên
Sau kỳ tam cá nguyệt đầu tiên tháng 6-1902, 14 người bị loại, chỉ còn 15 sinh viên
được tiếp tục học.
1906: Toàn quyền Đông Dương Paul Bert thành lập Viện Đại học Đông Dương,
Trường Y khoa Đông Dương trở thành một trường thành viên của Viện Đại học Đông
Dương và vẫn tiếp tục đào tạo sau khi viện đại học này tạm ngừng hoạt động từ năm
1908.
Các y sĩ tốt nghiệp khóa đầu tiên năm 1907 được bổ nhiệm " Médecins auxillaires de
troisième classe " theo tinh thần nghị định ngày 12 tháng 8 năm 1905, và được phân
phối đi các tỉnh để phụ tá các bác sĩ gốc Âu Châu.
Báo cáo cho biết họ được thiện cảm của dân chúng và nhà cầm quyền vì khả năng và
sự tận tụy làm việc.
1913: Toàn quyền Albert Sarraut ký nghị định thành lập Trường Y khoa và Dược
khoa Đông Dương trên cơ sở Trường Y khoa cũ.
Chương trình học gồm có 1 năm P.C.B. ( Physique, Chimie, Biologie ), 4 năm y khoa tại
Hà Nội và 2 năm chót tại Paris.
Cho tới năm 1914, trường đã đào tạo được 237 y sĩ, y tá và nữ hộ sinh.
Hơn 10 năm sau, nghị quyết ngày 19-10-1933, trường mới được phép tổ chức các kỳ
thi tốt nghiệp và đệ trình luận án Tiến sĩ Y khoa.
Các giáo sư thạc sĩ thuộc Đại học Paris được cử sang giảng dạy, chấm thi các kỳ thi
bệnh lý, và chủ tọa các buổi trình luận án y khoa. Trường cũng được xây thêm trên
đường Gambetta, thư viện có hơn 5.000 cuốn sách và nhiều báo chí y khoa định kỳ,
bệnh viện thực tập mở rộng, có hơn 750 giường, và các phòng thí nghiệm được trang
bị khá đầy đủ.
1935: cuộc đệ trình luận án đầu tiên của trường gồm có 12 sinh viên tốt nghiệp y
khoa bác sĩ.
NHỮNG BƯỚC THĂNG TRẦM CỦA THỜI KỲ ĐẦU
Kỳ thi tuyển đầu tiên vào trường Y khoa Hà Nội có 121 thí sinh Bắc Kỳ. Ngày đó, tiêu
chuẩn cao nhất là biết ít nhiều tiếng Pháp. Hệ thống giáo dục phổ thông chưa được tổ
chức (mãi năm 1907 mới thành lập trường Trung học Bảo Hộ, tức trường Bưởi).
Theo kết quả công bố ngày 1.2.1902, có 15 người trúng tuyển, trong đó có 7 thí sinh
người Hà Nội, tất cả đều đạt loại Xuất sắc (très bien), gồm các vị 7:
HỌ VÀ TÊN
Nguyễn Văn Thanh
TUỔI
16 tuổi
ĐỊA CHỈ
Số 10 phố Hàng Tre
2.
Tạ Văn Việt
16 tuổi
Số 109 phố Mã Mây
3.
4.
Nhữ Trọng Tân
Trần Đình Huy
19 tuổi
15 tuổi
Số 6 phố Hàng Ngang
Số 41 phố Hàng Bạc
5.
Phạm Đình Minh
15 tuổi
Số 100 phố Hàng Gai
6.
Nguyễn Văn Giụ
18 tuổi
Số 45 phố Hàng Vôi
7.
Phạm Văn Nam
20 tuổi
Số 16 phố Hàng Chiếu
STT
1.
Danh sách được học bổng đăng trong Công báo Đông Dương ngày 3 - 4 - 1902 gồm
27 người, riêng Hà Nội có 5 người, hơi khác với danh sách trúng tuyển ở trên
(nguyên bản không có dấu và các tên đều có gạch nối)
Xứ Bắc Kỳ:
Hà Nội
Ta-van-Viet, Nhu-trong-Tam, Tran-dinh-Huy,
Pham-dinh-Minh, Pham-van-Phan
Tỉnh Bắc Ninh
Pham-dinh-Vi
Tỉnh Hải Dương
Nguyen-van-Ban, Le-quang-Linh
Tỉnh Hưng Hoá
Nguyen-huu-Phuc
Tỉnh Nam Định
Hoang-van-Phong, Bui-van-Qui, Tran-van-Chuc,
Do-van-Tân
Cao-dinh-Tu
Tỉnh Ninh Bình
Tỉnh Sơn Tây
Xứ Trung Kỳ:
Xứ Nam Kỳ:
Xứ Cao Miên:
Le-nhu-Hang
Ung-Phong, Le-Canh, Vo-dai-Thuc, Van-dinh-Gian
Lương-van-Thieu, Nguyen-van-Ba, Vo-van-Huu,
Nguyen-van-Danh, Pham-van-Chu, Nguyen-vanTiep, Nguyen-van-Sanh, Nguyen-van-Trong
Pendinand Amphon
Cộng 28 vị (?)
Năm học đầu tiên cách đây đúng 100 năm có 15 học sinh Bắc Kỳ, 5 học sinh Trung Kỳ, 8 học sinh Nam Kỳ và
1 học sinh Cao Miên (nhưng không thấy trong danh sách học bổng), tất cả 29 người 8 được họcbổng với mức
8 đồng một tháng (có lẽ để bảo đảm tính chất "Đông Dương" nên riêng Bắc Kỳ có số thí sinh đông nhất mới
phải thi tuyển, còn học sinh các xứ khác do chính quyền địa phương cử tuyển trong số người biết tiếng Pháp).
Không có căn cứ cụ thể để tính giá trị của học bổng này, nhưng dựa vào luận án của Giáo sư Đinh Văn
Thắng năm 1940 có thể biết được đại khái: giá cả năm 1938 là 1 hào một chục bìa đậu phụ hoặc một lít nước
mắm loại ngon. Theo Nguyễn Ngọc Lanh (do các cụ kể lại) thì 6 đồng bạc năm 1902 mua được 1.000 quả
trứng hoặc 3 - 4 tạ gạo. Lương Tri huyện vào thời này cũng chỉ khoảng 25 đồng (theo Đặng Hữu Thụ: Làng
Hành Thiện và các nhà nho Hành Thiện triều Nguyễn, sách tự xuất bản.- Paris 1992). Ngân sách dành cho
thư viện và sách giáo khoa là 2000 đồng trong năm đầu tiên.
Lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng toà nhà chính của trường (tức lễ thành lập) được
tiến hành vào ngày 27 tháng Hai 1902 tại ấp Thái Hà (Nam Đồng), cách xa trung tâm
Hà Nội, ngay hôm trước ngày khánh thành cầu Paul Doumer (tức cầu Long Biên).
Chắc không phải ngẫu nhiên mà hai "dấu ấn văn hoá" này của toàn quyền Paul
Doumer được trình làng vào cùng một dịp.
Trường khai giảng ngày 1 tháng Ba 1902. Thời gian học cho tới kỳ nghỉ hè 1902 thật
ra là để hoàn thành chương trình dự bị trước khi khai giảng chính thức năm học vào
tháng Mười. Các môn học gồm có:
- Giải phẫu và sinh lý học đại cương
- Động vật học, Thực vật học, Hoá học và Vật lý học đại cương
- Số học và Hình học
- Tiếng Pháp, Lịch sử và Địa lý đại cương.
Trong thời gian này, hiệu trưởng yêu cầu hai bác sỹ Le Roy des Barres và Degorce
hoàn thành luận án tốt nghiệp tại Paris (hai bác sĩ này đã phải qua một kỳ thi tuyển
sang Đông Dương). Khung cán bộ trong năm đầu tiên gồm 8 vị:
Alexandre Yersin, hiệu trưởng
Degorce và Le Roy des Barres: giảng dạy lâm sàng
Bertin Capus, bác sĩ trưởng hạng nhất: giảng dạy giải phẫu
Jacquet, giám đốc sở Nông Nghiệp: giảng dạy thực vật học
Duvergne, dược sĩ trưởng: giảng dạy Hoá học
Gallois, thư ký: giảng dạy Lịch sử, Địa lý, Toán học, Hoá học và Vật lý học cơ
bản
Lê Văn Chinh, phụ giảng và phiên dịch (thầy Chinh, năm 1905, được sang
Pháp thi bác sĩ y khoa)
Như vậy có tới 6 vị có học vị bác sĩ (theo cách gọi thời đó, thực chất là tiến sĩ) và 1 vị
có học vị cử nhân để giảng dạy 29 học sinh mới chỉ võ vẽ tiếng Pháp và chút ít kiến
thức về toán pháp và cách trí (tên gọi các môn khoa học thường thức ngày ấy).
Không kể học sinh Nam Kỳ, học sinh Bắc Kỳ chắc còn phải giỏi Hán văn vì những
năm đó, nhiều người trong số họ có thể đang chuẩn bị thi Hương thì bỏ sang cầm bút
sắt. Ngoài ra để đi thi Hương những khoá cuối cùng, họ cũng sẽ phải thi môn toán
pháp và cách trí. Nếu đây là một lớp nho sinh thì chắc không bao giờ có một số đông
đến thế các vị khoa bảng cùng giảng dạy trong một khoá học.
Chương trình ba năm học được qui định như sau:
Năm thứ Nhất:
Năm thứ Hai:
Năm thứ Ba:
Giải phẫu lý thuyết
Mô học
Phẫu tíchPhẫu tích
Lâm sàng ngoại khoa
Sinh lý họcHoá học
Lâm sàng nội khoa
Động vật học, lý thuyết và thực hành
Thực vật học
Vật lý học, hoá học, lý thuyết và thực hành
Tiếng Pháp, Địa lý, Lịch sử
Giải phẫu lý thuyết
Lâm sàng ngoại khoa
Phẫu thuật
Lâm sàng nội khoa
Vi trùng học
Bệnh học đại cương
Bệnh học nội khoa
Bệnh học ngoại khoa
Vật lý học
Địa chất học
Giải phẫu định khu
Bệnh ngoài da và hoa liễu
Lâm sàng ngoại khoa
Điều trị học
Lâm sàng nhãn khoa
Phẫu thuật
Pháp Y
Phôi thai học
Vệ sinh
Lâm sàng nhãn khoa
Giải phẫu bệnh học
Lâm sàng nha khoa
Thiên văn học
Lâm sàng sản khoa
Dược lý học
Lâm sàng nội khoa
Khí tượng học
Môn Giải phẫu được giảng dạy trong cả 3 năm học, dù nay chưa biết nội dung hay
dung lượng nhưng phải học suốt 3 năm là khá nặng, đã có thể thấy là học sinh được
đào tạo rất cơ bản và không thể coi đây là một chương trình trung cấp. Những môn
cơ bản khác, như địa chất, thiên văn và khí tượng thì học sinh tốt nghiệp phổ thông
của ta bây giờ cũng không biết nhưng lại cần cho hành nghề y, vì liên quan tới những
kiến thức về khí hậu, thời tiết và lịch pháp (thuật tính lịch). Tóm lại là kiến thức của
học sinh y khoa khoá đầu được chuẩn bị khá toàn diện Thực hành rất được chú ý.
Học sinh ngay từ năm thứ nhất đã đi thực tập tất cả các buổi sáng, từ 7 đến 9 giờ, tại
bệnh viện thực hành của nhà trường (được xây dựng cách trường 200 mét, thời gian
đầu có 5 phòng, 40 giường, 4 y tá nam, 2 y tá nữ và 6 y công), buổi chiều lên lớp lý
thuyết. Chiều thứ Năm hàng tuần có kiểm tra viết, thứ Bảy có thêm kiểm tra vấn đáp.
Rõ ràng chương trình học nhằm cung cấp cơ sở lý thuyết và thực hành cần thiết cho
học sinh trong điều kiện hệ thống giáo dục phổ thông chưa hình thành. Kết quả các kỳ
thi kiểm tra tháng Sáu rất tốt, 15 học sinh đạt điểm trung bình 6/10, chứng tỏ họ có
khả năng tiếp thu những môn học mới mẻ và đa dạng của chương trình
Có lẽ các bạn trẻ sẽ ngạc nhiên khi chỉ có 15/29 người đạt trên trung bình mà đã khen là kết quả “rất tốt”.
Ngày trước, các kỳ thi lên lớp rất khó khăn, thường chỉ nửa số sinh viên Y1 học chính qui lên được Y2 và
lại một nửa số đó sẽ lên Y3, nên khoá đầu, trong điều kiện trình độ phổ thông còn hạn chế mà đạt được tỷ
lệ lên lớp gần 50% đã là kết quả tốt.
Kết quả các kỳ thi Tú tài phần 1 sau này cũng ngặt nghèo: thường chỉ đạt tối đa 30 - 35% qua cả hai lần
thi đầu và cuối hè, tú tài phần 2 được khoảng 40%, nghĩa là cuối cùng, chỉ còn 14-15% học sinh mỗi khoá
tốt nghiệp phổ ông.
Bệnh viện thực hành, mới đến ngày 25 tháng Hai, chỉ 5 ngày trước khi khai trường,
đã nhận 21 bệnh nhân nội trú. Trong 4 tháng đầu đã nhận điều trị 546 bệnh nhân nội
trú và khám bệnh, phát thuốc cho 250 bệnh nhân ngoại trú. Số bệnh nhân có thể
nhiều hơn nữa nếu bệnh viện có thêm ngân sách và giường bệnh.
Nghị định ngày 28.7.1902 bổ sung đầy đủ hơn về các qui chế học tập, chương trình
và thời gian các học kỳ (nghỉ Tết trong suốt tháng 2 và nghỉ hè từ 16 tháng 6 đến 15
tháng 9). Sau khi tốt nghiệp, học sinh được cấp bằng y sĩ và có thể dự thi để được
làm nội trú bệnh viện hoặc phụ giảng (répétiteur) của trường trong 2 năm. Như vậy,
chế độ thi nội trú đã được đặt ra ngay từ đầu, theo khuôn mẫu các trường đại học Y
bên Pháp (vì vậy có lẽ mà khoá đầu ra trường mất những 5 năm, sau hai năm làm nội
trú)
Địa điểm ấp Thái Hà không thuận tiện cho việc đặt trường. Khu vực này cách trung
tâm thành phố tới 5 kilômét (hồi ấy chủ yếu đi bộ), nên ít bệnh nhân; nhiều ao hồ nên
bệnh sốt ráe còn hoành hành (chỉ vài tháng sau khi khai giảng, hầu hết học sinh cũng
như nhân viên người Âu đã bị sốt rét). Được ít lâu, có thể là vào cuối năm 1902,
trường phải dọn về một ngôi nhà ở phố Bobillot (phố Lê Thánh Tông ngày nay) còn
bệnh viện thực hành thì về đầu phố Armand Rousseau (phố Lò Đúc), có hai căn nhà
bằng gỗ lợp lá gồi.
Theo đề nghị của học sinh, hiệu trưởng ký quyết định cho phép họ được đeo thẻ bài
có khắc dòng chữ Hán "Học sinh Y khoa Đông Dương". Đây là một vinh dự rất
lớn vì ngày đó, chỉ các quan Nam Triều mới được đeo thẻ bài. Đeo thẻ bài thì phải
mặc Nam phục (áo dài may bằng the, đoạn, hoặc gấm, khăn xếp, dép da) để đeo vào
khuy áo bên phải ngực. Mới vào học trường Y mà đã ra dáng một vị đường quan rồi.
Hiệu trưởng tỏ ra rất hiểu và thông cảm với tâm lý học sinh nên mới có quyết định
này. Có lẽ điều đó cũng phản ánh quan niệm của hiệu trưởng: trường sẽ đào tạo ra
các trí thức cao cấp cho xã hội, không phải chỉ đơn giản là những anh y sĩ phụ việc
như trong quyết định thành lập.
Cuối năm 1902, Paul Doumer mãn nhiệm, rời Đông Dương về Pháp, Yersin trở nên
đơn độc trước các ý kiến chỉ trích chương trình học của nhà trường. Paul Beau sang
thay đã ban hành các nghị định qui định chi tiết chức năng và nhiệm vụ của trường Y
Hà Nội: đổi tên trường thành trường Y khoa Đông Dương trực thuộc Toàn quyền
Đông Dương, kéo dài chương trình học thành 4 năm và học sinh ra trường được cấp
bằng y sĩ. Những học sinh đã tốt nghiệp trường Y Chợ Quán và các trường tương
đương khác có thể vào học thẳng năm thứ Ba. Mở thêm khoa Nữ Hộ sinh và khoa
Thú Y. Cho phép những người đang hành nghề đông dược được dự thính các giờ
giảng.
Có thể hiểu đây là sự thừa nhận gián tiếp nền y học cổ truyền do các nho sĩ thực hành. Hệ thống giáo dục
Hán học không có trường chuyên đào tạo y học. Y học chỉ là chuỗi lô gích Nho - Y - Lý - Số. Ai biết đọc sách
và hiểu được ý nghĩa thâm thúy của sách thánh hiền đều có thể đọc sách y để trở thành thầy lang (hoặc đọc
sách lý và số để làm thầy tướng) và những người kiệt xuất lại có thể viết sách y học truyền cho hậu thế. Cần
phân biệt y học cổ truyền bác học, dựa trên lý thuyết Âm - Dương, Ngũ Hành do tầng lớp trí thức Nho học
hành nghề và y học cổ truyền dân gian, dựa trên kinh nghiệm lâu đời, được lưu hành trong các gia đình. Tại
nước ta, hai nền y học này vẫn tồn tại và phát triển song song với y học phương tây cho tới tận ngày nay và
đó cũng là hậu quả của sự không có thời kỳ chuyển tiếp giữa cựu và tân học. Các nước phương Tây cũng có
y học cổ truyền nhưng theo đà tiến bộ của lịch sử, nó đã hoà nhập được phương pháp thực nghiệm và các
yếu tố khoa học để trở thành y học khoa học ngày nay, những yếu tố lạc hậu đã bị dần dần mai một.
Trước khi có Tây Y, công tác y tế tại nước ta dựa trên các thầy lang (trí thức và dân gian) và nguồn thuốc
Nam và Bắc. Như vậy, với một ý nghĩa nào đó, trường Y sẽ là nơi giới thiệu các thuốc Tây Y của nhiều hãng
dược phẩm bên Pháp, mở ra thị trường tiêu thụ dược phẩm ở Đông Dương.
Các nghị định không nói tới nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, có nghĩa là đã hạ thấp vai
trò của trường Y Đông Dương thành một trường trung cấp. Lớp dự bị vẫn được mở,
chỉ học sinh nào thi tốt nghiệp dự bị đạt yêu cầu mới có thể vào trường Y.
Người kế nhiệm ông tại trường Y Đông Dương là bác sĩ Cognacq (1904 - 1921), tiếp đó là bác sĩ Degorce
(1922 - 1929 về hưu), Le Roy des Barres (5.1929 đến 1935), H. Galliard (1935 - 1945). Trong thời kỳ Hà
Nội bị tạm chiếm (1947 - 1954) là P. Huard và trường Y Sài Gòn (1947-1954) là Massias. Nhiều người
trong số họ có vợ Việt Nam và rất có cảm tình với sinh viên Việt Nam.
Tuy vậy, những mục tiêu và chuẩn mực nhân văn mà Yersin tạo nên không dễ gì xoá
bỏ được. Trong báo cáo kiểm tra các hoạt động của nhà trường ngày 15.12.1906,
thanh tra Clavel, một mặt hoan nghênh chương trình cải tiến đã loại bỏ được những
môn học không cần thiết nhưng mặt khác lại than phiền về trình độ quá chênh lệch
của học sinh và yêu cầu mở lại lớp dự bị. Cuối cùng, báo cáo vẫn kết luận: "Đề nghị
gửi số học sinh xuất sắc nhất sang Pháp thi bác sĩ Y khoa và thử sức với sinh viên
Pháp qua kỳ thi. Chắc chắn họ sẽ làm nên chuyện và trường Y khoa Đông Dương sẽ
không phải xấu hổ".
Khoá đầu tiên chỉ có 5 người tốt nghiệp năm 1907 (nghĩa là sau 5 năm, lý do có
thể là họ đã qua khoá nội trú 2 năm, sau khi học xong chương trình chính thức 3 năm)
và được phân phối về các tỉnh. Khai giảng có 29 người, cuối năm chỉ 15 người lên
lớp, kết cục còn 5, ta có thể hiểu sự chọn lọc là khắt khe và đòi hỏi cao như thế nào,
từ đó có thể suy ra chất lượng của những "ông cử" mới ra trường. So với thời còn
học chữ nho, thi hương tổ chức ba năm một lần cũng chỉ lấy dỗ được 20 - 25 ông cử
mỗi khoá, tức là bình quân đào tạo 8 ông cử mỗi năm. Những nơi tiếp nhận thoạt tiên
tỏ vẻ không tin tưởng lắm, tuy nhiên thực tế công tác đã chứng minh năng lực của
những y sĩ mới ra trường này.
Nhưng rồi mọi việc đã diễn biến không trôi chảy.
Khi phong trào nông dân chống thuế dấy lên ở các tỉnh Trung Kỳ năm 1908, nhà cầm
quyền thực dân đã đổ riệt trách nhiệm lãnh đạo cho tầng lớp sĩ phu đang chủ trương
duy tân, mặc dù không hề có bằng chứng. Kẻ đang lăm le xoá bỏ cựu học, truyền bá
tân học lại sợ chính cái mà mình định truyền bá vào (!). Tác giả người Mỹ, Helen
B.Lamb đã nhận xét rất có lý là suốt thời kỳ thống trị Việt Nam, người Pháp luôn luôn
sống trong lo sợ, đó là lý do tại sao họ luôn phải dùng những hình thức đàn áp mang
tính chất khủng bố (H.B.Lamb: The Vietnam's will to live.- New York, 1972). Cũng phải
thấy rằng sĩ phu nước ta đã thích ứng rất nhanh với tình hình. Từ chỗ chống đối tân
học, họ đã mau chóng nhận thấy tân học chính là con đường cứu nước nên đã phát
động phong trào duy tân và Đông du (chủ yếu là sang Nhật). Cơ quan hoạt động công
khai của văn thân lúc đó là trường Đông Kinh Nghĩa Thục.
Năm 1908, toàn bộ nền giáo dục tân học mới phôi thai đã bị đàn áp. Trường Đông
Kinh Nghĩa Thục bị đóng cửa cùng nhiều trường khác. Đặc biệt, trường Y Đông
Dương, một lần nữa lại bị giáng cấp thành trường Y khoa Hà Nội trực thuộc Thống sứ
Bắc Kỳ. Khi quyền lợi thực dân bị đe doạ thì mọi lời hoa mỹ về văn minh, khai hoá
biến mất tức khắc. Sắc lệnh ngày 18.3.1909 của tổng thống Pháp A. Fallière được qui
định chi tiết thi hành theo nghị định ngày 6.8.1909 của toàn quyền Đông Dương
A.Klobukowski, theo đó một hội đồng giáo dục (Conseil de perfectionnement) được
thành lập để nghiên cứu những vấn đề hoạt động và phát triển của nhà trường, thực
tế là để trực tiếp giám sát và chỉ đạo mọi hoạt động của trường. Đứng đầu hội đồng là
viên Thống sứ Bắc Kỳ, ngoài ra còn có:
- Viên giám đốc Nha Y Tế Bắc Kỳ,
- Một viên tỉnh trưởng,
- Hiệu trưởng nhà trường,
- Giám đốc bệnh viện Bản xứ (tức bệnh viện thực hành),
- Một giảng viên (chargé de cours),
- Một thầy thuốc thuộc sở Y Tế và
- Một thầy thuốc làm thư ký.
Hội đồng phải họp ít nhất mỗi năm hai lần, theo triệu tập của chủ tịch, vào dịp chuẩn
bị ngân sách và dịp khai trường. Ngoài ra, hầu như mọi việc (cử hiệu trưởng, chuẩn bị
ngân sách, chương trình học và thi cử, lựa chọn giảng viên và mọi thay đổi trong qui
chế tổ chức nhà trường...) đều bắt buộc phải hỏi ý kiến Hội đồng. Quyền hạn hiệu
trưởng bị thu hẹp đến tối thiểu. Chỉ tiêu tuyển sinh cũng bị thu hẹp. Suất học bổng
hàng năm được qui định là 4 suất cho người An nam, 1 suất cho người Cao miên và
1 suất cho người Lào. Tỷ lệ chiêu sinh giữa số không được học bổng/số được học
bổng sẽ do Thống sứ Bắc Kỳ quyết định từng năm.
Chính Nha Học Chính Đông Dương sau này, trong báo cáo giới thiệu trường Y khoa
tại Triển lãm Thuộc địa tại Paris năm 1931 đã phải thừa nhận: "Dưới chính quyền
mới, một giai đoạn ngừng trệ đã tác động lên toàn bộ nền giáo dục nói chung - bị
chụp mũ một cách đáng tiếc là tác giả thực sự của phong trào cách mạng 1908. Cái
trạng thái tinh thần đáng buồn đó, hiện vẫn chưa hoàn toàn mất đi, đã làm chậm sự
phát triển của trường mất 10 năm" (Trường Y Dược toàn cấp Đông Dương - Hanoi,
1931: tr 9-10). Báo cáo đó còn nói thêm: "Sắc lệnh ngày 18 tháng Ba 1909 giảm số
biên chế, bãi bỏ khoa quân y coi như không cần thiết, giảm số học sinh (6 người mỗi
năm) và đặt trường dưới quyền Thống sứ Bắc Kỳ. Đó là làm cho trường trở thành
một trường Y tá chỉ có lợi ích địa phương, bất kể việc đã gửi sang Pháp các học sinh
xuất sắc nhất của mình. Mặc dù vậy, tuy bị biến đổi trường vẫn tồn tại bởi sức mạnh
của những điều hữu ích" .
THỜI KỲ ỔN ĐỊNH VÀ PHÁT TRIỂN
Dẫu sao, sai lầm cũng đã được ngấm ngầm thừa nhận hay nói đúng hơn, sau khi đã
"hoàn hồn", thì chính hội đồng giáo dục đã nâng dần số tuyển sinh trong thời kỳ
ngừng trệ đó lên 20 học sinh mỗi năm. Hệ thống giáo dục phổ thông dần dần phát
triển, trường Trung học Bảo hộ (trường Bưởi) được thành lập năm 1907, đến nay đã
có thể cung cấp lớp học sinh tốt nghiệp phổ thông cơ sở cho nhà trường, vì vậy, tiêu
chuẩn văn hoá khi tuyển sinh cũng được nâng cao dần: học sinh phải tốt nghiệp bậc
Cao Đẳng Tiểu Học (tương đương lớp 9 bây giờ) trở lên mới được nhận - giống như
40 năm sau (1948-1965), các trường trung cấp của nước Việt nam độc lập cũng
tuyển sinh ở trình độ này. Năm 1911, Albert Sarraut sang nhậm chức toàn quyền
Đông Dương lần thứ nhất (1911-1914). Người Pháp đánh giá rất cao viên toàn quyền
này, coi ông ta là người đã chấn hưng nền giáo dục Đông Dương và trường Y Đông
Dương được hưởng lợi trước tiên (tên ông ta được đặt cho một trường trung học và
đại lễ đường trường Đại học Hà Nội). Sắc lệnh ngày 28 tháng 6 năm 1913 của tổng
thống Pháp, được qui định chi tiết thi hành trong nghị định ngày 29 tháng chạp 1913
của toàn quyền Đông Dương, đã bãi bỏ sắc lệnh 18 tháng Ba 1909, đặt lại tên trường
là trường Y khoa Đông Dương trực thuộc toàn quyền Đông Dương. Bằng tốt nghiệp
sẽ do Toàn quyền Đông Dương ký, bên cạnh có chữ ký của tổng Thanh tra Y tế Đông
Dương và Hiệu trưởng nhà trường. Học sinh được phân công công tác theo quyết
định của Toàn quyền Đông Dương. (Đây là một đặc thù của ngày đó: vì bằng tốt
nghiệp là bằng quốc gia nên phải do người cao nhất, đại diện cho quốc gia ký. Mặt
khác, vì trường Y Đông Dương trực thuộc phủ toàn quyền nên học sinh tốt nghiệp
cũng phải do Toàn quyền trực tiếp phân công, thống sứ Bắc Kỳ không đủ quyền hạn.
Ngày nay, việc công nhận tốt nghiệp và phân công là do Bộ Y Tế vì Bộ trưởng có đủ
tư cách thay mặt Nhà Nước, riêng văn bằng lại do hiệu trưởng ký).
Nghị định 29 tháng Chạp 1913 qui định tiêu chuẩn tuyển sinh: học sinh phải có bằng
tốt nghiệp Cao đẳng Tiểu học (tương đương tốt nghiệp phổ thông cơ sở ngày nay)
hoặc chứng chỉ tốt nghiệp trường Chasseloup-Laubat (một trường trung học nổi tiếng
ở Sài Gòn) hoặc tú tài bản xứ (tương đương tốt nghiệp lớp 12 hiện nay), tuổi không
quá 25 tính đến ngày 1 tháng 1 năm sau ngày nhập trường, phải có sức khoẻ tốt và lý
lịch tốt. Thí sinh có bằng tú tài chính quốc 10 (baccalauréat métropolitain, thường
được gọi tắt là Bacc Métro, hay Tú tài “tây”) sẽ được theo học khoa toàn cấp, sau này
ra bác sĩ hoặc dược sĩ hạng nhất. Chỉ tiêu tuyển sinh hàng năm sẽ do Toàn quyền
Đông Dương quyết định (đây là một bước tiến, vì sắc lệnh 18 tháng Ba 1909 qui định
do Thống sứ Bắc kỳ quyết định). Học sinh được ưu đãi hơn. Tất cả được hưởng chế
độ nội trú không mất tiền (đừng nhầm với chế độ ngoại trú và nội trú của chương trình
đào tạo ngành Y) và được học bổng: 5 đồng/tháng cho học sinh năm thứ nhất, 6
đồng/tháng cho năm thứ hai và 8 đồng/tháng cho hai năm cuối; ngày trực được ăn
không mất tiền tại bệnh viện. Học sinh còn được miễn thuế thân và quân dịch. Ngoài
ra, vào dịp nghỉ hè, học sinh được hưởng tiền tầu xe đi và về tới một địa điểm bất kỳ
của Đông Dương, còn được chữa bệnh không mất tiền tại bệnh viện Bảo Hộ.
Tuy nhiên, họ cũng phải ký cam kết sẽ làm cho nhà nước ít nhất 10 năm sau khi ra
trường. Ai vi phạm, sẽ phải bồi hoàn phí tổn đào tạo cho Kho Bạc.
Về chương trình học, nghị định đã đưa ra chương trình 4 năm như sau:
Năm thứ Nhất
Năm thứ Hai
Năm thứ Ba
Giải phẫu mô tả (cốt học, khớp học, cơ học, mạch học)
Phẫu tích.
Triệu chứng học thực hành
Tiểu phẫu thuật - Dụng cụ học (Instrumentation)
Thực tập bệnh viện
Giải phẫu mô tả (tạng học, thần kinh, giác quan)
Phẫu tích
Sinh lý học
Bệnh học nội
Bệnh học ngoại
Triệu chứng học
Vệ sinh học
Tiểu phẫu thuật - Dụng cụ học
Thực tập bệnh viện
Giải phẫu định khu
Bệnh học nội
Bệnh học ngoại
Bệnh học nhiệt đới
Sản khoa
Vệ sinh học - Các biện pháp phòng bệnh truyền nhiễm
Dược học - Thực hành - Chế độ liều lượng (Dosage)
Nội khoa lâm sàng
Ngoại khoa lâm sàng
Sản khoa lâm sàng
Thực tập bệnh viện
Năm thứ Tư
Bệnh học nội
Bệnh học ngoại
Bệnh học nhiệt đới
Sản khoa
Vệ sinh học - Các biện pháp phòng bệnh truyền nhiễm
Dược học - Thực hành - Chế độ liều lượng
Các khái niệm thực hành về nha khoa
Nội khoa lâm sàng
Ngoại khoa lâm sàng
Sản khoa lâm sàng
Thực tập bệnh viện
Điều 24 của nghị định còn nói rõ: các khoa lâm sàng cho học sinh thực tập được đặt dưới quyền hiệu trưởng nhà trường
Chương trình lần này đã khác với thủa ban đầu, các môn cơ sở đã được loại bỏ vì
trình độ học sinh phổ thông đã cao hơn, và không cần học qua lớp dự bị nữa. Riêng
chương trình chuyên môn Y đã tương tự như chương trình đại học sau này: vẫn 3
năm học giải phẫu, 2 năm thực tập phẫu tích, học triệu chứng học và đi thực tập bệnh
viện ngay năm đầu
Chiến tranh thế giới lần thứ nhất là dịp chứng tỏ phẩm chất của học sinh y khoa Đông
Dương qua thực tế công tác tại các đơn vị quân đội và tại bệnh viện Đông Dương ở
Marseille (Pháp). Chúng ta cũng có thể thấy vị thế của trường Y Đông Dương: mỗi lần
nâng cấp, hạ cấp đều phải do tổng thống Pháp quyết định, tiêu chuẩn văn hoá để
tuyển sinh cũng tăng dần theo từng bước phát triển của nền giáo dục phổ thông. Năm
1917, mười lăm năm sau khi thành lập, lần đầu tiên có học sinh tốt nghiệp tú tài nhập
học. Đến khi bậc học phổ thông phát triển đầy đủ thì trường cũng trở thành một
trường đại học hoàn chỉnh về qui mô và trưởng thành về chất lượng đào tạo. Đến
đây, ước mơ ban đầu của Yersin đã được thực hiện
Nghị định ngày 20 tháng Bảy 1914 đã đặt thêm khoa Dược học 3 năm, từ đó,
trường mang tên trường Y Dược khoa Đông Dương. Việc giảng dạy do các giáo
sư chính thức và các giảng viên dược sĩ dân y và quân y đảm nhiệm.
Chương trình học ba năm được phân chia như sau:
Năm thứ Nhất (trong ngoặc đơn là số giờ học mỗi tuần)
Lý thuyết:
Vật lý (1) - Hoá học (3) - Động vật học (2)Thực vật học (2)- Hoá vô cơ (1)
Thực tập:
Vật lý (2) - Hoá học (2) - Đông vật học (3)Thực vật học (3) - Hoá vô cơ (2)
Năm thứ Hai
Y Vật lý - Dược thực vật - Hoá hữu cơ -Dược liệu - Hoá phân tích - Thảo dược
Lý thuyết:
Độc chất học - Thuỷ văn học - Pháp chế - (mỗi môn đều có 1 giờ mỗi tuần)
Y Vật lý - Hoá hữu cơ - Dược liệu
Thực tập:
Thảo dược - Hoá dược - Hoá phân tích (mỗi môn đều có 2 giờ mỗi tuần)
Năm thứ Hai đi thực tập bệnh viện về Dược
Năm thứ Ba
Lý thuyết:
Hoá hữu cơ - Dược liệu - Hoá phân tích - Thảo dược - Độc chất, Thuỷ văn học và Pháp chế (mỗi môn đều có 1 giờ mỗi tuần)
Hoá hữu cơ - Dược liệu - Thảo dược - Hoá dược - Hoá phân tích - Hoa sinh (mỗi môn đều có 2 giờ mỗi tuần)
Thực tập:
Năm thứ Ba đi thực tập bệnh viện về Dược
Thực tập tại labô Vệ sinh và chống hàng lậu (3 tháng)
Năm 1917, khoá dược sĩ Đông Dương đầu tiên ra trường, có 4 người. Từ đó đến
năm 1930, tổng số có 48 dược sĩ Đông Dương ra trường, khoá nhiều nhất có 6 người
và ít nhất có 2 người.
Khoa toàn cấp (đại học) Dược hoạt động theo những qui định trong các nghị định
ngày 28 tháng Bảy 1909 và 30 tháng Tám 1923 của Toàn quyền Đông Dương (về tiêu
chuẩn tuyển sinh và tốt nghiệp). Năm tập sự của sinh viên được tiến hành tại các cửa
hàng Dược được uỷ nhiệm của Tổng giám đốc Nha Học chính Đông dương, theo đề
nghị của hiệu trưởng nhà trường. Đây là những cửa hàng dược đủ tiêu chuẩn, có pha
chế theo đơn của thầy thuốc. Trong trường hợp không có điều kiện thực hiện tập sự
tại cửa hàng Dược thì sinh viên có thể xin tập sự ở một bệnh viện có khoa Dược do
một dược sĩ người Pháp làm chủ nhiệm. Sinh viên sẽ ghi tên xin tập sự tại văn phòng
nhà trường.
Sau khi qua được kỳ thi kiểm tra năm tập sự, sinh viên theo học 4 năm nữa theo đúng
như thể thức ở chính quốc. Các kỳ thi kiểm tra của năm tập sự, các năm thứ Nhất,
thứ Hai, thứ Ba và hai kỳ kiểm tra năng lực (examens probatoires) đầu tiên được tiến
hành ở Đông Dương. Kỳ thi kiểm tra năng lực thứ ba và kiểm tra năm cuối cùng được
tiến hành tại Pháp, nếu qua được, sẽ nhận bằng tốt nghiệp Dược sĩ hạng nhất (đại
học).
Vì nền công nghiệp Dược của Đông Dương không phát triển nên số sinh viên theo
học khoa Dược là rất ít, so với khoa Y. Ví dụ như trong năm học 1930 - 1931, toàn
khoa Dược chỉ có 5 sinh viên. Ngày trước, tốt nghiệp Dược dược sĩ thường mở ngay
hiệu thuốc để kinh doanh, hầu nhưkhông có ai học tiếp để thi tiến sĩ Dược khoa
(tương đương bác sĩ Y khoa). Đến nay là chưa tìm được số liệu về Dược sĩ cao cấp
đã tốt nghiệp.
Bệnh viện Mắt được thành lập theo nghị định ngày 14 tháng Bảy năm 1915 của
Thống sứ Bắc Kỳ và chính thức mở cửa ngày 16 tháng Tư năm 1916 ở phố Résident
Miribel (nay là phố Trần Nhân Tông). Bệnh viện này được trang bị rất nghèo nàn vì
theo lời phán nàn của người giám đốc đầu tiên, bác sĩ Bargy: "người ta định cho nó
chết yểu", nhưng những kết quả ban đầu lại rất khích lệ (có thể hiểu điều này, vì vùng
nông thôn Bắc Kỳ là ổ dịch đau mắt hột, cho tới nay vẫn chưa thanh toán triệt để
được).Nghị định ngày 7 tháng Bảy 1917 nâng cấp bệnh viện Mắt Hà Nội thành Viện
Nhãn khoa Đông Dương và đặt trực thuộc trường, với giám đốc là một giáo sư của
trường. Kể từ ngày đó, viện này vừa hoạt động như một cơ quan của ngành Y tế điều
trị miễn phí cho nhân dân, vừa là trung tâm giảng dạy nhãn khoa củatrường Y Dược
khoa toàn cấp Đông Dương. Năm 1925, bệnh viện được mở rộng ra hai bên với mặt
trước được xây dựng lại thành phòng khám, phía sau, thẳng góc với nó là một hành
lang dẫn tới các phòng mổ và phòng học. Tại đây, các bác sĩ và y sĩ Đông Dương
tương lai sẽ tiếp thu được những khái niệm rất cần thiết về nhãn khoa để hành nghề
ở Đông Dương.
Thoạt tiên, người ta cho 2 học sinh năm thứ Tư tách hoàn toàn cho bệnh viện Mắt với
ý định cho học một chuyên khoa sâu nhưng thấy bất lợi nên lại thay bằng cho cả lớp
năm thứ Tư mỗi tuần đến Viện Mắt một lần để nghe giảng lâm sàng. Sau nhiều lần
thử, cuối cùng người ta chọn giải pháp cho từng tổ học sinh, bất kể là năm thứ Ba hay
thứ Tư đi luân khoa trong 3 tháng. Kết quả đã được chứng minh là rất tốt.
Khoa thú y được tách thành trường Thú Y độc lập. Môn Pháp Y được đưa vào từ
1919. Nghị định ngày 4 tháng Bảy 1920 tái lập khoa quân y đã bị bãi bỏ năm 1909
nhưng sau, do điều kiện quá ngặt nghèo (học sinh thi ra trường không đạt sẽ phải
đăng lính 5 năm với chức vụ là y tá) nên từ 1925, không có học sinh nào ghi danh
tham gia nữa.
Nghị định ngày 7 tháng Giêng 1919 sáp nhập chứng chỉ Lý-Hoá-Sinh (PCN: Sciences
physiques, chimiques et naturelles) vào trường Y Đông Dương giống như ở chính
quốc và bằng tốt nghiệp có giá trị tương đương: đó là bước đầu tiên trong việc kiến
tạo một nền giáo dục đại học của Đông Dương tương đương như chính quốc. Kể từ
đây, phải có chứng chỉ PCN mới vào được đại học Y. Khi trường Cao Đẳng Khoa học
được thành lập thì chứng chỉ này chuyển sang đó và tách thành PCB (PhysiquesChimie-Biologie: Lý-Hoá-Sinh) để vào học trường Y và SPCN (Sciences physiques,
chimiques et naturelles: Lý-Hoá-Tự nhiên) để học trường Cao Đẳng Khoa học. Chứng
chỉ PCB còn được áp dụng tại trường Y Hà Nội cho tới năm học 1954-1955. Ngoài
trường Y Dược, các trường cao đẳng khác trong thành phần của Viện Đại học Đông
Dương vẫn chỉ mang tính chất trường chuyên nghiệp. Mãi đến năm 1941, do tình
hình chiến tranh làm Đông Dương tách rời khỏi chính quốc, các trường Luật, Khoa
học rồi đến Cao đẳng Nông Lâm, Cao đẳng Công chính mới dần dần trở thành nơi
đào tạo đại học, cấp bằng kỹ sư và cử nhân luật, cử nhân khoa học, nhưng không đủ
thẩm quyền cấp bằng tiến sĩ như trường Y.
Chứng chỉ PCN đã nâng cao trình độ cơ bản, nên nhà trường tổ chức lại theo sắc
lệnh ngày 18 tháng Năm 1921. Năm học 1920-1921, học sinh tốt nghiệp tú tài phần 2
vào trường Y bắt đầu học PCN, nhưng từ năm học sau (1921-1922), sinh viên vào
Y phải có chứng chỉ PCN trước đã. Đây là một bước nhảy vọt về chất lượng tuyển
sinh.Năm học 1921-1922, lần đầu tiên có hai sinh viên tốt nghiệp PCN vào học là các
ông Đặng Vũ Lạc và Hoàng Thụy Ba. Cả hai đã bảo vệ luận án tại Paris và tốt nghiệp
năm 1927. Trường hợp ông Đặng Vũ Lạc là tiêu biểu cho lớp thanh niên chuyển từ
"mực tầu, giấy bản" sang cầm bút sắt. Ông đã dự kỳ thi Hương cuối cùng năm 1915
tại Nam Định vào được đến tam trườngmới quay sang tân học và thi đỗ tú tài, rồi
PCN.Sau này, ông Đặng Vũ Lạc đã thành lập một bệnh viện tư nhân lớn nhất Đông
Dương thời đó, (dân gian chỉ gọi bằng tên: Nhà thương Đốc tờ Lạc) lấy chỗ làm việc
cho nhiều bác sĩ Việt Nam không làm cho chính quyền Bảo Hộ, trong đó có bác sĩ
Phạm Hữu Chí, một người tốt nghiệp vào loại xuất sắc ở trường Y Paris nhưng không
được nhận vào trường Y Hà Nội do kỳ thị dân tộc của nhà cầm quyền thực dân. Bác
sĩ Phạm Hữu Chí không may mất sớm mấy năm sau đó. Bác sĩ Đặng Vũ Lạc cũng
mất sớm khi còn khá trẻ, riêng bác sĩ Hoàng Thụy Ba công tác tại Viện Bảo vệ Bà Mẹ
- Trẻ Sơ sinh ở Hà Nội cho tới sau giải phóng miền Nam mới nghỉ hưu năm 73 tuổi và
mất năm 93 tuổi.
BS. D EGORCE
BS. LE ROY DES BARRES
BS. COPPIN (Sau khi BS Coppin mất, BS Polidori thay)
BS. CASAUX (chuẩn bị về hưu năm 1930)
BS. DE RAYMOND
BS. NAUDIN
BERNARD (Thạc sĩ Vật lý)
BOURRET (tiến sĩ khoa học, cộng tác viên Viện Bảo tàng)
PETELOT (cử nhân khoa học, cộng tác viên Viện Bảo tàng)
Ngoại lâm sàng
Sản phụ khoa lâm sàng
Nội lâm sàng
Lâm sàng Nhãn khoa
Bệnh Ngoài da và Hoa liễu
Lâm sàng cơ sở
Vật lý và Hoá học
Động vật học
Thực vật học
Bệnh viện thực hành được chú trọng xây dựng cùng với trường ngay từ ngày đầu ở
ấp Thái Hà. Năm 1904, bệnh viện Nhà Chung (Hôpital de la Mission) của Hội Truyền
giáo được chuyển thành Bệnh viện Bản xứ (Hôpital indigène) và sau thành bệnh
viện Bảo hộ (Hôpital du Protectorat, dân gian quen gọi là Nhà thương Phủ Doãn)
là cơ sở thực hành đa khoa của học sinh. Bệnh viện gồm hai khu, cách nhau qua
đường Borgnis-Desbordes, trước kia là đường Camps des Lettrés (phố Tràng Thi
ngày nay). Khu phía Bắc đường là khu chính, khu phía Nam là nhà Carmel cũ (nay là
khu Viện Bảo vệ Bà mẹ-Trẻ em) được sử dụng làm nơi giảng dạy nữ hộ sinh và khoa
Sản-Phụ. Ngày 1 tháng Tư năm 1904, chính quyền Bảo hộ Bắc Kỳ chính thức mua lại
nhà, đất và trang bị của Bệnh viện Bản xứ và nghị định ngày 13 tháng Mười năm
1904 tổ chức lại bệnh viện trên cơ sở mới. Các khoa lâm sàng được đặt dưới quyền
bác sĩ Cognacq, hiệu trưởng trường Y Đông Dương. Bác sĩ Le Roy des Barres được
cử làm giám đốc bệnh viện. Các giáo sư, giảng viên và sinh viên đảm nhiệm công tác
tại bệnh viện, bác sĩ Lafaurie được chỉ định làm thường trú.
Ngày đó bệnh viện có 354 bệnh nhân, mọi bệnh nhân của bệnh viện thực hành trước
đây đều được chuyển sang bệnh viện Bảo Hộ. Năm 1905, trại phong Tế Trường
được sáp nhập vào bệnh viện nhưng đến 1912 lại tách ra và sáp nhập vào hệ thống
các trại phong. Năm 1928 xây dựng khu nhà mổ hiện đại.
Theo sắc lệnh ngày 30 tháng Tám năm 1923, bệnh viện Bảo Hộ trở thành bệnh viện
thực hành của trường Y nên chức vụ giám đốc bắt buộc phải do một giáo sư của
trường đảm nhiệm, mặt khác, theo nghị định ngày 17 tháng Chạp năm 1923, về mặt
hành chính, bệnh viện Bảo hộ vẫn là bệnh viện chính của Nha Y Tế Bẵc Kỳ. Bệnh
viện Bảo hộ khi đó gồm có các khoa:
Khoa Ngoại (nam và nữ)
Khoa Sản-phụ (khu nhà Carmel cũ, ở bên kia đường)
Khoa Nội (nam và nữ)
Khoa Nội Nhi
Khoa bệnh ngoài da và Hoa liễu
Khoa bệnh Tâm thần
Khoa Ung thư
Khoa dành cho phạm nhân
Khoa điện quang và điện trị liệu
Labô vi sinh
Khoa Dược và labô hoá sinh
Khoa Khám bệnh đa khoa
Bệnh viện Bảo hộ sau này đã dần dần chuyển thành chuyên ngoại khoa.
Tổng số giường bệnh cho đến năm 1931:
Bệnh viện Bảo hộ: 583 giường
Khu Nhà Carmel cũ: 50 giường
Khu cách ly Cống Vọng: 134 giường
Viện Mắt và bệnh viện tâm thần Vôi (Bắc Giang) cũng được đặt trực thuộc trường.
Khu cách ly (lazaret) Cống Vọng 13 đến năm 1932 mở rộng dần thêm thành bệnh
viện René Robin, hoàn chỉnh vào khoảng năm 1940-1941 (bệnh viện Bạch Mai
hiện nay). Dân gian chỉ gọi bằng một tên đơn giản: Nhà thương Cống Vọng. Vào
những năm 1940, đường Thuộc địa số 1 (RC1, tức đường Giải phóng ngày nay)
xuống Nhà thương Cống Vọng qua ô Đồng Lầm chỉ thuộc loại "thênh thang tám
thước", hai bên là ruộng lúa và đoạn qua công viên Lênin hiện nay là hồ sen Bảy
Mẫu, đầu mùa hạ đi qua có thể ngửi hương sen ngào ngạt, nhưng bệnh viện đã có
kiến trúc hiện đại, thanh thoát, khác với kiểu “nhà thuộc địa” của nhà thương Bảo Hộ
và khu cách ly Bạch Mai. Khu nhà tròn đang được xây dựng thành khu phẫu thuật thì
phải bỏ dở vì chiến tranh thế giới thứ hai đã gần kề. Tuyến đường xe điện Yên phụ Kim Liên có điểm kết thúc ngay trước cổng bệnh viện, rất tiện cho bệnh nhân trong
thành phố xuống. Như vậy, truyền thống xây dựng bệnh viện thực hành cho trường Y
đã được bắt nguồn ngay từ 1902 và duy trì liên tục qua kháng chiến chống Pháp,
ngay trong những điều kiện rất gian khổ và thiếu thốn. Đáng tiếc là quyền có bệnh
thực hành riêng của trường đã bị một quyết định năm 1955 của bộ Y Tế tước bỏ bằng
cách đặt các bệnh viện Bạch Mai và Việt Đức trở thành trực thuộc Bộ. Hệ thống đào
tạo nội trú, một đặc thù của ngành Y (hầu như trên toàn thế giới) trong rèn luyện tay
nghề thực hành cho thầy thuốc, được đưa vào ngay từ những ngày đầu thành lập
trường, cũng đã bị bãi bỏ một thời gian và rồi khi quay trở lại vẫn không được chính
thức thừa nhận và lăm le bị thay thế bằng hệ đào tạo cao học nặng về lý thuyết như ở
các ngành khác. Cố Hiệu trưởng Nguyễn Trinh Cơ đã bỏ bao tâm huyết để tái xây
dựng ngành đào tạo nội trú và bệnh viện thực hành, có lẽ vì các giáo sư trường Y
hiểu hơn ai hết giá trị của ngành học này.
Thời đó, bác sĩ được gọi, “đốc tờ” hay "quan đốc", thậm chí là "cụ", y tá được gọi là
"thầy" và y tá cũng gọi sinh viên là "thầy" nhưng không phải với nghĩa ngày nay. Tiếng
"thầy" được dùng để chỉ các viên chức cấp thấp (thầy thư ký, thầy thông, thầy đề).
Riêng y công bị gọi một cách rất khinh miệt là "cu li san" (coolie des salles = lao công
các phòng).
Giáo sư Hồ Đắc Di, người hiệu trưởng đầu tiên của trường Y chúng ta sang Pháp du học năm 1918, năm đó
cụ tròn 18 tuổi. Khi tầu qua Địa Trung Hải vẫn còn lo vấp thủy lôi của Đức thả trong Chiến tranh Thế giới
lần thứ nhất. Người bảo trợ cho cụ là toàn quyền Albert Sarraut (vì thân phụ cụ Di là thượng thư Hồ Đắc
Trung, một trong tứ trụ triều đình triều Duy Tân, có quan hệ cá nhân với toàn quyền). Sau khi tốt nghiệp bác
sĩ y khoa, cựu nội trú các bệnh viện Paris, cụ nhớ nhà, đến đòi ông Albert Sarraut cho về nước. Ông này
mách cụ xuống Marseille dự thi tuyển thầy thuốc cho Đông Dương. Năm đó (1931) có 3 người trúng tuyển là
Hồ Đắc Di, Huard và Cartoux. Hai người Pháp được phân công về Hà Nội còn cụ Di về Huế theo gia đình.
Khi đó bệnh viện Huế có một phẫu thuật viên người Pháp tên là Lemoine rất kém cỏi. Mỗi khi mổ xẻ, ông ta
thường phải đối chiếu với át-lát giải phẫu. Cụ Di giỏi hơn nhiều mà lại không được mổ, thế là mâu thuẫn
dẫn đến vác ghế đánh nhau. Dù là con quan nhưng cuối cùng thì Tây vẫn thắng, cụ Di bị đổi vào Qui Nhơn.
Đang lang thang ở Qui Nhơn thì gặp giáo sư Le Roy des Barres đi công tác qua. Khi đó, ông đang là hiệu
trưởng trường Y Đông Dương kiêm giám đốc bệnh viện Bảo Hộ, đồng thời là cố vấn y tế cho Toàn quyền.
Cụ Di kể lại: "Ông ấy hỏi tôi: Qu'est-ce que tu fais là ? Tôi trả lời: "Je m' amuse !" (Cậu làm gì ở đây ? Tôi
chơi !). Từ cuộc gặp gỡ này, giáo sư hỏi cụ có muốn về Hà Nội không, và thế là ông đã can thiệp để Toàn
quyền Pierre Pasquier quyết định qua mặt khâm sứ Trung Kỳ, chuyển cụ Di ra Hà Nội (giáo sư làm được
việc này vì ông rất thân với toàn quyền). Tất nhiên là khâm sứ Trung Kỳ rất tức tối nhưng không làm gì
được. Trách cụ thì cụ thản nhiên trả lời: việc này là do toàn quyền, tôi không biết
Ra tới bệnh viện Bảo Hộ, cụ gặp cụ Vũ Đình Tụng khi đó là y sĩ thường trú của bệnh viện, cụ Tụng bảo cụ:
"Toa ra đây làm gì, họ có cho toa mổ đâu !" "Không cho mổ thì moa lại đi" và lập tức, cụ lên gặp Le Roy
des Barres để hỏi cho ra lẽ nhưng giáo sư nói: "Anh là cựu nội trú, anh có quyền mổ chứ !". Được lời như
cởi tấm lòng, cụ lập tức xuống ra lệnh cho thầy y tá trưởng: "Thầy chuẩn bị cho tôi mổ bệnh nhân này".
Thầy y tá tưởng mình nghe nhầm, hỏi lại: "Bẩm cụ mổ ?" - "Chứ sao" - "Cụ đã bẩm quan chánh chưa ?" "Việc gì tôi phải bẩm, cứ chuẩn bị đi" (Kể đến đây, cụ Di cười sảng khoái: "Thật ra thì mình bẩm rồi, nói thế
cho oai thôi. Sau này cụ Hồ biết chuyện, có hỏi tôi năm đó bao nhiêu tuổi. Tôi mới ngoài 30, thế là cụ Hồ
gọi đùa tôi là cụ non") Thầy y tá khốn khổ bị kẹt giữa hai làn đạn, không biết kêu ai. May mà mọi chuyện
đều êm đẹp và giáo sư Hồ Đắc Di trở thành người Việt Nam đầu tiên được mổ cho bệnh nhân Việt Nam ở
chính trên quê hương Việt Nam !
Ngày 11 tháng Chạp năm 1943, cụ Hồ Đắc Di được phong học hàm giáo sư không bộ môn (professeur sans
chaire) cùng với Cartoux và là người Việt Nam đầu tiên ở trường Y được phong học hàm này. Với một ý
nghĩa nào đó, giáo sư Le Roy des Barres đã có công rất lớn với trường Y khi mang giáo sư Hồ Đắc Di về Hà
Nội để sau này kế tục trường Y Đông Dương, khai sinh ra trường Y Cách Mạng trong kháng chiến chống
Pháp.
Trường Y Dược toàn cấp Đông Dương được coi chính thức là chi nhánh của
trường Đại học Y Paris, khi đó gồm 7 khoa (hay phân khoa):
1. Một khoa chuẩn bị thi chứng chỉ Lý-Hóa-Vạn Vật (PCN).
2. Một khoa Y toàn cấp
3. Một khoa Dược toàn cấp
4. Một khoa Y sĩ Đông Dương
5. Một khoa Dược sĩ Đông Dương
6. Một khoa cho người châu Á
7. Một khoa nữ hộ sinh bản xứ.
Nghị định ngày 22 tháng Tư 1924 của toàn quyền Đông Dương M.Merlin đã qui định
các chi tiết thi hành Nghị định ngày 30 tháng Tám 1923 về việc cải tổ lại trường Y
Đông Dương. Lần đầu tiên, một hội đồng giáo sư được thành lập để tư vấn cho hiệu
trưởng về những vấn đề tổ chức giảng dạy và qui chế kỷ luật. Hội đồng gồm các giáo
sư chính thức và hai giảng viên do Giám đốc Nha Học Chính chỉ định vào đầu mỗi
năm học. Một thư ký phụ tá hiệu trưởng (đúng ra phải gọi là chánh văn phòng, tương
đương như phó hiệu trưởng thường trực hiện nay) được chọn trong số giáo sư chính
thức với nhiệm kỳ 5 năm theo quyết định của Toàn quyền và do Giám đốc Nha Học
Chính giới thiệu sau khi đã tham khảo ý kiến hiệu trưởng. Thư ký sẽ phụ trách công
tác hành chính và tổ chức, giám sát và kỷ luật đối với sinh viên, phụ trách công tác
bệnh viện theo chỉ định của hiệu trưởng. Thư ký lĩnh lương theo cấp bậc và được thu
xếp nơi ở trong trường (theo giáo sư Vũ Công Hoè, trường còn cơ sở phố Tràng Tiền
- hiện nay thuộc chỗ cửa hàng Bôđêga - là nơi ở cho một số giáo sư và cả sinh viên).
Ban thư ký còn gồm hai thư ký người bản xứ biệt phái từ Nha Học Chính Đông
Dương, một trong hai người kiêm phụ trách thư viện và được hưởng thêm phụ cấp
đồng niên về việc này là 120 đồng.
Nghị định 22 tháng Tư 1924 khẳng định lại nhiệm vụ của trường đào tạo các đối
tượng, gồm:
1. Bác sĩ y khoa và dược sĩ hạng nhất theo nghị định 30 tháng Tám 1923
2. Y sĩ và Dược sĩ Đông Dương
3. Y sĩ Quân Y
4. Y sĩ Trung Hoa
5. Nữ hộ sinh Đông Dương.
Y sĩ Đông Dương khoá cuối cùng ra trường năm 1934 (theo giáo sư Vũ Công Hoè.
Cũng theo giáo sư, không có chênh lệch đáng kể về trình độ giữa bác sĩ và y sĩ Đông
Dương). Sau này phần lớn y sĩ Đông Dương đã thi lấy bằng tú tài “tây” và dành ra 2
năm để bổ túc một số môn và làm luận án tốt nghiệp bác sĩ Y khoa. Lớp y sĩ cuối
cùng ra trường năm 1934 vào trường và cùng học với giáo sư Vũ Công Hoè (giáo sư
Hoè ra trường năm 1937, bác sĩ Trương Cam Cống học trên giáo sư Hoè 4 lớp và
bác sĩ Phạm Ngọc Thạch học trên giáo sư Hòe 3 lớp và là khoá cuối cùng phải sang
Pháp làm luận án). Số y sĩ được đào tạo từ trường Y Đông Dương kể từ khoá ra
trường đầu tiên năm 1907 đến khoá năm 1930 là 294 người (chưa có số liệu ra
trường các năm từ 1931 đến 1934).
Nghị định cũng qui định chi tiết chương trình học, số giờ mỗi tuần của một môn và qui
định chương trình thi tốt nghiệp. Trong bước đầu đặt hệ nội trú, nghị định có qui định
tuyển chọn hàng năm 4 sinh viên làm trợ lý giải phẫu, sinh lý, mô-giải phẫu bệnh học
và dược học. Trợ lý giải phẫu được phụ cấp hàng tháng 15 đồng, các trợ lý khác
được 10 đồng. Hàng năm tổ chức thi tuyển trong số sinh viên năm thứ 3 và 4 (chung
cho mọi chuyên khoa) lấy 3 trưởng phòng của bệnh viện Bảo Hộ (2 phòng ngoại khoa
và 1 phòng nội khoa). Các sinh viên được chỉ định có trách nhiệm làm bệnh án và
thực hiện điều trị, ngoài ra còn hướng dẫn lâm sàng cho sinh viên lớp dưới và được
hưởng phụ cấp mỗi tháng 10 đồng.
Chế độ nội trú đã có ngay từ khi thành lập trường, theo nghị định ngày 28 tháng Bảy năm 1902. Sau
này, chế độ nội trú được thực hiện đầy đủ hơn. Sinh viên năm thứ ba thi ngoại trú và sinh viên năm thứ
5 thi nội trú. Chỉ sinh viên ngoại trú và nội trú mới có quyền điều trị, số không trúng tuyển vào chế độ
"trú" thì như giáo sư Nguyễn Trinh Cơ thường gọi đùa, là "những linh hồn lang thang ngoài hành
lang" (Les âmes errantes du couloir). Tất cả các thầy thuốc giỏi của ta sau này đều đã trải qua một
thời gian làm nội trú và có thầy, như thầy Tôn Thất Tùng, đã tỏ ra nổi bật ngay từ thời kỳ làm nội trú.
Vì vậy, danh hiệu "cựu nội trú" rất được tôn trọng, trên danh thiếp, thường danh hiệu "cựu nội trú các
bệnh viện" được đặt trên danh hiệu "bác sĩ y khoa".
Hàng năm, kỳ thi ngoại trú và nội trú được tổ chức với số tuyển chọn không nhất định, tuỳ theo số chỗ
còn trống ở bệnh viện. Ngoài phần thi lý thuyết, sinh viên được giao bệnh nhân và làm bệnh án dưới sự
giám sát của giám thị. Sau đó giám thị thu lại bệnh án. Ngày hôm sau, trước hội đồng thi, sinh viên đọc
lại bệnh án của mình dưới sự giám sát của sinh viên kế tiếp, nghĩa là không có quyền sửa đổi lấy một
chữ. Cách kiểm tra chéo như vậy bảo đảm được tính nghiêm minh và công bằng của cuộc thi. Sau khi
có danh sách trúng tuyển, người đỗ đầu được chọn chỗ chuyên khoa trước, thứ mới đến người sau. Vì
vậy những chuyên khoa "nổi tiếng" hoặc "hái ra tiền" không bao giờ đến tay các anh đỗ hạng kém, tuy
kém của nội trú vẫn còn hơn không nội trú.
Các giáo sư người Pháp được trả lương rất cao do có phụ cấp khu vực (lương bên
thuộc địa gấp đôi lương ở chính quốc). Giáo sư bậc khởi điểm (bậc 5) có lương đồng
niên kể cả phụ cấp thuộc địa gấp 3 lần lương Y sĩ Đỗ Xuân Hợp thời đó (như vậy,
nếu so với lương bên Pháp thì khởi điểm của giáo sư chỉ hơn lương y sĩ Đỗ Xuân
Hợp có 1,5 lần), còn khởi điểm của giáo sư bậc 1 thì gấp 4,5 lần. (5981,92 và
8617,56 đồng so với 1944 đồng, trong khi giá vàng khoảng 50 đồng một lạng - Theo
Lê Gia Vinh, sách đã dẫn, tr 24 + tư liệu trường Đông Dương).
Nghị định cũng qui định phụ cấp giảng dạy cho những giảng viên không hưởng lương
giáo sư, hay phụ giảng chính thức, là 8 đồng cho một giờ lý thuyết và 6 đồng cho một
buổi thực tập 2 giờ. Đến giai đoạn này, sinh viên năm thứ nhất khoa đại học không
hưởng học bổng mà phải đóng lệ phí mỗi học kỳ 3 tháng là 19 đồng, gồm cả tiền thư
viện 1 đồng và tiền thực tập 6 đồng. Như vậy hàng năm mất 76 đồng, cộng thêm 26
đồng tiền lệ phí thi, thành 102 đồng, những năm sau là 98 đồng. Năm cuối cùng sang
Pháp bảo vệ luận án phải đóng tiền thi 165 francs, luận án và văn bằng 240 francs,
cộng 405 francs (thời đó 1 đồng Đông Dương ăn 8,25 francs, như vậy mất khoảng 50
đồng Đông Dương nữa).
Thư viện thời kỳ này được gộp chung với thư viện Viện Đại học trong một phòng
rộng, đối diện Đại Giảng đường, tới cuối những năm 1950 mới tách riêng thành Thư
viện Đại học Y Dược. Sau khi tách riêng hai trường (Y và Dược) năm 1962, thư viện
Đại học Y được tổ chức thành hai đơn vị riêng biệt là Viện Thông tin-Thư viện Y học
Trung ương và thư viện Đại học Y Hà Nội.
Trước năm 1935, sinh viên chỉ học hết năm thứ Tư thì sang Pháp thi nốt năm
thứ Năm và bảo vệ luận án tốt nghiệp. Từ 1935 trở đi, khi giáo sư thạc sĩ Henri
Galliard, giáo sư trường Đại học Y khoa Paris sang nhậm chức hiệu trưởng, các giáo
sư bắt buộc phải có bằng thạc sĩ nên các chủ nhiệm khoa người Pháp lần lượt thay
nhau về Paris thi thạc sĩ và cũng từ đó, trường Paris hàng năm cử một giáo sư sang
chủ trì luận án. Các giáo sư từ Paris sang chủ trì việc bảo vệ luận án, như giáo sư
Lemaitre, đã gọi trường Y Đông Dương là "cái ăng ten của nền khoa học Pháp tại
Viễn Đông", đánh giá rất cao trình độ và khả năng của sinh viên trường Đông Dương,
coi tương đương như tốt nghiệp từ trường Paris. Số bác sĩ sang Pháp làm luận án, kể
từ khoá đầu 1921-1927 tới khoá 1928-1934 là 42 người. Khoá 1929-1935 trở đi bắt
đầu bảo vệ luận án tại Hà Nội. Từ năm 1935 đến khoa thi cuối cùng của trường Đông
Dương năm 1945, đã có tổng số 147 luận án được bảo vệ chính thức (không kể một
số nội trú không kịp làm luận án, như Hoàng Đình Cầu, Nguyễn Thế Khánh, Phạm
Gia Triệu, Nguyễn Hữu, Phạm Biểu Tâm và nhiều người khác). Người ta thấy rõ từng
bước trưởng thành của trường Y Đông Dương, từ lúc chỉ đào tạo được y sĩ, rồi đào
tạo bác sĩ thiếu năm cuối, phải sang Pháp thi tốt nghiệp, cho tới khi đào tạo hoàn
chỉnh học vị bác sĩ tại Hà Nội. Mười sáu năm kể từ sau khoa thi Đình cuối cùng (vào
năm 1919), các tiến sĩ tân khoa bắt đầu ra trường tại Hà Nội năm 1935 (nhưng trước
đó 8 năm, nghĩa là sau 8 năm không có tiến sĩ kể từ khoa thi Đình năm Kỷ Mùi, đã có
các tiến sĩ do trường Y Hà Nội đào tạo nhưng lại phải sang Pháp thi). Khi đó, mới chỉ
có trường Y Hà Nội có khả năng cấp học vị này. Cũng lần đầu tiên, bệnh tật của nhân
dân Việt Nam được nghiên cứu và trình bày một cách khoa học trong các luận án tốt
nghiệp (dù thời gian đầu phải bảo vệ tại Paris nhưng tất cả các luận án đều lấy đề tài
từ thực tế Việt Nam). Tóm lại, chỉ sau 8 năm gián đoạn, các tiến sĩ tân khoa lại tiếp
tục ra trường, kế tục sự nghiệp của giáo dục Hán học. Ngày đó, lễ bảo vệ luận án và
tốt nghiệp được tiến hành rất long trọng. Theo bác sĩ Nguyễn Hữu Thuyết, tốt nghiệp
1938, kể lại (cụ mới mất cách đây vài năm), các bác sĩ tân khoa và giáo sư trường Y
đều đội mũ có 4 giải và mặc áo thụng đen.
Về sau, những người theo kháng chiến được Bộ Quốc Gia Giáo Dục cấp bằng tốt
nghiệp, một số sau này bảo vệ tại trường Y trong Hà Nội tạm chiếm. Như vậy, nếu
tính cả số y sĩ Đông Dương và số bảo vệ luận án ở Pháp, trường Y Đông Dương đã
đào tạo ít nhất 483 người (chưa tính số y sĩ Đông Dương 4 năm sau cùng và số nội
trú chưa kịp bảo vệ luận án), một con số thật ít ỏi so với nhu cầu (1 thầy thuốc cho
hơn 50.000 dân) nhưng không thể trách trường Y Đông Dương. Sự phát triển giáo
dục chậm chạp của thời đó phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó yếu tố quan trong
nhất là chủ nghĩa thực dân không phát triển mạnh giáo dục và trình độ kinh tế thấp
kém của đất nước ta dưới ách thực dân, có tới trên 90 phần trăm dân số mù chữ. Tuy
nhiên để bù lại, và đây là công của trường Y Đông Dương, các bác sĩ ra trường, nhất
là bác sĩ nội trú, có trình độ chuyên môn và phương pháp luận khoa học rất vững
vàng, là tiền đề để sau này tự lực phát triển sau khi đã giành được độc lập.
Năm 1932, Viện Giải phẫu thuộc trường được thành lập tại địa điểm ngày nay ở phố
Tăng Bạt Hổ, khi đó do bác sĩ P.Huard làm Viện trưởng kiêm chủ nhiệm bộ môn Giải
phẫu. Cũng năm đó, thầy Đỗ Xuân Hợp (tốt nghiệp y sĩ Đông Dương năm 1929),
được ông lấy trúng tuyển trong kỳ thi chọn trợ lý giải phẫu và được nhận về đây làm
việc. Năm đó thầy Hợp mới 26 tuổi. Viện này là một cơ sở trực thuộc trường, có một
gian triển lãm cổ sinh vật học rất đẹp. Huard đã cùng các cộng sự (chủ yếu là Đỗ
Xuân Hợp) xuất bản 9 tập Công trình của Viện Giải phẫu thuộc trường Đại học hỗn
hợp Y Dược khoa Hà Nội (Travaux de l' Institut anatomique de la Faculté mixte de
Médecine et de Pharmacie de Hanoi, 9 tomes, de 1936 à 1944). Ngoài ra, ông còn là
thành viên trường Viễn Đông Bác Cổ. Ông đã góp phần đào tạo nhiều nhà giải phẫu
và ngoại khoa lớp trước của ta như Đỗ Xuân Hợp, Tôn Thất Tùng, Đinh Văn
Thắng, Nguyễn Hữu, Phạm Biểu Tâm, v.v... Bác sĩ Huard xuất thân từ trường Quân
Y bên Pháp và đã giảng dạy ở đó. ở ông có sự thẳng thắn của một quân nhân và một
nhà khoa học. Năm 1947, nghe tin ngoài kháng chiến có mở kỳ thi tốt nghiệp bác sĩ Y
khoa, ông đã nhắn tin chúc mừng. Có một dịp đi nhận thương binh, ông đã gửi tặng
bác sĩ Tôn Thất Tùng một cây thuốc lá Cotab, một số thuốc DDT đang được ưa dùng
thời đó và đề nghị thầy Tùng có yêu cầu gì về sách vở sẽ hết sức giúp đỡ.
Viện Giải Phẫu là một cơ sở trực thuộc trường cũng xuất bản được tập kỷ yếu riêng
(9 tập như trên đã nói) và có một gian triển lãm cổ sinh vật học rất đẹp. Cũng năm
1932, thầy Đỗ Xuân Hợp, đã tốt nghiệp y sĩ Đông Dương năm 1929, trúng tuyển kỳ thi
chọn trợ lý giải phẫu 18và được nhận về đây làm việc. Năm đó thầy Hợp mới 26 tuổi.
Giáo sư Đỗ Xuân Hợp nhớ lại: thời đó còn thanh niên ham bay nhảy, thi trợ lý giải phẫu chỉ coi như bước đi
đầu tiên. Sau này, theo giáo sư Lucas Championnère khuyên, tôi đi luân khoa Tai Mũi Họng của giáo sư
Sollier và định xin chuyển sang làm việc tại đó. Khi trình bày với hiệu trường Le Roy des Barres, ông đập
bàn quát tôi : "tôi không thích đôi bàn tay đã mó vào xác chết lại mó vào bệnh nhân của tôi", và thế là tắt
mộng đi lâm sàng, trở nên gắn bó suốt đời với nghề giải phẫu ! Kể đến đây, giáo sư phá lên cười. Cũng
không nên nghĩ rằng đây là hành động áp bức của một "ông Tây". Tuổi hai người chênh lệch như cha với
con (khi giáo sư Le Roy des Barres sang Đông Dương dạy học thì giáo sư Hồ Đắc Di mới lên 2 và mãi 4
năm sau, giáo sư Hợp mới ra đời). Chúng ta cũng mong được "an phận" như giáo sư Đỗ Xuân Hợp để trở
thành chuyên gia giải phẫu đầu tiên của Việt Nam. Giáo sư có nhiều công trình làm chung với giáo sư
Huard, một số được trích dẫn trong cuốn giáo khoa Giải Phẫu nổi tiếng của Rouvière và nổi bật nhất là
cuốn "Hình thái học Người và Giải phẫu nghệ thuật" (Morphologie humaine et Anatomie artistique) được
giải thưởng của Viện Hàn Lâm Pháp. Theo thông lệ thời đó, mỗi khi có công trình làm chung bởi hai tác giả
Việt và Pháp, tên tác giả Pháp bao giờ cũng được để lên trên (dù người đó có là học trò tác giả Việt đi nữa,
theo bác sĩ Nguyễn Hữu Thuyết). Vì vậy, xem tài liệu Pháp, bao giờ cũng là cặp tên: Huard và Đỗ Xuân
Hợp. Hỏi lại thầy Hợp là ai đóng góp nhiều hơn, thầy khẳng định: bằng nhau.
Khi về làm việc tại Viện Giải Phẫu, giáo sư Hơp vẫn phải tự học để thi tú tài (thời đó nếu không có tú tài thì
không thi bác sĩ được). Cuối cùng thì cũng xong, ông bảo vệ luận án năm 1944 về một đề tài rất đặc thù:
"Nghiên cứu về hệ thống xương người Việt Nam". Ông là người đầu tiên nghiên cứu hệ thống các đặc điểm
giải phẫu của người Việt Nam, kể cả về ngón chân Giao Chỉ, nghiên cứu cả các tác phẩm điêu khắc ở chùa
chiền, đền miếu để kết tinh lại trong cuốn "Hình thái học Người và Giải phẫu nghệ thuật". Ông vừa giảng
dạy tại trường Y, vừa giảng dạy tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương từ năm 1936 (theo Lê Gia Vinh:
Con đường vinh quang.- NXB Văn hoá, 1991). Ngày đó, thầy Hợp là một trang phong lưu công tử, vừa giàu,
vừa có tài. Dĩ nhiên thầy có xe hơi riêng và được cô bác sĩ Jeanne T. T. O. ở bộ môn Sinh Lý học rất ngưỡng
mộ, tuy thầy đã có gia đình.
Khi trường Y về tay nhân dân, trong kháng chiến chống Pháp, giáo sư Đỗ Xuân Hợp là người đầu tiên dùng
tiếng Việt trong giảng dạy ở bậc đại học và biên soạn các danh từ giải phẫu còn nguyên giá trị đến ngày
nay. Ông liên tục làm hiệu trưởng trường Đại học Quân Y cho tới khi nghỉ hưu năm 72 tuổi (1978) nhưng
vẫn lãnh đạo bộ môn Giải Phẫu trường Đại học Y Hà Nội và chỉ đạo Hội Hình thái học Việt Nam. Ông đã
được phong quân hàm thiếu tướng quân y và được tặng danh hiệu Anh hùng các lực lượng vũ trang và giải
thưởng Hồ Chí Minh.
Địa điểm 11 Lê Thánh Tông thật ra là của Đại học Luật khoa. Một địa điểm mới cho
trường Y Dược toàn cấp Đông Dương cũng đã được chọn ở góc giữa hai phố Trần
Thánh Tông - Trần Hưng Đạo, bên cạnh bệnh viện Đồn Thủy (ngày nay là Viện Quân
Y 108) nhưng chưa kịp thực hiện thì bị tình hình chiến tranh làm gián đoạn (mới chỉ
xây được Viện Giải Phẫu ở Tăng Bạt Hổ, việc xây dựng Viện Pháp Y cũng bị bỏ dở vì
chiến tranh), tuy chiến tranh thực sự đến 1939 mới xảy ra. Hiện còn các cáo thị điều
tra "Tiện và Bất tiện" về việc xây dựng Viện Pháp Y (tư liệu ở Trung tâm Lưu trữ Quốc
gia I)
Những ông thầy người Pháp của thời kỳ này, có lẽ chỉ trừ một số rất nhỏ, đều sang
giảng dạy với tinh thần truyền thụ kiến thức khoa học cho học sinh, đúng theo lời thề
Hippocrate. thầy Henri Coppin được học sinh quí mến vì rất giỏi lâm sàng (theo GS.
Trịnh Ngọc Phan), tiếc rằng thầy qua đời sớm (1929). thầy Naudin, một cựu bác sĩ hải
quân là người rất thương học sinh và thông cảm với bệnh nhân. Bác sĩ Lê Văn Khải
kể lại: "Thời đó tình trạng thiếu giường nằm trong bệnh viện chưa trầm trọng lắm nên
chúng tôi dễ dãi thu nhận cả những người chỉ có bệnh đói và rét. Giáo sư Naudin
không phản đối, chỉ nhắc câu "Một người bề ngoài khoẻ mạnh là người có bệnh mà
không biết" và ông bắt sinh viên xem lại, thế nào ông cũng tìm ra một bệnh, dù rất
nhẹ, như ghẻ, giun, thiếu máu... để người ấy được nằm và ăm miễn phí một số bữa.
Giáo sư Naudin ưa cho thuốc dạng bào chế" (ngày ấy, các dung dịch để uống thường
không thành công thức bào chế sẵn như ngày nay nên thầy thuốc thường kê đơn 5-7
vị thuốc để phòng bào chế pha cho bệnh nhân dùng, giống như kê thang đông y).
Chắc chắn nhiều bác sĩ trẻ ngày nay không biết trong "Si rô ho Bổ Phế" có những vị
gì, liều lượng bao nhiêu. Dạng bào chế sẵn (officinal) thật tiện lợi, đỡ phải nhớ nhiều !
Các thầy người Pháp tuy không phải là những nhà khoa học xuất sắc nhưng họ đã
thành công trong việc đào tạo một thế hệ bác sĩ Việt Nam có đủ Đức, Tài để sau này
duy trì được trường Y trong kháng chiến chống Pháp và phát triển lớn mạnh như
ngày nay. Các giáo sư nhà trường đã xuất bản định kỳ được 9 tập Kỷ yếu công trình
kể từ năm 1936, công bố các nghiên cứu của giáo sư và bác sĩ, dược sĩ trường Y
Dược khoa Đông Dương. Rất đáng tiếc là những tập kỷ yếu của trường và của Viện
Giải Phẫu hiện nay đều không còn được lưu trữ tại thư viện nhà trường. Điểm qua vài
ông thầy người Pháp.
Giáo sư Le Roy des Barres, hiệu trưởng trường Y (thời kỳ 1929-1935) chuyên về sản
khoa và mổ rất giỏi. Những bệnh nặng không có khả năng chuyển về Pháp đều phải
qua tay thầy vì vậy thầy được hầu hết các vị tai to mặt lớn kính nể. Ông chỉ có tật hay
gắt nên sinh viên rất ngại phụ cho ông và chỉ có bà vợ ông (người Việt) là một nữ hộ
sinh làm được việc đó. Bà biết trước những dụng cụ ông sắp cần để đưa đúng lúc và
nếu ông gắt thì bà gắt lại, thậm chí đá chân qua gầm bàn vào cẳng chân ông là ông
dịu ngay (Lê Văn Khải, sách đã dẫn)
Giáo sư Lucas Championnère rất giỏi ngoại khoa, gia đình có 3 đời đều là thầy thuốc
danh tiếng. Ông là người điềm đạm, rất quí mến sinh viên. Ông khám bệnh rất kỹ nên
chẩn đoán rất chính xác và vừa mổ, ông vừa giải thích cặn kẽ cho sinh viên phụ mổ.
Giáo sư Lucas Championnère đã mất tại Hà Nội trong sự tiếc thương của sinh viên
khiến chính người Pháp phải ngạc nhiên. Sau giáo sư Lucas Championnère, có giáo
sư Cartoux (người cùng sang Đông Dương một lượt với các giáo sư Hồ Đắc Di và
Huard) làm ngoại khoa kiêm giảng dạy môn giải phẫu. Ông rất biết ăn diện, là người
đầu tiên ở Hà Nội có chiếc xe hơi kiểu thể thao và là người rất lịch sự. Ông mổ tay trái
rất khéo và tận tình hướng dẫn cho sinh viên trong lúc mổ.
Các giáo sư lớp sau 1930, ngoài Huard (có công đào tạo y sỹ Đông Dương Đỗ Xuân
Hợp) và Cartoux, còn có Meyer May (một người gốc Do thái, theo phe kháng chiến
De Gaulle, sau năm 1946 ông sang Mỹ sinh sống), là người có công lớn đào tạo bác
sĩ Tôn Thất Tùng; Gs Daléas (Sản Phụ Khoa) có công đào tạo bác sĩ Đinh Văn
Thắng, rồi GS Montagné, Sollier và nhiều người khác cũng thuộc lớp này. Người
Pháp rất trọng bằng cấp nên nhiều cán bộ giảng dạy thời đó đã phải về Pháp thi thạc
sĩ (như nội khoa có Massias, ngoại có Mayer May, sản có Daléas, nhi có Blondel, giải
phẫu có Huard...). Tuy nhiên cũng còn nhiều giáo sư khác không có bằng thạc sĩ như
Toullec dạy môn Bệnh học nhiệt đới, Cartoux dạy Phụ sản, Polidori dạy nhi, Naudin
dạy nội, Grenierboley dạy da liễu, Joyeux dạy mô học, Keller dạy Mắt, Sollier dạy Tai
mũi họng. Giáo sư Sollier là người rất đặc biệt. Ông có tính “ăn to nói lớn”, luôn gắt
gỏng với mọi người, thậm chí khi vợ ông tới khám cũng bị ông gắt gỏng như với
những bệnh nhân khác. Thật ra, tuy ông gắt đấy nhưng nếu sinh viên bỏ không đến
thì ông lại tìm họ xin lỗi vì tật nóng tính của mình và vui vẻ mời quay lại. Ông có bà vợ
rất hiền, sinh cho ông sáu con toàn gái. Mỗi lần thấy ông bà và đàn con đi phố hay đi
lễ nhà thờ, người Việt Nam nào cũng phải ngắm nhìn vì hiếm có người Pháp nào
đông con như vậy. Ông đã có công đào tạo các bác sỹ tai mũi họng lớp đầu của ta
như bác sĩ Vũ Hữu Hiếu bên quân Y (đã mất), giáo sư Võ Tấn, v.v. Giáo sư hiệu
trưởng Henri Galliard sau này khi đã về Pháp đã tiếp tục đỡ đầu nhiều sinh viên Việt
Nam du học bên đó. Ông vẫn giữ nguyên cảm tình với Việt Nam tuy từ 1946 đã thôi
dạy học trường Đông Dương. Các thầy người Pháp không làm tư, nhưng sắn sàng
khám giúp người nhà sinh viên. Thỉnh thoảng, do bệnh viện Saint Paul mời (từ sau
1935 mới có bệnh viện này, do các bà sơ đảm nhiệm) thì mới sang mổ.
Các thầy người Pháp tuy không phải là những nhà khoa học xuất sắc nhưng họ đã
thành công trong việc đào tạo mọt thế hệ bác sĩ Việt Nam có đủ Đức, Tài để sau này
duy trì được Trường Y trong kháng chiến chống Pháp và phát triển lớn mạnh như
ngày nay. Các giáo sư nhà trường đã xuất bản định kỳ được 9 tập Kỷ yếu công trình
kể từ năm 1936, công bố các nghiên cứu của giáo sư và bác sĩ, dược sĩ trường Y
Dược Đông Dương. Rất tiếc là những tập kỷ yếu của trường và của Viện Giải Phẫu
hiện nay đều không còn được lưu trữ tại thư viện nhà trường.
Từ 1935, việc bảo vệ luận án được tiến hành ngay tại trường Y Đông Dương, lúc đầu
do các giáo sư từ Pháp sang chủ trì.
Năm đầu tiên bảo vệ luận án tại Hà nội có 12 bác sĩ là:
1. Lê Văn Cẩn: Góp phần nghiên cứu các trường hợp gãy xương cánh tay
2. Huỳnh Công Chiêu: Góp phần vào việc điều trị bệnh lách do sốt rét bằng
liệu pháp phủ tạng lách
3. Huỳnh Tấn Đối: Góp phần nghiên cứu các hội chứng bụng cấp trong bệnh
giun đũa
4. Nguyễn Trọng Hiệp: Nghiên cứu về hậu quả ngoại khoa các bệnh lỵ và
viêm đại tràng nhiệt đới
5. Nguyễn Đình Hoàng: Góp phần nghiên cứu các trường hợp gãy mỏm
ngang đơn độc cột sống thắt lưng
6. Hoàng Gia Hợp: Gây mê tĩnh mạch bằng Numal
7. Trương Hồ Ly: Điều trị ngoại khoa cácviêm đại tràng mạn tính bằng tạo lỗ
dò, đặc biệt là mở ruột thừa
8. Nguyễn Xuân Nguyên: Góp phần nghiên cứu bệnh do Pseudomonas
pseudomallei ở Đông Dương
9. Phạm Văn Phán: Góp phần nghiên cứu bệnh sốt rét bẩm sinh
10. Lê Đình Quý: Góp phần nghiên cứu phẫu thuật cắt tử cung qua đường âm
đạo
11. Võ Duy Thạch: Góp phần nghiên cứu bệnh sinh của phù trong chứng tê
phù (béri béri)
12. Dương Tấn Tươi: Công cuộc chống bệnh sốt rét ở Tuyên Quang.
Từ khi Đông Dương bị ngăn cách với chính quốc do chiến tranh thế giới thứ 2, các
giáo sư nhà trường tự đảm nhiệm việc chủ trì luận án, và cuối cùng, từ Vichy, sắc
lệnh ngày 15 tháng Mười 1941 của thống chế Pétain, quốc trưởng Pháp, đã nâng cấp
trường Y Dược toàn cấp Đông Dương thành trường Đại học hỗn hợp Y Dược khoa
Đông Dương, hoàn thiện bước cuối cùng trong việc xây dựng trường Y Dược Đông
Dương (chính quyền Đông Dương thời đó theo chính phủ Vichy và chống lại phe
kháng chiến De Gaulle)
Từ khoảng năm 1940 trở đi, trưởng các khoa lâm sàng tại bệnh viện và phần lớn các
khoa cận lâm sàng đều do cán bộ Việt Nam đảm nhiệm. Các bậc đàn anh có cụ Vũ
Đình Tụng và cụ Trần Văn Lai là hai bác sĩ thường trú tại bệnh viện Bảo hộ để hướng
dẫn sinh viên thực tập. Bác sĩ thường trú cuối cùng là cụ Hồ Đắc Di (theo hồi ký giáo
sư Vũ Công Hoè).
KHUNG CÁN BỘ CỦA TRƯỜNG ĐÔNG DƯƠNG TRONG THỜI KỲ
ĐẦY ĐỦ NHẤT (1943)
Hiệu trưởng:H. GALLIARD, giáo sư trường Đại học Y khoa Paris
Giáo sư chính thức: Daléas, Huard, Cousin, Sollier, Grenierboley,
Blondel, Rivoalen, Joyeux, Montagné, Bonnet
Trợ lý lâm sàng: CARTOUX, Hồ Đắc Di (hai vị này được phong giáo sư ngày
11.12.1943).
A. BLONDEL
P. BONNET
C. CARTOUX
G. COESTER (giảng viên)
E. COUSIN
P. DALEAS
DUGA (giảng viên)
H. GALLIARD
J. GRENIERBOLEY
HỒ ĐẮC DI
P. HUARD
B. JOYEUX
M. MONTAGNÉ
B. NOYER (Giảng viên)
A. RIVOALEN
Nội lâm sang
Bệnh học Nội khoa
Điều trị học
Dược lý học
Sản khoa
Y Vật lý
Y hoá học
Lâm sàng Sản-Phụ khoa
Điện quang và Vật lý trị liệu
Vi trùng học
Ký sinh trùng học
Lâm sàng bệnh ngoài da - hoa liễu
Bệnh học đại cương
Bệnh học ngoại (cùng với M. Montagné)
Giải phẫu định khu
Phẫu thuật thực hành
Ngoại lâm sang
Mô học và Phôi thai học
Giải phẫu bệnh
Giải phẫu học
Bệnh học ngoại
Sinh lý học
Y học thực nghiệm (tức Sinh lý bệnh học)
Nội lâm sàng nhi khoa
R. SOLLIER
Không có chủ nhiệm chính thức
Truyền nhiễmVệ sinh
Lâm sàng Tai-Mũi-Họng
Y pháp học và Qui chế hành nghề
Nhãn khoa
Trường Đại học Y - Dược khoa năm 1923
Tấm thẻ ngà của các học sinh Trường Y Đông Dương
Khoá đầu tiên của Trường Y khoa Đông Dương.
Hàng đầu tiên: ông Lê Văn Chinh, thầy thuốc Capus, BS. Degorce và BS. Le Roy des Barres
Hàng thứ hai: các giám thị.
Hàng thứ ba: tám học sinh.
Đại giảng đường Đại học Y - Dược khoa Đông Dương năm 1930.
Nhà thương Bạch Mai năm 1915
Các học sinh, y sĩ Đông Dương khoá 1921 - 1925.
Lần đầu tiên cso hai sinh viên tốt nghiệp PCN:
Sinh viên Đặng Vũ Lạc (người mặc áo màu trắng) và sinh viên Hoàng Thuỵ ba (người đứng
hàng đầu, thứ tư từ trái sang). Sau đó tốt nghiệp Bác sĩ ở Paris.
Khu nội trú của sinh viên ở 13 Lê Thánh Tông (Hiện nay là nơi làm việc của Bộ môn Giải phẫu
bệnh và Pháp y).
Học sinh, y sĩ Đông Dương thực tập tại Bệnh viện năm 1910.
1930-1940: mỗi năm trường thu nhận 50 tới 60 sinh viên P.C.N. và gần một nửa số
sinh viên này được trúng tuyển vào năm thứ nhất y khoa. Niên khóa 1939-1940 tổng số
sinh viên các lớp toàn trường là 147 người.
Trường đổi tên thành " Faculté Mixte de Médecine et de Pharmacie " do nghị định
ngày 15-10-1941, và tiếp tục được Đại học Paris bảo trợ.
Chứng chỉ dự bị vào y khoa đổi tên là P.C.B. thay vì P.C.N... Trường tự tổ chức hội
đồng giám kháo các kỳ đệ trình luận án y khoa, không cần mời các giáo sư từ Paris
sang chấm thi. Trong học trình 6 năm, sinh viên có thể thi các kỳ thi externat, internat,
aide d'anatomie hay prosecteur.
Hai vị giáo sư Việt Nam đầu tiên đậu thạc sĩ y khoa Pháp (khoa giải phẩu) là giáo sư
Phạm Biểu Tâm và giáo sư Trần Quang Đệ năm 1947. Các giáo sư Nguyễn Hữu
(Anatomie), Đặng văn Chung (Médecin), Vũ Công Hòe (Anatomo - Pathologie) trúng
tuyển thạc sĩ năm 1952.
GS. Hồ đắc Di
GS. Tôn Thất Tùng
GS. Phạm Biểu Tâm
GS. Đặng văn Chung
Nhiều thầy của chúng ta đã nổi bật ngay từ khi làm nội trú hoặc mới ra trường, ở đây
chỉ có thể nêu một vài thí dụ :
Thầy Đặng Văn Ngữ bảo vệ luận án năm 1936 với đề tài :"Góp phần nghiên cứu về
lâm sàng và bệnh căn các áp xe gan ở Bắc Kỳ". Ông là trợ lý cho giáo sư Henri
Galliard, hiệu trưởng và chủ nhiệm bộ môn Ký sinh trùng. Khi trở thành trưởng labô
Ký sinh trùng và giảng viên Sinh học ban Dược, ông đã công bố 16 công trình nghiên
cứu và đến năm 1943, ông được tuyển chọn đi du học ở Nhật Bản với tiêu chuẩn
"Người có trình độ cao, đại diện xứng đáng cho nền Y học Pháp tại Đông Dương".
Sau này, năm 1949, từ Nhật Bản, ông về thẳng Việt Bắc tham gia trường Y kháng
chiến và đã có công trình nghiên cứu sản xuất nước lọc (filtrat) pênixilin phục vụ điều
trị thương binh.
Thầy Tôn Thất Tùng thì vừa làm nhiệm vụ nội trú khoa Ngoại, vừa làm phụ giảng
(prosecteur) giải phẫu và kiêm luôn cả giải phẫu đại thể (mổ tử thi sau khi bệnh nhân
chết để xác định nguyên nhân tử vong). Do có sức khoẻ tuyệt vời nên thầy còn giữ
chân đội trưởng đội bóng trường Y thời đó. ở thầy, có phẩm chất một nhà khoa học
lớn ngay từ khi còn trẻ : cái gì đã tìm thấy thì không bằng lòng với kết quả trước mắt,
kiên quyết đi tới cùng, không nề là việc lớn hay nhỏ. Trong thời gian làm trợ lý rồi phụ
giảng giải phẫu từ 1935 đến 1939, thầy đã phẫu tích hơn 200 bộ gan người chết. Lao
động cực nhọc đó đã được đền bù xứng đáng : thầy là người đầu tiên phẫu tích được
toàn bộ các đường dẫn mật trong gan, sau này có ứng dụng rất to lớn trong công
trình cắt gan khô Tôn Thất Tùng được giới Y học phương Tây đánh giá rất cao. Luận
án bảo vệ năm 1940 của thầy là khởi đầu cho một công trình suốt đời "Sự phân bố
tĩnh mạch trong gan và các ứng dụng trong cắt gan và cắt thùy gan" (Tôn Thất Tùng,
cuộc đời và sự nghiệp _ NXB Y Học, 1997).
Như vậy, ngay từ đầu những năm 1940, đội ngũ cán bộ người Việt trong trường
Đông Dương đã lớn mạnh, tự đảm đương được công tác giảng dạy lâm sàng và
điều trị. Các trưởng khoa lâm sàng hoàn toàn thay thế được các giáo sư người
Pháp khi họ vắng mặt.
Bác sĩ Nguyễn Hữu Thanh, nguyên giám đốc bệnh viện Saint Paul, học trò thầy Nguyễn Hữu Thuyết được
nghe thầy kể lại : hồi đầu có 3 ông thầy người Việt đi với các thầy người Pháp : Thầy Tôn Thất Tùng trưởng
khoa ngoại với giáo sư Meyer May, thầy Đinh Văn Thắng trưởng khoa Sản Phụ với giáo sư Daléas và thầy
Nguyễn Hữu Thuyết, trưởng khoa Nhi với giáo sư Blondel. Cả ba thầy đều được sinh viên gọi bằng "sếp".
Học trò của sếp Thuyết khá đông và còn nhớ mãi cái khoa Nhi bệnh viện Bạch Mai ngăn nắp, sạch sẽ và
thoáng mát. Các bác sĩ, từ giáo sư chủ nhiệm đến nội trú đều mặc một kiểu trang phục dễ nhận ra, có mũ bác
sĩ, túi đựng ống nghe và búa gõ phản xạ. Y tá mặc trang phục trắng có khăn bịt đầu, hộ lý mặc màu xanh lục.
Trong khoa tuân theo một trật tự nghiêm ngặt : Khi bác sĩ hoặc nội trú đi khám bệnh, cô y tá người Pháp
Marcel tháp tùng ghi lại mọi mệnh lệnh điều trị và tưới cồn vào bàn tay người khám bệnh, không phân biệt đó
là giáo sư hay nội trú . Trong giao ban hàng ngày, thường do trưởng khoa lâm sàng chủ trì, nội trú trình bày
diễn biến ở bệnh phòng, bà y tá trưởng Landauer người Pháp gốc Đức báo cáo các vấn đề kỹ thuật (ví dụ cấp
cứu viêm phổi bằng lều dưỡng khí, truyền máu thừa ở rau sản phụ cho trẻ thiếu máu do sốt rét, v.v..).Bà
Minh, y tá phụ trách dược trình sổ thuốc xin chữ ký và cô Marcel báo cáo về các vấn đề dinh dưỡng (như cho
bệnh nhi dùng sữa chua, tiêm nước dừa cho trẻ suy dinh dưỡng, v.v..).
Khi bắt đầu kháng chiến tại Hà Nội, thầy Nguyễn Hữu Thuyết là quân y trưởng Trung đoàn Thủ Đô, có trạm
cứu thương đặt tại phố Hàng Bè. Sau khi rút khỏi Hà Nội, thầy lại làm quân y trưởng Trung Đoàn 72 Bắc
Cạn, mãi tới năm 1952 mới trở lại ngành Nhi rồi được sang Trung Quốc, ở đó, thầy học thêm Trung Y và trở
thành một chuyên gia Nhi khoa về Đông Y cho tới cuối đời.
Năm 1940, phát xít Nhật tấn công Lạng Sơn, hạ đồn Đồng Đăng. Thực dân Pháp quì
gối dâng Đông Dương cho Nhật và từ năm 1943, Đông Dương đã bị lôi kéo vào cuộc
chiến (trong khi nhà cầm quyền thực dân vẫn đứng ngoài cuộc và cổ động cho thống
chế Pétain !). Hà Nội bị không quân Đồng Minh ném bom nhiều lần, tất nhiên mức độ
ác liệt không thể so sánh với những năm chống Mỹ của nhân dân ta nhưng sinh viên
trường Y đã bắt đầu được làm quen với công tác cấp cứu chiến thương, phân loại
nạn nhân để sắp tới sẽ thích ứng rất nhanh trong cuộc kháng chiến trường kỳ
Thời kỳ từ những năm 1940 còn chứng kiến các hoạt động cách mạng trong sinh viên
Y. Hiện nay, rất tiếc là những nhân chứng lịch sử không để lại nhiều hồi ức cho hậu
thế nhưng những gì ta được biết cũng có thể cho thấy hoạt động yêu nước sôi nổi
thời đó. Điển hình nhất là hai nhóm :
Nhóm Lưu Hữu Phước, Mai Văn Bộ, Huỳnh Văn Tiểng với hàng loạt bài "Thanh niên
ca" khơi dạy lòng yêu nước và tự hào dân tộc khi ca ngợi những chiến công ngàn
năm xưa của tổ tiên. Những bài hát này có tính chất kích động rất mạnh. Lớp học sinh
mới lớn tiếp thu được lịch sử oanh liệt của dân tộc qua dạng rất hấp dẫn là các bài
tráng ca. Những chiến thắng Chi Lăng, Bạch đằng, Đống Đa trở nên sống động hơn
bao giờ hết. Có thể nói những bài ca yêu nước của thời kỳ này đã làm sống dạy lòng
tự hào dân tộc, nung nấu ý chí trả thù cho nỗi nhục mất nước hơn 80 năm và thôi
thúc thanh niên sinh viên học sinh lên đường cứu nước.
Nhóm thứ hai đông hơn, với những hoạt động xã hội như cứu đói, khám bệnh cho
đồng bào, quyên góp thuốc men gửi lên chiến khu, gồm nhiều bác sĩ, dược sĩ đã ra
trường như Vũ Văn Cẩn (sau này là Cục trưởng Cục Quân Y, rồi Bộ trưởng Bộ Y Tế),
Lê Văn Chánh, Nguyễn Sĩ Dư, Nguyễn Dương Hồng, Vũ Công Thuyết, các sinh
viên Nguyễn Xuân Bích, Chu Văn Tích, Nguyễn Minh Tâm, v.v... Tuy nhiên cả hai
nhóm này hoạt động không phải với tư cách là một tổ chức của Đại Học Y Dược. Lịch
sử 100 năm của trường không thể nói nhiều về họ.
Trước khi kháng chiến toàn quốc nổ ra, hàng loạt sinh viên Y đã vào quân đội, nổi bật
nhất là các anh Đặng Văn Việt, từ một sinh viên Y trở thành trung đoàn trưởng trung
đoàn 174 nổi tiếng đã dám cả gan với lực lượng bản thân hạ đồn Đông Khê ngày
25.5.1950, trước chiến dịch Biên Giới, làm chính Tổng Tư Lệnh Võ Nguyên Giáp phải
ngạc nhiên (Võ Nguyên Giáp : Đường tới Điện Biên Phủ - NXB Quân Đội Nhân Dân,
1999.- tr 21), anh Nguyễn Kèng trở thành thiếu tướng QĐND Nguyễn Thế Lâm, và
một vinh dự rất lớn nữa cho trường Y là anh sinh viên Cayxỏn Phomvihản sau này trở
thành Tổng bí thư đảng Nhân Dân Cách Mạng và Chủ tịch nước Cộng Hoà Dân Chủ
Nhân Dân Lào.
Tuy ngày 9.3.1945, Nhật đã lật đổ chính quyền thực dân Đông Dương nhưng mọi việc
trong trường Y vẫn tiến hành bình thường. Giáo sư Vũ Công Hoè nhớ lại là Nhật chỉ
đuổi giới cầm quyền và quân đội Pháp nhưng không đụng tới các trí thức dân sự. Vì
vậy, năm 1945 vẫn tổ chức thi tốt nghiệp và bảo vệ luận án.
Có 6 luận án được bảo vệ năm 1945 gồm:
1. Nguyễn Sĩ Dinh: étude clinique du typhus murin à forme épidémique (Nghiên cứu lâm sàng về sốt
Rickettsia mooseri thành dịch)
2. Hồ Văn Huê: Contribution à l' étude du liquide céphalo-rachidien des phylitiques tertiaires cutanés
Annamites (Góp phần nghiên cứu dịch não tủy các bệnh nhân giang mai da thời kỳ thứ ba người Việt Nam)
3. Nguyễn Văn Liêu: étude clinique des accidents cutanés provoqués par le latex des arbres à laque du
Tonkin (Nghiên cứu lâm sàng các tai biến ngoài da do nhựa cây sơn ở Bắc Kỳ).
4. Huỳnh Bá Nhung: La transfusion sanguine dans les anémies infantiles observées au Tonkin (Truyền máu
trong thiếu máu trẻ em ở Bắc Kỳ)
5. Lê Văn Phụng: étude de l' ostéomyélite de l' adolescent et des voies d'accès à la diaphyse humérale
(Nghiên cứu về viêm xương tủy ở thiếu niên và đường vào thân xương cánh tay)
6. Nguyễn Tử Vinh: Contribution à l' étude des maladies chirurgicales du colon droit (Góp phần nghiên cứu
các bệnh ngoại khoa của đại tràng phải)
Sau Cách mạng tháng Tám, Viện Đại học Hà Nội trở về với nhân dân, trường Y Dược
Hà Nội trở thành trường Đại học
Y Dược Việt Nam do giáo sư Hồ Đắc Di làm hiệu
trưởng. Các giáo sư người Pháp đều ra đi nhưng lúc đó, lớp cán bộ giảng dạy
người Việt đã sẵn sàng thay thế trong mọi bộ môn. Kỳ thi tốt nghiệp năm học
1945 - 1946 vẫn mở và Bộ Quốc gia Giáo dục đã cấp bằng tốt nghiệp cho nhiều
người, tuy nhiên, không có luận án nào được trình bày.
Năm học 1946 - 1947 bị trở ngại vì chiến tranh nhưng vẫn có kỳ thi tốt nghiệp ở ngoài
kháng chiến năm 1947.
Khoảng tháng Tư năm 1947, trường Y Dược Đông Dương được tái giảng trong Hà
Nội tạm bị chiếm. Tính chất trường vẫn như xưa, nghĩa là do các giáo sư người Pháp
chủ trì và giảng dạy hoàn toàn bằng tiếng Pháp. Khi đó, giáo sư Huard là hiệu trưởng
kiêm giám đốc bệnh viện Phủ Doãn (tên cũ bệnh viện Bảo hộ đã bị xoá bỏ, sau này,
chính quyền bù nhìn đổi tên thành bệnh viện Yersin).
Dần dà, khung giáo sư được bổ sung thêm 4 giáo sư thạc sĩ người Việt : Phạm Biểu
Tâm (Ngoại khoa, 1949), Đặng Văn Chung (Nội khoa, 1952), Vũ Công Hoè (Giải
phẫu bệnh, 1952) và Nguyễn Hữu (Giải phẫu, 1952) . Cũng năm 1947, một phân
hiệu của trường được mở ở Sài Gòn do giáo sư Massias làm hiệu trưởng. Năm
1949, về danh nghĩa, trường được chuyển giao cho chính quyền bù nhìn nhưng vẫn
do giáo sư Huard làm hiệu trưởng. Lần này có thêm giáo sư Phạm Biểu Tâm được
làm phó hiệu trưởng kiêm phó giám đốc bệnh viện Yersin.
Từ 1947 đến 1954, trường Hà Nội đã tổ chức bảo vệ được 106 luận án (năm cao
nhất là 1952, có 53 luận án) nhưng sau đó, phần lớn bác sĩ đã bị bắt vào quân đội.
Cùng thời gian này, trường Sài Gòn cũng đã tổ chức bảo vệ được 57 luận án trước
khi kết thúc tồn tại của trường Đông Dương cũ.
PHỤ LỤC
Luận án của các giáo sư trường đại học Y Hà Nội bảo vệ trong thời Đông Dương (theo trình tự
thời gian)
1. Nguyễn Xuân Nguyên, 1935: Contribution à l' étude de la mélioidose en Indochine (Góp
phần nghiên cứu bệnh do Pseudomonas pseudomallei ở Đông Dương).
2. Đặng Văn Ngữ, 1936: Contribution à l' étude clinique et étiologique des abcès du foie au
Tonkin (Góp phần nghiên cứu về lâm sàng và bệnh căn các áp xe gan ở Bắc Kỳ).
3. Vũ Công Hoè, 1937: Du suicide dans la société annamite (Vấn đề tự sát trong xã hội Việt
Nam).
4. Nguyễn Ngọc Doãn, 1940: Ascaridiose infantile au Tonkin (Bệnh giun đũa trẻ em ở Bắc
Kỳ).
5. Phạm Khắc Quảng, 1940: Amibiase et cancer (Bệnh amíp và ung thư)
6. Đinh Văn Thắng, 1940: Les épreuves fonctionnelles du rein et la valeur de la glycémie chez
l'Annamite du Tonkin (Các xét nghiệm chức năng thận và trị số đường huyết ở người Việt Nam
Bắc Kỳ)
7. Tôn Thất Tùng, 1940: La vascularisation veineuse du foie et ses applications aux résections
et lobectomies hépatiques (Sự phân bố tĩnh mạch trong gan và các ứng dụng trong cắt gan và
cắt thùy gan).
8. Nguyễn Tấn Gi Trọng, 1941: De l' intérêt de la ponction sternale dans l' étude du paludisme
(Về ích lợi của chọc dò xương ức trong nghiên cứu sốt rét).
9. Đặng Văn Chung, 1944: Les dilatations congénitales de l' artère pulmonaire (Giãn bẩm sinh
động mạch phổi).
10. Nguyễn Trinh Cơ, 1944: Considérations sur le traitement des pleurésies purulentes
aiguởs non tuberculeuses (Nhận xét về việc điều trị các tràn mủ màng phổi không do lao).
11. Đỗ Xuân Hợp, 1944: Recherches sur le système osseux des Annamites (Nghiên cứu về
hệ thống xương người Việt Nam).
12. Trịnh Ngọc Phan, 1944: Contribution à l' étude du traitement chirurgical du goợtre au
Tonkin (Góp phần nghiên cứu về điều trị ngoại khoa bướu giáp ở Bắc Kỳ)
Hồ Chủ Tịch đã đến dự lễ khai giảng Trường đại học và phát bằng tốt nghiệp BS y khoa, nha
khoa, nữ hộ sinh (15-11-1945)
Đại tướng Võ Nguyên Giáp và GS. Trần Hữu Tước với các chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô (2-1947)
Các trí thức trong kháng chiến tại Thanh Thuý (Phúc Thọ) năm 1948.
Từ phải sang trái, các đơn vị: Đinh Văn Thắng, Tôn Thất Tùng, Hồ Đắc Di, Nguyễn Văn Huyên,
Nguyễn Văn Huyên, Đỗ Xuân Hợp, Vũ Văn Cẩn, Nguyễn Trinh Cơ
Hội nghị tổng kết thi đua năm 1952 Trường Đại học Y khoa trong kháng chiến
Từ trái, hàng cuối:
Thứ nhất: GS. Hồ Đắc Di.
Thứ ba: BS Tôn Thất Tùng.
Ban lịch sử Đại học Y Hà Nội
Trường Đại học Dược Hà Nội
Tiền thân là Trường Y khoa Hà nội, được Toàn quyền Đông đương ký nghị định thành
lập ngày 8 tháng 1 năm 1902.
Chương trình học 3 năm đối với khoa Dược. Tốt nghiệp được cấp bằng Dược sỹ Đông
dương (tương đương dược sỹ trung học ngày nay). Khóa tốt nghiệp đầu tiên năm 1917
chỉ có bốn người.
Ngày 22 tháng 4 năm 1924 Toàn quyền Đông dương ký nghị định quy định trường có
nhiệm vụ đào tạo Bác sỹ Y khoa, dược sỹ hạng nhất (Diplôme de Pharmacien 1ére
classe - tương đương dược sỹ đại học ngày nay).
Trước năm 1935 sinh viên năm thứ 5 thi và bảo vệ luận án tốt nghiệp tại Pháp.
Năm 1945 sau Cách mạng tháng Tám, lấy tên là Trường Đại học Y Dược khoa Việt
Nam do Giáo sư Hồ Đắc Di làm hiệu trưởng.
Năm 1947 ban Dược khoa có các khóa trước năm 1945 và năm 1945, khóa 1946, khóa
1947.
Tháng 7 năm 1948 Ban Dược khoa được chuyển cho Cục Quân Y phụ trách được
thành lập lại tại Thái Nguyên (lúc này nhà nước giao đào tạo Dược cho Cục Quân Y).
Trong thời gian kháng chiến 1947-1954 Trường đại học Y Dược Hà nội (tại Hà nội bị
chiếm đóng) đào tạo được 106 bác sỹ và dược sỹ.
Ngày 28 tháng 1 năm 1955 Nghị định 452/ZYO-ND-3 bổ nhiệm Giáo sư Hồ Đắc Di giữ
chức Giám đốc Trường đại học Y Dược khoa, Giáo sư Trương Công Quyền phó Giám
đốc phụ trách Khoa Dược.
Ngày 29 tháng 9 năm 1961 Khoa Dược được tách khỏi Trường đại học Y Dược khoa,
thành lập Đại học Dược khoa do dược sỹ Vũ Công Thuyết làm Hiệu trưởng.
Ngày 11 tháng 9 năm 1985 Bộ trưởng Bộ Y tế ký quyết định số 1004/BYT-QĐ đổi tên
Trường đại học Dược khoa thành TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI, tên này được
giữ cho đến nay.
Y Khoa Đại Học Sài Gòn (1)
Như trên ta đã thấy trường Y Khoa Sài Gòn được thành lập năm 1947 như là một chi
nhánh của YKDHH để đáp ứng nhu cầu của các sinh viên y khoa miền Nam. Cho tới
năm 1954 khi phần lớn sinh viên và ban giảng huấn của YKDHH di tản vào Nam thì
trường chính thức trở thành YKDHS.
Trụ sở chính được đặt tại số 28 Trần Quý Cáp, gồm một căn nhà cao hai tầng dùng
làm văn phòng, thư viện và phòng họp các giáo sư, và 3 căn nhà ngang dùng làm nơi
giảng giạy lý thuyết.
Thành phần ban giảng huấn gồm có:
- Khoa trưởng: GS Charles Massias
- Khoa Nội thương: GS Massias, GS Rivoalen, BS Nguyễn Ngọc Huy, BS Phạm
Tấn Tước, BS Trần Lữ Y
- Khoa Giải Phẫu: GS Trần Quang Đệ, GS Phạm Biểu Tâm, GS Nguyễn Hữu,
GS Trịnh Văn Tuất, BS Đặng
Văn Chiếu, BS Hoàng Tiến Bảo
- Khoa Sản Phụ: GS Trần Đình Đệ, BS Nguyễn Văn Hồng, BS Hồ Trung Dung
- Khoa Nhãn: GS Nguyễn Đình Cát, BS Nguyễn Ngọc Kính
- Khoa Tai Mũi Họng: GS Tissié
- Khoa Mô Học & Bịnh lý học: GS Joyeux, BS Nguyễn Lưu Viên
Trong vòng 4-5 năm, các Giáo sư người Pháp dần dần trở về Pháp và ảnh hưởng
Pháp trong ngành y khoa cũng dần dần suy giảm. Tưởng cũng nên ghi nhận là 1962 là
năm cuối cùng mà văn bằng Y khoa Bác sĩ của trường YKDHS còn được công nhận tại
Pháp.
Các cơ sở thực tập gồm có:
Bịnh viện Chợ Rẫy: Nội Ngoại Khoa, Tai Mũi Họng
Bịnh viện Bình Dân: Ngoại Khoa, Nhãn khoa, Bịnh Ngoài Da, Niệu Khoa, Ung thư
Bịnh viện Nhi Đồng: Nhi Khoa
Bịnh viện Từ Dũ: Sản Phụ Khoa
Bịnh viện Hồng Bàng: bịnh Phổi và Lao
Bịnh viện Chợ Quán: bịnh Truyền nhiễm & Thần kinh
Bịnh viện Saigon: Tai Mũi Họng, Cấp cứu
Bịnh viện Nguyễn Văn Học (khai trương 1967): Nội Ngoại khoa, Sản phụ
Các phòng thực tập khoa học căn bản nằm rải rác trong thành phố như Cơ thể Học
viện (Cơ thể học), BV Saigòn (Hóa học), Viện Pasteur (Vi trùng và Ký sinh trùng). Một
cơ sở riêng biệt tọa lạc gần Cơ thể Học viện được dùng làm nơi thực tập cho các môn
Sinh lý, Cơ thể Bịnh lý và Mô học. Chương trình học dài 6 năm và một năm tiền y khoa
(PCB hoặc SPCN). Số sinh viên trung bình từ 100 tới 120 người một lớp. Sĩ số này
tăng dần cho tới năm 1962 thì trường quyết định giới hạn số sinh viên ở mức 200
người cho năm đầu và các sinh viên phải qua một kỳ thi tuyển. Sinh viên Y khoa và
Dược khoa sử dụng chung trường ốc tại số 28 Trần Quý Cáp cho tới năm 1961 khi
trường Đại học Dược Khoa thành lập với GS Nguyễn Vĩnh Niên là Khoa trưởng. Phân
khoa Nha Khoa, trước là bộ môn Hàm Miệng trong YKDHS, trở thành Đại học Nha
Khoa niên khóa 1964-1965 với GS Trịnh Văn Tuất là Khoa trưởng.
Nếu ta thấy trường YKDHH có một giòng lịch sử tương đối êm đềm, ít biến chuyển thì
nhiều diễn tiến lịch sử quan trọng đã xẩy ra cho YKDHS. Năm 1955, GS Massias về
Pháp và GS Phạm Biểu Tâm lên thay thế, đánh dấu lần đầu tiên trường có một Khoa
trưởng người Việt Nam. Thành phần giảng huấn, tương đối nhỏ lúc ban đầu, dần dần
được tăng cường trong những năm 1954-1956 với :
- GS Trần Ngọc Ninh (Chỉnh Trực, Giải Phẫu Nhi Đồng)
- GS Trần Vỹ (Sinh lý học)
và trong những năm 1960-1963 với các Giáo sư:
- GS Nguyễn Huy Can (Cơ Thể Bịnh lý)
- GS Lê Xuân Chất (Huyết Học)
- GS Đào Đức Hoành (Ung Thư)
- GS Bùi Quốc Hương (Thần kinh)
- GS Nguyễn Ngọc Huy (Tim Học)
- GS Ngô Gia Hy (Niệu Khoa)
- GS Nguyễn Văn Út (Ngoài Da & Hoa liễu).
Trong nỗ lực tăng cường ban giảng huấn, một số nhân viên giảng huấn trẻ đã được
tuyển dụng và gửi qua Pháp theo học các lớp huấn luyện hậu đại học trong những năm
1958-1960. Tuy nhiên một số lớn các vị này đã quyết định ở lại Pháp quốc sau khi huấn
luyện xong làm chương trình bị gián đoạn.
Từ sau 1954, chính phủ Mỹ bắt đầu gia tăng viện trợ cho miền Nam Việt Nam. Chương
trình giáo dục y khoa được chú ý tới và cơ quan USAID được chỉ định nghiên cứu, xây
cất một Trung Tâm Giáo Dục Y Khoa cùng một bịnh viện thực tập 500 giường. Theo
cuốn sách “Saigon Medical School: an Experiment in International Medical Education”
của BS W. Ruhe thì việc xây cất trung tâm này tốn hết 2,500,000 mỹ kim, một số tiền
khá lớn khi mà một ly cà phê giá 5 xu và một gallon xăng giá 20 xu. Một nửa ngân
khoản này do USAID đài thọ và một nửa do ngân sách quốc gia Việt Nam đài thọ. Cùng
với việc xây cất Trung tâm Y khoa, một số nhân viên giảng huấn mới tuyển dụng được
gửi đi Mỹ tu nghiệp, ngắn hạn và dài hạn.
Tới năm 1965 những nhân viên này trở về tăng cường ban giảng huấn, trong số ta thấy
có:
BS Đào Hữu Anh (Cơ thể Bịnh lý),
BS Hoàng Tiến Bảo (Chỉnh trực),
BS Vũ Quí Đài (Vi trùng học),
BS Nguyễn Khắc Minh (Gây mê),
BS Đỗ Thị Nhuận (Ký sinh trùng học),
BS Bùi Duy Tâm (Sinh hóa học).
Đồng thời, cũng trong thời điểm này, ta thấy có một số chuyên viên từ các nước tiếp tục
trở về phục vụ tại YKDHS như :
BS Nguyễn Thế Minh (Nội Khoa, Pháp),
BS Trần Kiêm Thục (Bịnh Tiêu Hóa, Pháp),
BS Trần Thế Nghiệp (Quang Tuyến, Pháp),
BS Lê Dư Khương (Giải Phẫu, Đức),
BS Liễu Thanh Tâm (Quang Tuyến, Pháp)
BS Phó Bá Đa (Giải Phẫu, Mỹ)
BS Nguyễn Ngọc Giệp (Sản-Phụ Khoa, Mỹ).
Tổng số nhân viên giảng huấn cho niên khóa 1967-68 được ghi nhận là 91 người, với
16 Giáo sư Thực thụ, 7 Giáo sư Diễn giảng, 27 Giảng sư và 41 Giảng nghiệm viên.
Đại học Y Khoa Saigon (trước 1964)
Năm 1966, trường YKDHS chính thức dọn về Trung Tâm Giáo Dục Y Khoa tọa lạc trên
đại lộ Hồng Bàng (nay là An Dương Vương). Trung tâm bao gồm cả hai trường Y và
Nha, đầy đủ với đại giảng đường, thư viện, và các khu Khoa học Căn bản cùng với các
phòng thí nghiệm. Dự án xây cất bịnh viện thực tập 500 giường bị lui lại cho tới năm
1972 khi người Mỹ rút khỏi Việt Nam thì hủy bỏ.
Niên khóa 1967-68 là niên khóa đầu tiên tại Trung Tâm Y Khoa mới, đã đánh dấu một
sự cộng tác của chính phủ Mỹ trong công cuộc giáo dục y khoa Việt Nam. Qua sự dàn
xếp của cơ quan USAID, Hiêp Hội Y Khoa Mỹ (American Medical Association) đã mang
các bộ môn chuyên khoa của nhiều trường y khoa Mỹ sang Sài Gòn để trực tiếp yểm
trợ cho các bộ môn của trường YKDHS. Một trong những bộ môn đầu tiên tiếp nhận sự
yểm trợ này là môn Sinh lý học với GS Lilienfield, một GS Mỹ nổi danh. Vì tình trạng
cúp điện liên miên ở Sài Gòn trong những năm 67-68 nên một trong những lớp của GS
Lilienfield đã được tiến hành ngoài trời, bên bờ hồ cạnh thư viện với sinh viên ngồi trên
cỏ và bảng đen dựng bên cây me già. GS Lilienfield có nói với tôi sau lớp học là chưa
bao giờ ông đã được tham dự một buổi giảng giạy lạ lùng và thích thú như vậy. Sự yểm
trợ trực tiếp giữa các bộ môn chuyên khoa Mỹ và Việt Nam qua sự dàn xếp của hiệp
hội AMA kể trên đã được tiếp tục cho tới năm 1975 và đã giúp ích rất nhiều cho công
cuộc tăng cường nhân viên giảng huấn qua những chuyến tu nghiệp ngắn và dài hạn,
cũng như trợ giúp sách vở cho thư viện và dụng cụ cho các phân khu. Nhiều sách y
khoa của Mỹ đã được phóng ảnh (có sự cho phép của nhà xuất bản) để bán cho sinh
viên với một giá rẻ. Đồng thời với việc giảng giạy các bộ môn khoa học, môn ngoại ngữ
cũng được chú trọng: các sinh viên y khoa phải lựa hoặc Anh văn hoặc Pháp văn làm
ngoại ngữ chính và phải trau dồi ngoại ngữ này qua những lớp học hàng tuần.
Sinh viên thực tập tại Bệnh viện Chợ Rẫy, 1970
Kể từ khi Trung Tâm Y Khoa khai trương cho tới năm 1973, tình hình chính trị tại miền
Nam Việt Nam bỗng trở nên sôi động. Không niên học nào mà không bị gián đoạn bởi
những biến cố như biến cố Tết Mậu Thân, bởi những cuộc biểu tình, xuống đường của
sinh viên, và hai cuộc thảm sát các cố Giáo sư Trần Anh và Lê Minh Trí.
Ban lãnh đạo trường YKDHS cũng phải chịu nhận nhiều thay đổi. Khởi đầu là vụ ngưng
chức GS Phạm Biểu Tâm tháng giêng 1967. Một ủy ban 5 người được chỉ định để điều
hành công việc cho tới tháng năm 1967, cuộc bầu cử Khoa trưởng đầu tiên với các
Giảng sư được phép bầu đã tiến hành và GS Ngô Gia Hy cùng GS Vũ Thị Thoa được
bầu lên nắm giữ chức vụ Khoa trưởng và Phó Khoa trưởng. Tháng giêng 1968, biến cố
Tết Mậu Thân xẩy ra, các sinh viên phải đi thực tập quân sự và niên học bị tạm gián
đoạn. Tháng mười một 1968, một cuộc bầu cử Khoa trưởng thứ hai được tổ chức và
các GS Phạm Tấn Tước, Đào Hữu Anh và Nguyễn Phước Đại được bầu vào các chức
vụ Khoa trưởng và Phó Khoa trưởng. Tháng giêng 1969, trong khi tình hình chính trị
tạm lắng đọng, thì GS Lê Minh Trí bị thảm sát, và hai tháng sau đó, tới GS Trần Anh.
Các cuộc biểu tình sinh viên bắt đầu tái diễn, chống kỳ thi tuyển Nội trú và GS Phạm
Tấn Tước từ chức tháng 12 năm 1970. GS Đào Hữu Anh lên giữ chức Quyền Khoa
trưởng cho tới tháng giêng 1972 thì GS Đặng Văn Chiếu được bầu lên chức vụ Khoa
trưởng. Chương trình giảng dạy tại YKDHS được tiếp tục trôi chẩy trong những năm
sau.
Sau đây là danh sách các vị Khoa Trưởng của YKDHS từ 1954 tới 1975:
- 1954-1955: GS Charles Massias
- 1955-1967: GS Phạm Biểu Tâm
- 1967-1969: GS Ngô Gia Hy
- 1969-1970: GS Phạm Tấn Tước
- 1970-1971: GS Đào Hữu Anh
- 1972-1974: GS Đặng Văn Chiếu
- 1974-1975: GS Vũ Quí Đài
Như trên ta đã thấy từ 1962, số sinh viên y khoa được tuyển vào học năm thứ nhất
được giới hạn là 200 người. Chương trình học dài 6 năm và khi ra trường phải trình
bày một luận án. Theo tài liệu của GS Nguyễn Đức Nguyên, thì tổng số luận án được
trình và chấp thuận tại YKDHS từ năm 1947 cho tới năm 1972 là 1779 luận án. Số luận
án từ 1972 tới 1975 là bao nhiêu không rõ vì không có ghi chép trong tài liệu nào. Tuy
nhiên với sĩ số 200 người một lớp, ta có thể đoán phỏng là có vào khoảng trên dưới
600 luận án đã được trình trong thời kỳ đó. Như vậy, tổng số luận án ra trường của
YKDHS từ 1947 cho tới 1975 là vào khoảng 2380 luận án.
GS. Phạm biểu Tâm
GS. Ngô gia Hy
GS. Đào hữu Anh
GS. Đặng văn Chiếu
Đại Học Y Dược Tp. Hồ chí Minh (2012)
Ngày nay, toàn quốc có 14 trường Đại Hoc Y Dược, phân bổ ở miền bắc, miền trung
và miền nam :
. Đai học Y Dược Hà Nội
. Học Viện Quân Y
. Đại Học Y Tế Công Cộng
Hà Nội
. Đai học Y Dược Hải
Phòng
. Đại học Y Thái Nguyên
. Đại Học Y Thái Bình
. Đại Học Điều Dưỡng
Nam Định
. Đại Học Y Dược Huế
. Khoa Y Đai Học Đà Nẵng
. Khoa Y Dược Đại Học
Tây Nguyên
. Đại Học Y Dược Tp. Hồ
chí Minh
. Đại Học Y Dược Phạm
Ngọc Thạch
. Đại Học Y Dược Cần
Thơ . Khoa Y Đại Học
Quốc Gia Tp. Hồ chí Minh
Một số Trường tư đào tạo y dược:
. Khoa Điều Dưỡng Đại Học Thăng Long Hà Nội
. Khối Ngành Khoa Học Sức Khỏe Đại Học Quốc Tế Hồng Bàng với 6 khoa (Y
học cổ truyền, Y, Răng hàm mặt, Dược, Kỹ thuật y học, Vật lý trị liệu)
. Khoa Điều Dưỡng Đại Học Tôn Đức Thắng
. Khoa Điều Dưỡng Đại học Cửu Long
DI SẢN Y TẾ
Viện Pasteur Saigon (13)
Thành lập năm 1891, theo ý tưởng của nhà khoa học Louis Pasteur.
Louis Pasteur
Albert Calmette
Viện Pasteur Sài Gòn là chi nhánh đầu tiên ngoài nước Pháp của Viện Pasteur Paris.
Albert Calmette, một trong những học trò của Louis Pasteur được giao nhiệm vụ thành
lập, tổ chức và điều hành viện đầu tiên. Sau khi tiếp nhận một phòng thí nghiệm đơn sơ
tại Viện Quân y Grall, Albert Calmette đã tiếp nhận những dụng cụ chuyên môn, hóa
chất… từ bên Pháp chuyển sang, đã đào tạo những nhân viên kỹ thuật đầu tiên để khai
triển công việc. Với không đầy 3 năm ở Sài Gòn, ông đã khởi đầu và hoàn thành một
khối lượng công việc đồ sộ, vừa xây dựng cơ sở vừa cải tiến kỹ thuật để làm một số xét
nghiệm chẩn đoán bệnh và sản xuất được vắc xin đậu mùa, vắc xin chống bệnh dại,
nghiên cứu về bệnh lý nhiệt đới, làm men rượu, sản xuất huyết thanh chống nọc rắn hổ
mang. Năm 1893 ông bị bệnh nặng, phải về nước, nhưng ông đã mở đường, đặt sự
nghiệp Pasteur trên một nền tảng vững chắc tại Viện Pasteur Sài Gòn.
Viện Pasteur Nha Trang (11)
Viện Pasteur đầu tiên thiết lập ở Đông Dương là do Bác sĩ Albert Calmette chủ trương
được xây ở Sài Gòn vào Tháng Giêng năm 1891 mang tên "L'Institut Pasteur de
Saigon". Bốn năm sau vào năm 1895 Bác sĩ Alexandre Yersin cho lập thêm chi nhánh
nữa ở Nha Trang. Với 5000 đồng bạc do toàn quyền Đông Dương Chevassieux trợ
cấp, Yersin lập một phòng thí nghiệm đơn sơ tại bờ biển Nha Trang, và cất tại Suối Dầu
một trại nuôi trâu, bò, lừa, ngựa, cùng thỏ, chuột, dùng cho việc thí nghiệm.
Năm 1896, ông được chính phủ biệt phái một viên thú y nhà binh là Pesas đến săn sóc
thú vật. Năm 1896, thống chế Lyantey (lúc bấy giờ là thiếu tá) đến thị sát Nha Trang và
thăm viếng Viện Pasteur. Cũng năm này, Yersin chọn cái lô-cốt hai tầng bỏ hoang gần
xóm Cồn tại cửa Sông Cái để xây nhà ông (Lầu Ông Năm). Theo Đại Nam Nhất Thống
Chí, nơi đây vốn là một đồn biên phòng rất lâu đời. Lầu Ông Năm mỗi bề khoảng 7m50,
có 3 tầng. Mỗi tầng có hành lang rộng bao bọc, có thể đi dọc hành lang để quan sát.
Ông bố trí tầng trệt là phòng ăn, tầng một là phòng làm việc và tầng hai là phòng ngủ.
Về sau, nóc nhà làm thêm một vòng tròn để dựng kính thiên văn. Ông cho làm hai cái
bồ to, có đường kính một mét, trên sơn màu đen. Khi có bão, hai cái bồ được kéo lên
hai cây cột bằng phi lao trên núi Sinh Trung để báo hiệu.
Năm 1897, Bác sĩ Yersin cho nhập nội giống cây cao su vào trồng thí nghiêm ở Suối
Dầu, và sau đó với sự cộng tác của kỹ sư canh nông Vernet, hơn 100 ha cao su được
trồng vào năm 1909. Năm 1915, Bác sĩ Yersin cho trồng thí nghiệm cây kí ninh ở Hòn
Bà để cung cấp thuốc trị sốt rét trong thời Đệ nhất Thế chiến. Bác sĩ Yersin cũng mở
hai trại nuôi bò, một ở đảo Hòn Tre và một ở Suối Dầu. Về sau, bỏ đảo Hòn Tre, và bò
ở Hòn Tre trở thành bò rừng.
Năm 1904, Viện được đổi tên thành Viện Pasteur Nha Trang. Phòng thí nghiệm Yersin
được Chính phủ Pháp ở Đông Dương xây dựng lại trên quy mô lớn, gồm các phòng thí
nghiệm, phòng bào chế thuốc, nhà giải phẫu, chuồng nuôi súc vật, lầu chứa nước, nhà
máy nước đá… Nhiệm vụ của Viện lúc này là sản xuất thuốc, đào tạo cán bộ, nghiên
cứu về bệnh sốt rét và các loại vi trùng, ký sinh trùng gây bệnh cho người, súc vật và
thảo mộc.
Viện Pasteur Hà Nội (14)
Năm 1925 Viện Pasteur Hà Nội, năm 1936 Viện Pasteur Đà Lạt được thành lập. Từ
đây, toàn bộ các Viện Pasteur ở Đông Dương được đặt dưới sự chỉ đạo của Viện
Pasteur Paris để đảm bảo chất lượng và uy tín của các nghiên cứu khoa học. Các Viện
Pasteur Đông Dương bước vào thời kỳ phát triển ổn định, được đánh dấu bằng nhiều
công trình khoa học trong nhiều lĩnh vực. Các nghiên cứu của 2 Viện Pasteur Sài Gòn
(do Ch. Broquet, F. Noc, Denier, Nol Bernard, Bablet, Boez, Mesnard, Marneffe làm
viện trưởng) và Viện Pasteur Hà Nội (do Mesnard, Genevray, Dodero làm viện
trưởng) tập trung vào các bệnh kiết lỵ, dịch hạch, các bệnh có nguồn gốc từ thực phẩm,
bệnh giun chỉ, sốt chấy rận, bệnh phong, đặc biệt là bệnh thổ tảvà bệnh sốt rét là 2
bệnh từ lâu gây hiểm họa đối với vùng Đông Dương, kìm hãm sự phát triển kinh tế của
khu vực. Những nghiên cứu về vi trùng học, ký sinh trùng, côn trùng, sinh hóa của đất
nước và con người Việt Nam được thống kê khá đầy đủ, đây là một di sản quý báu cho
sự nghiệp nghiên cứu vi sinh, dịch tễ về sau.
Viện Pasteur Đà Lạt (7)
Ngày 1 tháng 1 năm 1936, theo đề xuất của bác sỹ Alexandre Yersin, chính quyền
Pháp quyết định thành lập Viện Pasteur Đà Lạt, cơ sở cuối cùng trong chuỗi các Viện
Pasteur tại Đông Dương. Bác sỹ Alexandre Yersin cũng chính là người đã thành lập
Viện Pasteur Nha Trang vào năm 1895 và Viện Pasteur Hà Nội năm 1920. Viện
Pasteur Đà Lạt khi đó có nhiệm vụ nghiên cứu các bệnh nhiệt đới, làm một số xét
nghiệm y tế phục vụ việc bảo vệ sức khỏe cho con người, sản xuất những chế phẩm
sinh học cung cấp cho Viện Pasteur Sài Gòn và kiểm nghiệm nước uống cho địa
phương. Viện Pasteur Đà Lạt còn thành lập một khu trồng cây canh ki na tại xã Xuân
Thọ để khảo nghiệm và sản xuất ký ninh. Trước năm 1975, Viện Pasteur Đà Lạt là một
trong những cơ sở sản xuất thuốc chủng ngừa lớn nhất Đông Nam Á, vì vậy đôi khi
viện còn sản xuất thuốc chủng cho một vài quốc gia khác trong khu vực.
Sau năm 1975, Bộ Y tế Việt Nam quyết định thành lập Trung tâm nghiên cứu và sản
xuất vaccine quốc gia dựa trên ba cơ sở: Viện Pasteur Đà Lạt, Phòng sản xuất của
Viện Pasteur Nha Trang và Phòng sản xuất vaccine của Viện vệ sinh dịch tễ Hà Nội.
Đến năm 1982, Viện Pasteur Đà Lạt được đổi lại thành Phân viện vaccine Đà Lạt, và từ
năm 1986 trở thành cơ sở hai của Viện vaccine quốc gia đóng tại Nha Trang.[4] Năm
2004, Phân viện Vaccine Đà Lạt được Chính phủ Việt Nam đầu tư hơn 5 triệu đô la để
xây dựng và lắp đặt một nhà máy sản xuất vaccine hiện đại có công suất thiết kế 6 triệu
liều/năm, sản xuất các chủng lọai vaccine thế hệ mới theo công nghệ lên men của Hoa
Kỳ. Từ năm 2008, Bộ Y tế quyết định chuyển Phân viện Vaccine Đà Lạt thành Công ty
Vaccine Pasteur Đà Lạt, một đơn vị hạch toán kinh tế tự chủ trực thuộc Bộ Y tế.[5]
Bệnh viện Grall (5)
- Bệnh viện được bắt đầu xây dựng từ 1867 và bắt đầu nhận bệnh từ 1873.
- Ban đầu bệnh viện mang tên Bệnh viện Hải quân, sau đó là Bệnh viện Quân đội,
phục vụ chiến tranh Đông Dương
- Bác sĩ Grall có mặt từ 1905. Bệnh viện mang tên Bệnh viện Grall từ năm 1925.
- Bệnh viện trở thành bệnh viện dân sự với 560 giường bệnh từ năm 1958.
- Bệnh viện được chuyển giao cho chính phủ Việt Nam từ năm 1976.
- Từ 1- 6 - 1978 bệnh viện được giao nhiệm vụ khám và chăm sóc điều trị cho trẻ em và
mang tên Bệnh viện Nhi Đồng 2. Là bệnh viện hạng I, cùng với BV Nhi Đồng 1 phụ trách
điều trị cho bệnh nhân thuộc TP HCM và các tỉnh phía Nam.
- Từ 2-9-2006, bệnh viện đã đưa vào sử dụng khu điều trị mới sau hai năm xây dựng lại
trên nền khu điều trị cũ ( đã sử dụng trên một trăm năm ).
Bệnh viện Chợ Rẫy (16)
Bệnh viện Chợ Rẫy được thành lập vào năm 1900, lúc đó có tên chính thức tiếng Pháp
là Hôpital Municipal de Cholon (Bệnh viện thị xã Chợ Lớn). Bệnh viện này được đổi
tên nhiều lần vào các năm:
1919: Hôpital Indigène de Cochinchine (bệnh viện bản xứ Nam Kỳ)
1938: Hôpital Lalung Bonnaire
1945: Hôpital 415. Sau đó, bệnh viện được tách ra làm hai phòng khám là Hàm
Nghi và Nam Việt.
1957: hai phòng khám này lại sáp nhập vào nhau để trở thành bệnh viện Chợ Rẫy
cho tới ngày nay. Đây đánh dấu thời điểm bệnh viện mang tên Chợ Rẫy. Bệnh viện
Chợ Rẫy ngoài chức năng là cơ sở điều trị còn là trường sở của Trường Đại học
Y khoa Sài Gòn thuộc Viện Đại học Sài Gòn. Chợ Rẫy là bệnh viện thực tập các
môn nội khoa, ngoại khoa, tai-mũi-họng, nhãn khoa cùng là nơi giảng dạy môn cơ
thể học.
1971, Chính phủ Nhật Bản viện trợ không hoàn lại cho chính quyền Việt Nam Cộng
hòa (qua hình thức bồi thường chiến tranh) để tái xây dựng bệnh viện Chợ Rẫy trên
diện tích 53.000 m² cùng với trang thiết bị hiện đại, trở thành một trong những bệnh
viện lớn nhất Đông Nam Á lúc bấy giờ. Công trình được hoàn thành vào tháng sáu
năm 1974 với tòa nhà 11 tầng.
1993–1995: Chính phủ Nhật Bản tiếp tục viện trợ không hoàn lại nâng cấp cơ sở
bệnh viện.
Bệnh viện Chợ Rẫy là một bệnh viện đa khoa, trực thuộc Bộ Y tế Việt Nam, được Bộ Y
tế đầu tư để trở thành bệnh viện đa khoa hoàn chỉnh, và là bệnh viện tuyến sau cùng
của 37 tỉnh, thành phố phía nam, kể cả Thành phố Hồ Chí Minh.
Bệnh viện Phủ Doãn (18)
Ngày 8 tháng 1 năm 1902, Toàn quyền Đông Dương là Paul Doumer ký sắc lệnh thành
lập trường Đại học Y Hà Nội. Năm 1904 bệnh viện thực hành của trường được xây
dựng với tên gọi là Nhà thương bản xứ.
Theo thời gian, bệnh viện mang các tên gọi khác nhau qua từng giai đoạn phát triển:
Nhà thương bản xứ (1904-1906)
Nhà thương bảo hộ (1906-1943)
Bệnh viện Yersin (1943-1954)
Bệnh viện Phủ Doãn (1954-1958)
Bệnh viện Hữu nghị Việt Nam - CHDC Đức (1958-1991)
Bệnh viện Việt Đức (1991 đến nay)
Bệnh viện Việt - Đức ngày nay tọa lạc trên khuôn viên cũ của Nhà thương bản xứ hơn
100 năm trước có diện tích mặt bằng khoảng 30.000 mét vuông giữa trung tâm thủ đô
Hà Nội với 3 mặt giáp đường Tràng Thi, Phủ Doãn, Quán Sứ.
Bệnh viện Việt Đức là tuyến cao nhất của ngành Ngoại khoa miền Bắc, Việt Nam. Với
hơn 150 giáo sư, bác sỹ của bệnh viện và của trường Đại học Y Hà Nội, mỗi năm bệnh
viện tiến hành khoảng 28.000 ca phẫu thuật thuộc nhiều chuyên khoa sâu khác nhau.
Bệnh viện Saint Paul Hà Nội (17)
Bệnh viện Saint Paul (Thánh Phaolô) là một bệnh viện, trung tâm y tế phức hợp tọa lạc
tại trung tâm thủ đô Hà Nội, Việt Nam. Bệnh viện này được thành lập từ chế độ thực
dân Pháp ở Đông Dương (thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20). Theo gốc tích của tên gọi thì
trước đây, nó vốn là Hôtel-Dieu (Nhà Chúa) ở Đông Dương, thuộc Tổng Giáo phận Hà
Nội còn nay thì thuộc Sở Y tế thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Bệnh viện Xanh Pôn là một trong những cơ sở y tế chính yếu tại Hà Nội phục vụ nhân
dân, những người bị tai nạn giao thông và các tai nạn khác và những người bị chấn
thương bên ngoài.
Bệnh viện Bạch Mai (2)
Bệnh viện lây Cống Vọng năm 1911
Cách đây gần một thế kỷ nước ta đang bị thực dân chiếm đóng, nhân dân ta sống trong
cảnh nghèo nàn, lạc hậu, bệnh tật phát triển. Các bệnh truyền nhiễm đặc biệt là bệnh tả
phát triển nhanh. Nhà chức trách Pháp đã có chỉ thị ngày 8/12/1910 cho xây dựng một
cơ sở điều trị dành cho những bệnh nhân bị bệnh lây ở Cống Vọng thuộc tỉnh Hà Đông
lúc bấy giờ ( nay là Hà Nội). Khu này đuợc khởi công xây dựng năm 1911 và đuợc gọi
là Bệnh viện Lây Cống Vọng ( Hôpital des contagieux à Cống Vọng).
Năm 1929 được mở rộng thành một bệnh viện đa khoa mang tên Bệnh viện Robin,
vừa khám chữa bệnh cho người Việt Nam vừa là cơ sở thực hành của Trường Y Dược,
Khoa Đông Dương. Ngày 9-3-1945 sau đảo chính Nhật- Pháp, Bệnh viện chính thức
mang tên là Bệnh viện Bạch Mai.
Trong thời kỳ tạm chiếm, Bệnh viện Bạch Mai đã đuợc tu sửa lại và tiếp nhận bệnh nhân
với các điều kiện khám chữa bệnh thiếu thốn và lạc hậu. Khu điều trị bệnh nhân thần
kinh cũng là nơi giam giữ tù chính trị. Người dân Hà Nội gọi là Nhà thương làm phúc.
Viện Radium (3)
Institut du Radium de L'Indochine đã ra đời tại Hà Nội vào ngày 19 tháng 10 năm
1923 do ông Pièrre Moullin phụ trách.
Kể từ thời điểm đó, Viện Radium Đông Dương đã mang nhiều tên gọi khác nhau như
Viện Radium Đông Dương, Viện Curie Đông Dương, Viện Curie, Viện Ung thư.
Viện Radium Đông Dương vốn là một tổ chức từ thiện, có chức năng nghiên cứu khoa
học và theo đuổi 4 mục đích chính:
1. Xây dựng tại Hà Nội và các tỉnh khác ở Đông Dương các viện điều trị bằng phóng
xạ Radium và tia xạ X (Institut de Radium thérapie et Roentgenthérapie).
2. Theo dõi, nghiên cứu các khối u ác tính tại Đông Dương.
3. Tổ chức một màng lưới các cơ sở chống ung thư.
4. Điều trị những bệnh nhân mắc bệnh ung thư.
Viện Radium lúc đầu hoạt động như một hội, do một vị Chủ tịch đứng đầu. Kể từ khi
thành lập (1923) cho đến năm1945 đã có nhiều người đảm nhiệm chức vụ này như:
Piérre Moullin (1923), Henri Tissot (1926), Le Roy des Barres và Pièrre Huard
(1933), Sauvage, Long (1942) ...
Dưới quyền và giúp việc cho Chủ tịch có Hội đồng quản trị cùng một số nhân viên hành
chính và chuyên môn. Bác sĩ là người Việt chiếm số lượng rất ít như bác sĩ Nguyễn
Đình Hằng, Đặng Vũ Lạc, Nguyễn Văn Diệp... Trong số các bác sĩ và nhân viên người
Pháp, người đứng đầu Viện, thường kiêm nhiệm một vài vị trí khác trong ngành y ở Hà
Nội. Trong một thời gian dài, giám đốc của Viện - Bác sĩ Le Roy des Barres, tiếp đó đến
GS Pièrre Huard vừa làm giám đốc của Bệnh viện Yersin vừa làm giám đốc chuyên môn
của Viện Radium và của trường Đại học Y khoa.
Hoạt động ban đầu của Viện tập trung vào việc khám chữa bệnh hàng ngày cho bệnh
nhân, trường hợp nào cần nằm viện thì đưa qua Bệnh viện Phủ Doãn (lúc đó mang tên
Nhà thương Bảo hộ).
Bệnh viện Phong - Da Liễu Quy Hòa (6)
1929 – 1932: Linh mục Paul Maheure người Pháp, cùng với hơn 30 bệnh nhân phong kéo
về Quy Hòa, như những người đặt viên gạch đầu tiên để xây dựng Bệnh viện Phong - Da liễu
Trung ương Quy Hòa.
1933 – 1944:
- Dòng Phan sinh ở Pháp cử 6 nữ tu đến Quy Hòa để phục vụ bệnh nhân.
- Xây dựng thêm nhà ở và nhà điều trị, mở đường, trồng cây chắn gió biển.
- Tiếp nhận, nuôi dưỡng hơn 500 bệnh nhân, trong đó có nhà thơ Hàn Mặc Tử.
1945 – 1954:
Nhật xâm chiếm Đông Dương, người Pháp trở về nước. Linh mục Nguyễn Xuân Bàn và Huỳnh
Biên được cử về tiếp quản Quy Hòa để chăm lo nuôi dưỡng gần 700 bệnh nhân. Kinh phí do
Ủy ban Kháng chiến khu 5 cấp.
1955 – 1975:
- Các nữ tu dòng Phanxico trở lại Quy Hòa, tiếp tục xây dựng cơ sở hạ tầng và nuôi dưỡng
bệnh nân phong.
- Kinh phí do các nước và các tổ chức của Pháp, Đức, Ý, Nhật, Canada tài trợ.
Bệnh viện Nhi Đồng 1 (4)
Bệnh Viện Nhi Đồng 1 là bệnh viện chuyên khoa Nhi, được xây dựng năm 1954 và
chính thức hoạt động vào tháng 10 năm 1956 với 268 giường bệnh nội trú.
Trải qua 50 năm hoạt động, Bệnh viện ngày càng phát triển vững mạnh. Hiện nay,
chúng tôi tiếp nhận điều trị tất cả các trẻ bệnh từ mới sinh đến 15 tuổi ở Thành phố Hồ
Chí Minh và các tỉnh phía Nam. Khu nội trú có 1200 giường với đầy đủ các chuyên
khoa. Trong giai đoạn hiện nay, Bệnh viện tập trung phát triển chuyên sâu vào các lĩnh
vực sau: Sơ sinh, bệnh nhiễm trùng quan trọng, dị tật bẩm sinh có thể can thiệp hiệu
quả (trong đó có tim bẩm sinh) và hồi sức cấp cứu.Với một tập thể đội ngũ 1400 nhân
viên y tế nhiệt tình có trình độ chuyên môn tay nghề giỏi, cơ sở vật chất trang thiết bị y
tế hiện đại và khu khám và điều trị trong ngày với 47 phòng khám và 6 phòng mổ về
trong ngày có thể phục vụ trên 5000 lượt bệnh nhi mỗi ngày.
Mục tiêu của Bệnh viện là đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân trong môi
trường an toàn và thân thiện, với chất lượng săn sóc cao và đội ngũ nhân viên nhiệt
tình, năng động có trình độ chuyên môn và kỹ năng tương xứng với một bệnh viện
chuyên khoa Nhi đầu ngành của khu vực phía Nam.
Ngày nay, chúng ta
. Duy trì và phát triển hệ thống Viện Pasteur tại Việt Nam
. Lập Viện Sốt Rét-KST- Côn Trùng Trung Ương
. Lập Viện Sốt Rét-KST- Côn Trùng Quy Nhơn
. Lập Viện Sốt Rét-KST- Côn Trùng Tp. Hồ chí Minh
. Tiếp thu và phát triển Viện Vệ Sinh Tp. Hồ chí Minh
65 tỉnh thành có 65 bệnh viện tỉnh, mỗi huyện có bệnh viện huyện. Các thành phố lớn
có hệ thống bệnh viện chuyên khoa (Mắt, Tai Mũi Họng, Da Liễu, Bệnh Nhiệt Đới, Tâm
Thần …)
Các thành phố lớn có bệnh viện tư: Bệnh viện Việt Pháp, Bệnh viện timTâm Đức,
Bệnh Viện An Sinh, Bệnh viện Phú Thọ, Bệnh Viện Hoàn Mỹ, Bệnh viện Tây Đô
Tóm tắt:
kỷ 20.
. Người Pháp đã để lại cho chúng ta một di sản y học và y tế tiên tiến trong thế
. Người Việt nam chúng ta đã tiếp thu trọn vẹn di sản ấy.
. Chúng ta có đủ bản lĩnh để kế thừa và phát huy di sản ấy, nâng cao thành nền
y tế XHCN hiện đại song song với các tiến bộ đương đại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Hữu Anh - Y Khoa Đại Học Saigon Nhìn lại 60 năm lịch sử.
http://ttntt.free.fr/archive/daohuuanh.html
2. Bệnh viện Bạch Mai - Lịch sử hình thành http://bachmai.gov.vn/index.php?option=com_content&task=view&id=90&Itemi
d=54
3. Bệnh viện K – Sự ra đời và hoạt động của Viện radium trong những năm từ
1923 đến 1945 - http://benhvienk.com/gioi-thieu/gioi-thieu-benh-vien-k/lich-suhinh-thanh-va-phat-trien
4. Bệnh viện Nhi Đồng 1 - Bệnh viện Nhi Đồng 1 TP. Hồ Chí Minh http://www.nhidong.org.vn/Default.aspx?SID=2
5. Bệnh viện Nhi Đồng 2 - Lịch sử bệnh viện http://benhviennhi.org.vn/news/detail/2296/lich-su-benh-vien.html
6. Bệnh viện Phong Da Liễu Quy Hòa - Sơ lược sự hình thành và phát triển Bệnh
viên Phong Da liễu Quy Hòa http://www.quyhoandh.org.vn/qh/So-luoc-lich-su-hinh-thanh-va-Phat-trien-BenhVien-Phong-Da-lieu-Trung-uong-Quy-Hoa-t9-250.html
7. DAVAC – Công ty TNHH MTV Văc Xin Pasteur Đà Lạt http://davac.com.vn/gioi-thieu/lich-su-hinh-thanh-phat-trien/14-cong-ty-tnhh-mtvvac-xin-pasteur-da-lat.html
8. Diễn Đàn Sinh Viên Đại Học Y Thái Bình http://sinhvienythaibinh.net/forum/thread-lich-su-y-hoc-co-truyen-viet-nam--2586
9. Trần Viết Ngạc – Khoa cử Nam kỳ dưới triều Nguyễn http://chimviet.free.fr/giaoduc/tranvietngac/tvns062_khoacunamkytrieunguyen.ht
m
10. Roucoules E. - Khảo luận về nền học chính tại Nam Kỳ (Etude sur l'instruction
publique en Cochinchine ). Người dịch : Lại Như Bằng http://chimviet.free.fr/giaoduc/lainhubang/lnb_hocchinhnamky_roucoules.htm#tru
onghocbacky
11. Từ Vũ – Viện Pasteur Nha Trang - http://votanh.fateback.com/pasteur.html
12. Nguyễn Lưu Viên - Vài kỷ niệm của một cựu sinh viên trường thuốc Hà Nội http://chimviet.free.fr/giaoduc/nguyenluuvien/nlvl051.htm
13. Viện Pasteur Tp. Hồ chí Minh - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN http://www.pasteur-hcm.org.vn/gioithieu/tk_phapdoho.htm
14. Viện Vệ Sinh Dịch Tễ Trung Ương – Những mốc lịch sử của Viện http://www.nihe.org.vn/itemsname-vn/lich-su-hinh-thanh.vhtm
15. Viện Pasteur Tp. Hồ chí Minh - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VIỆN PASTEUR TP.
HỒ CHÍ MINH - http://www.pasteur-hcm.org.vn/gioithieu/lichsuhinhthanh.htm
16. Wikipedia – Bệnh viện Chợ Rẫy http://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%87nh_vi%E1%BB%87n_Ch%E1%BB%A
3_R%E1%BA%ABy
17. Wikipedia – Bệnh viện Đa Khoa Xanh Pôn http://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%87nh_vi%E1%BB%87n_%C4%91a_khoa
_Xanh_P%C3%B4n
18. Wikipedia – Bệnh viện Việt Đức http://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%87nh_vi%E1%BB%87n_Vi%E1%BB%87t
_%C4%90%E1%BB%A9c
19. Wikipedia – Trường Đại Học Y Nà Nội http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng_%C4%90%E1%BA%A1i
_h%E1%BB%8Dc_Y_H%C3%A0_N%E1%BB%99i
20. Wikipedia - Viện Pasteur Nha Trang http://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87n_Pasteur_Nha_Trang
- Xem thêm -