TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA SƯ PHẠM
BỘ MÔN NGỮ VĂN
-----------
TRƯƠNG THỊ THANH NGUYÊN
KHẢO SÁT PHƯƠNG TIỆN BIỂU THỊ Ý NGHĨA TÌNH
THÁI CỦA CÂU TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO
Luận văn tốt nghiệp Đại học
Ngành Sư phạm Ngữ Văn
Cán bộ hướng dẫn: NGUYỄN THỊ NGỌC ĐIỆP
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ lúc được cắp sách đến trường tôi luôn bị thu hút bởi những câu ca hay, những vần
thơ đẹp. Tôi xuýt xoa và tự hào về Tiếng Việt của mình. Tôi cảm nhận được rằng Tiếng
nước mình sao giàu đẹp đến thế. Nó là nguồn công cụ vô tận để tôi vẽ nên quê hương của
tôi, để tôi bày tỏ và trao lời yêu thương đến những người xung quanh. Trong đôi mắt ngây
thơ và sự hiểu biết nhỏ bé của mình ngôn ngữ gắn liền với lời ăn tiếng nói, với những câu ca
dao mượt mà hay khoa học hơn là những câu với cấu trúc chủ-vị giản đơn. Nhưng khi đã trở
thành một sinh viên ngành sư phạm Ngữ văn, tôi đã được tìm hiểu sâu hơn ở hai lĩnh vực
Ngữ và Văn. Tôi hiểu rằng tiếng Việt không chỉ giàu và đẹp mà còn vô cùng phức tạp. Dân
gian có câu nói vui để ví von sự phức tạp đó “phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt
Nam”. Bốn năm đại học là bốn năm được trải nghiệm thật nhiều điều đã giúp tôi cảm nhận
đầy đủ hơn câu nói dân gian ấy khi tìm hiểu ngôn ngữ và đặc biệt là ngữ pháp.
Trong đời sống hàng ngày, khi ta nói ra một câu hay một vấn đề nào đó, ta cảm thấy
thật dễ dàng. Nhưng đi sâu vào nghiên cứu lĩnh vực ngôn ngữ ta mới thấy rằng câu và ý
nghĩa của câu là một vấn đề vô cùng phức tạp.Từ ngữ pháp học truyền thống cho đến sự ra
đời của ngữ pháp văn bản, quan niệm về câu không còn là khái niệm xa lạ nhưng nó vẫn là
đề tài thú vị thu hút đối với những ai yêu thích việc nghiên cứu ngôn ngữ. Trong một lần
tình cờ đọc quyển sách có viết về vấn đề nghĩa của câu tôi bắt gặp một nhận định rất hay
của Panfilov rằng: “không có phạm trù nào mà bản chất ngôn ngữ học và thành phần các ý
nghĩa bộ phận lại gây ra nhiều ý kiến khác biệt và đối lập nhau như phạm trù tính tình
thái”. Nhận xét này đã khơi gợi cho tôi lòng ham muốn được tìm hiểu vấn đề tính tình thái.
Chính vì vậy đề tài “Khảo sát các phương tiện biểu thị ý nghĩa tình thái của câu trong truyện
ngắn của Nam Cao” thật sự hấp dẫn tôi ngay từ ban đầu và tôi lựa chọn.
Bên cạnh đó, tác giả Nam Cao là một người nghệ sĩ sáng tạo, tài năng, có những
cống hiến giá trị cho dòng văn học hiện thực 1930-1945. Đã có nhiều công trình viết về tác
gia và tác phẩm Nam Cao trên phương diện nội dung và nghệ thuật. Nhưng vấn đề tìm hiểu
các phương tiện biểu thị ý nghĩa tình thái của câu trong tác phẩm Nam Cao vẫn còn khá mới
mẻ. Đây cũng là một lí do để tôi chọn đề tài này với mong muốn được khám phá, mở rộng
kiến thức ngữ pháp. Và đặc biệt là vận dụng lí thuyết này vào việc lĩnh hội và khám phá giá
trị nghệ thuật của tác phẩm văn học.
2. Lịch sử vấn đề
Nghiên cứu đề tài “Khảo sát các phương tiện biểu thị ý nghĩa tình thái của câu trong
truyện ngắn Nam Cao” là một công việc khá mới mẻ. Tuy nhiên, việc nghiên cứu các
phương tiện biểu thị ý nghĩa tình thái trong ngữ pháp tiếng Việt và nghiên cứu truyện ngắn
Nam Cao đã có rất nhiều tác giả nói đến.
Nghĩa tình thái của câu là một phạm trù thuộc vấn đề nghĩa của câu. Vào khoảng
thập niên 30 nhà ngôn ngữ học người Pháp Tesniere có bàn đến vai nghĩa trong cấu trúc
nghĩa của câu. Ông cho rằng “cấu trúc cú pháp của câu xoay xung quanh vị từ và các diễn
tố làm bổ ngữ cho nó. Vị từ này quy định cao tham tố tham gia vào cấu trúc nghĩa, nó do
nghĩa từ vựng tạo ra…” [12, tr.81]. Nhưng ý kiến này vẫn chưa thỏa đáng, câu là một đơn
vị được xây dựng từ một tiếng đến một tổ hợp từ hoặc tập hợp các tổ hợp từ. Nếu nghĩa của
câu do nghĩa từ vựng tạo ra thì đó sẽ là những nghĩa rời rạc. Ở Việt Nam vào thập niên 80,
xuất hiện công trình “Tiếng Việt, sơ thảo ngữ pháp chức năng” của Cao Xuân Hạo. Công
trình này đã thể hiện cách nhìn nhận về câu và nghĩa của câu một cách thấu đáo hơn. Cao
Xuân Hạo cho rằng “Câu là một hoạt động ngôn ngữ diễn đạt một hoạt động tư duy khác
với các đơn vị ngôn ngữ có nghĩa khác…” và “nghĩa của câu không đơn giản là một phép
cộng nghĩa của các từ ngữ trong câu. Nghĩa của câu là một cấu trúc nhiều tầng…”. Để tìm
ra được nghĩa của câu ta cần đặt trong nhiều mối quan hệ. Ngoài ý nghĩa câu đem lại, câu
còn chứa đựng những thành phần biểu đạt thái độ của người nói đối với sự tình được nói
đến trong câu. Cao Xuân Hạo cho vấn đề này là “thuộc lĩnh vực tình thái” và “đó là một
phần quan trọng của bình diện nghĩa học”. Ý nghĩa tình thái của câu được biểu thị qua
nhiều phương tiện.
Các tác giả khi viết về từ loại có đề cập đến phương tiện biểu thị tình thái dùng nhiều
thuật ngữ khác nhau. Vấn đề này, tác giả Nguyễn Minh Thuyết nhận xét “Trong nghiên cứu
tiếng Việt khi phân định và mô tả các từ loại nhà nghiên cứu thường trình bày một cách sơ
lược một lớp từ chuyên biểu thị tình thái câu. Lớp từ này thường được gọi tên là “tiểu từ kết
thúc”, “trợ ngữ từ”, “trợ từ”, “ngữ khí từ”, “tiểu từ tình thái”, “tình thái từ”..”
[17,tr.263].
Ngữ pháp truyền thống thường chia các từ tình thái thành hai từ loại là trợ từ và thán
từ.
Tác giả Diệp Quang Ban trong quyển “Ngữ pháp tiếng Việt” (tập 1), quan niệm trợ
từ dùng trong câu biểu thị ý nghĩa tình thái bằng cách nhấn mạnh vào từ, kết hợp từ có nội
dung phản ánh liên quan với thực tại mà người nói muốn lưu ý người nghe.
Trong quyển “Ngữ pháp tiếng Việt-từ loại”, Đinh Văn Đức cho rằng: “tình thái từ
cần phải được xếp riêng thành một phạm trù […] phạm trù này chỉ bao hàm hai tập hợp
nhỏ: tiểu từ và trợ từ.”.
Nguyễn Hữu Quỳnh trong quyển “Ngữ pháp tiếng Việt” đưa ra khái niệm: “trợ từ là
từ chuyên dụng để nhấn mạnh thêm nghĩa của câu hoặc nhấn mạnh thêm nghĩa của từ và
của câu hoặc dùng để biểu thị thái độ của người nói”. Tác giả khẳng định: “trợ từ thuộc
tình thái từ” [16,tr.178]. Còn thán từ là từ dùng làm tiếng gọi, tiếng đáp, tiếng than hay làm
dấu hiệu biểu thị cảm xúc của con người.
Có thể nói cách gọi các phương tiện biểu thị tình thái vẫn chưa được thống nhất trong
quan điểm của các tác giả.
Về phía các tác giả trong nước cũng có nhiều quan niệm về phương tiện biểu thị ý
nghĩa tình thái rất khác nhau.
Trong quyển “Tuyển tập ngôn ngữ học” Hoàng Tuệ cho rằng các phương tiện biểu
thị tình thái tựu trung có những loại chính:
+ Những phương tiện ngữ pháp được gắn với vị ngữ.
+ Những phương tiện từ vựng được dùng không gắn với vị ngữ mà ở ngoài cấu trúc
của vị ngữ.
+ Kiểu câu thường được coi là câu ghép nhưng thành phần chính ở kiểu câu này biểu
thị tình thái còn thành phần phụ biểu thị nội dung cốt lõi của câu.
Tác giả Phạm Hùng Việt trong bài viết “Vấn đề tình thái với việc xem xét chức năng
ngữ nghĩa của trợ từ tiếng Việt”, xác định rằng để biểu thị ý nghĩa tình thái của câu cần có
các phương tiện như: phương tiện ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng…
Theo tác giả Cao Xuân Hạo có ba loại tình thái: tình thái của hành động phát ngôn,
tình thái vị ngữ và tình thái của câu. Phương tiện biểu thị ý nghĩa tình thái của câu sẽ bao
gồm:
+ Những yếu tố tình thái làm thành đề của câu.
+ Những yếu tố tình thái được xử lí như một phần thuyết.
+ Những yếu tố tình thái khác.
Nhìn chung, vấn đề tình thái và phương tiện biểu thị ý nghĩa tình thái của câu chưa
được xem xét thỏa đáng và thống nhất. Các tác giả chỉ đề cập sơ bộ và phân tích chưa sâu
sắc. Như tác giả Hoàng Trọng Phiến nhận xét: “Đối với tiếng Việt các phương tiện biểu
hiện tình thái chưa được nghiên cứu sâu sắc và toàn diện” [15,tr.33]. Tuy nhiên các tác giả
vẫn công nhận rằng: ý nghĩa tình thái và phương tiện biểu thị ý nghĩa tình thái là vấn đề thú
vị và có vai trò quan trọng làm nên sự phong phú, giàu đẹp của Tiếng Việt.
Về truyện ngắn Nam Cao, tuy thời gian sáng tác của ông không dài nhưng Nam Cao
đã để lại nhiều tác phẩm văn chương có giá trị về nội dung tư tưởng và nghệ thuật độc đáo.
Mỗi tác phẩm của Nam Cao đều chứa đựng tư tưởng nhân đạo hết sức lớn lao, cao
cả. Điều đó đã tạo nên sức hấp dẫn trong truyện ngắn Nam Cao và thu hút nhiều công trình
nghiên cứu, sách báo viết về Nam Cao với phương diện cả về nội dung tư tưởng lẫn hình
thức nghệ thuật, tiêu biểu như:
-
“Nam Cao-một đời người, một đời văn” của Nguyễn Văn Hạnh.
-
“Nam Cao - phác thảo sự nghiệp và chân dung” của Phong Lê.
-
“Nam cao đời người và tác phẩm” của Hà Minh Đức.
-
“Lời giới thiệu tác phẩm Nam Cao” của Hà Minh Đức
-
“Nhà văn tư tưởng và phong cách” của Nguyễn Đăng Mạnh
-
“Nam Cao nhà văn hiện thực xuất sắc” của Hà Minh Đức
Các công trình nghiên cứu trên đều nghiên cứu tác phẩm ở hai phương diện: nội dung
và nghệ thuật. Riêng về nghệ thuật, các công trình xoay quanh những khía cạnh như:
phương pháp xây dựng nhân vật, thời gian và không gian nghệ thuật, lối văn kể chuyện…
Riêng về việc khảo sát các phương tiện biểu thị ý nghĩa tình thái trong truyện ngắn Nam
Cao chưa được đề cập đến.
Như vậy, đề tài “Khảo sát các phương tiện biểu thị ý nghĩa tình thái của câu trong
truyện ngắn Nam Cao” là một đề tài khá mới mẻ. Các công trình nghiên cứu của các tác giả
nêu trên sẽ là nguồn tư liệu vô cùng bổ ích cho việc định hướng của luận văn.
3. Mục đích nghiên cứu
Chọn đề tài “Khảo sát các phương tiện biểu thị ý nghĩa tình thái của câu trong truyện
ngắn Nam Cao”, chúng tôi trước hết hệ thống hóa lịch sử vấn đề, lí thuyết về các phương
tiện biểu thị ý nghĩa tình thái nói chung của câu tiếng Việt. bước đầu khảo sát một số
phương tiện biểu thị ý nghĩa tình thái trong truyện ngắn Nam Cao. Đồng thời chỉ ra những
giá trị của việc sử dụng các phương tiện biểu thị ý nghĩa tình thái đó trong truyện ngắn của
Nam Cao.
Bên cạnh đó, qua việc thực hiện đề tài này người viết muốn củng cố thêm kiến thức
của mình về nghĩa của câu. Mặt khác, bước đầu thử vận dụng những kiến thức ngữ pháp về
câu vào việc tìm hiểu, khám phá giá trị nghệ thuật của tác phẩm văn học. Từ đó, thu thập
thêm nhiều kiến thức và kinh nghiệm cho việc giảng dạy sau này.
4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài luận văn này có đối tượng nghiên cứu là các phương tiện biểu thị ý nghĩa tình
thái trong truyện ngắn Nam Cao. Ý nghĩa tình thái của câu là một phạm trù mới và phức tạp
được biểu hiện qua nhiều phương tiện: ngữ điệu, ngữ pháp, từ vựng… Tuy nhiên trong luận
văn của mình, người viết chỉ đề cập đến phương tiện từ vựng, cụ thể là các từ, tổ hợp từ đặt
ở đầu và cuối câu có chức năng biểu thị ý nghĩa tình thái. Do đó người viết sẽ triển khai
những tài liệu nghiên cứu ngữ pháp có đề cập đến từ ngữ biểu thị ý nghĩa tình thái của câu.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn này, người viết đã tổng hợp, so sánh đối chiếu các quan điểm
của một số tác giả về các phương tiện biểu thị ý nghĩa tình thái và chọn lọc những truyện
ngắn tiêu biểu của Nam Cao để khảo sát. Người viết dùng phương pháp thống kê, phân tích
để khảo sát các phương tiện biểu thị ý nghĩa tình thái của câu trong truyện ngắn Nam Cao.
Người viết sẽ phân tích và chỉ ra giá trị của các phương tiện đó và những nét đặc sắc của
Nam Cao trong việc sử dụng ngôn từ và xây dựng cấu trúc câu.
CHƯƠNG 1
VÀI NÉT VỀ PHƯƠNG TIỆN BIỂU THỊ Ý NGHĨA TÌNH
THÁI TRONG CÂU TIẾNG VIỆT
1.1 Khái niệm tình thái
Khái niệm tình thái tương ứng với modalité, modality biểu thị một khái niệm về cấu
trúc ngữ nghĩa của câu. Tuy nhiên khái niệm này được hiểu theo nhiều cách khác nhau và
chưa có sự thống nhất.
Các tác giả nước ngoài có những khái niệm sau:
Tác giả Lyons cho rằng tình thái là “thái độ của người nói đối với nội dung mệnh đề
mà câu biểu thị hay tình trạng mà mệnh đề đó miêu tả” [17,tr.255].
Theo Palmer “tình thái là thông tin ngữ nghĩa của câu thể hiện thái độ hoặc ý kiến
của người nói đối với điều được nói ra”. Từ khái niệm này Palmer chủ trương phân biệt
trong câu “những yếu tố biểu thị tình thái với những yếu tố biểu thị mệnh đề” [17,tr.255].
Tuy nhiên, Bybee lại hiểu tình thái theo nghĩa rộng hơn rằng tình thái là “tất cả
những gì mà người nói muốn thể hiện cùng với toàn bộ nội dung mệnh đề” [17,tr.255].
Còn Charles Bally định nghĩa “tình thái là thái độ của người nói được biểu thị đối
với sự việc hay trạng thái được diễn đạt trong câu”.
Đối với các nhà ngôn ngữ học Châu Âu tình thái được nghiên cứu trong mối quan hệ
với thức (mood). Tuy nhiên, theo Frawley cho rằng cần phân biệt hai khái niệm tình thái và
thức: “tình thái là một hiện tượng thuộc về phạm trù ngữ nghĩa của câu, còn thức là một
hiện tượng ngữ pháp” [17,tr.255].
Khái niệm tình thái được các nhà ngôn ngữ nước ngoài hình dung với những diện
mạo khác nhau và chưa có sự thống nhất. Với các nhà ngôn ngữ Việt Nam quan niệm này
được thể hiện qua những nghiên cứu của ngữ pháp chức năng, cụ thể là ở chủ trương phân
biệt nhiều bậc tình thái khác nhau trong câu.
Trong “Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học”, Nguyễn Như Ý định nghĩa rằng: “tình
thái-phạm trù ngữ pháp, ngữ nghĩa biểu thị quan hệ của người nói với phát ngôn và quan
hệ của nội dung phát ngôn với hiện thực khách quan…” [22,tr.296-297].
Theo Nguyễn Hữu Quỳnh trong “Ngữ Pháp Tiếng Việt” thì “tình thái là sự biểu thị
về thái độ và ý thức hay sự biểu cảm nào đó của con người đối với nội dung câu…”
[16,tr.208].
Hoàng Tuệ thì quan niệm rằng: “tình thái là một khái niệm trong sự phân tích ngữ
nghĩa câu, sự phân tích theo cách nhìn tìm đến thái độ của người nói trong hành động phát
ngôn, tức cũng là tìm đến các hành động ngôn ngữ trong thực tiễn hoạt động ngôn ngữ.” và
“trong logic học, nội dung của một mệnh đề được chia ra làm hai phần. Phần thứ nhất gọi
là ngôn liệu…phần thứ hai gọi là tình thái, là cách thể hiện mối quan hệ ấy cho biết mối
quan hệ ấy có thật hay là không, là tất yếu hay là không tất yếu, là có thể có được hay
không thể có được…” [19,tr.742].
Nhìn chung, ta có thể thấy rằng quan điểm của các tác giả về khái niệm tình thái vẫn
chưa có sự thống nhất. Ta có thể mượn lời Panfilov để nhận xét điều này rằng: “không có
phạm trù nào mà bản chất ngôn ngữ học và thành phần các ý nghĩa bộ phận gây nhiều ý
kiến khác biệt và đối lập như phạm trù tình thái”. Tuy nhiên ta có thể thấy phần lớn các
quan điểm của các tác giả là tình thái thuộc về nghĩa của câu. Tình thái là sự biểu đạt thái độ
của người nói đối với sự tình được nói trong câu và hướng điều này đến người tiếp nhận.
1.2 Các loại tình thái
Việc phân chia các loại tình thái như thế nào vẫn còn là vấn đề bỏ ngõ với nhiều
quan niệm khác nhau của các tác giả.
Lypons phân biệt thành hai loại tình thái khách quan và chủ quan.
Trong phạm vi tình thái chủ quan các nhà nghiên cứu phân biệt thành hai phạm trù
chính là tình thái nhận thức (epistemic modality) và tình thái đạo nghĩa (deontic modality).
Palmer giải thích vấn đề này như sau:
“Khái niệm tình thái nhận thức không chỉ liên quan đến tính khả năng hay tính tất
yếu mà còn liên quan đến mức độ cam kết của người nói đối với điều anh ta nói. Thuật ngữ
này được dùng với nghĩa rộng hơn so với nghĩa thông thường về mặt từ nguyên là được
phái sinh từ tiếng Hi Lạp có nghĩa là”hiểu” hay “biết” (hơn là xác tín) nhưng đã thay đổi
nội hàm khá nhiều và cần được xem là dùng để chỉ ra vị thế (status) hiểu hay biết của người
nói và rõ ràng là bao gồm cả sự xác nhận cá nhân cũng như đảm bảo của người nói về điều
anh ta nói ra” [17,tr.256].
“Tình thái đạo nghĩa lại liên quan đến tính hợp thức về đạo lí của hành động do một
người nào đó hay do chính người nói thực hiện” [17,tr.256].
Lyons lại cho rằng “tình thái đạo nghĩa liên quan đến tính tất yếu hay tính có thể của
hành vi được thực hiện bởi một chủ thể có trách nhiệm về đạo đức.” [17,tr.256].
Các nhà ngôn ngữ học Việt Nam cũng có những quan điểm riêng của mình về vấn đề
phân loại tình thái.
Theo Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp thì “Trước hết cần phân biệt tình
thái khách quan và tình thái chủ quan […] Các phạm trù thuộc tình thái khách quan được
logic học quan tâm hơn cả là tính tất yếu, tính khả năng và tính hiện thực của nội dung
mệnh đề. Tính tình thái khách quan trong logic loại trừ vai trò của người nói […] ngôn ngữ
học lại chủ yếu quan tâm đến tình thái chủ quan và xác định tình thái là bộ phận thuộc nội
dung ngữ nghĩa học của câu…” [17,tr.254].
Hai tác giả này ít nhiều chịu ảnh hưởng quan niệm cho rằng tình thái có hai loại là
tình thái khách quan và tình thái chủ quan.
Trong “Tuyển tập ngôn ngữ học”, Hoàng Tuệ cho rằng: “tình thái hiện ra tương đối
rõ: đó là “tình thái hiển ngôn” (explicite). Nhưng cũng có khi tình thái hiện ra không với
phương tiện riêng mà nhờ các yếu tố ngôn bản, đó là “tình thái không hiển ngôn” (hoặc
hàm ngôn” – Implicite)” [19,tr.740].
Khi nghiên cứu câu tiếng Việt, Cao Xuân Hạo cho rằng: “tình thái có ba loại: tình
thái của hành động phát ngôn thuộc lĩnh vực dụng pháp của câu, tình thái của vị ngữ khảo
sát trong ngữ đọan vị từ. Còn tình thái của câu hay ý nghĩa “lập trường” sẽ được biểu thị
trong cấu trúc cú pháp cơ bản” [17,tr.259].
Theo tác giả này thì các loại tình thái trên được xem xét tương ứng với các cách hiểu
sau đây:
+ Nhận định của người nói về về giá trị chân ngụy của điều được truyền đạt
trong câu (khẳng định, phủ nhận, ngờ vực, nêu rõ giới hạn và điều kiện của tính chân lí).
+ Về tính khả năng hay tính tất yếu của điều đó (có thể hay không thể có, tất
nhiên hay không tất nhiên, mức độ cao hay thấp của tính khả năng hay tính tất yếu).
+ Cách đánh giá của người nói đối với sự tình được truyền đạt (đáng mừng
hay đáng tiếc, đáng hy vọng hay đáng e ngại,… nên có hay không nên có,…).
+ Sự giới thiệu của người nói về tính chất của câu nói (tính chất thành thật,
tính đơn giản, tính áng chừng, tính chính xác…).
+ Mối liên hệ giữa câu nói và tình huống đối thoại hay với ngôn cảnh và nhiều
nội dung khác thuộc các lĩnh vực của logic hoặc siêu ngôn ngữ.
Từ các cách lí giải khác nhau đó, chúng tôi nhận thấy rằng giữa hai loại tình thái
khách quan và tình thái chủ quan thì ngôn ngữ học chủ yếu quan tâm đến tình thái chủ quan.
Vì tình thái chủ quan được các tác giả Việt ngữ học xác định là bộ phận thuộc nội dung
nghĩa của câu.
Tóm lại, việc phân loại tình thái còn rất nhiều quan điểm và ý kiến khác nhau. Sự
chưa thống nhất này đã tạo cho tính tình thái sự phức tạp nhưng không kém phần thú vị, hấp
dẫn.
1.3 Ý nghĩa tình thái
Ở phần lịch sử vấn đề, chúng tôi đã đề cập đến một phần nội dung cho rằng ý nghĩa
tình thái là phạm trù thuộc về nghĩa của câu. Nghĩa của câu là một vấn đề phức tạp và tồn
tại nhiều tranh luận. Ý nghĩa tình thái của câu được các tác giả đề cập ở một mức độ tương
đối.
Trên lập trường ngữ pháp chức năng, Đỗ Hữu Châu và Bùi Minh Toán cho rằng
nghĩa của câu thường được bao hàm bởi hai phần: “nghĩa biểu hiện (hay nghĩa miêu tả,
nghĩa sự vật) và nghĩa tình thái.”. Hai tác giả chỉ rõ: “nghĩa biểu hiện là thành phần nghĩa
của câu phản ánh một sự tình (hay một sự thể - state of affairs) nào đó của hiện thực. Mỗi
sự tình có một cấu trúc bao gồm một cái lõi cùng với các yếu tố tham gia vào sự tình. Cái
lõi của sự tình (hay chính là nội dung của sự việc) được biểu hiện bằng một vị từ, còn các
yếu tố tham dự vào sự tình là cái tham tố (hay tham thể - participante) của nó. Vị từ của các
tham tố tạo nên cấu trúc sự tình. Còn tình thái là một khái niệm phức tạp trong bình diện
nghĩa câu” [3, tr.47-52].
Tác giả Hồ Lê phân biệt ý nghĩa của phát ngôn và nội dung của phát ngôn:
+ Ý nghĩa của phát ngôn = nội dung phản ánh của phát ngôn = sự kiện + tình
thái.
+ Ý tưởng được diễn đạt = nội dung toàn vẹn của phát ngôn = tiền giả định +
ý nghĩa của phát ngôn.
Tác giả này cho rằng “nghĩa của phát ngôn tương đương với “sự kiện” trong phát
ngôn”, “ý của phát ngôn thì tương đương với “tình thái” trong phát ngôn”. [12,tr.50].
Theo tác giả Hoàng Phê trong “Logic ngôn ngữ học” thì “Nội dung ngữ nghĩa của
câu/ lời cần được nghiên cứu trong quan hệ nhiều mặt, không những trong quan hệ cấu trúc
nội tại mà còn trong quan hệ với nhận thức và với những yếu tố của chu cảnh (tạm dịch
context): chu cảnh ngôn ngữ (ngữ cảnh) và chu cảnh tình huống (ngôn cảnh)” [14,tr.2]
Trong “Tiếng Việt, sơ thảo ngữ pháp chức năng”, tác giả Cao Xuân Hạo cho rằng:
“nghĩa là cái điều được truyền đạt trong lời nói. Nó có phần độc lập đối với mục đích và
tác dụng của hành động nói năng, vì cái mục đích và cái tác dụng ấy có thể được thực hiện
bằng nhiều cách. Trong đó có cả những cách hành động không phải bằng ngôn từ”
[11,tr.18]. Khi đề cập đến cấu trúc nghĩa của câu, tác giả này cho rằng: “phần lớn các tác
giả Phương Tây đều quan niệm nội dung của bình diện nghĩa của câu (và nghĩa của ngôn
ngữ) là cái phần phản ánh (biểu hiện, miêu tả) những cái mảng của thế giới hiện thực (hay
một thế giới nào khác ở bên ngoài ngôn ngữ)”
Song song bên cạnh đó, nhiều tác giả khác quan niệm rằng nghĩa của câu còn có
những mặt khác: nghĩa hàm ẩn, nghĩa tường minh…
Trong các công trình nghiện cứu này, ta thấy còn tồn tại nhiều vấn đề, nhiều quan
điểm chưa có sự nhất trí cao. Trong đó có một số tác giả đề cập đến ý nghĩa tình thái của
câu. Ý nghĩa tình thái được một số tác giả quan niệm như sau:
Trong “Tiếng việt tập 3”, Bùi Minh Toán và Nguyễn Ngọc San cho rằng nghĩa tình
thái là: “nghĩa biểu hiện thái độ và tình cảm của người nói bao gồm rất nhiều sắc thái tinh
vi, tế nhị. Nó có thể được biểu hiện một cách tường minh bằng các từ ngữ hoặc ngữ điệu khi
nói, nhưng có thể chỉ được ngụ ý một cách hàm ẩn. Đồng thời, nghĩa này luôn gắn bó với
hoàn cảnh giao tiếp với ngữ cảnh” [18,tr.78]. Trên cơ sở đó, hai tác giả chỉ ra nghĩa tình
thái của câu bao gồm: thái độ của người nói đối với điều được nói đến trong câu (sự việc
trong hiện thực) và thái độ của người nói đối với người nghe.
Còn trong “Chuyên đề ngữ nghĩa học”, tác giả Phan Mậu Cảnh quan niệm ý nghĩa
tình thái (còn gọi là nghĩa biểu lộ, nghĩa liên nhân) là “thành tố nghĩa biểu thị ý định, ý
muốn, thái độ, tình cảm của người nói (mang tính chủ quan)” [2,tr.42].
Theo tác giả Cao Xuân Hạo, trong nội dung nghĩa của câu bao gồm hai hành phần:
+ Thứ nhất: phản ánh sự việc, sự kiện trong thế giới hiện thực khách quan gọi
chung là nghĩa miêu tả.
+ Thứ hai: phản ánh sự nhìn nhận, đánh giá của người nói về sự việc khách
quan gọi chung là nghĩa tình thái.
Tác giả quan niệm nghĩa tình thái của câu không phải là thành phần phản ánh sự việc
trong nhận định mà chỉ là thành phần phản ánh cái thái độ, sự đánh giá của người nói đối
với sự tình được nói sau đó.
Tóm lại, cũng như những vấn đề liên quan đến tính tình thái khác, vấn đề ý nghĩa
tình thái vẫn chưa được giải quyết thấu đáo. Nhưng có thể nhận thấy nghĩa tình thái là lớp
nghĩa rất quan trọng thuộc cấu trúc nghĩa của câu. Nghĩa tình thái phản ánh được thái độ, sự
nhìn nhận, cách đánh giá của người viết, người nói đối với hiện thực khách quan. Và tùy
vào từng loại tình thái, từng ý nghĩa tình thái khác nhau sẽ có những phương tiện biểu đạt
chúng khác nhau.
1.4 Quan điểm của các tác giả về phương tiện biểu thị ý nghĩa tình thái của câu
Khi xét các phương tiện biểu thị ý nghĩa tình thái, các nhà nghiên cứu thường phân
biệt các phương tiện ngữ pháp và các phương tiện từ vựng.
Trong “Ngữ pháp tiếng Việt – câu”, tác giả Hoàng trọng Phiến cho rằng câu lệ thuộc
vào hoạt động ngôn từ. Câu bao giờ cũng mang tính tình thái. Theo ý kiến của ông thì:
“Tính tình thái là phạm trù của câu. Ở trong dạng tiềm tàng nó có mặt trong tất cả các kiểu
câu.Qua câu người nhận hiểu rõ người nói có thái độ như thế nào đối với sự đánh giá của
mình (đúng hay sai, tin hay ngờ, ước đoán hay đã tồn tại thực, khuyên bảo hay ra lệnh…)
[…] Tính tình thái của câu bắt nguồn từ sự tương ứng của nội dung câu và bối cảnh phi
ngôn ngữ thông qua tư duy. Ý nghĩa cuả phạm trù tính tình thái không phải chỉ gắn với các
thế của vị ngữ động từ mà nó gắn với toàn bộ các thành phần câu. Dung một phương tiện
nào đó để bộc lộ ý nghĩa tình thái đồng thời cũng là bổ sung thêm yếu tố cho mô hình câu”
[15,tr.30-31].
Trên cơ sở đó, tác giả cho rằng: “Trong các ngôn ngữ khác nhau tính tình thái được
biểu hiện khác nhau. Thông thường nó được biểu hiện bằng ngữ điệu, bằng danh xưng của
động từ, bằng trật tự từ và bằng các từ tình thái kiểu: à, ư, nhỉ, nhé, sao, chăng, tá,…
[15,tr.30-31]
Còn theo Hoàng Tuệ trong “Tuyển tập ngôn ngữ học” thì các phương tiện biểu thị
tình thái trong câu Tiếng Việt khá phong phú và đa dạng. Hoàng Tuệ dẫn ra những phương
tiện chính sau đây:
+ Phương tiện ngữ pháp gắn với vị ngữ.
+ Phương tiện từ vựng được dùng không gắn với vị ngữ mà ở ngoài cấu trúc
của vị ngữ: phó từ, trạng từ.
+ Phương tiện “đó là kiểu câu thường được coi là câu ghép, nhưng thành phần
chính ở kiểu câu này biểu thị tình thái, còn thành phần phụ biểu thị nội dung cốt lõi của
câu”.
Theo ý kiến của Nguyễn Minh Thuyết thì cho rằng trong các ngôn ngữ không biến
hình như Tiếng Việt, sự phân biệt các phương tiện từ vựng và ngữ pháp trong việc biểu thị
các nội dung tình thái không được đặt ra nghiêm ngặt như các ngôn ngữ biến đổi hình thái.
Trên cơ sở đó, tác giả đã bổ sung vào danh sách các phương tiện biểu thị ý nghĩa tình thái
của Hoàng Tuệ các động từ ngữ vi (có tác dụng đánh dấu trực tiếp các hành động phát ngôn
trong các câu ngữ vi), tiểu từ tình thái ở cuối câu.
Phạm Hùng Việt trong bài viết “Vấn đề tình thái với việc xem xét chức năng ngữ
nghĩa của trợ từ tiếng Việt” thì phương tiện biểu thị ý nghĩa tình thái của câu bao gồm:
+ Phương tiện ngữ âm: dùng ngữ điệu, trọng âm để thể hiện thái độ tình cảm
hoặc để nhấn mạnh vào điểm mà người nói cho là cần chú ý.
+ Phương tiện ngữ pháp: đảo trật tự từ, thay đổi cấu trúc của câu để the hiện ý
định của người nói nhằm tập trung vào điểm nhấn nào trong phát ngôn.
+ Phương tiện từ vựng: động từ tình thái (muốn, toan, định, hòng…), phụ từ
(đã, sẽ, vẫn, cũng…), thán từ (chà, ôi!, chao!...) và một số đơn vị khác (có lẽ, có thể, huống
chi, huống hồ,…). [21,tr.19]
Cao Xuân Hạo thì khẳng định: “ tình thái của câu có thể được biểu thị bằng ngữ
đoạn mở đầu câu như: “có lẽ”, “tất nhiên”…,những cấu trúc chủ vị (Đề- Thuyết) có “tôi”
làm chủ thể của một vị từ, bằng những vị từ tình thái mà bổ ngữ là cấu trúc vị ngữ hạt
nhân,…chúng có thể là từ hoặc tổ hợp từ được phân bố ở đầu hoặc cuối câu như: có lẽ,
hình như, thì có, thì phải…” [17,tr.262].
Nhìn chung, việc khảo sát các phương tiện biểu thị ý nghĩa tình thái chưa được
nghiên cứu sâu và toàn diện và chưa có những kết luận dứt khoát.
Như đã đề cập ở phần mở đầu, trong luận văn của mình, tôi chỉ dừng lại tìm hiểu về
một số phương tiện từ vựng cụ thể là các từ, tổ hợp từ đặt ở đầu và cuối câu có chức năng
biểu thị biểu thị ý nghĩa tình thái của câu.
CHƯƠNG 2:
PHƯƠNG TIỆN BIỂU THỊ Ý NGHĨA TÌNH THÁI CỦA CÂU
TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO
2.1 Vài nét về tác giả, tác phẩm
Trong dòng văn học hiện thực thời kì 1930-1945 có những nhà văn tài năng đã khẳng
định được vị trí của mình với phong cách riêng và độc đáo. Tiêu biểu như: Nguyễn Công
Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao… So với các nhà văn cùng
thời Nam Cao là người xuất hiện muộn hơn nhưng ông đã để lại cho đời những tác phẩm có
giá trị.
Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri sinh ngày 29/10/1917 trong một gia đình trung
nông làng Đại Hoàng, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Gia đình Nam Cao nghèo về sau càng
lam cảnh túng thiếu. Cuộc đời ông rất lận đận, gặp nhiều đắng cay. Nam Cao đã làm rất
nhiều nghề để kiếm sống: thư kí, dạy học, viết văn… Ông vừa viết văn vừa dạy học nhưng
vẫn không đủ sống. Về cuộc đời của Nam Cao, có thể nói rằng ông là một người gặp nhiều
trắc trở, lận đận trên con đường công danh sự nghiệp. Cuộc sống gia đình đói nghèo, làng
quê ông là vùng ít đất, nghèo nàn, người dân cơ cực thiếu ăn, thiếu mặc. Chính hoàn cảnh
bản thân và thực tế xung quanh ông đã đưa ông bước vào con đường sáng tác với bút pháp
hiện thực xuất sắc.
Bên cạnh những ảnh hưởng của đời sống nói trên, phong trào cách mạng cũng có sự
tác động đến sáng tác của Nam Cao. Ông có cái nhìn vào cuộc sống thực tế. Đây cũng là
một trong những yếu tố làm cho Nam Cao thành công với bút pháp sáng tác hiện thực.
Ngòi bút của Nam Cao trước cách mạng đã gắn bó máu thịt với những người nghèo
khổ, lam lũ của làng quê với những người trí thức. Ông viết về họ với tấm lòng nhân hậu và
chan chứa tình yêu thương. Nam Cao phê phán thứ văn chương xa lạ, phù phiếm đối với
cuộc sống cần lao của nhân dân lao động. Ông xác định cho mình một lập trường nghệ thuật
hữu ích: “nghệ thuật vị nhân sinh”. Lời của nhân vật Điền trong tác phẩm “Trăng sáng”
được xem như lời tuyên ngôn nghệ thuật của ông: “Chao ôi! Nghệ thuật không phải là ánh
trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia,
thoát ra từ những kiếp lầm than”. Nam Cao đã sống cùng những người nông dân, cùng
những người nghèo khổ, biết bao cảnh tượng ngang trái đã để lại cho ông những ấn tượng
khó phai. Ông “cứ đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón nhận tất cả những vang động của
đời”. Hơn thế nữa, Nam Cao còn đòi hỏi tác phẩm phải có giá trị, phải mang nội dung nhân
đạo sâu sắc: “Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn
khởi. Nó ca tụng lòng thương người, tình bác ái, sự công bình… Nó làm cho người gần
người hơn” (Đời Thừa).
Những truyện ngắn của Nam Cao thành công nhất là trước cách mạng tháng Tám.
Tác phẩm của ông trong thời kì này chủ yếu xoay quanh hai đề tài. Đó là viết về người nông
dân và người trí thức nghèo.
Khi viết về người nông dân, nhà văn đã phản ánh rõ bộ mặt xã hội bất công, tàn
nhẫn. Và hơn thế nữa, Nam Cao đã lột tả được tất cả những nỗi khổ cùng cực của người
nông dân. Họ là những con người thấp cổ bé họng, họ bị lăng nhục, bị ức hiếp nhiều nhất.
Đôi khi họ phải đánh mất những giá trị làm người của mình. Tuy giọng văn lắm khi lạnh
lùng nhưng ẩn đâu đó là một trái tim yêu thương hết mực mà Nam Cao dành cho những con
người này. Ông không chỉ vạch ra những nỗi đau khổ của họ, lên tiếng phê phán xã hội bất
công mà còn bênh vực che chở cho những bản chất cao quý, đẹp đẽ trong tâm hồn của họ.
Đến với những tác phẩm thuộc mảng đề tài này như: Lão Hạc, Một đám cưới, Dì Hảo, Một
bữa no, Tư cách Mõ, lang Rận, Chí Phèo…ta có thể hình dung rõ cái khung cảnh ngột ngạt,
tăm tối đầy bất công của xã hội lúc bấy giờ, nó như những đám mây xám xịt, hiu hắt bao lấy
cuộc đời những con người bé nhỏ. Những con người này chỉ biết lấy chút tâm hồn trong
sáng chống chọi cuộc đời.
Còn khi viết về người trí thức nghèo, đáng chú ý là các tác phẩm: Những truyện
không muốn viết, Trăng sáng, Mua nhà, Truyện tình, Quên điều độ, Đời thừa,… Trong
những sáng tác này, Nam Cao đã lột tả được tất cả những nỗi đau khổ, tủi nhục, sống dở
chết dở của những nhà văn nghèo, những “giáo khổ trường tư”… Họ là những con người có
những ước mơ và hoài bão đẹp nhưng rồi vì những lo toan cơm áo gạo tiền, những tính toán
vật chất tầm thường đè nặng trên lưng họ đẩy họ vào bi kịch tinh thần. Khi mà những ước
mơ, những hoài bão không còn và họ phải đi ngược lại với những điều lí tưởng của mình đặt
ra. Đó là tấn bi kịch dai dẳng, thầm lặng mà đau đớn của những người trí thức có ý thức sâu
sắc về giá trị sống và nhân phẩm, thế mà phải đối mặt với cuộc “sống mòn”, phải sống cuộc
“đời thừa”… Những tác phẩm này là tiếng nói phê phán sâu sắc xã hội phi nhân đạo đã bóp
nghẹt những lí tưởng chân chính của con người. Đồng thời đó còn là sự tự đấu tranh bên
trong của con người trí thức để tìm đến cuộc sống đẹp, có ý nghĩa.
Để xây dựng nên những tác phẩm mang giá trị nội dung độc đáo như vậy, Nam Cao
đã sử dụng bút pháp hiện thực sắc nét. Nhân vật trong sáng tác của ông là những con người
trong đời sống hàng ngày, trong làng, trong xóm, và một phần trong con người ông. Nhưng
những nhân vật này đã trở thành những nhân vật điển hình: Chí Phèo, Lão Hạc, Bá Kiến,
Hộ, Điền… Không chỉ là nhà văn miêu tả hiện thực xuất sắc, xây dựng nhân vật tài tình,
Nam Cao còn có ngôn ngữ, giọng điệu rất riêng, rất độc đáo không thể lẫn vào với ai được.
Trải qua hơn một thế kỉ, ngôn ngữ đó dường như không phai mờ. Ngôn ngữ trong sáng tác
của Nam Cao rất phong phú, ông vận dụng nhiều thành ngữ, tục ngữ, ngôn ngữ bình dân và
khẩu ngữ vào trong tác phẩm của mình. Khi nhân vật ứng xử, đối thoại thì ngôn ngữ linh
hoạt, có từng nét riêng, có lúc nghiêm nghị, có lúc lạnh lùng, có lúc đắng cay, chua chát…
Nhưng tất cả điều để lại những triết lí sâu sắc. Điều này đã để lại ấn tượng rất sâu đậm trong
lòng người đọc.
Chính vì vậy, đọc truyện ngắn Nam Cao người đọc không chỉ bị cuốn hút vào những
trang viết với nội dung giàu tính triết lí mà còn bị lôi cuốn bởi những nét nghệ thuật độc
đáo. Về phương diện nghệ thuật đã có hàng trăm công trình nghiên cứu nhưng các tác giả
thường tập trung chú ý nghiên cứu đến góc độ cú pháp. Việc khảo sát các phương tiện biểu
thị ý nghĩa tình thái của câu trong tác phẩm Nam Cao vẫn còn khá mới mẻ.
2.2 Phương tiện biểu thị ý nghĩa tình thái của câu trong truyện ngắn của
Nam Cao
M.Gorki đã từng viết: “Yếu tố đầu tiên của văn học là ngôn ngữ, công cụ chủ yếu
của nó và cùng với các sự kiện, các hiện tượng của cuộc sống – là chất liệu của văn học…”.
Đúng vậy, ngôn ngữ chính là chất liệu của văn học, không có ngôn ngữ thì không thể có tác
phẩm văn học bởi vì chính ngôn ngữ chứ không phải cái gì khác đã cụ thể hóa sự biểu hiện
của chủ đề và tư tưởng, tính cách nhân vật và cốt truyện. Để có những tác phẩm, người nghệ
sĩ phải có quá trình lao động miệt mài và công phu. Nói về văn học Việt Nam ta thấy, nếu ở
các nhà văn Tự lực văn đoàn, thành phần ngôn ngữ nhân vật thường bị lấn áp bởi ngôn ngữ
tác giả, còn các nhà văn hiện thực, thành phần ngôn ngữ nhân vật có những phương ngữ hay
biệt ngữ nổi bật thì ở Nam Cao do quan tâm truyền đạt những dao động của nội tâm nhân
vật nên ngôn ngữ tạo nên được hệ thống ngôn ngữ gồm cả ngôn ngữ bên ngoài và ngôn ngữ
bên trong, cả ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ nhân vật, thậm chí có sự đan xen nhau. Chính vì
vậy đọc văn Nam Cao ta thấy ngôn ngữ không bị cũ đi với thời gian. Mỗi tác phẩm của ông
đều đem lại sự sinh động và gần gũi cho người đọc. Dường như bao nhiêu tâm huyết, tình
cảm Nam Cao đã đặt tất cả vào từng tác phẩm. Có lẽ vì ông là người hay băn khoăn về vấn
đề nhân phẩm của con người. Đọc tác phẩm của ông ta thấy một vẻ ngoài lạnh lùng là một
tấm lòng yêu thương cháy bỏng dành cho những số phận bất hạnh. Nam Cao đã âm thầm
bênh vực họ, che chở họ, ngợi ca họ bằng ngòi bút của mình. Điều này được thể hiện một
phần qua giọng điệu, ngôn ngữ của ông và có sự đóng góp không nhỏ chính là kết quả của
việc sử dụng thành công các phương tiện biểu thị ý nghĩa tình thái của câu. Đó là những từ
tổ hợp từ biểu thị ý nghĩa tình thái của câu.
Qua khảo sát 22 tác phẩm, người viết nhận thấy những phương tiện này xuất hiện với
tần số khá cao: 347 lần.
+ Từ, tổ hợp từ xuất hiện ở vị trí đầu câu và giữa câu: 281 lần.
+ Từ tổ hợp từ xuất hiện ở vị trí cuối câu: 66 lần.
2.2.1 Từ và tổ hợp từ biểu thị ý nghĩa tình thái ở đầu câu và giữa câu
2.2.1.1 Từ và tổ hợp từ giới thiệu điều được nhận định hay trần
thuật như có một giá trị chân lí tương đối hay một khả năng xác thực hạn chế.
Trong trường hợp này bao gồm các từ và tổ hợp từ như: thật ra, kể ra, kể, xem ra,
thiếu chút nữa…
Trong 22 truyện ngắn của Nam Cao thì:
Thật ra được sử dụng 29 lần.
Kể được sử dụng 9 lần.
Kể ra được sử dụng 4 lần.
- Thật ra có ý nghĩa biểu thị điều sắp nói ra mới là sự thật và nó có phần trái với điều
vừa nói ra.
Ví dụ:
1) Thật ra các bà chẳng ưa gì những cô làm đởm thế đâu.
(Ở hiền)
2) Thật ra các bà muốn xem Chí Phèo ra làm sao.
(Chí Phèo)
3) Thật ra thì thị cũng chẳng nghĩ ngợi nhiều đến thế.
(Chí Phèo)
4) Thật ra tôi cũng có chút mộng văn chương.
(Những truyện không muốn viết)
5) Thật ra thì lão chỉ tẩm ngẩm thế.
(Lão Hạc)
6) Thật ra thì bà tức bụng không đi nổi.
(Một bữa no)
7) Thật ra thì các ông chỉ phải nhường hắn ngồi chiếu trên.
(Đôi móng giò)
8) Thật ra thì Điền chán lắm.
(Trăng sáng)
Xét ví dụ 3:
Thật ra thì thị cũng chẳng nghĩ ngợi nhiều đến thế.
(Chí Phèo)
Đây là lời kể của tác giả về nhân vật Thị Nở - một người dở hơi, ngẩn ngơ. Trước
câu văn này là những chi tiết miêu tả Thị Nở ra bờ sông lấy nước, gặp cơn gió mát, thị cởi
áo ra ngồi tựa vào gốc chuối, dáng ngồi không kín đáo… và hàng loạt những giả thuyết đặt
ra cho Thị Nở rằng: Chí phèo đã về đâu và nếu có về thì cũng vào nhà ngủ và cho dù hắn
có ra đây thì sao cũng chẳng làm gì, bởi một lẽ rất đơn giản là chưa ai phạm đến thị bao
giờ… với những chi tiết này người đọc ngỡ rằng Thị Nở là một người thông minh, biết
nghĩ đến phẩm giá của mình. Nhưng câu văn tiếp theo đã phủ định tất cả “thật ra thì Thị
cũng chẳng nghĩ ngợi nhiều đến thế”. Nam Cao đã sử dụng tổ hợp từ thật ra để khẳng định
lại rằng Thị Nở là một con người dở hơi, vô tư đến mức ngẩn ngơ và điều này đã ăn sâu
vào người thị trở thành một phần tính cách, thị không bao giờ nghĩ ngợi những điều sâu sắc
như thế. Điều đó mới là sự thật. Nếu tác giả viết “thị là một người ngẩn ngơ không nghĩ
đến những việc ấy bao giờ” thì vẫn thể hiện được ý nghĩa ban đầu của câu văn. Nhưng ta
thấy Nam Cao đã khéo léo dùng tổ hợp từ thật ra có tác dụng phủ nhận điều nói phía trước
và khẳng định sự thật mạnh hơn. Nó tạo cho người đọc cảm giác bất ngờ thú vị nhưng sau
đó lại là nỗi xót xa cho con người bất hạnh này. Người đàn bà nghèo khổ xấu xí lại còn dở
hơi, ngẩn ngơ đã là một bất hạnh và càng bất hạnh hơn khi không và chưa bao giờ dám
nghĩ đến việc có người chạm vào người mình – ý thức về bản thân không tồn tại. Tổ hợp
thật ra đã làm tròn nhiệm vụ của mình khi qua câu văn này ta thấy được sự xót xa, thương
yêu cho nhân vật của Nam Cao như thế nào.
Hay xét ví dụ 6
Thật ra thì bà tức bụng không đi nổi
(Một bữa no)
Đây là lời kể của tác giả về nhân vật bà cụ trong truyện ngắn “Một bữa no”. Sau
khi ăn một bữa no nê ở nhà bà Phó – một bữa ăn đánh đổi bằng cả danh dự, bà đi không
được vì bà no quá “ruột gan bà lộn xộn”. Bà bảo: “Về muộn cho đỡ nắng”, nhưng “Thật ra
thì bà tức bụng không đi nổi”. Lí do bà nêu ra ban đầu chỉ nhằm để bà cứu vớt phần nào
danh dự của một người đói mà thôi. Còn sự thật là do bà đói, bà ăn nhiều và bà tức bụng
không đi nổi. Câu văn đã vạch trần hoàn cảnh của một con người đói và vạch trần xã hội
lúc bấy giờ khi mà cái đói ngày càng hoành hành, con người phải đánh đổi danh dự để lấy
miếng ăn. Chết vì đói đau khổ về thể xác nhưng chết vì no như bà cụ chẳng những đau về
- Xem thêm -