Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản...

Tài liệu Khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản

.DOC
20
144
119

Mô tả:

MỤC LỤC KHỦNG HOẢNG KINH TẾ TRONG CHỦ NGHĨA TƯ BẢN  Tính cần thiết thực hiện đề bài ‘ khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản’………………………………………………………… ……..1 PHẦN 1: BẢN CHẤT VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA KHỦNG HOẢNG KINH TẾ TRONG CHỦ NGHĨA TƯ BẢN………………………………...2 PHẦN 2: CUỘC KHỦNG HOẢNG KINH TẾ THẾ GIỚI 20082009……4 1. Diễn biến của khủng hoảng kinh tế………………………………….4 2. Nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế ……………………………...6 3. Tác động của cuộc khủng hoảng 20082009………………………..10 1  TÍNH CẦN THIẾT THỰC HIỆN ĐỀ BÀI: - Cũng như mọi người ai cũng đã biết về tác hại của khủng hoảng kinh tế mang lại cho toàn xã hội. Khủng hoảng kinh tế làm cho tỉ lệ thất nghiệp tăng cao,cùng với đó là cuộc sống khó khăn, thiếu thốn hơn của những người công nhân. Không những vậy,đại bộ phận trong một nền kinh tế đều chịu những ảnh hưởng xấu, làm giảm sự phát triển của đất nước. Sự ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế còn tác động về lâu dài tới nền kinh tế,tới những chỉ số phát triển.Vì vậy chúng ta cần có những nghiên cứu,hiểu biết nhất định về ‘ khủng hoảng kinh tế’ và những liên hệ với nền kinh tế Việt Nam.  PHẦN I: I-Bản chất và nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản Nếu như trong chủ nghĩa tư bản sản xuất hàng hóa giản đơn, với sự phát triển của chức năng phương tiện thanh toán của tiền tệ đã làm xuất hiện khả năng nổ ra khủng hoảng kinh tế, thì đến chủ 2 nghĩa tư bản, khi nền kinh tế sản xuất đã xã hội hóa cao độ, khủng hoảng kinh tế là điều không tránh khỏi. Từ đầu thế kỉ XIX, sự ra đời của đại công nghiệp cơ khí đã làm cho quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa bị gián đoạn bởi những cuộc khủng hoảng có tính chu kỳ. Hình thức đầu tiên và phổ biến trong nền sản xuất tư bản là khủng hoảng sản xuất “thừa “. Khi khủng hoảng nổ ra, hàng hóa không tiêu thụ được, sản xuất bị thu hẹp, nhiều doanh nghiệp bị vỡ nợ, phá sản, thợ thuyền bị thất nghiệp , thị trường bị rối loạn. Tình trạng thừa hàng hóa không phải là so với nhu cầu cuả xã hội, mà là thừa so với sức mua có hạn của quần chúng lao động. Trong lúc khủng hoảng thừa đang nổ ra, hàng hóa đang bị phá hủy thì hàng triệu người lao động lại lâm vào tình trạng đói khổ vì họ không có khả năng thanh toán. Nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế tư bản chủ nghĩa bắt nguồn từ chính mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Đó là mâu thuẫn giữa trình độ xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Mâu thuẫn này biểu hiện ra thành các mâu thuẫn sau: - Mâu thuẫn giữa tính tổ chức, tính kế hoạch trong từng xí nghiệp rất chặt chẽ và khoa học với khuynh hướng tự phát vô chính phủ trong toàn xã hội. - Mâu thuẫn giữa khuynh hướng tích lũy, mở rộng không có giới hạn của tư bản với sức mua ngày càng eo hẹp của quần chúng do bị bần cùng hóa. - Mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp tư bản và giai cấp lao động làm thuê. Khủng hoảng kinh tế có tính chu kỳ trong chủ nghĩa tư bản, làm cho quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa mang tính chu kỳ. Chu kỳ kinh tế của chủ nghĩa tư bản là khoảng thời gian nền kinh tế tư bản chủ nghĩa vận động từ đầu cuộc khủng hoảng này đến đầu cuộc khủng hoảng sau. Chu kỳ kinh tế gồm bốn giai đoạn: khủng hoảng, tiêu điều, phục hồi và hưng thịnh. - Khủng hoảng: là giai đoạn khởi điểm của chu kỳ kinh tế mới.Ở giai đoạn này, hàng hóa ế thừa, ứ đọng, sản xuất đình trệ, xí nghiệp đóng cửa, công nhân thất nghiệp hàng loạt, tiền 3 công hạ xuống. Tư bản mất khả năng thanh toán các khỏan nợ, phá sản lực lượng sản xuất bị phá hoại nghiêm trọng. Đây là giai đoạn mà các mâu thuẫn biểu hiện dưới hình thức xung đột dữ dội. - Tiêu điều: Đặc điểm ở giai đoạn này là sản xuất ở trạng thái trì trệ, không còn tiếp tục đi xuống nhưng cũng không tăng lên, thương nghiệp vẫn đình đốn, hàng hóa được đem bán hạ giá, tư bản để rỗi nhiều vì không có nơi đầu tư, Trong giai đoạn này, để thoát khỏi tình trạng bế tắc, các nhà tư bảncòn trụ lại được tìm cách giảm chi phí bằng cách hạ thấp tiền công, thăng cường độ và thời gian lao động của công nhân, đổi mới tư bản cố định làm cho sản xuất vẫn có lời trong tình hình hạ giá. Việc đổi mới tư bản cố định làm tăng nhu cầu về tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng, tạo điều kiện cho sự phục hồi chunh của nền kinh tế. - Phục hồi: là giai đoạn mà các xí nghiệp được khôi phục và mở rộng sản xuất. Công nhân lại được thu hút vào làm việc; mức sản xuất đạt đến quy mô cũ, vật giá tăng lên, lợi nhuận của nhá tư bản do đó cũng tăng lên. - Hưng thịnh: là giai đoạn sản xuất phát triển vượt quá điểm cao nhất mà chu kỳ trước đã đạt được, Nhu cầu và khả năng tiêu thụ hàng hóa tăng, xí nghiệp được mở rộng và xây dựng thêm. Nhu cầu tín dụng tăng, ngân hàng tung tiền cho vay, năng lực sản xuất lại vượt qúa mức mua của xã hội. Do đó lại tạo điều kiện cho cuộc khủng hoảng kinh tế mới. Khủng hoảng kinh tế không chỉ diễn ra trong công nghiệp mà trong cả trong nông nghiệp. Nhưng khủng hoảng trong nông nghiệp thường kéo dài hơn khủng hoảng trong công nghiệp. Trong chủ nghĩa tư bản hiện nay, khủng hoảng kinh tế vẫn không tránh khỏi, nhưng có sự can thiệp tích cực của Nhà nước tư sản và quá trình kinh tế. Sự can thiệp này mặc dù không triệt tiêu được khủng hoảng và chu kỳ trong nền kinh tế nhưng đã làm cho tác động phá hoại của khủng hoảng bị hạn chế bớt. 4 II-Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008-2009 1. Diễn biến Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính nổ ra dẫn đến suy giảm kinh tế Mỹ và từ đó lan rộng ra toàn cầu. Bắt đầu từ tháng 8/2007 do một công ty thế chấp nhà (American Home Morgage) làm đơn phá sản. Tiếp đó là sự sụp đổ tài chính lớn, gần 20 ngân hàng phá sản mỗi ngày, hàng nghìn người dân bị phá sản. Thị trường chứng khoán mỹ và thế giới bị tác động mạnh, đồng loạt giảm sút. Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 tại Mỹ lần này thực chất là biểu hiện rõ nét nhất của một quá trình “khủng hoảng” rất lâu từ trước đó. Điểm lại những dấu mốc sự kiện chính trong chuỗi này để thấy khủng hoảng đã diễn ra như thế nào. Năm 2002-2004: Giá cả ở các bang Arizona, California, Florida, Hawaii, và Neveda tăng trên 25% một năm. Sự bùng nổ nhà đất ở Mỹ bắt đầu. Năm 2005: Bong bóng nhà đất ở Mỹ vỡ vào tháng 08/2005. Thị trường bất động sản tạm gián đoạn trên một vài bang ở Mỹ vào cuối mùa hè năm 2005 khi tỷ lệ lãi suất tăng từ 1% lên đến 5.35% do có nhiều nhà kinh doanh bất động sản đã đánh giá thấp thị trường. Năm 2006: Thị trường bất động sản tiếp tục suy giảm. Giá giảm, kinh doanh bất động sản đóng băng, dẫn đến một lượng nhà dư thùa đáng kể. Chỉ số xây dựng nhà ở tại Mỹ hồi giữa tháng 08 giảm hơn 40% so với một năm trước đó. Năm 2007: Kinh doanh bất động sản tiếp tục thất bại. Số lượng nhà tồn ước tính cao nhất từ năm 1989. Ngành kinh doanh bất động sản suy giảm với hơn 25 tổ chức cho vay dưới 5 chuẩn tuyên bố phá sản. Gần 1,3 triệu bất động sản nhà ở bị tịch thu để thế chấp nợ, tăng 79% từ năm 2006. Ngày 05/02: Công ty Mortage Lenders Network USA đứng thứ 15 trong số các nhà cho vay dưới chuẩn nhiều nhất ở Mỹ, với tổng dư nợ 3,3 tỷ đô la thời điểm quý 3 năm 2006, tuyên bố phá sản . Ngày 02/04: New Century Financial, nhà cho vay dưới chuẩn lớn nhất Mỹ, tuyên bố phá sản. Ngày 19/07: Chỉ số Dow Jones đóng cửa với mức 14000 điểm, lần đầu tiên trong lịch sử. Tháng 8: Khủng hoảng tín dụng toàn cầu, mà chính xác là chứng khoán dựa trên các khoản nợ thế chấp dưới chuẩn, được phát hiện trong danh mục vốn đầu tư và quỹ trên khắp thế giới từ BNP Paribas cho đến Ngân hàng Trung Quốc. Nhiều nhà cho vay ngừng cho vay tín dụng mua nhà. Cục dự trữ liên bang Mỹ dẫ cho các ngân hàng vay 100 ỷ đô la với lãi suất thấp. Ngày 16/08: Tập đoàn tài chính Countrywide, đơn vị cho vay thế chấp lớn nhất nước Mỹ, đã phải tránh phá sản bằng cách vay khẩn cấp 11 tỷ đô la từ một nhóm các ngân hàng khác. Ngày 17/08: Cục dự trữ liên bang Mỹ đã phải hạ mức hệ số chiết khấu 50 điểm cơ bản từ mức 6,25% xuống 5,75%. Ngày 14/09: Ngân hàng Northen Rock (Anh) đã gặp vấn đề nghiêm trọng về khả năng thanh khoản liên quan đến khủng hoảng cho vay dưới chuẩn. Ngày 15-17/10: Liên minh các ngân hàng Mỹ được hỗ trợ bởi chính phủ thông báo lập một quỹ trị giá 100 tỷ đô la để mua lại các chứng khoán được đảm bảo bằng tài sản thế chấp mà giá trị thị trường đã bị sụt giảm do khủng hoảng vay dưới chuẩn. Chủ tịch Cục dự trữ Liên bang Ben Bernake và Bộ trưởng Bộ tài chính Mỹ đều đưa ra những cảnh báo về mối nguy hiểm của việc vỡ bong bóng bất động sản. Ngày 31/10: Cục dự trữ liên bang hạ lãi suất quỹ liên bang 25 điểm xuống 4,5%. Tháng 11: Cục dự trữ liên bang bơm thêm 41 tỷ đô la cho các ngân hàng vay với lãi suất thấp. Đây là lần xuất tiền lớn 6 nhất của cục dự tữ liên bang kể từ 19 tháng 9 năm 2011 (50,35 tỷ đô la). Năm 2008 với những mốc đáng nhớ Ngày 16/03: Bear Stearns bán lại cho JP Morgan Chase với giá 2 đô la một cổ phiếu để tránh phá sản. Cục dự trữ liên bang phải cung cấp 30 tỷ đô la để trợ giúp các khoản lỗ của Bear Stearn. Ngày 17/07: Các ngân hàng lớn và các tổ chức tài chính trên thế giới đã báo cáo thua lỗ lên đến 435 tỷ đo la. Ngày 07/09: Cục dự trữ liên bang dành quyền kiểm soát hai tập đoàn Fannie Mae và Freddie Mac. Ngày 14/09: Merrill Lynch được bán cho Bank ò America với giá 50 tỷ đô la. Ngày 15/09: Lehman Brothers tuyên bố phá sản. Ngay sau đó, 3 loại chỉ số ở Mỹ bao gồm chỉ số Dơ Jones, NASDAQ và S&P 500 sụt giảm mạnh nhất kể từ sau sự kiện 11/09/2001. Ngày 17/09: Cục dự trữ liên bang Mỹ cho AIG vay 85 tỷ đô la để giúp công ty này tránh phá sản. Ngày 19/09: Kế hoạch giải cứu tài chính của Bộ trưởng tài chính Paulson trị giá 700 tỷ đô la được công bố sau một tuần bất ổn trên thị trường tài chính và nợ tín dụng. Tuy nhiên, quốc hội Mỹ đã không thông qua bản dự thảo này. Ngày 26/09: Ngân hàng Washington Mutual – ngân hàng tiết kiệm lớn nhất Mỹ được chính phủ tiếp quản và sau đó được bán lại cho JP Morgan Chase & Co với giá 1,9 tỷ đô la. Ngày 29/09: Quốc hội Mỹ bác bỏ kế hoạch giải cứu thị trường tài chính Mỹ do Bộ tài chính Mỹ đề xuất. Ngày 30/09: Ngân hàng khổng lồ Wachovia của Mỹ, đồng thời là ngân hàng cho vay dưới chuẩn lớn nhất Mỹ đồng ý bán lại bộ phận ngân hàng bán lẻ cho đối thủ Citigroup. Ngày 25/11: Fed tuyên bố sẽ mua lại những khoản cầm cố chứng khoán trị giá khoảng 500 tỷ đô la của Fannie Mae, Freddie Mac và cả Ginnie Mae. Thêm vào đó, khoảng 100 tỷ USD đã được bỏ ra để mua lại các khoản nợ cua Fannie, Freddie và Federal Home loan Banks. 7 Khủng hoảng tài chính là mối quan tâm hàng đầu của dân chúng Mỹ và thế giới. Trong nền kinh tế toàn cầu hóa hôm nay, khủng hoảng tài chính và sự trì trệ xủa nền kinh tế Mỹ đang và sẽ ảnh hưởng đến nhiều nước trên thế giới. Vì nền kinh tế Mỹ được coi là đầu tàu của thế giới. 2.Nguyên nhân 2.1. Nguyên nhân trực tiếp và rõ ràng nhất của cuộc khủng hoảng tài chính lần này là sự suy sụp của thị trường bất động sản. Hầu hết người dân Mỹ khi mua nhà là phải vay tiền ngân hàng và trả lãi lẫn vốn trong một thời gian dài (20-30 năm) sau đó, với lãi suất thả nổi (điều chỉnh tăng theo thời gian). Do đó, có một sự liên hệ chặt chẽ giữa lãi suất và tình trạng của thị trường bất động sản. Khi lãi suất thấp và dễ vay mượn thì người ta đổ xô đi mua nhà, đẩy giá nhà cửa lên cao; khi lãi suất cao thì người bán lại nhiều hơn người mua, đẩy giá nhà xuống thấp. Có 3 yếu tố chính tạo bong bóng trên thị trường bất động sản: - Thứ nhất: từ đầu năm 2001, đặc biệt là sau cuộc khủng bố 11 tháng 9, khi mà sau vụ khủng bố giá các cổ phiếu Mỹ sụt giảm, để giúp nền kinh tế thoát khỏi trì trệ, Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) đã liên tục hạ lãi suất, dẫn đến việc các ngân hàng cũng hạ lãi suất cho vay tiền mua bất động sản. Vào giữa năm 2000 thì lãi suất của Fed là 6% nhưng sau đó lãi suất này liên tục được cắt giảm, cho đến giữa năm 2003 thì chỉ còn 1%. - Thứ hai: chính sách khuyến khích và tạo điều kiện cho dân nghèo có nhà ở của Chính phủ lúc bấy giờ là khuyến khích và tạo điều kiện cho dân nghèo được v ay tiền dễ dàng hơn để mua nhà. Việc này phần lớn thực hiện thông qua hai công ty được bảo trợ bởi Chính phủ là Fannie Mae và Freddie Mac. Hai công ty này giúp đổ vốn vào thị trường bất động sản bằng cách mua lại các khoản cho vay của các ngân hàng thương mại, biến chúng thành các loại chứng từ được bảo đảm bằng các khoản vay thế chấp, rồi bán lại cho các nhà đầu tư ở phố Wall, đặc biệt là các ngân hàng đầu tư khổng lồ như Bear Stearns và Merrill Lynch. 8 - Thứ ba: kế ước nhận nợ của người mua nhà trở thành một loại chừng khoán (chứng khoán phái sinh), được ngân hàng thông qua môi giới đưa vào giao dịch mua bán lại trên thị trường (thị trường thứ cấp). Trên thị trường mua đi bán lại, nhiều người đầu tư cá nhân thông qua người môi giới đã bỏ tiền ra mua loại chứng khoán này mà họ không hiểu được nó là cái gì, chỉ biết hàng năm được tiền lãi. Vì vậy thị trường bất động sản trở nên rất sôi động, có rất nhiều người thu nhập thấp hoặc không có tín dụng tốt nhưng vẫn đổ xô đi mua nhà. Để cố thể được vay, nhóm người này thường phải trả lãi suất cao hơn và thường được cho mượn dưới hình thức lãi suất điều chỉnh theo thời gian, khoản tiền cho vay của nhóm này đã tăng vùn vụt. Theo ước tính thì nó tăng từ 160 tỉ USD ở năm 2001 lên 540 tỉ vào năm 2004 và trên trên 1300 tỉ vào năm 2007 (10% GDP của Mỹ). Fannie Mae đã mạnh tay hơn trong việc mua lại các khoản cho vay đày mạo hiểm do phải đối đầu với cạnh tranh nhiều hơn từ các công ty khác, chẳng hạn như Lehman Brothers. Vì dễ vay ên nhu cầu mua nhà lên rất cao , kéo theo việc len giá bất động sản liên tục. Giá nhà bình quân đã tăng đến 54% chỉ trong vòng bốn năm kể từ năm 2001 đến 2005. Việc này cũng dẫn đến vấn đề đầu cơ và ỷ lại là giá nhà sẽ tiếp tục lên. Hệ quả là người ta sẵn sàng mau nhà với giá cao, bất kể giá trị thực và khả năng trả nợ sau này vì họ nghĩ nễu cần saex bán lại để trả nợ ngân hàng mà vẫn có lời, Do đó, một bong bóng đã thành hình trong thị trường bất động sản. Nhưng từ 2 năm trở lại đây, giá bất động sản không ngừng giảm xuống, giá trị các căn hộ ngày càng thấp hơn các khoản tín dụng đã cấp. Hạn mức tín dụng giảm xuống thì ngân hàng thu hồi nợ, nhưng người mua nhà không có khả năng thanh toán. 2.2 Cho vay dưới chuẩn – nguyên nhân của sự sụp đổ thị trường bất động sản và cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ. Từ nhiều năm qua, các ngân hàng đầu tư Mỹ đã nới lỏng tối đa chính sách tín dụng cho các công ty và cá nhân mua bất động sản trả chậm. Làm nảy sinh những dòng vốn vay giá rẻ và gia 9 tăng một lượng lớn người đi vay tiền. Trên thực tế, vốn vay rẻ sẽ làm mất đi ý thức phòng ngừa rủi ro của người đi vay. Người đi vay dễ dàng trong việc định giá lại tài sản để tiếp tục một khoản vay mới nhằm trả chi khoản vay cũ. Bên cạnh đó, việc cung cấp tín dụng dễ dàng như: không cần tài sản để thế chấp, tỷ lệ trả trước rất thấp, chỉ cần có mã số thuế. Hoạt động cho vay này thất sự không đáp ứng đầy đủ những tiêu chuẩn để được cấp tín dụng nhưng vẫn được vay đã làm gia tăng rủi ro cho cá ngân hàng, và bất động sản tăng giá họ sẽ được hưởng lợi . Về phía ngân hàng, tuy hình thức cho vay rủi ro rất lớn, nhưng các ngân hàng vẫn chấp nhận để đổi lại một mức lãi suất rất cao. Mặt khác các công ty tài chính cũng thực hiện hình thức cho vay này một cách rộng rãi và chuyển rủi ro qua ngân hàng và nhà đầu tư thông qua một sản phẩm tài chính gọi là “ mua lại các khoản nợ hay khoản phải thu”. Các công ty tài chính bán các khoản phải thu cho các ngân hàng với mức chiết khấu cao, ngân hàng và các tổ chức tài chính chuyên biệt sẽ chứng khoán hóa các khoản phải thu, nghĩa là phát hành các chứng khoán để vay tiền với lãi suất rất cao. Rõ ràn là rủi ro chồng rủi ro, và đương nhiên là các chứng khoán có mức độ xếp hạng tín nhiệm càng thấp thì tỷ suất sinh lợi càng cao, thậm chí có chứng khoán không có mức độ xếp hạng tín dụng nhưng vẫn được nhà đầu tư trên toàn thế giới chấp nhận do lãi suất siêu hạng. Một lượng vốn đầu tư khổng lồ trên thế giới đã đổ vào thị trường bất động sản Mỹ và khi thị trường đóng băng vào giữa năm 2007, các vụ đổ vỡ dây chuyền đã xảy ra. Các nhà đầu tư bất động sản vay tiền không đủ khả năng trả các khoản nợ lâm vào tình trạng phá sản. Sản phẩm tài chính hiện đại nhưng nhiều rủi ro này chính là nguyên nhân cho cuộc khủng hoảng tài chính cho vay dưới chuẩn. 2.3. Một số nguyên nhân khác: 10 a) Mua bán khống Khi giới đầu cơ đoán chắc rằng cổ phiếu của những tập đoàn dính kius đến cho vay dưới chuẩn sẽ sụt giảm, họ ồ ạt vay những cổ phiếu này rồi ồ ạt bán ra, tạo nên một áp lực giảm giá lớn không gì cứu vãn nổi. Sau khi giá giảm đến một mức nào đó, họ sẽ mua và trả lại nơi cho vay cộng thêm một ít chi phí, còn bao nhiêu tiền chênh lệch họ sẽ hưởng trọn. Thậm chí, họ còn áp dụng cách thức mua bán khống đến hai lần (naked short sale), tức là không thèm vay chứng khoán nữa mà cứ ra lện bán theo kiểu “đánh xuống” vì lợi dụng khe hở, mua bán ba ngày sau mới giao cổ phiếu. b) Thiếu cơ chế giám sát chặt chẽ Có tiền, các công tyu cứ thoải mái cho người vay bằng tiền của các ngân hàng đầu tư cung cấp thông qua mua lại danh mục cho vay của các công ty này. Các ngân hàng này trên cơ sở danh mục cho vay vừa mau lại sẽ phát hành chứng khoán để vay tiền. Danh mục cho vay được chia ra, ít rủi ro, rủi ro cao, tùy định mức tín nhiệm, nhà đầu tư tha hồ lựa chọn theo sự mạo hiểm của mình. Có loại chứng khoán không cần định mức tín nhiệm, có thể thu lãi suất cao nhưng rủi ro cũng lớn. Như vậy, rủi ro trong cho vay đã đoực chuyển từ bên cho vay là công ty tài chính sang ngân hàng đầu tư. Nhà đầu tư trên thế giới đỏ tiền mua chứng khoán này, nhờ vậy đã cung cấp một lượng vốn khổng lồ cho thị trường bất động sản ở Mỹ tăng nóng. Giáo sư kinh tế Joseph Stiglitz, người được giải thưởng Nobel kinh tế 2001, kết luận: “ Hệ thống tài chính của Mỹ đã không thực hiện được hai trách nhiệm chính của mình đó là quản lý rủi ro và phân chia vốn. Cả hệ thống tài chính Mỹ đã không làm những gì nó đáng ra phải làm – chẳng hạn như tạo ra các sản phẩm đẻ giúp người Mỹ quản lý được những rủi ro nguy hiểm nghiêm trọng của mình, nư là giữ lại được nhà khi mức lãi suất cho vay tăng cao hoặc khi giá nhà rớt. c) Khủng hoảng niềm tin Sự sụp đổ của một loạt các ngân hàng hàng đầu trong lĩnh vực đầu tư của Mỹ đã làm người dân Mỹ và tiêu dùng ảnh 11 hưởng nghiêm trọng, nhất là khi ở các nước phát triển là một nền kinh tế tiêu dùng. Hệ thống các ngân hàng trong con mắt mọi người trở nên mong manh khi mà ba trong năm ông lớn tại thị trường phố Wall là Merrill Lynch, Lehman Brothers, Bearstearns. Thị trường tài chính dựa trên nguyên tắc độ tin cậy, và độ tin cậy đó đã bị xói mòn, xuống cấp. Sự sụp đổ của Lehman Brothers là biểu tượng đánh dấu mức đọ tin cậy đã xuống một mức thấp mới và dư âm của nó sẽ còn tiếp tục. Một ngân hàng tồn tại hơn 158 năm đã cùng người Mỹ trải qua rất nhiều khó khăn, trải qua các cuộc suy thoái cùng nước Mỹ lại sụp đổ. Quả thật là một cú sốc lớn đối với toàn bộ người dân Mỹ. 2.4. Sự lầm tưởng sức mạnh của nước Mỹ Đã lâu từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, người dân Mỹ vẫn nghĩ họ là một quốc gia hùng mạnh với kinh tế “khỏe mạnh”. Họ vẫn nghĩ mình là nước giàu có hơn bất kỳ quốc gia nào. Cùng với những hình thức thanh toán mới người tiêu dùng nhiều hơn trong khi bản thân họ không thể sản xuấ đáp ứng được nhu cầu đó. Hàng năm người Mỹ tiêu thụ một lượng hàng hóa mà họ không có khả năng chi trả khoảng 80 tỷ USD. Người dân Mỹ không có xu thế tiết kiệm trước khi khủng hoảng diễn ra. Ví dụ là các công ty ôtô Mỹ khi các loại ôtô cùng loại của Nhật(Toyota, Honda…) và Châu Âu tốn ít xăng hơn những chiếc ôtô Ford, GM. 3. Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 3.1 Tác động đối với thế giới 3.1.1. Ngắn hạn Trong ngắn hạn, năm 2009, chắc chắn kinh tế Mỹ không tránh khỏi suy thoái trầm trọng. Dù được Chính phủ bơm tiền vào các ngân hàng thương mại và mua các chứng khoán chỉ còn ít giá trị, hệ thống tín dụng không thể hoạt động bình thuoừng lại ngay. Thông qua hai gói kích cầu của hai vị tổng thống G.W.Bush 700 tỷ và B.Obama 787 tỷ USD. 12 Hơn nữa, các nhà đầu tư vẫn còn hoang mang cao độ do chưa biết hết mức độ ngiêm trọng của sự mất mát. Họ nghĩ rằng tin xấu rồi sẽ xuất hiện nữa. Tâm lý sợ hãi hiện đang bao trùm lĩnh vực tài chính. Các ngân hàng trong việc cho vay, làm ảnh hưởng đến sản xuất của doanh ngiệp và đến khả năng chi tiêu của dân chúng đối với các hàng hóa lâu bền như xe hơi. Mặt khác, cổ phiếu mất giá và giá bất động sản giảm mạnh, giá trị danh nghĩa của tài sản người dân giảm mạnh theo và do đó tiêu dùng trong dân đang và sẽ giảm mạnh. Sự đình trệ cả hai mặt cung và cầu sẽ làm kinh tế Mỹ suy thoái nặng. Vì các yếu tố đó, cá dự báo về kinh tế Mỹ đều cho thấy những con số khá bi quan. Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), năm 2008 kinh tế Mỹ phát triển 1,6% và năm 2009 gần như không tăng trưởng (0,1%). Nếu xét từng quý thì tình huống trước mắt trầm trọng hơn. Các nhà kinh tế hàng đầu đang xây dựng mô hình khủng hoảng theo mô hình nào. Theo hình chữ L,V,W. Do đó có một số thời điểm với những báo cáo khả quan về kinh tến nhưng có lẽ đó chỉ là dấu hiệu tăng trưởng trong ngắn hạn mà chưa hẳn thoát được ra ngoài khủng hoảng một cách thực sự. 3.1.2. Dài hạn . Nhìn vấn đề trong tương lai xa hơn, hiện nay có nhiều đánh giá khác nhau. Tình hình của Mỹ hiện nay giống với cuộc đại khủng hoảng trong thập niên 1930 hoặc giống với thời kỳ suy thoái của Nhật trong thập niên 1990. Đại khủng hoảng thập niên 1930 làm cho Mỹ mất 10 năm mới đưa mức sản xuất trở lại thời trước khủng hoảng. Nhật cũng mất hơn 10 năm mới ổn định được hệ thống tài chính và khôi phục nền kinh tế. Từ các so sánh này, nhiều người lo là sự suy thoái hiện nay của kinh tế Mỹ có thể kéo dài đến 10 năm. Tuy nhiên, so với đại khủng hoảng thập niên 1930, các đối sách của Mỹ hiện nay không đơn độc mà có sự hợp tác của những nền kinh tế lớn vì sự tùy thuộc vào nhau, nhất là thị 13 trường tài chính đã lên cao độ, Mỹ sụp đổ sẽ kéo theo sự bất ổn ở các nền kinh tế khác. Hiện nay việc hợp taác đã bắt đầu trong chính sách lãi suất. Ngày 09/10/2008 cùng với Mỹ, ngân hàng trung ương của các nước lớn giảm lãi suất ngắn hạn hàng loạt (Mỹ còn 1,5%, khối Euro còn 3,75%...). Riêng Nhật Bản lãi suất đã ở mức quá thấp (0,5%) nên kỳ ày không thay đổi. Nỗ lực này có mục đích giảm phí tổn điều động vốn của ngân hàng, giảm phí tổn vay của doanh nghiệp và người tiêu dùng nhằm kích thích sản xuất và chi tiêu. Trong những ngày tới, nếu cần, các nước sẽ can thiệp trực tiếp vào thị trường ngoại hối để tránh sự biến động đột ngột trong tỉ giá các đồng tiền chính. Thêm vào đó, khác với thập niên 1930 , hồi đó Mỹ và nhiều nước khác đều gặp khó khăn ở mức độ gần như nhau, hiện nay kinh tế TG ngoài mĩ phát khá mạnh. Năm 2007 tăng trưởng ở mỹ chỉ có 2% trong khi thế giới là 5%. Theo dự báo của IMF năm 2008 mĩ tăng trưởng 1,6% trong khi Tg là 3,9%. Cùng với cơ chế hợp tác đã có của các nước lớn, sự năng động của kinh tế thế giới là điều kiện về thị trường giúp kinh tế mĩ mau hồi phục. Hiện nay tỉ lệ thất nghiệp của mĩ độ 6%, có thể tăng lên trong năm 2009 nhưng, với các lý do vừa nói, không thể có chuyện tăng lên tới mức 25% như thập niên 1930 1 điểm nữa là chính phủ ngày nay đóng vai trò quan trọng hơn và hiệu quả hơn vì có các cơ chế làm dịu tác động của khủng hoảng so với thập niên 1930. Để giảm sự lo âu của những người gửi tiết kiệm ở ngân hàng với số tiền lớn, chính phủ đã nâng mức bảo hiếm số tiền gửi từ 100.000USD lên 250.000USD trong đầu tháng 10 này. So với Nhật vào thập niên 1990, tình hình của Mỹ hiện nay cũng khác ít nhát ở hai điểm. Thứ nhất, thị trường bất động sản của Nhật cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990 tăng nhanh đến mức quá cao một cách bất thường, hình thành nền kinh tế bong bóng quá lớn nên khi nổ tác động rất mạnh đến hoạt động sản xuất và tiêu thụ. 14 Tình hình của Mỹ hiện nay phức tạp hơn do các công cụ đầu tư tinh vi, khó kiểm soát, nhưng riêng về bất động sản, sụ biến động tăng giảm không lớn lắm so với Nhật Bản 15 năm trước,. Thứ hai, trong thập niên 1990 Nhật bi giảm phát nặng nên lãi suất danh nghĩa giảm đến gần số không nhưng lãi suất thực vẫn cao. Hiện nay Mỹ lạm phát vài phần trăm nên dễ dùng chính sách tiền tệ kích thích sản xuất hơn Nhật hồi thập niên 1990. Các yếu tố làm cho kinh tế Nhật Bản hồi phục từ năm 2003 cũng cho thầy những gợi ý cho khả năng hồi phục của kinh tế Mỹ hiện nay. Một mặt Nhật can thiệp tích cực vào thị trường ngoại hối giữ cho đồng yên ở mức giá thấp, nhờ đó đảy mạnh xuất khẩu. Mặt khác, chính phủ bơm tiền vào ngân hàng, giải quyết vấn đề thiếu vốn cho vay. Ngoài ra, kinh tế Trung Quốc tăng trưởng cao soouts cả một giai đoạn dài góp phần tăng ngoại thu để kinh tế Nhậy nhanh chóng hồi phục. Cả 3 yếu tố này ngày nay cũng có thể thấy trong trường hợp của kinh tế Mỹ. Do đó, vấn đề nợ xấu của Mỹ có lẽ không kéo dài như Nhật 15 năm trước. Có thể từ cuối năm 2009 kinh tế Mỹ có triển vọng bước vào quá trình hồi phục. Với tình hình khủng hoảng, tình trạng thất nghiệp sẽ ra tăng. Tại Mỹ con số thất nghiệp đã lên tới 9,5%, tại khu vực châu Âu là 9,8%. Riêng tại Đức đầu tàu kinh tế châu Âu đã là 9%. Riêng tại Nhật là 5,5%. Tình trạng thất nghiệp luôn là chỉ tiêu đánh giá nền kinh tế. Việc thất nghiệp cao tạo sức ép lên ngân sách nhà nước khi phải hỗ trợ tiền trợ cấp. Trong khi ngân sách của các nước hiện nay có xu hướng thâm hụt cao. 3.1.3. Nguy cơ khủng hoảng nợ công sau khủng hoảng kinh tế: Khủng hoảng tài chính khiến cả thế giới bị chịu tác động. Không những thế nó còn tác động lớn khi cuộc khủng hoảng đi qua. Mặc dù cuộc khủng hoảng chưa có dấu hiệu kết thúc các ngân hàng, tổ chức tài chính trên thế giới làn lượt nộp đơn phá sản hoặc sáp nhập,bán lại. Các nước trên thế giới gặp 15 khó khăn trong việc tạo dựng việc làm cho nhân dân khi mà tình trạng thất nghiệp trở nên nghiêm trọng thì dấu hiệu khủng hoảng nợ công đã được thấy một cách rõ ràng hơn khi mà tổng số nợ công trên thế giới đã ở mức 35000 tỷ USD. Tình hình nợ công không chỉ diễn ra tại các nước nhỏ mà ngay cả các nước lớn, những đầu tàu kinh tế thế giới. Ngay cả đầu tàu kinh tế Mỹ cũng đã nợ tới 11500 tỷ USD, tổng số nợ của Mỹ chiếm tới 80% GDP của nước này. Hay nền kinh tế đứng thứ hai thế giới là Nhật cũng đã nợ tới 10000 tỷ USD, gấp đôi GDP của nước này. Có thể nói chưa bao giờ các nước tren thế giới lại vay nợ nhiều như bây giờ kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ II 1945. Việc vay nợ nhiều đã trở thành một vấn đề ngay từ bây giờ không phải là câu chuyện trước mắt. Nếu như sau chiến tranh thế giới thứ II với kế hoạch Marshall của mình thì Mỹ là chủ nợ của các nước châu Âu thì hiện tại tất cả đều là những người đang phải chịu nợ. Thứ nhất: ở các nước phát triển đứng trước tình thế là đảm bảo an sinh xã hội. Khi mà ở các nước này tình hình dân số già và việc phải trả một khoản tiền lớn cho lương hưu hay trợ cấp thất nghiệp sẽ khiến cho tình hình nợ công trở nên khó khăn hơn. Đơn cử Nhật Bản với tuổi thọ bình quân khoảng 86 tuổi thì việc đáp ứng nhu cầu của người dân sẽ là thách thức lớn. Cộng thêm khoản trợ cấp thất nghiệp khi mà tình hình thất nghiệp đang ngày càng cao. Thứ hai: Với các gói kích cầu của từng quốc gia. Với nhũng số tiền lớn như vậy cũng tạo nên khoản thâm hụt ngân sách của mình. Nhuy cơ vỡ nợ ở các quốc gia yếu, và điều đó đã được minh chứng tại Ireland và Rumani. Hay một số các quốc gia Hy Lạp, Ttalia, Tây Ban Nha. 3.2 Tác động đối với Việt Nam: Cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ có tác động trực tiếp thế nào đến Việt Nam? Điều đó phụ thuộc vào mối quan hệ kinh tế giữa hai nước. Tình hình hội nhập mở cửa của Việt Nam có sâu rộng với nền kinh tế Mỹ và thế giới hay không? Xét trên khía cạnh đầu tư, hiện nay, Mỹ đứng thứ 6 trong số các nước 16 đầu tư vào Việt Nam. Mỹ cũng là nhà đầu tư (NĐT) lớn, nếu cộng cả giá trị đầu tư qua các nước thứ 3 thì Mỹ là NĐT số 1 vào Việt Nam trong nhiều năm qua. Các dự án từ Mỹ vào Việt Nam phần lớn là giai đoạn đầu và tập trung nhiều vào hạ tầng dài hạn. Ngược lại, quan hệ về ngắn hạn chúng ta xuất sang Mỹ nhiều hơn. Trên lĩnh vực thương mại, Mỹ hiện là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, chiếm tỷ trọng khoảng 23-25%. Còn lại, quan hệ giũa 2 hệ thống tài chính, ngân hàng gần như không đáng kể. Về tác động gián tiếp, Việt Nam chưa vào sâu trong cuộc chơi toàn cầu nên đang có lợi thế là cơn ác mộng này chưa lan tới. Các nền kinh tế khác trong những ngày qua đã bị ảnh hưởng. Lợi thế này tạo cho chúng ta cái nhìn về một nền kinh tế “an bình” không bị bão táp làm tan vỡ. Chính điều này đã quyết định tính chất và quy mô của cơn địa chấn này đến nền kinh tế. Cuộc khủng hoảng này tác động đến kinh tế Việt Nam trên một số mảng cơ bản: lãi suất cho vay liên ngân hàng quốc tế tăng dẫn đến nợ ngắn hạn của Việt Nam tại các ngân hàng thương mại và các doanh ngiệp tăng, làm cho người dân dự đoán đồng USD giảm nên họ đã rút đồng USD ra khỏi ngân hàng hoặc bán USD mua tiền Việt Nam gửi vào,… Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng về mặt tiền tệ đối với Việt Nam có lẽ sẽ không đáng kể. Nếu như cuộc khủng hoảng bắt nguồn từ nền kinh tế Mỹ ảnh hưởng ngay lập tức tới các nền kinh tế hung mạnh khác, thì cơn bão này đến Việt Nam chậm hơn 1 nhịp. Nếu như sức tàn phá của cuộc khủng hoảng ở hầu hết các nước thể hiện đầu tiên và rõ nét nhất ở hệ thống tài chính, ngân hàng thì ở Việt Nam lại thể hiện trước hết là lĩnh vực xuất khẩu, nhập khẩu và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Sức ảnh hưởng mạnh nhất lại đè lên vai hàng triệu người nông dân, thợ thủ công tham gia sản xuất hàng xuất khẩu. Những loại chứng khoán mà hiện nay đang có vấn đề của những công ty chứng khoán và bảo hiểm của Mỹ chưa bán ở Việt Nam. Hệ thống tiền tệ và thị trường vốn, tị trường chứng khoán ở Việt Nam chưa lành mạnh, dễ tổn thương, dễ lâm vào bất ổn chủ yếu 17 là do các yếu tố trong nội bộ Việt Nam như thiếu tính công khai minh bạch, dân chúng khó tiếp cận, tồn tại giao dịch nội gián, …, chứ không liên quan nhiều đến cuộc khủng hoảng ở Mỹ. 3.2.1Ngành ngân hàng Việt Nam: Bị ảnh hưởng không đáng kể bởi hầu hết các ngân hàng Việt Nam là NHTM, phục vụ cho vay tiêu dùng, cho vay doanh nghiệp, độ phân tán rủi ro cao và không có sự liên thông đầu tư với các ngân hàng đầu rư lớn của Mỹ như các nước khác. Sự ảnh hưởng nếu có thì chỉ do tác động tâm lý nhất thời của nhà đầu tư. Nếu có chăng cũng chỉ có thể xảy ra khả năng một số nhóm nhà đầu tư sữ làm động tác “xả hàng” cổ phiếu ngành ngân hàng nhằm làm trầm trọng thêm tình hình để kéo giá cổ phiếu ngân hàng xuống. 3.2.2 Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Việt Nam có lẽ không bị ảnh hưởng nhiều từ cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Mỹ. Các nhà đầu tư chính ở Việt Nam là Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan…Ngay cả những công ty chế tạo của Mỹ nếu có kế hoạch đầu tư vào Việt Nam cũng sẽ không vì cuộc khủng hoảng này mà đình hoãn kế hoạch đó. Kinh nghiệm của thập niên 1990 cho thấy kinh tế Nhật suy thoái hầu như không ảnh hưởng gì đến FDI của họ ở Trung Quốc và Việt Nam. Kinh nghiệm của Intel tại Việt Nam cũng cho thấy công ty này chậm triển khai kế hoạch đầu tư ở nước ta chủ yếu vì không bảo đảm được nguồn nhân lực có trình độ cao cần thiết. Theo một khảo sát gần đây thì các doanh nghiệp nước ngoài khi được hỏi họ nước nào là địa điểm họ sẽ chú trọng đầu tư vào? Thì Việt Nam được nhiều người chọn lựa là thị trường mục tiêu hàng đầu. Vì Việt Nam có tình hình chính trị ổn định cộng thêm cơ sở pháp lý của Việt Nam ngày càng được cải cách, làm thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài. Cộng thêm khu vực châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng ít bị chịu ảnh hưởng của khủng hoảng và được dự đoán là khu vực sẽ hồi phục nhanh sau khủng hoảng. 3.2.3 Lĩnh vực xuất khẩu Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nhất từ cuộc suy thoái của Mỹ có lẽ là ở lĩnh vực xuất khẩu. Hiện nay Mỹ chiếm hơn 18 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Nhưng phần lớn sản phẩm của ta xuất khẩu sang Mỹ là hàng may mặc, giày dép và hàng thủy sản nên trước mắt chỉ những mặt hàng này gặp khó khăn. Dù Mỹ không gặp khủng hoảng, việc tập trung xuất khẩu một số mặt hàng nhất định sang Mỹ dễ gây va chạm với các nhà sản xuất bản xứ. Vấn đề của Việt Nam là phải nỗ lực chuyển dịch cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu theo hướng cao cấp hơn, đa dạng hơn. Trong thời gian trước mắt, Việt Nam nên củng cố sức cạnh tranh của các ngành công ngiệp để khi kinh tế Mỹ phục hồi sẽ triển khai chiến lược xuất khẩu với nhiều mặt hàng đa dạng hơn. 3.2.4 Đối với bất động sản: Chỉ có FDI vào lĩnh vực cao ốc văn phòng, resort cao cấp là bị ảnh hưởng, tuy nhiên sự suy giảm trong lĩnh vực đầu tư này không phải là điều đáng quan ngại. 3.2.5 Đối với thị trường chứng khoán: Sự ảnh hưởng nếu có thì chỉ là do tác động tâm lý nhất thời của nhà đầu tư (NĐT). Còn hoạt động của thị trường chứng khoán vẫn do yếu tố nội tại của nền kinh tế nước ta quyu định. Điều này thấy rõ khi mà thị trường chứng khoán Việt Nam không còn quá bị ảnh hưởng của khối ngoại. Những tháng qua mặc cho các quỹ đầu tư nước ngoài thoái vốn hay bán ròng thì thị trường chứng Việt Nam vẫn sôi động. Về mặt tâm lý ảnh hưởng lớn đến thị trường do thị trường chứng khoán Việt Nam mới được hình thành vì vậy việc chạy theo đám đông là điều không thể tránh khỏi ở thị trường Việt Nam. Mặc cho các công ty chứng khoán tại Việt Nam có mối quan hệ làm ăn với các công ty tổ chức nước ngoài hay không thì thị trường vẫn bị ảnh hưởng theo. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng ở thị trường nước ngoài có thể khiến nguồn vốn đầu tư vào TTCK Việt Nam không được dồi dào. Nguồn tiền của các tổ chức đầu tư vào Việt Nam cũng là tiền từ các công ty mẹ ở nước ngoài. Nếu các công ty ở nước ngoài khó khăn thì công ty con ở Việt Nam cũng phải dè dặt 19 trong đầu tư. Diều này làm hạn chế nguồn cung cấp của thị trường, làm cho TTCK khó có thể tăng quá nhanh như vừa qua. 3.2.6 Đối với ngành du lịch Ngành du lịch Việt Nam cũng sẽ không bị tác động nhiều vì khách du lịch vào Việt Nam rất đa dạng chứ không tập trung ở phân khúc khách cao cấp. . 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng