TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH
KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN
---oo0oo---
TIỂU LUẬN:
KINH TẾ BÙNG NỔ- GIÁO DỤC
LỘT XÁC PHẢI HAY KHÔNG?
GV: Th.S: Nguyễn Thanh Minh
MỤC LỤC
Lời mở đầu...................................................................................1
CHƯƠNG I.Thực trạng của nền giáo dục và nền kinh tế của Việt Nam hiện nay............2
1. Thực trạng của nền giáo dục.................................................................................2
2. Thực trạng của nên kinh tế....................................................................................2
2.1.
Lợi thế............................................................................................................2
2.2.
Hạn chế..........................................................................................................6
CHƯƠNG II.Mối quan hệ giữa giáo dục và kinh tế ở Việt Nam..........................................8
1. Đặc điểm về mối tương quan giữa giáo dục và kinh tế:........................................8
1.1
. Tính tất yếu về mối quan hệ giữa giáo dục và kinh tế..................................8
1.2
. Tính tiếp nối liên tục và phân đoạn..............................................................8
1.3
. Tính đa dạng và tương quan kinh tế giáo dục...............................................8
1.4.
Tính kinh tế sản xuất trong tương quan kinh tế giáo dục................................9
1.5.
Mối quan hệ cung -cầu và lợi ích –chi phí trong giáo dục..............................9
2. Vai trò của giáo dục đới với tăng trưởng và phát triển kinh tế:...........................11
2.1.
Giáo dục và tăng năng suất lao động ,tăng trưởng kinh tế............................11
2.2. Giáo dục và việc làm.......................................................................................13
2.3. Giáo dục với thị trường sức lao động.............................................................15
2.4. Giáo dục xóa đói giảm nghèo và công bằng xã hội.........................................16
3. Ảnh hưởng của nền Kinh tế đối với giáo dục:.....................................................17
3.1. Tăng trưởng kinh tế:........................................................................................18
3.2. Sự suy thoái kinh tế.........................................................................................19
CHƯƠNG III. Thành quả, hạn chế, giải pháp của giáo dục đối với việc phát triển kinh
tế ở Việt Nam ...................................................................................................................................19
1. Thành quả của giáo dục trong phát triển kinh tế của Việt Nam..........................19
2. Hạn chế của giáo dục Việt Nam..........................................................................21
2.1.
Nội dung và chương trình đào tạo................................................................21
2.2.
Chất lượng....................................................................................................21
2.3.
Quản lí..........................................................................................................21
2.4.
Đầu tư giáo dục............................................................................................23
2.5.
Quản lí đổi mới............................................................................................24
3. Một số giải pháp để phát triển kinh tế Việt Nam................................................25
Lời kết......................................................................................27
Bảng phân công công việc
Chương I
Chương II
Nhiệm vụ
1. Thực trạng của nền giáo dục
2. Thực trạng của nên kinh tế
1. Đặc điểm về mối tương quan giữa giáo dục
và kinh tế:
2. Vai trò của giáo dục đới với tăng trưởng và
phát triển kinh tế:
3. Ảnh hưởng của nền Kinh tế đối với GD
Chương III 1. Thành quả của giáo dục trong phát triển
kinh tế của Việt Nam
2. Hạn chế của giáo dục Việt Nam
3. Một số giải pháp để phát triển kinh tế VN
Tổng hợp
Powerpoint
Thuyết trình
Họ và tên
Nguyễn Thùy Bảo Sang
Đặng Phương Khánh
Đỗ Thị Ngọc Huyên
Đỗ Thị Kim Huyền
Trần Tuyết Diệu
Nguyễn Thiên Trang
Trần Thị Huỳnh Như
Nguyễn Thị Thúy Vân
Đỗ Thị Ngọc Huyên
Mai Thị Mỹ Duyên
Nguyễn Thùy Bảo Sang
Đặng Phương Khánh
Danh mục bảng và đồ thị
Hình 1: ICOR của nền kinh tế giai đoạn 2011 - 2017.
Hình 2: Đánh giá của doanh nghiệp về những giải pháp tháo gỡ khó khăn của Chính phủ
được thực hiện trong thời gian qua.
Hình 3: Chi cho giáo dục, đào tạo tổng chi tiêu công của Việt Nam với một số nước, khu
vực (%)
Hình 4: Biểu đồ thể hiện nhu cầu tuyển dụng lao động
Hình 5: Biểu đồ thể hiện mức lương trung bình phổ biến theo cấp bậc, vị trí trong văn
phòng
Bảng 1: Điểm chuẩn trúng tuyển năm 2017 của Trường Cao đẳng sư phạm Bắc Ninh.
Bảng 2: Lương khởi điểm của giáo viên
Bảng 3: Lương giáo viên công tác 15-25 năm
1. Mục đích đề tài:
Tìm hiểu về các khía cạnh của giáo dục và nền kinh tế như: thực trạng, mối quan hệ,
những kết quả hạn chế của giáo dục và nền kinh tế Việt Nam. Từ đó nghiên cứu và đưa ra
những giải pháp để khắc phục tình hình kinh tế hiện tại cũng như đề ra các biện pháp để
cải cách giáo dục.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là những vấn đề lý thuyết và thực tiễn của giáo dục Việt Nam,
cũng như tác động của nó đến nền kinh tế Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu : Về mặt lý thuyết, nghiên cứu về thực trạng của nền giáo dục và
nền kinh tế cả nước ta hiện nay. Về mặt thực tiễn, nghiên cứu số liệu liên quan đến các
chỉ số giáo dục và kinh tế. Trên cơ sở đó, đưa ra các biện pháp, cơ chế thích hợp để điều
chỉnh và phát triển kinh tế và giáo dục ở Việt Nam
3. Phương pháp nghiên cứu:
Từ những tài liệu đã được học và thông qua tìm hiểu, tham khảo sách báo và internet
về những vấn đề liên quan đến giáo dục cũng như về kinh tế của nước ta, kết hợp với
phương pháp so sánh, phân tích, đánh giá tổng hợp đã giúp chúng em hoàn thành đề tài
tiểu luận này.
Kinh tế bùng nổ - giáo dục lột xác phải hay không
Lời mở đầu
Hội nhập kinh tế đang là xu thế để phát triển của thế giới và dần dần tiến tới toàn
cầu hóa trên nhiều lĩnh vực. Trong xu thế đó, quá trình hội nhập của các nước diễn ra
nhanh chóng từ những công cuộc đổi mới. Ngày nay nền kinh tế thế giới đang biến đổi
nhanh chóng trên cơ sở sự phát triển như vũ bão về khoa học công nghệ. Giáo dục không
những cung cấp nguồn nhân sự cho sự phát triển kinh tế mà còn là nhân tố nòng cốt trong
phát triển khoa học công nghệ. Vì thế có thể khẳng định là đầu tư cho giáo dục là đầu tư
phát triển theo chiều sâu, tạo nên sự phát triển liên tục và bền vững cho nên kinh tế.
Để hội nhập vào sự nghiệp CNH-HĐH bên cạnh số lượng thì chất lượng nhân sự
hiện đang là một bài toán đối với nên kinh tế Việt Nam. Giáo dục với mục tiêu “nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”, hình thức nhân cách. Giáo dục là nhân tố
quyết định sự hình thành và gia tăng các thành tố tri thức, thái độ, hành vi, kỹ năng của
nguồn lực nhân sự. Nguồn lực này sẽ tác động vào nên kinh tế - xã hội tạo nên sự phát
triển liên tục và bền vững. Sự phát triển kinh tế- xã hội tạo nên sự phát triển giáo dục
cũng góp phần quan trọng vào vệc nâng cao năng suất và hiệu quả lao động.
Giáo dục và kinh tế có mối quan hệ tác động qua lại rất chặt chẽ. Quy mô, chất
lượng giáo dục có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình phát triển kinh tế xã hội và ngược lại.
Vì vậy để tìm hiểu về các khía cạnh khác nhau của giáo dục và nền kinh tế như: thực
trạng, mối quan hệ, những kết quả, hạn chế… của giáo dục và nền kinh tế Việt Nam,
nhóm 7 chúng tôi đã nghiên cứu, thảo luận và hoàn thành bài tiểu luận với đề tài “KINH
TẾ BÙNG NỔ- GIÁO DỤC LỘT XÁC PHẢI HAY KHÔNG?”. Mặc dù đã cố gắng,tuy
nhiên do kiến thức còn hạn chế nên trong quá trình nghiên cứu và thảo luận nhóm không
tránh khỏi những sai sót. Vì thế, nhóm 7 mong muốn được sự góp ý của giáo viên hướng
dẫn và cả lớp để đề tài hoàn thiện hơn.
1
Kinh tế bùng nổ - giáo dục lột xác phải hay không
CHƯƠNG I.
Thực trạng của nền giáo dục và nền kinh tế của Việt Nam hiện
nay
1. Thực trạng của nền giáo dục
Giáo dục đào tạo đóng vai trò quan trọng là nhân tố chìa khóa, là động lực thúc đẩy
nền kinh tế phát triển. Không chỉ ở Việt Nam mà ở hầu hết các quốc gia khác trên thế
giới, các chính phủ đều coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Vậy tại sao giáo dục đào tạo
lại có tầm quan trọng đến chiến lược phát triển đất nước như vây ? Việt Nam cũng là một
trong những quốc gia rất coi trọng sự phát triển của nền giáo dục, đã và đang củng cố xây
dựng nền giáo dục thực sự vững mạnh và có chất lượng. Vì vậy mà trong suốt những năm
qua
Đảng và nhà nước đã luôn quan tâm và tập trung đầu tư rất nhiều cho nền giáo dục
Việt Nam. Hiện trên cả nước có khỏang gần 90 cơ sở đào tạo đại học bao gồm các trường
đại học quốc gia, đại học vùng, các trường đại học công lập, bán công, dân lập và các học
viện. Tới đây sẽ có thêm một số trường đại học tư thục ra đời. Lực lượng giảng viên
không ngừng nâng cao về chất lượng và quy mô, số lượng sinh viên tăng đáng kể (tăng
khoảng 15 lần so với 20 năm trước) và do đó làm cho trình độ dân trí tăng lên rõ rệt.
Thành tích trên là đáng trân trọng và tôn vinh. Mặc dù như vậy, nhưng chất lượng giáo
dục của Việt Nam vẫn chưa cao, nói một cách nom na là số lượng thì tăng rất nhanh
nhưng chất lượng vẫn không tăng thậm chí là còn tuột dốc, chưa theo kịp với sự đổi mới
của thế giới. Như vậy những quan tâm và đầu tư của nhà nước đã thật sự đúng cách và
đúng chỗ ? Và nó có ảnh hưởng gì nến sự phát triển của nền kinh tế ?
2. Thực trạng của nên kinh tế
2.1.
Lợi thế
Tăng trưởng kinh tế tăng cao trong bối cảnh các biến số phản ánh ổn định kinh tế
được cải thiện.
2
Kinh tế bùng nổ - giáo dục lột xác phải hay không
Thứ nhất, về tỉ lệ lạm phát. Trong những năm gần đây, tỉ lệ lạm phát có xu hướng
giảm rõ rệt, năm 2017 là dưới 5% (thấp hơn tỉ lệ lạm phát trung bình giai đoạn 20112017 là 6,5%).
Thứ hai, về tỉ lệ nợ công/GDP. Từ 63,6% năm 2016, tỉ lệ nợ công/GDP năm nay đã
giảm xuống còn 62%. Tốc độ tăng nợ công cũng đang có xu hướng giảm dần; giai đoạn
2011-2015, tăng trưởng nợ công trung bình đạt 18,4%, năm 2016 tăng 15% và năm 2017
là 9%. Cùng với đó, bội chi ngân sách đang giảm, tỉ lệ chi thường xuyên trong chi ngân
sách đã giảm xuống còn 64,9% năm nay và dự kiến là 64% vào năm 2018.
Thứ ba, cán cân thương mại cải thiện từ nhập siêu năm 2015 (3,2 tỷ USD), năm 2016
xuất siêu 2,68 tỷ USD và khả năng năm 2017 đạt thặng dư cán cân thương mại.
Như vậy, tăng trưởng kinh tế đang tăng tốc trên nền tảng kinh tế vĩ mô vững chắc
hơn. Tuy nhiên, nếu nhìn vào mức độ, tăng trưởng kinh tế còn thấp hơn so với những
năm trước 2008, tỷ lệ nợ công cao, bội chi ngân sách còn lớn cho dù xu hướng đang dần
cải thiện. Điều này phản ánh nhiều chính sách kinh tế vĩ mô đang đi đúng hướng nhưng
tốc độ thẩm thấu các chính sách tốt vào cuộc sống còn chậm. Riêng với sự phát triển của
các ngành, dịch vụ đang chiếm vai trò quan trọng trong tăng trưởng của nền kinh tế. Số
liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy tốc độ tăng trưởng sản lượng ngành dịch vụ ở mức
cao, cao hơn so với tăng trưởng sản lượng ngành công nghiệp và xây dựng và ngành
nông, lâm nghiệp và thủy sản. Ngoài ra, đóng góp cho tăng trưởng của khu vực dịch vụ
vào tăng trưởng cũng đạt mức cao nhất.
Năm 2017, tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức cao và nền tảng kinh tế vĩ mô dần được
cải thiện sẽ là cơ sở để duy trì tốc độ tăng trưởng cho năm 2018. Bên cạnh diễn biến tích
cực của các chỉ số kinh tế như bội chi ngân sách, nợ công, cán cân thương mại, tỷ lệ lạm
phát... nền kinh tế đã có những cải thiện trong hiệu quả đầu tư và năng lực cạnh tranh. Hệ
số ICOR năm 2017 đạt 4,93, thấp hơn so với năm 2016 là 5,15. Mặc dù có thể biến động
lên xuống do nhiều yếu tố tác động, nhưng rõ ràng đường xu hướng ICOR giảm xuống.
Điều này phản ánh hiệu quả đầu tư của nền kinh tế đang dần được cải thiện.
3
Kinh tế bùng nổ - giáo dục lột xác phải hay không
Hình 1: ICOR của nền kinh tế giai đoạn 2011 - 2017. Nguồn: Tổng cục Thống kê
Ngoài ra, theo Báo cáo đánh giá năng lực cạnh tranh toàn cầu của Diễn đàn Kinh tế
Thế giới (WEF), chỉ số năng lực cạnh tranh của Việt Nam đã tăng từ 4,31 năm 2016 lên
4,4 năm 2017. Xếp hạng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam tăng 5 bậc so với
năm 2016 và tăng 20 bậc so với 5 năm trước đây. Kinh tế nước ta tuy vẫn tiếp tục dựa
vào khai thác tài nguyên khoáng sản nhưng về mặt xu hướng, việc chuyển đổi mô hình
tăng trưởng theo hướng tích cực – ít dựa vào khai thác tài nguyên và dựa nhiều hơn vào
công nghệ, năng suất – sẽ đòi hỏi thời gian.
Kỷ nguyên công nghệ – cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang diễn ra với nhịp
độ nhanh có những tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế thế giới. Nếu năm 2006, nhiều
người biết đến Microsoft như một tập đoàn thuộc lĩnh vực công nghệ hiếm hoi nằm trong
top đầu những công ty có mức vốn hóa thị trường lớn nhất thế giới, thì nay Apple,
Alphabet, Amazon hay Facebook đều đã xây dựng được tiếng tăm và chiếm giữ những
vị trí đầu bảng.
Tại Việt Nam, một mặt, cuộc cách mạng này sẽ đem đến cơ hội to lớn cho các doanh
nghiệp và ngành nghề có sự chuẩn bị năng lực tốt để tận dụng cơ hội. Mặt khác, đó là
thách thức cho nền kinh tế nói chung, một số ngành nghề không phù hợp và các doanh
nghiệp thích nghi chậm với bối cảnh mới. Chẳng hạn, trong khi đem lại nhiều công nghệ
mới và do đó là cơ hội mới cho các doanh nghiệp, doanh nhân khởi nghiệp như Hachi –
4
Kinh tế bùng nổ - giáo dục lột xác phải hay không
doanh nghiệp xây dựng trang trại thủy canh trồng rau sạch bằng việc áp dụng công nghệ
cao, điều khiển trồng rau từ xa, nó cũng gây ra nhiều khó khăn trong cạnh tranh cho các
ngành nghề như taxi truyền thống...
Đặc biệt, thời gian qua, Chính phủ đã cảm nhận và nhận thức rõ ràng hơn về diễn biến
của của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Tuy nhiên, tận dụng cơ hội hay giảm
thiểu thách thức đòi hỏi sự nhận thức của các Bộ, Ban, ngành, địa phương; sau đó là sự
tích hợp bối cảnh mới vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của các ngành, địa
phương; và đưa ra các giải pháp cụ thể, kế hoạch hành động và tổ chức thực hiện các giải
pháp nhằm làm cho cuộc cách mạng 4.0 trở thành cơ hội của nền kinh tế, đem lại lợi ích
cho các ngành và doanh nghiệp thay vì thách thức và các phí tổn cho ngành và doanh
nghiệp.
Theo khảo sát mới đây của Vietnam Report, nhiều doanh nghiệp lớn đánh giá tốt về
hiệu quả của những chính sách giúp doanh nghiệp tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế,
cải cách thủ tục hành chính hay nâng cao chất lượng đào tạo, phát triển nguồn nhân lực...
từ phía Chính phủ trong thời gian qua. Tuy nhiên, việc triển khai công tác phòng, chống
tham nhũng và xử lý nợ xấu còn nhiều bất cập.
5
Kinh tế bùng nổ - giáo dục lột xác phải hay không
Hình 2: Đánh giá của doanh nghiệp về những giải pháp tháo gỡ khó khăn của Chính
phủ được thực hiện trong thời gian qua.
Nguồn: Khảo sát các doanh nghiệp lớn Việt Nam(VNR500) – Vietnam Report, tháng
11/2017.
Nhìn chung, triển vọng của nền kinh tế Việt Nam trong ngắn hạn là rất tích cực, tuy
nhiên về trung và dài hạn, nó sẽ phụ thuộc chủ yếu vào các chính sách của Chính phủ và
tốc độ thẩm thấu của các chính sách tốt vào nền kinh tế. Chính sách của Chính phủ có thể
được thiết kế tốt nhưng việc gỡ bỏ các rào cản, cản trở và sức ỳ thể chế để chính sách tốt
có tác động hiệu quả tích cực lên nền kinh tế, lên hoạt động của các doanh nghiệp mà đón
đầu là những doanh nghiệp lớn sẽ là thước đo quan trọng phản ánh năng lực thực sự của
một “Chính phủ kiến tạo và hành động để phục vụ người dân và doanh nghiệp”.
2.2.
Hạn chế
Nhận xét: Mặc dù có nhiều dấu hiệu khởi sắc nhờ sự điều hành quyết liệt của Chính
phủ và sự vào cuộc của các bộ, ngành, nhưng thực trạng kinh tế - xã hội trong chín tháng
qua cũng bộc lộ một số hạn chế, yếu kém cần tiếp tục quan tâm giải quyết. Nợ xấu trong
hệ thống ngân hàng ở mức dưới 3% nhưng thực chất nợ xấu toàn nền kinh tế vẫn còn ở
mức cao. Tiến đô ̣ tổ chức lại hệ thống các đơn vị sự nghiệp công lập; sắp xếp, cổ phần
hóa doanh nghiê ̣p nhà nước, thoái vốn trong những ngành Nhà nước không cần nắm giữ
chưa đạt yêu cầu đề ra. Một số vụ cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đặt ra vấn đề về
tiêu chí xác định lựa chọn cổ đông chiến lược và định giá giá trị doanh nghiệp, giá trị
quyền sử dụng đất…
Viê ̣c các nhà đầu tư nước ngoài dịch chuyển dòng vốn và mở rô ̣ng quy mô sản xuất
tại Viê ̣t Nam là tín hiê ̣u tích cực nhưng nếu không được thẩm định, kiểm soát kỹ cũng
kéo theo sự chuyển dịch công nghệ lạc hậu, kém thân thiện môi trường vào nước ta, đồng
thời đặt ra những khó khăn, thách thức đối với các thành phần kinh tế khác về năng lực
cạnh tranh, kể cả tác động chèn lấn sự phát triển mà chưa tạo ra tác động lan tỏa, thúc đẩy
liên kết để cùng phát triển.
Các dự án BOT giao thông bên cạnh các đóng góp quan trọng cho nền kinh tế nhưng
dư luận xã hội cũng bày tỏ sự không hài lòng về một số khâu trong quá trình triển khai dự
6
Kinh tế bùng nổ - giáo dục lột xác phải hay không
án như chỉ định thầu, các nhà đầu tư chưa bảo đảm năng lực, chất lượng một số công
trình kém, mức giá dịch vụ, thời gian thu phí và viê ̣c đặt các trạm thu phí BOT chưa hợp
lý tại các tuyến quốc lộ. Tình hình vi phạm pháp luâ ̣t trong hoạt động khai thác khoáng
sản tại các địa phương diễn ra hết sức phức tạp nhưng chưa kịp thời phát hiện, ngăn chặn,
xử lý. Viê ̣c khai thác trái phép các loại tài nguyên như vàng, cát, sỏi... làm thất thoát tài
nguyên, thất thu ngân sách, ảnh hưởng xấu đến môi trường, an ninh trật tự xã hội. Tình
trạng cháy rừng, phá rừng nghiêm trọng, tình trạng sạt lở bờ sông, bờ biển, mất trâ ̣t tự an
toàn xã hô ̣i còn diễn biến phức tạp gây bức xúc, lo lắng trong nhân dân.
Tình trạng di cư, nhất là di cư tự do tại mô ̣t số khu vực như ở Tây Nguyên vẫn có
chiều hướng phức tạp làm thay đổi cơ cấu, phân bố dân cư, lao đô ̣ng và gây nhiều hạn
chế trong viê ̣c tiếp câ ̣n các dịch vụ xã hô ̣i về nhà ở, nước sạch, giáo dục, y tế, viê ̣c làm và
trâ ̣t tự an toàn xã hô ̣i do thiếu nguồn lực để giải quyết.
Chất lượng khám chữa bê ̣nh tuyến y tế cơ sở chưa cao, còn tình trạng buông lỏng
quản lý, vi phạm các quy định về đấu thầu thuốc, y tế dự phòng (dịch sốt xuất huyết), bảo
hiểm y tế bị lạm dụng, trục lợi ở nhiều cơ sở khám chữa bệnh. Chất lượng và an toàn thực
phẩm, hàng hóa vẫn diễn biến phức tạp gây bức xúc trong dư luâ ̣n xã hô ̣i. Đời sống người
dân vùng sâu, vùng xa, vùng bị thiên tai còn khó khăn.
Tình hình vi phạm pháp luâ ̣t và tô ̣i phạm còn diễn biến phức tạp và nghiêm trọng hơn
với sự xuất hiê ̣n của mô ̣t số phương thức, thủ đoạn mới của tô ̣i phạm tham nhũng, buôn
lâ ̣u, ma túy, tô ̣i phạm sử dụng công nghê ̣ cao gây bức xúc, lo lắng trong xã hô ̣i. Một số vụ
việc, vụ án dư luận xã hội quan tâm chậm được xử lý. An toàn thông tin, an ninh mạng
còn nhiều bất cập, còn tình trạng lợi dụng mạng xã hội đưa tin xấu, bôi nhọ, gây mất
niềm tin trong nhân dân.
Quản lý nhà nước trên các lĩnh vực đầu tư xây dựng, tài nguyên ở nhiều địa phương
còn sơ hở, thiếu sót. Sai phạm, vi phạm kỷ luâ ̣t của cán bô ̣, đảng viên trong tuyển dụng,
đề bạt, bổ nhiê ̣m cán bô ̣ tại nhiều cơ quan, ban ngành, địa phương thiếu khách quan,
minh bạch; tình trạng tham nhũng, lãng phí vẫn còn xảy ra ở một số nơi.
An ninh trật tự tại một số địa bàn còn diễn biến phức tạp, đấu tranh bảo vệ chủ quyền
quốc gia còn nhiều khó khăn. Tình hình khiếu nại, tố cáo tuy có giảm về số lượt, số đơn,
số vụ việc nhưng tính chất và mức độ phức tạp lại tăng lên…
7
Kinh tế bùng nổ - giáo dục lột xác phải hay không
CHƯƠNG II.
Mối quan hệ giữa giáo dục và kinh tế ở Việt Nam
1. Đặc điểm về mối tương quan giữa giáo dục và kinh tế:
1.1 . Tính tất yếu về mối quan hệ giữa giáo dục và kinh tế
Mác chỉ rõ :giáo dục phụ thuộc vào điều kiện sống có nghĩa là :giáo dục phụ thuộc
vào trình độ sản xuất của sức sản suất ,của tình trạng phân công lao động xã hội,của mối
quan hệ giữa giai cấp và những vấn đề khác của chính trị pháp quyền .Tuy nhiên cũng
cần nhìn thấy sự tác động trở lại của giáo dục đối với kinh tế.
Một nền kinh tế chỉ trở nên vững mạnh và tăng trưởng liên tục nếu nó chứa một hệ
thống giáo dục có đường lối chính sách cơ chế tiến bộ ,Phát triển cân đối về số lượng và
chất lượng.Ngược lại ,giáo dục muốn phát triển theo xu hướng tiến bộ lại cần có chỗ dựa
và được sự hỗ trợ của một nền kinh tế vững mạnh ,có nền sản xuất hiện đại tiên tiến.
1.2 . Tính tiếp nối liên tục và phân đoạn
Hoạt động của kinh tế và giáo dục diễn ra liên tục xen kẽ vào nhau.Mỗi kế hoạch phát
triển kinh tế và kế hoạch phát triển giáo dục đều phải tính tới các thành quả trước đó và
dự định cho thời gian theo những khoảng thời gian dài.
Khi lập kế hoạch giáo dục vừa phải phù hợp với khả năng hiện tại của nền kinh tế
vừa phải tính tới nhu cầu phát triển kinh tế (đặc biệt là phân công lao động) của tương lai.
Về phía kinh tế bỏ vốn đầu tư cho giáo dục cần xét dưới góc độ phục vụ cho sự phát
triển giáo dục của hiện tại (và đó cũng chính là phục vụ đời sống văn hóa tinh thần cho xã
hội),đồng thời đó cũng chính là đầu tư cho chính sự phát triển kinh tế theo chiều sâu.
1.3 . Tính đa dạng và tương quan kinh tế giáo dục
Tương quan kinh tế giáo dục là một trong những mối tương quan của giáo dục đối với
toàn bộ đời sống xã hội;ngược lại kinh tế bên cạnh mục tiêu phục vụ đời sống tinh thần
còn phải phục vụ các nhu cầu đời sống vật chất và các nhu cầu đa dạng khác của xã
hội .Tuy nhiên ,trong bước quá độ lên CNXH thì chức năng của giáo dục cần được coi là
chức năng then chốt .
Xác định chức năng kinh tế của giáo dục có tính then chốt trong cách mạng XHCN
,song không thể lạm dụng vào hoạt động giáo dục những mục tiêu kinh tế đơn thuần .Mỗi
8
Kinh tế bùng nổ - giáo dục lột xác phải hay không
hoạt động giáo dục có chứa đựng nội dung kinh tế nhất định ,nhưng trường học là nơi
đào tạo chứ không phải là cơ sở kinh doanh sản xuất.
1.4.
Tính kinh tế sản xuất trong tương quan kinh tế giáo dục
Tương quan kinh tế giáo dục cần xét tới những đặc thù kinh tế sản xuất của
ngành giáo dục .Nó là một ngành sản xuất đặc biệt của kinh tế giáo dục ,thành phẩm của
giáo dục tuy không phải là vật phẩm hàng hóa mang ra trao đổi ,nhưng nó sẽ có mặt và
tham gia vào mọi quá trình sản xuất .
Hoạt động đào tạo ở các cơ sở giáo dục phải đảm bảo về kinh tế kĩ thuật theo
tính chát của một quá trình sản xuất –tương ứng vưới nó là các yếu tố đảm bảo quy trình
đào tạo :Người dạy ,người học ,nội dung ,chương trình ,cơ sở vật chất ,tổ chức quản lí
,kiểm tra giám sát …..
Đội ngũ cán bộ giáo dục ,giáo viên ,học sinh thuộc hệ thống giáo dục chiếm
một khối lượng bằng 1/3 tổng dân số cả nước ,nó có mối liên hệ với cơ cấu lao động ,cơ
cấu dân số của đất nước,với ngay cả sự phân phối tiêu dùng hàng hóa do kinh tế mang lại.
Cơ sở vật chất thuộc ngành giáo dục là một bộ phận cấu thành tài sản cố định
của nền kinh tế quốc dân.
Nội dung chương trình đào tạo có những mối liên hệ với yêu cầu tạo sức lao
động và đổi mới công nghệ ,kĩ thuật của các ngành sản xuất.
Từ phía kinh tế thì sự hình thành và phương thức phân phối tổng sản phẩm xã
hội phải quán triệt các yêu cầu của hoạt dộng đào tạo (quỹ bù đắp ,quỹ tích lũy xã hội
được huy động vào việc tái trả lương cho đội ngũ cán bộ giáo dục ,giáo viên,một phần trợ
cấp cho học sinh ,quỹ quốc phòng cũng cần một phần tham gia vào chi phí cho giáo dục)
1.5. Mối quan hệ cung -cầu và lợi ích –chi phí trong giáo dục
Theo phân tích kinh tế về giáo dục thì cung cầu trong giáo dục thực chất là mối quan
hệ giữa cơ hội có việc làm (kì vọng thu nhập trong tương lai) và các yêu cầu về giáo
dục.Ở các nước đang tiến hành công nghiệp hóa ,cầu về giáo dục được quyết định bởi kì
vọng thu nhập trong tương lai và những chi phí trực tiếp và gián tiếp cho việc đi học của
các nhân và gia đình ,đông thời ,cung về các cơ hội cuả giáo dục phổ thông (đầu tư phát
9
Kinh tế bùng nổ - giáo dục lột xác phải hay không
triển giáo dục phổ thông ,số lượng chỗ học ,trang thiết bị…)lại được quy định bởi chính
sách phát triển giáo dục .
Nhu cầu về giáo dục của một cá nhân :
Có mối quan hệ với mức chênh lệch về thu nhập giữa những việc làm trong
khu vực “hiện đại “ và “truyền thống”
Cầu về giáo dục sẽ tỉ lệ ngịch với những chi phí trực tiếp của cá nhân và gia
đình cho việc đi học
Tỉ lệ nghịch với chi phí gián tiếp hoặc “ thu nhập phải từ bỏ “ do việc đi học.
Bên cạnh các nhân tố kinh tế nêu trên ,một số nhân tố phi kinh tế cũng ảnh hưởng tới
cầu về giáo dục (truyền thống văn hóa,học vấn của cha mẹ, quy mô gia đình …).ở các
nước đang phát triển khoảng cách chênh lệch giữa chi phí xã hội và chí phí cá nhân ngày
càng lớn sẽ lại kích thích cầu về giáo dục cấp cao lớn hơn so với cầu về giáo dục ở các
cấp học thấp.
Tuy nhiên khả năng tạo việc làm mới không theo kịp với tốc đọ mở rộng giáo dục
,thậm chí sẽ giảm đi vì thiếu nguồn tài chính.Sự chênh lệch giữu lợi ích và chí phí cảu xã
hội so với cá nhân sẽ dẫn đến sử dụng sai các nguồn lực đầu tư cho phát triển.Việc sử
dụng sai các nguồn lực sẽ tiếp tục tăng thêm nếu như nhà nước không có sự điều chỉnh
chính sách thích hợp về tiền lương ,việc làm và chính sách giáo dục .
Việc đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực có thể bị sử dụng sai và do ảnh hưởng xấu
đến tăng trưởng và phát triển kinh tế trong hai trường hợp sau:
Nguồn lao động được đào tạo vượt quá khả năng thu hút của việc làm trong
nền kinh tế .Những người có học vấn cao thường làm những công việc không cần tới
mức học vấn đó và do đó những người có mức học vấn phù hợp với việc làm thì lại bị
thất nghiệp khiến cho họ phải tiếp tục học ở bậc học cao hơn để có cơ hội việc làm.
Những người có mức học vấn cao thường nhận việc làm ở khu vực “hiện đại”
với thu nhập cao.Trong khi đó những người có mức học vấn vừa phải ngày càng đông sẽ
làm tăng nhanh đội ngũ những người thất nghiệp hoặc phải làm những việc ở khu vực
“truyền thống “ với mức thu nhập thấp và không tương xứng với mức độ học vấn mà họ
nhận được.sự phân cực và bất bình đẳng về thu nhập này phản ánh việc sử dụng sai nguồi
nhân lực có học vấn –nguồn lực được coi là có giá trị nhất trong sự phát triển.
10
Kinh tế bùng nổ - giáo dục lột xác phải hay không
Những dịch chuyển về cung cầu trong giáo dục do đổi mới kinh tế:
Dịch chuyển về cung :
Chất lượng giáo dục được cải thiện
Vai trò của khu vực tư nhân tăng lên
Dịch chuyển về cầu :
Chi phí đi học cao hơn
Mức thu nhập của hộ gia đình được nâng cao
Cơ hội việc làm và tiền công cao hơn
2. Vai trò của giáo dục đới với tăng trưởng và phát triển kinh tế:
2.1.
Giáo dục và tăng năng suất lao động ,tăng trưởng kinh tế.
Theo nghiên cứu của ngân hàng thế giới về mức tích lũy vốn nhân lực nhằm tạo ra
tăng trưởng đã khẳng định tầm quan trọng đặc biệt của giáo dục đối với tăng trưởng kinh
tế thông qua việc tăng năng suất lao động .Trên thực tế xuất phát từ mô hình tăng trưởng
sủ dụng hiệu quả nguồn nhân lực kết hợp với đầu tư bổ sung nguồn vốn vật chất ,các
nước Đông Á tăng trưởng nhanh đã đầu tư rất nhiều vào phát triển giáo dục .Việc tăng
trưởng đầu tư cho giáo dục ,đặc biệt là giáo dục ở châu á trong những năm 1970 đã làm
tăng năng suất lao động tăng từ 10.5% đến 23.2%
Theo tính toán của ngân hàng thế giới bằng phương pháp hàm thu nhập ,tỷ suất lợi
nhuận của đầu tư giáo dục rất cao ở những nước có thu nhập vừa và thấp. Hầu hết ở các
nước chưa phổ cập giáo dục thì tỷ suất lợi nhuận của đầu tư giáo dục tiểu học là cao nhất
sau đó là giáo dục trung học và đại học.Đối với các nước đã phổ cập giáo dục tiểu học thì
tỷ suấy lợi nhậu của đầu tư giáo dục trung học cao hơn tiểu học.
11
Kinh tế bùng nổ - giáo dục lột xác phải hay không
Bảng tỷ suất đầu tư cho giáo dục của VIỆT NAM so với các nước khác:
Hình 3: Chi cho giáo dục, đào tạo tổng chi tiêu công của Việt Nam với một số nước,
khu vực (%)
Theo phân tích trong báo tài chính cho thấy:
Lĩnh vực, giáo dục, đào tạo được ưu tiên đầu tư nguồn lực lớn từ ngân sách nhà
nước (NSNN). Tỷ lệ chi ngân sách cho giáo dục hàng năm của Việt Nam ở mức xấp xỉ
20%, tương đương 5% GDP. Đây là mức rất cao so với nhiều nước trên thế giới, kể cả
các nước có trình độ phát triển kinh tế cao hơn Việt Nam rất nhiều .
Năm 2015, tổng nguồn NSNN dành cho lĩnh vực giáo dục, đào tạo là 224.826 tỷ
đồng, chiếm khoảng 20% tổng chi NSNN. Chi thường xuyên lĩnh vực giáo dục đào tạo
năm 2015 là 184.070 tỷ đồng. Theo đó, dự toán chi từ ngân sách địa phương (NSĐP) là
152.000 tỷ đồng để thực hiện nhiệm vụ giáo dục đào tạo của địa phương; chi từ ngân
sách trung ương (NSTW) là 32.070 tỷ đồng.
Trong tổng chi từ NSTW 32.017 tỷ đồng, cũng bố trí 10.398 tỷ đồng hỗ trợ hoạt động
thường xuyên của các cơ sở giáo dục đào tạo thuộc các bộ, cơ quan trung ương. Chi đầu
12
Kinh tế bùng nổ - giáo dục lột xác phải hay không
tư phát triển giáo dục, đào tạo năm 2015 là 33.756 tỷ đồng; trong đó, chi của NSTW là
14.096 tỷ đồng; chi NSĐP là 19.660 tỷ đồng.
So với các nước, trong khu vực, tỷ lệ chi tiêu công cho giáo dục trên GDP của Việt
Nam cao hơn hẳn nhiều nước, thậm chí so với các nước có trình độ phát triển kinh tế cao
hơn, chẳng hạn như Singapore (3,2% năm 2010), Malaysia (5,1%), Thái Lan (3,8%),
Hàn Quốc (5,2% năm 2011), Hồng Kông (3,5%).
Cũng theo những kết quả nghiên cứu đánh giá của ngân hàng thế giới đối với các
nước về mối quan hệ giữa phát triển giáo dục phổ thông với tăng mức thu nhập bình quân
đầu người trên thực tế và mức tăng trưởng kinh tế thì giáo dục phổ thông có vai rò quan
trọng nhất đối với mức tăng thu nhập và tăng trưởng kinh tế .Các nước Đông Á tăng
trưởng nhanh hơn các nước Mỹ la tinh có tới 34% do đóng góp của mức đầu tư vốn vật
chất và 38% là do số lượng học sinh ở bậc tiểu học cao hơn.
2.2. Giáo dục và việc làm
Sản xuất phát triển dẫn tới kết cấu sản xuất và kết cấu thị trường lao động thay đổi
theo hướng lao động trí tuệ ngày càng chiếm tỉ trọng lớn trong thị trường lao động .Do đó
,nhu cầu phát triển kinh tế nảy sinh 2 yêu cầu đối với giáo dục là:
Cung cấp nguồn nhân lực có khả năng làm quen và thích ứng các kĩ năng mới
chứ không phải là cung cấp một tổng thể cấc kĩ năng kĩ thuật họ sẽ sử dụng trong suốt
quá trình lao động
Tạo ra khả năng liên thông trong mở rộng ,phát triển vốn kiến thức.
Do yêu cầu về trình độ và kĩ năng đối với phần lớn người lao động ngày càng cao dẫn
đến việc đòi hỏi những thay đổi tương ứng trong quá trình đào tạo ở các trường THPT
.Một trong những vấn đề cơ bản nhất của giáo dục phổ thông nhằm đáp ứng yêu cầu này
là phải tập trung vào các nhu cầu thực tiễn của thị trường lao động.Điều này có nghĩa là
kiến thức khoa học được truyền đạt trong nhà trường phải được gắn bó chặt chẽ với kiến
thức khoa học được sử dụng tại nơi làm việc.
Những thay đổi lớn về kết cấu kinh tế ,các ngành công nghiệp và thị trường lao động
quốc tế dẫn đến yêu cầu phát triển kiến thức nhanh chóng cũng như sự linh hoạt và di
chuyển nghề nghiệp đối với từng cá nhân.sSự tích lũy kiến thức và tiến trình phát triển
13
Kinh tế bùng nổ - giáo dục lột xác phải hay không
công nghệ làm cho cá nhân người lao động linh hoạt hơn trong việc thích ứng với nghề
nghiệp mới.Do đó năng lực và kĩ năng lao động tổng hợp là một trong những điều kiện
cần thiết để người lao động thành công ở nơi làm việc hiện nay.
Hình 4: Biểu đồ thể hiện nhu cầu tuyển dụng lao động
Lao động chưa qua đào tạo chiếm (27,23%): Nhu cầu tuyển dụng tập trung ở các
nhóm ngành nghề như: Dịch vụ phục vụ, Kinh doanh – Bán hàng, Dệt may – Giày da,
Dịch vụ du lịch - Nhà hàng - Khách sạn, Vận tải – Kho bãi – Xuất nhập khẩu, …ở các vị
trí lao động mang tính chất thời vụ - bán thời gian: nhân viên phục vụ nhà hàng – phụ
bếp, giao hàng nhanh, nhân viên đóng gói sản phẩm, giữ kho, bán hàng…
+ Sơ cấp nghề - CNKT: chiếm 19,72% nhu cầu tuyển dụng tập trung ở các nhóm
ngành như Cơ khí – Tự động hóa, Dệt may – Giày da, Dịch vụ phục vụ, Kinh doanh –
Bán hàng, …
+ Trung cấp (CN-TCN): chiếm 25,29% nhu cầu tuyển dụng tập trung ở các nhóm
ngành như Kinh doanh – Bán hàng, Kinh doanh tài sản - Bất động sản, Cơ khí tự động
hóa, Dịch vụ thông tin tư vấn – Chăm sóc khách hàng, Công nghệ thông tin, …
+ Cao đẳng – Đại học – Trên Đại học chiếm 27,76% tuyển dụng nhiều ở các nhóm
ngành như: Kế toán – Kiểm toán, Kinh doanh - Bán hàng, Công nghệ Thông tin, Cơ khí
– Tự động hóa, Quản lý điều hành, Kiến trúc - Kỹ thuật công trình xây dựng, Hành chính
văn phòng, …
14
Kinh tế bùng nổ - giáo dục lột xác phải hay không
(Theo phân tích thị trường lao động và dự báo nhu cầu nhân lực 2017 tại HCM)
Sau số liệu trên cho thấy nhu cầu tuyển dụng của nhà tuyển dụng tập trung vào lực
lượng lao động được đào tạo rất cao so với lực lượng lao động chưa qua đào tạo .Nên ta
có thể kết luận giáo dục có ảnh hưởng rất lớn đến tìm kiếm việc làm của mỗi người
,không có giáo dục và đào tạo tay nghề thì sẽ không tìm kiếm được việc làm .
2.3. Giáo dục với thị trường sức lao động
Những cải cách kinh tế ,hợp nhất của nền kinh tế thế giới,sự phát triển của công nghệ
(đặc biệt là công nghệ thông tin) đã tác động mạnh mẽ đến thị trường lao dộng và giáo
dục.Mức tích lũy kiến thức mới và tiến hành công nghệ đã làm tăng khả năng thay đỏi
nghề nghiệp ở mỗi cá nhân.công việc ngày càng tách dần khỏi quy trình sản xuất vật chất
cụ thể,lao động ngày càng trở nên trừu tượng hơn và lao động tay chân ít sử dụng
hơn.Điều này đã tác động mạnh mẽ đến thị trường dức lao động và công tác giáo dục về
hai phương diện:
Thứ nhất : giáo dục phải được thiết kế sao cho người lao động có điều kiện làm
quen và thích ứng được với những kĩ năng mới,sáng tạo chứ không phải với một tổng thể
các kĩ năng kĩ thuật mà họ sử dụng trong suốt thời gian làm việc của mình.Muốn thực
hiện điều này,đòi hỏi phải nâng cao tầm quan trọng của các kiến thức cơ bản mà họ học
được ở trường phổ thông.
Thứ hai:các hệ thống nhất là giáo dục đại học và sau đại học phải được hỗ trợ
cho người lao động tiếp tục mở rộng kiến thức bằng việc học thường xuyên ,học suốt đời.
Như vậy ,với sự thay đổi của sản xuất và thị trường lao động ,sự khác biệt về vai trò
của các cấp giáo dục trở nên rõ rệt hơn.Giáo dục tiểu học và trung học tập trung vào các
kĩ năng cơ bản chung như :Ngôn ngữ ,các môn xa hội,toán và đần dần thêm các môn kỹ
năng giao tiếp cũng như phát triển những nhận thức cần biết khi đi làm.Những kỹ năng
này sẽ tạo nền tảng cho giáo dục và đào tạo tiếp theo ;giáo dục trung học và dạy nghề
ngày nay trở nên phổ thông hơn.Giao dục và đào tiếp theo sẽ cho học sinh làm quen với
kĩ năng học thuật và kĩ thuật ở các trường đại học và trường dạy nghề.
Do sự phát triển của khoa học và công nghệ ,nhu cầu của xã hội đối với lao động có
trình độ cao đang tang theo thời gian đã làm cho mức lương tương đối tăng nghiêng về
15
- Xem thêm -