TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
---------------------
NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG CỦA
DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
HÀ NỘI 2009
Ch¬ng I
Nh÷ng c¬ së lý luËn chung cña doanh nghiÖp
võa vµ nhá
1. Kh¸i niÖm cña doanh nghiÖp võa vµ nhá
Nhiều chuyên gia kinh tế và pháp luật của Việt Nam cho
rằng khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ và sau đó khái niệm
doanh nghiệp nhỏ và cực nhỏ được du nhập từ bên ngoài vào Việt
Nam. Vấn đề tiêu chí doanh nghiệp vừa, nhỏ và cực nhỏ là trung
tâm của nhiều cuộc tranh luận về sự phát triển của khu vực này
trong nhiều năm qua. Định nghĩa về doanh nghiệp nhỏ và vừa,
doanh nghiệp nhỏ và cực nhỏ rõ ràng phải dựa trước tiên vào quy
mô doanh nghiệp. Thông thường đó là tiêu chí về số nhân công,
vốn đăng kí, doanh thu..., các tiêu chí này thay đổi theo từng quốc
gia, từng chương trình phát triển khác nhau.
Ở Việt Nam đã giải quyết vấn đề định nghĩa này một phần
nào. Công văn số 681 /CP -KTN ban hành ngày 20-6-1998 theo đó
doanh nghiệp nhỏ và vừa là doanh nghiệp có số công nhân dưới
200 người và số vốn kinh doanh dưới 5 tỷ đồng (tương đương
378.000 USD - theo tỷ giá giữa VND và USD tại thời điểm ban
hành công văn). Tiêu chí này đặt ra nhằm xây dựng một bức tranh
chung về các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam phục vụ cho
việc hoạch định chính sách. Trên thực tế tiêu chí này không cho
phép phân biệt các doanh nghiệp vừa, nhỏ và cực nhỏ. Vì vậy, tiếp
theo đó Nghị định số 90/2001/NĐ-CP đưa ra chính thức định nghĩa
doanh nghiệp nhỏ và vừa như sau: “Doanh nghiệp nhỏ và vừa là
cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh
theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ
đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300
người”. Các doanh nghiệp cực nhỏ được quy định là có từ 1 đến 9
nhân công, doanh nghiệp có từ 10 đến 49 nhân công được coi là
doanh nghiệp nhỏ.
2.Tiªu chÝ ph©n lo¹i doanh nghiÖp võa vµ nhá
Trên thế giới, định nghĩa về doanh nghiệp vừa và nhỏ được
hiểu và quy định khác nhau tuỳ theo từng nơi. Các tiêu chí để phân
loại doanh nghiệp có hai nhóm: tiêu chí định tính và tiêu chí định
lượng. Nhóm tiêu chí định tính dựa trên những đặc trưng cơ bản
của doanh nghiệp như chuyên môn hoá thấp, số đầu mối quản lý ít,
mức độ phức tạp của quản lý thấp... Các tiêu chí này có ưu thế là
phản ánh đúng bản chất của vấn đề nhưng thường khó xác định
trên thực tế. Do đó chúng thường được dùng làm cơ sở để tham
khảo trong, kiểm chứng mà ít được sử dụng để phân loại trong
thực tế. Nhóm tiêu chí định lượng có thể dựa vào các tiêu chí như
số lao động, giá trị tài sản hay vốn, doanh thu, lợi nhuận. Trong đó:
Số lao động: có thể lao động trung bình trong danh sách, lao
động thường xuyên, lao động thực tế;
Tài sản ha y vốn: có thể là tổng giá trị tài sản (hay vốn), tài
sản (vốn) cố định, giá trị tài sản còn lại;
Doanh thu: có thể là tổng doanh thu/năm, tổng giá trị gia
tăng/năm (hiện nay có xu hướng sử dụng chỉ số này).
Trong các nước APEC tiêu chí được sử dụng phổ biế n nhất
là số lao động. Còn một số tiêu chí khác thì tuỳ thuộc vào điều
kiện từng nước.
Tuy nhiên sự phân loại doanh nghiệp theo quy mô lại thường
chỉ mang tính tương đối và phụ thuộc vào nhiều yếu tố như:
Trình độ phát triển kinh tế của một nước: trình độ phát triển
càng cao thì trị số các tiêu chí càng tăng lên. Ví dụ như một doanh
nghiệp có 400 lao động ở Việt Nam không được coi là doanh
nghiệp vừa và nhỏ nhưng lại được tính là SME ở CHLB Đức. Ở
một số nước có trình độ phát triển kinh tế thấp thì các chỉ số về lao
động, vốn để phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ thấp hơn so
với các nước phát triển.
Tính chất ngành nghề : do ặđc điểm của từng ngành, có
ngành sử dụng nhiều lao động như dệt, may, có ngành sử dụng ít
lao động nhưng nhiều vốn như hoá chất, điện... Do đó cần tính đến
tính chất này để có sự so sánh đối chứng trong phân loại các SME
giữa các ngành với nhau. Trong thực tế, ở nhiều nước, người ta
thường phân chia thành hai đến ba nhóm ngành với các tiêu chí
phân loại khác nhau. Ngoài ra có thể dùng khái niệm hệ số ngành
(Ib) để so sánh đối chứng giữa các ngành khác nhau.
Vùng lãnh thổ: do trình độ phát triển khác nhau nên số lượng
và quy mô doanh nghiệp cũng khác nhau. Do đó cần tính đến cả hệ
số vùng (Ia) để đảm bảo tính tương thích trong việc so sánh quy mô
doanh nghiệp giữa các vùng khác nhau.
Bảng : Tham khảo về tiêu chí doanh nghiệp vừa và nhỏ ở một
số nước
TÊN
TIÊU CHÍ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
NƯỚC
ÚC
- Sản xuất : dưới 100 LĐ
- Phi sản xuất: dưới 20 LĐ
- Doanh nghiệp nhỏ: dưới 100 LĐ
MỸ
- Doanh nghiệp vừa: 101-499 LĐ
- Sản xuất:dưới 300 LĐ hoặc dưới 100 triệu Yên
NHẬT
CHLB
- Bán lẻ, dịch vụ: dưới 50 LĐ hoặc dưới 10 triệu Yên
- Dưới 500 LĐ
ĐỨC
- Công nghiệp, xây dựng: vốn góp dưới 40 triệu NT$,
dưới 300 LĐ
ĐÀI
LOAN
- Khai khoáng: vốn góp dưới 40 triệu NT$, dưới 500
LĐ
- Thương mại, vận tải và dịch vụ khác: dưới 40 triệu
NT$ doanh thu, dưới 50 LĐ
(Nguồn : tổng hợp từ dữ liệu sưu tầm được qua các trang web
trên mạng)
Tính lịch sử: một doanh nghiệp trước đây được coi là lớn,
nhưng với quy mô như vậy, hiện tại hoặc tương lai có thể được coi
là vừa hoặc nhỏ. Như vậy trong việc xác định quy mô doanh
nghiệp cần tính thêm hệ số tăng trưởng quy mô doanh nghiệp trung
bình (Id) trong từng giai đoạn. Hệ số này chỉ được sử dụng khi xác
định quy mô doanh nghiệp cho các thời kì khác nhau.
Mục đích phân loại: khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ
khác nhau tuỳ theo mục đích công việc phân loại.
Như vậy có thể xác định được quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ
thuộc một ngành hoặc một địa bàn cụ thể theo công thức sau:
F(Sba) = Ib* Ia*Sa/ Id
Trong đó:
F(Sba): quy mô một doanh nghiệp thuộc một ngành và trên một
lãnh thổ cụ thể.
Ib,Ia,Id: tương ứng là hệ số vùng, ngành, hệ số tăng trưởng quy
mô doanh nghiệp;
Sa : quy mô vừa và nhỏ chung trong một nước.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò quan trọng trong nền
kinh tế một quốc gia, khu vực và toàn cầu. Các ưu thế và nhược
điểm của loại hình doanh nghiệp này sẽ được trình bày dưới đây
nhằm đem lại một cái nhìn sâu vào bản chất của loại hình này, cho
phép ta định ra hướng đi rõ ràn g trong việc xác định hướng phát
triển cho loại hình này.
3.Ưu thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ:
Doanh nghiệp vừa và nhỏ có những lợi thế rõ ràng, đó là khả
năng thoả mãn nhu cầu có hạn trong những thị trường chuyên môn
hoá, khuynh hướng sử dụng nhiều lao đ ộng với trình độ lao động
kỹ thuật trung bình thấp, đặc biệt là rất linh hoạt, có khả năng
nhanh chóng thích nghi với các nhu cầu và thay đổi của thị trường.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể bước vào thị trường mới mà
không thu hút ựs chú ý của các doanh ngh iệp lớn (do quy mô
doanh nghiệp nhỏ), sẵn sàng phục vụ ở những nơi xa xôi nhất,
những khoảng trống vừa và nhỏ trên thị trường mà các doanh
nghiệp lớn không đáp ứng vì mối quan tâm của họ đặt ở các thị
trường có khối lượng lớn. Doanh nghiệp vừa và nhỏ là loại hình
sản xuất có địa điểm sản xuất phân tán, tổ chức bộ máy chỉ đạo
gọn nhẹ nên nó có nhiều điểm mạnh:
- Dễ dàng khởi sự, bộ máy chỉ đạo gọn nhẹ và năng động,
nhạy bén với thay đổi của thị trường.
Doanh nghiệp chỉ cần một số vốn hạn chế, mặt bằng không
lớn, các điều kiện sản xuất đơn giản là đã có thể bắt đầu hoạt động.
Vòng quay sản phẩm nhanh nên có thể sử dụng vốn tự có, hoặc
vay bạn bè, người thân dễ dàng. Bộ máy tổ chức gọn nhẹ linh hoạt,
dễ quản lý, dễ quyết định. Đồng thời, do tính chất linh hoạt cũng
như quy mô nhỏ cảu nó, doanh nghiệp có thể dễ dàng phát hiện
thay đổi nhu cầu của thị trường, nhanh chóng chuyển đổi hướng
kinh doanh, phát huy tính năng ộng
đ sáng tạo, tự chủ, nhạy bén
trong lựa chọn thay đổi mặt hàng. Từ đó doanh nghiệp sẽ tạo ra sự
sống động trong phát triển kinh tế.
- Sẵn sàng đầu tư vào các lĩnh vực mới, lĩnh vực có mức độ
rủi ro cao.
Đó là bởi vì các doanh nghiệp loại này có mức vốn đầu tư
nhỏ, sử dụng ít lao động nên có khả năng mạo hiểm sẵn sàng mạo
hiểm. Trong trường hợp thất bại thì cũng không bị thiệt hại nặng
nề như các doanh nghiệp lớn, có thể làm lại từ đầu được. Bên cạnh
đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ có động cơ để đi vào các lĩnh vực
mới này: do tính chất nhỏ bé về quy mô nên khó cạnh tranh với các
doanh nghiệp lớn tr ong sản xuất dây chuyền hàng loạt. Họ phải
dựa vào lợi nhuận thu được từ các cuộc kinh doanh mạo hiểm.
- Dễ dàng đổi mới trang thiết bị, đổi mới công nghệ, hoạt
động hiệu quả với chi phí cố định thấp.
Doanh nghiệp có nguồn vốn kinh doanh ít nên đầu tư vào các
tài sản cố định cũng ít, do đó dễ tiến hành đổi mới trang thiết bị khi
điều kiện cho phép. Đồng thời doanh nghiệp tận dụng được lao
động dồi dào để thay thế vốn. Với chiến lược phát triển, đầu tư
đúng đắn,sử dụng hợp lý các nguồn lực của mình, các do anh
nghiệp vừa và nhỏ có thể đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội cao,
cũng như có thể sản xuất được hàng hoá có chất lượng tốt và có
sức cạnh tranh trên thị trường ngay cả khi điều kiện sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp có nhiều hạn chế.
- Không có hoặc ít có xung đột giữa người thuê lao động với
người lao động.
Quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ tất nhiên là không lớn lắm.
Số lượng lao động trong một doanh nghiệp không nhiều, sự phân
công lao động trong xí nghiệp chưa quá mức rõ rệt. Mối quan hệ
giữa người thuê lao động và người lao động khá gắn bó. Nếu xảy
ra xung đột, mâu thuẫn thì dễ dàn xếp.
4. Hạn chế của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Các hạn chế của loại hình doanh nghiệp này đến từ hai
nguồn. Các hạn chế khách quan đến từ thực tế bên ngoài, và các
hạn chế đến từ chính các lợi thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Hạn chế đầu tiên và lớn nhất của SMEs nằm trong chính
đặc điểm của nó, đó là quy mô nhỏ, vốn ít, do đó các doanh nghiệp
này thường lâm vào tình trạng thiếu vốn trầm trọng mỗi khi muốn
mở rộng thị trường, hay tiến hành đổi mới, nâng cấp trang thiết bị.
- Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường phụ thuộc vào doanh
nghiệp mà nó cung cấp sản phẩm.
- Khó khăn trong nâng cấp trang thiết bị, đầu tư công nghệ
mới, đặc biệt là các công nghệ đòi hỏi vốn lớn, từ đó ảnh hưởng
đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và tính cạnh tranh
trên thị trường.
- Có nhiều hạn chế trong đào tạo công nhân và chủ doanh
nghiệp, thiếu bí quyết và trợ giúp kỹ thuật, không có kinh nghiệm
trong thiết kế sản phẩm, thiếu đầu tư cho ngh iên cứu và phát
triển,... nói cách khác là không đủ năng lực sản xuất để đáp ứng
các yêu cầu về chất lượng, khó nâng cao được năng suất và hiệu
quả kinh doanh.
- Thiếu trợ giúp về tài chính và tiếp cận thị trườngcác
doanh nghiệp vừa và nhỏ thường tỏ ra bị động trong các quan hệ
thị trường.
- Do tính chất vừa và nhỏ của nó, SMEs gặp khó khăn trong
thiết lập và mở rộng quan hệ hợp tác với các đơn vị kinh tế bên
ngoài địa phương doanh nghiệp đó đang hoạt động.
- Cũng do tính chất vừa và nhỏ của nó, SMEs gặp khó khăn
trong thiết lập chỗ đứng vững chắc trong thị trường
5. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ
a. Tạo ra nhiều việc làm với chi phí thấp
Các cơ sở doanh nghiệp vừa và nhỏ rất thích hợp với các
phương pháp tiết kiệm vốn và do đó chúng được công nhận là
phương tiện giải quyết thất nghiệp hiệu quả nhất
Thứ nhất, do đặc tính phân bố rải rác của chúng. Các doanh
nghiệp loại này thường phân tán nên chúng có thể đảm bảo cơ hội
việc làm cho nhiều vùng địa lý và nhiều đối tượng lao động, đặc
biệt là với các vùng sâu, vùng xa, vùng chưa phát triển kinh tế, với
các đối tượng lao động có trình độ tay nghề thấp. Nhờ vậy chúng
vừa giải quyết thất nghiệp vừa góp phần giảm dòng người chuyển
về thành phố tìm việc làm.
Thứ hai, do tính linh hoạt, uyển chuyển dễ thích ứng với các
thay đổi của thị trường của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong
trường hợp có biến động xảy ra, các doanh nghiệp lớn sẽ đối phó
khá chậm chạp, không phải vì cấp quản lý bất tài mà bởi vì doanh
nghiệp lớn thì khó xoay trở nhanh. Họ sẽ gặp rất nhiều khó khăn
trong hoạt động, sau đó sẽ phải sa thải bớt lao động để cắt giảm chi
phí đến mức có thể tồn tại và phát triển được trong điều kiện cung
lớn hơn cầu. Trong khi đó do khả năng linh hoạt, có thể thích ứng
nhanh với thay đổi của thị trường, các doanh nghiệp vừa và nhỏ
vẫn có thể tồn tại được mà không phải sử dụng đến biện pháp cắt
giảm lao động.
Bảng : Tỷ trọng thu hút lao động và tạo ra giá trị gia tăng của
các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở một số nước Châu Á
TÊN NƯỚC
THU HÚT LAO
ĐỘNG
GIÁ TRỊ GIA TĂNG
(%)
(%)
Singapore
35.2
26.6
Malaysia
47.8
36.4
Hàn Quốc
37.2
21.1
Nhật Bản
55.2
38.8
(Albert Bery: Các hoạt động kinh doanh vừa và nhỏ dưới tác
động của tự do hoá thương mại và tỷ giá: kinh nghiệm của Canada
và Mỹ Latinh, 1996)
b. Cung cấp cho xã hội một khối lượng hàng hoá đáng kể
về cả chất lượng, số lượng và chủng loại
Các công ty, doanh nghiệp vừa và nhỏ thu hút một lượng lớn
lao động và tài nguyên của xã hội để sản xuất ra hàng hoá. Để có
thêm sức cạnh tranh trực tiếp với các công ty và tập đoàn lớn, hàng
hoá của họ nói chung thiên về sự đa dạng về chất lượng và chủng
loại, tạo cho người tiêu dùng có nhiều cơ hội được lựa chọn. Bên
cạnh đó họ cũng tiến vào nhiều thị trường nhỏ mà các công ty lớn
bỏ qua vì doanh thu từ đó quá nhỏ.
c. Gieo mầm cho các tài năng quản trị kinh doanh
Một số những người có tài trong quản trị kinh doanh không
muốn làm việc trong các công ty lớn mà muốn mở công ty riêng để
tiện đường vùng vẫy. Các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ rất
thích hợp đối với họ trong việc thử sức của mình. Bên cạnh đó các
công ty tư nhân lớn nói chung đều xuất phát từ các công ty nhỏ đi
lên. Tập đoàn Microsoft của tỷ phú Bill Gates cũng do ông ta xây
dựng dần lên. Ông ta vào lúc 20 tuổi vẫn còn là một người chưa có
nhiều tài sản, bỏ học đại học để mở doanh nghiệp riêng của mình.
Chưa đầy 30 năm sau đã trở thành người giàu nhất thế giới, là một
điển hình của người làm giàu dựa vào năng lực của mình.
Các công ty nhỏ là còn là nơi huấn luyện nguồn nhân lực cho
các công ty ớn.
l Các nhân viên sẽ học đ ược những kỹ năng ban
đầu về quản lý rất cần thiết, được công ty lớn đánh giá cao như là:
Điều hành kinh doanh
Quan hệ với khách hàng
Kiểm soát và quản lý nhân Quy định xuất nhập khẩu
viên
Quản lý thời gian
Công nghệ thông tin hiện đại
Điều hành văn phòng
Các quy định về thuế
Hậu cần
Hệ thống cung cấp và phân
phối
Bán hàng và tiếp thị
Luật lệ công ty
Xúc tiến sản phẩm và dịch vụ Bán hàng
Định giá và lợi nhuận
Quan hệ với quan chức chính
phủ
Đây là các kỹ năng cần thiết cho công việc ở các công ty l ớn và
việc đào tạo chúng cho người lao động cần thời gian. Các doanh
nghiệp nhỏ sẽ thực hiện “hộ” khâu này. Nhân viên công ty nhỏ sau
một thời gian có được kinh nghiệm rồi sẽ được các công ty lớn thu
nhận.
d. Tăng nguồn tiết kiệm và đầu tư cho dân địa phương
Nhìn chung các doanh nghi
ệp vừa và nhỏ được mở ra ở địa
phương nào đều có công nhân và chủ doanh nghiệp là người ở địa
phương đó. Khi các doanh nghi
ệp loại đó được mở ra thì người
dân lao động ở địa phương có công ăn việc làm, có nguồn thu
nhập. Kết cục là quỹ tiền tiết kiệm-đầu tư của địa phương đó được
bổ sung.
e. Làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn
Các công ty ớn
l và các tập đoàn không có được tính năng
động của các đơn vị kinh tế nhỏ hơn chúng vì một nguyên nhân
đơn giản là quy mô của chúng quá lớn. Quy luật của vật lý là khối
lượng một vật càng lớn thì quán tính của nó càng lớn. Cũng vậy,
các đơn vị kinh tế càng to lớn thì càng thiếu tính linh hoạt, thiếu
khả năng phản ứng nhanh, nói cách khác là sức ì càng lớn.Một nền
kinh tế đặt một tỷ lệ quá lớn nguồn lao động và tài nguyên vào tay
các doanh nghiệp quy mô lớn sẽ trở nên chậm chạp, không bắt kịp
và phản ứng kịp với các thay đổi trên thị trường. Ngược lại, một
nền kinh tế có một tỷ lệ thích hợp các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ
trở nên “nhanh nhẹn” hơn, phản ứng kịp thời hơn. Tính hiệu quả
của nền kinh tế sẽ được nâng cao.
f. Cải thiện mối quan hệ giữa các khu vực kinh tế khác nhau
g. Phát huy và tận dụng các nguồn lực địa phương, góp phần
tăng trưởng kinh tế
Một nền kinh tế bao giờ cũng có “vùng biên giới”, “vùng
sâu”, “vùng xa”. Đó là các khu ựvc địa lý hoặc các thị trường có
quy mô nhỏ, kém phát triển, hoặc là xa tuyến giao thông, thiếu tài
nguyên... Các công ty l ớn thường bỏ qua các khu vực đó vì cho rằng
nguồn lợi thu được từ đó không lớn bằng nguồn lợi thu được từ nơi
khác với cùng một chi phí bỏ ra, nói cách khác là chi phí cơ hội của
vùng đó cao. Nếu một nền kinh tế chỉ có các doanh nghiệp lớn thì
điều này sẽ dẫn đến một sự phát triển không đều giữa các vùng,
không tận dụng hết tài nguyên và giảm hiệu quả hoạt động của nền
kinh tế cũng như gây ra các thiệt hại tiềm tàng cho nền kinh tế. Tuy
nhiên đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì chi phí cơ hội của
các vùng này là chấp nhận được, xứng đáng với nguồn lợi thu lại.
Vì vậy họ sẵn sàng hoạt động ở đây nếu có các chính sách ưu đãi
thích hợp của chính quyền địa phương.
h. Giữ gìn và phát huy các ngành nghề truyền thống, thể
hiện bản sắc dân tộc
Trong quá trình hi
ện đại hoá, công nghiệp hoá các ngành
nghề truyền thống đang đứng trước sự cạnh tranh khốc liệt, giữa
chế tạo sản phẩm thủ công với sản xuất dây chuyền hàng loạt. Một
ví dụ như: thợ đóng giày có thể đóng những đôi giày rất bền dùng
được hàng năm không hỏng . Nhưng trong thời hiện đại phải đối
mặt với các xí nghiệp sản xuất giày có sản phẩm không bền lắm,
đổi mới theo mùa và giá rẻ hơn so với giày thủ công. Một thợ thủ
công hay vài người thì không thể đương đầu được với các doanh
nghiệp lớn đó. Muốn tồn tại được các thợ thủ công phải hợp nhau
lại thành lập doanh nghiệp, sau đó quảng cáo xa rộng để tìm đến
các khách hàng tiềm năng của các sản phẩm thủ công. Trong xã
hội luôn tồn tại nhu cầu đối với các sản phẩm truyền thống, vấn đề
là phải làm cho những khách hàng đó biết đến sản phẩm của mình.
Loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể nói là rất thích
hợp cho sản xuất thủ công. Các ngành nghề truyền thống có thể
dựa vào đó để sản xuất, kinh doanh, quảng cáo. Bên cạnh đó công
nghệ tiên tiến cũng sẽ dần tiếp cận vào các ngành nghề này. Và đó
cũng là một điều cần phải xẩy ra trong thời đại công nghiệp.
Cụ thể hơn ta hãy hình dung một cảnh như sau: một số thợ đóng
giày hợp nhau lại thành một doanh nghiệp. Trong thành phố địa
phương của họ chỉ có một số nhỏ khách hàng ưa thích loại giày
đóng thủ công và sẵn sàng trả giá (dù là cao) để đi loại giầy này
cầu nhỏ. Doanh nghiệp đó đáp ứng được nhu cầu đó. Sau đó
doanh nghiệp tiến hành một chiến dịch quảng cáo trên các phương
tiện thông tin đại chúng và trên Internet. Sau một thời gian các
khách hàng có nhu cầu tương tự ở tại các thành phố khác trong cả
nước liên lạc đặt mua. Tiếp sau nữa là các khách hàng nước ngoài
ưa thích kiểu dáng giày quảng cáo trên Internet cũng liên lạc đặt
mua. Bên cạnh đó các nghệ nhân cũng sử dụng thêm một số công
nghệ mới để hỗ trợ thêm cho việc chế tạo giày như là dùng máy
tính để tạo hình sản phẩm trước,... Trong quá trình phát triển đó họ
tiếp cận và làm quen với các kỹ thuật và công nghệ mới. Tuy
khách hàng địa phương của họ không nhiều nhưng khách hàng trên
toàn cầu chiếm một lượng đủ để họ tồn tại được trước thách thức
của những đôi giày hiện đại giá rẻ rất mốt được sản xuất hàng loạt
kia.
6. Pháp luật chi phối doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
Bảng : Hệ thống các nhóm văn bản luật pháp trực tiếp liên
quan
doanh nghiÖp võa vµ nhá
Tên của luật và
Luật bị thay
chính sách
thế
Nghị
định
số
Nội dung chính
Nghị định đưa ra một chính
90/NĐ-CP ề v
sách đặc biệt đối với doanh
chính sách ợ tr
nghiệp nhỏ và vừa, là chính
giúp phát ển
tri
sách hỗ trợ bổ sung cho phát
các doanh nghiệp
triển doanh nghiệp nhỏ và vừa
nhỏ
và
vừa
tại Việt Nam
(2001)
Luật
Doanh Luật Công ty Luật Doanh nghiệp 1999 và
nghiệp (1999)
và
ật Lu
Nghị định số 02/2000 hướng
Doanh
dẫn việc thực thi Luật Doanh
nghiệp
tư nghiệp, đưa ra khuôn khổ pháp
nhân (21-12- lý hiện đại đầu tiên cho tất cả
1990), Ngh
ị các doanh nghiệp đăng ký kinh
định
số doanh trong nư
ớc: Luật quy
66/HĐBT
ngày
định việc thành lập các công ty
2-3- qua việc đăng ký kinh doanh tự
1992 cho các giác, hơn là thông qua phê
hộ
kinh chuẩn và cấp phép của chính
doanh cá thể
Luật
Phá
Doanh
sản
phủ.
Luật quy định cơ sở để đánh giá
nghi
ệp
các doanh nghi
ệp bị phá sản,
các thủ tục yêu cầu và tuyên bố
(1993)
phá sản doanh nghiệp
Luật Thuế giá trị
Luật
Thuế Luật này xác định mức thuế giá
gia tăng
doanh thu
trị gia tăng, là mức thuế tính
trên giá trị hàng hoá và dịch vụ
trong quá trình ảns xuất, lưu
thông và tiêu dùng.
Luật Thuế thu Luật Thuế lợi Các đối tượng chịu thuế thu
nhập
doanh tức
nghiệp (1999)
nhập của doanh nghiệp được
quy định bởi luật này là thu
nhập của tổ chức và cá nhân có
hoạt động sản xuất và kinh
doanh. Tỷ lệ thuế thu nhập của
doanh nghiệp
theo quy định
của Luật là 32 % ngoại trừ một
số trường hợp đặc biệt.
Bộ luật Lao động
Bộ luật Lao động điều chỉnh
ịNgh
các mối quan hệ lao động tại
(1999),
định
doanh nghiệp. Mức lương tối
77/2000/NĐ-CP
thiểu trong các doanh nghiệp ở
có hi
ệu lực từ
Việt Nam là 210 000 VNĐ
ngày 1-1- 2001
khuyến
Xác định những ưu đãi đầu tư
tư
trong nước vào các vùng có khó
ớc nư
khăn về kinh tế -xã hội và các
Luật
khích ầuđ
trong
hoạt động kinh tế chiến lược,
(1994)
bao gồm về đầu tư tạo nhiều
việc làm mới.
Luật Thương mại
Văn bản luật pháp quy định
(1997)
hoạt động thương mại tại Việt
Nam
Sắc lệnh về hợp
Khuôn khổ pháp lý đầu tiên cho
tác chuyển giao
hoạt động chuyển giao công
ệ ngh
nghệ, quy định những chi tiết
ịNgh
của việc chuyển giao công
công
(1998).
định
45/1998/NĐ-CP
nghệ.
- Xem thêm -