BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN
PHẠM THỊ XUÂN
THÁNH TÔNG DI THẢO
TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8.22.01.21
Ngƣời hƣớng dẫn: TS. NGUYỄN ĐÌNH THU
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trên bất kì công
trình nào.
Tác giả luận văn
Phạm Thị Xuân
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng cảm ơn TS. Nguyễn Đình Thu - người đã tận tình hướng
dẫn, đóng góp những ý kiến quý báu giúp tôi hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn quý thầy cô giáo Khoa Khoa học xã hội và nhân văn,
Phòng Sau đại học Trường Đại học Quy Nhơn đã quan tâm, tạo mọi điều kiện cho
tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến gia đình, cơ quan, đồng nghiệp, những người
luôn động viên, khuyến khích, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực hiện luận văn.
Tác giả luận văn
Phạm Thị Xuân
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài ..................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................................1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................4
4. Phương pháp nghiên cứu .....................................................................................4
5. Đóng góp của luận văn ........................................................................................5
6. Cấu trúc của luận văn ..........................................................................................5
Chƣơng 1. THÁNH TÔNG DI THẢO TRONG MÔI TRƢỜNG VĂN HÓA,
VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM .....................................................................6
1.1. Khái niệm văn hóa và mối quan hệ giữa văn hóa với văn học .........................6
1.1.1. Khái niệm văn hóa ......................................................................................6
1.1.2. Mối quan hệ giữa văn hóa với văn học ......................................................8
1.1.3. Môi trường văn hóa, văn học thời kỳ trung đại Việt Nam .........................9
1.2. Vấn đề tác giả và vị trí của Thánh Tông di thảo trong tiến trình vận động của
truyền kỳ Việt Nam thời trung đại .........................................................................13
1.2.1. Vấn đề tác giả của Thánh Tông di thảo ...................................................13
1.2.2. Vị trí của Thánh Tông di thảo trong tiến trình vận động của truyền kì
Việt Nam thời trung đại ......................................................................................20
1.3. Cơ sở nghiên cứu Thánh Tông di thảo từ góc nhìn văn hóa ..........................26
1.3.1. Cơ sở văn hóa học ....................................................................................26
1.3.2. Cơ sở văn bản học ....................................................................................27
Tiểu kết chương 1 ..................................................................................................30
Chƣơng 2. DẤU ẤN VĂN HÓA TRONG THÁNH TÔNG DI THẢO NHÌN TỪ
HỆ THỐNG CHỦ ĐỀ .............................................................................................31
2.1. Hệ tư tưởng văn hóa .......................................................................................31
2.1.1. Tư tưởng Nho giáo ...................................................................................31
2.1.2. Tư tưởng Phật giáo ..................................................................................43
2.1.3. Tư tưởng Lão - Trang và Đạo giáo ..........................................................50
2.2. Những sinh hoạt văn hóa tinh thần .................................................................54
2.2.1. Tín ngưỡng ...............................................................................................55
2.2.2. Phong tục ..................................................................................................59
2.2.3. Thú vui nghệ thuật ....................................................................................63
2.3. Hệ thống nhân danh, địa danh, thắng tích văn hóa .........................................65
2.3.1. Nhân danh ................................................................................................65
2.3.2. Địa danh ...................................................................................................67
2.3.3. Thắng tích .................................................................................................69
Tiểu kết chương 2 ..................................................................................................71
Chƣơng 3. DẤU ẤN VĂN HÓA TRONG THÁNH TÔNG DI THẢO NHÌN TỪ
PHƢƠNG THỨC THỂ HIỆN ...............................................................................72
3.1. Không gian và thời gian nghệ thuật ................................................................72
3.1.1. Biểu hiện của không gian và thời gian nghệ thuật ...................................72
3.1.2. Dấu ấn văn hóa của không gian và thời gian nghệ thuật ........................81
3.2. Sự dung hợp thể loại .......................................................................................83
3.2.1. Biểu hiện của sự dung hợp thể loại ..........................................................83
3.2.2. Dấu ấn văn hóa của sự dung hợp thể loại ...............................................88
3.3. Yếu tố hoang đường, kỳ ảo .............................................................................90
3.3.1. Biểu hiện của yếu tố hoang đường, kỳ ảo ................................................90
3.3.2. Dấu ấn văn hóa của yếu tố hoang đường, kỳ ảo ......................................94
Tiểu kết chương 3 ..................................................................................................96
KẾT LUẬN ..............................................................................................................97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................99
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI LUẬN VĂN THẠC SĨ (bản sao)
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn hóa là sản phẩm của con người, được tạo ra và phát triển trong mối quan
hệ tương tác giữa con người với tự nhiên và xã hội. Văn hóa được lưu truyền từ thế
hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa thể hiện trình độ
phát triển của con người và của xã hội được biểu hiện trong giá trị vật chất và tinh
thần do con người tạo ra. Văn học là một hình thái đặc biệt của văn hoá, thuộc về hệ
ý thức, lĩnh vực văn hoá tinh thần.
Nghiên cứu tác phẩm văn học từ góc nhìn văn hóa là một trong những hướng
nghiên cứu phổ biến hiện nay. Đây là hướng nghiên cứu mang tính khả thi cao, nhất
là khi nghiên cứu tác phẩm văn học trung đại. Đặt tác phẩm văn học trung đại trong
mối quan hệ với môi trường văn hóa mà tác phẩm ra đời là việc làm thiết yếu phù
hợp với quy luật sáng tạo nghệ thuật, đồng thời sẽ giúp chúng ta lý giải được những
vấn đề, giá trị của tác phẩm có chiều sâu, đúng đắn và toàn diện hơn; hạn chế cái
nhìn khiên cưỡng, áp đặt của tư duy hiện đại đối với tác phẩm văn học trung đại.
Thánh Tông di thảo (Bản thảo còn lại của Thánh Tông) tương truyền do vua
Lê Thánh Tông viết. Tác phẩm được coi là tập truyện truyền kỳ đầu tiên của văn
học dân tộc, là bước đột khởi của văn xuôi tự sự thời trung đại về phương diện phản
ánh hiện thực và nghệ thuật truyền kỳ. Tập truyện chứa đựng nhiều giá trị văn hóa,
văn học thời trung đại. Nghiên cứu Thánh Tông di thảo từ góc nhìn văn hóa sẽ giúp
chúng ta nhận thức được nhiều giá trị văn hóa thể hiện trong tập truyện cùng sự
trưởng thành của tư duy nghệ thuật trong sự phát triển thể loại truyền kỳ trung đại
Việt Nam.
Từ nhận thức về mối quan hệ giữa văn hóa và văn học, từ ý thức được sự độc
đáo, sáng tạo trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học văn chương, nhất là những giá trị
văn hóa của tập truyện, chúng tôi chọn Thánh Tông di thảo từ góc nhìn văn hóa làm
đề tài nghiên cứu của luận văn thạc sĩ.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Thánh Tông di thảo là tác phẩm lớn của nền văn học trung đại Việt Nam. Mặc
dù còn nhiều vướng mắc trong vấn đề tác giả và văn bản nhưng từ khi Thánh Tông di
thảo được Nguyễn Bích Ngô dịch, Nguyễn Văn Tú - Đỗ Ngọc Toại hiệu đính, do Nhà
xuất bản Văn hóa ấn hành năm 1963 đến nay, tác phẩm đã được nhiều độc giả, học giả,
nhà nghiên cứu quan tâm, tìm hiểu ở nhiều phương diện khác nhau.
2
Trước tiên là những nghiên cứu về niên đại và tác giả của Thánh Tông di
thảo. Trong Lời giới thiệu cho cuốn sách Thánh Tông di thảo được Nguyễn Bích
Ngô dịch, Nguyễn Văn Tú - Đỗ Ngọc Toại hiệu đính, do Nhà xuất bản Văn hóa ấn
hành năm 1963, tác giả Vũ Thanh đã khẳng định: “Về tác giả và thời điểm ra đời
của tác phẩm hiện còn nhiều ý kiến khác nhau và chưa có thêm những tư liệu mới
để đi tới khẳng định dứt khoát” [17, tr 5]. Trần Bá Chí trong bài Về sách Thánh
Tông di thảo đăng trên Tạp chí Hán Nôm số 5, 2006 viết: “Về việc tìm tác giả của
tác phẩm Thánh Tông di thảo ai cũng thừa nhận là khó. Khó không chỉ do sách
không có lạc khoản ghi tên người soạn, thời điểm biên soạn; mà còn do sự không
đồng nhất giữa các tình tiết trong nội dung tập truyện mang tính truyền kỳ phức
tạp”. Công trình Lê Thánh Tông về tác gia và tác phẩm (2007), Nxb Giáo dục đã
trích dẫn một số quan điểm của các nhà nghiên cứu về vấn đề này, như: Nguyễn
Đổng Chi trong bài Thánh Tông di thảo có viết: “Thánh Tông di thảo là tên do
người đời sau đặt cho một bộ truyện gồm có hai quyển tương truyền của Lê Thánh
Tông [...] sách có phần nào đáng ngờ là ngụy thư vì từ trước chưa có tài liệu gì nói
về nó cả. Thế nhưng hiện nay chưa có chứng cớ đích xác để cho là không phải của
Lê Thánh Tông” [13, tr.465]; Trần Thị Băng Thanh trong bài Văn bản Thánh Tông
di thảo nêu quan điểm: “Thánh Tông di thảo là một bản chép tay, không rõ gốc gác,
lời tựa với tư cách là tác giả cũng không cho biết nó được hình thành vào thời gian
nào và quy mô ra sao? Nếu căn cứ vào tên sách thì có thể phỏng đoán rằng: khi hình
thành sách chưa được đặt tên, Thánh Tông di thảo là do người đời sau đặt.” [13,
tr.516]...
Dù chưa có cơ sở khoa học chính xác về tác giả của Thánh Tông di thảo
nhưng những nghiên cứu về phương diện nội dung và nghệ thuật của tác phẩm vẫn
được thể hiện khá phong phú, đa dạng. Năm 2000, nhà nghiên cứu Đinh Gia Khánh,
trong cuốn Văn học Việt Nam (Thế kỷ X – nửa đầu thế kỷ XVIII), đã từng đánh giá
rằng: “Những truyện trong Thánh Tông di thảo mà xuất hiện từ cuối thế kỷ XV, có
thể được coi như một bước tiến từ Lĩnh Nam chích quái sang Truyền kỳ mạn lục,
nếu xem xét sự phát triển của thể loại tự sự từ chỗ ghi chép sự tích cũ đến chỗ sáng
tác những truyện mới hoặc từ những sự tích cũ phóng tác ra những truyện mới.” [14,
tr.352], vì thế tập truyện rất phong phú về nội dung và đặc sắc về nghệ thuật. Năm
2004, trong Từ điển văn học (bộ mới) (Nguyễn Huệ Chi, Trần Hữu Tá) đã cho rằng:
“Thánh Tông di thảo là tập truyện ký văn học không phải nhằm ghi lại những sự tích
có sẵn như Lĩnh Nam chích quái, Thiên Nam vân lục (Ghi dưới khoảng mây Thiên
3
Nam), mà là một sáng tác phẩm, trong đó có phóng tác, có tái tạo và có hư cấu. Nhiều
truyện ký được viết với bút pháp vững vàng, hình tượng sinh động, lời văn cũng trau
chuốt, súc tích, đọc rất hấp dẫn.” [5, tr.1636]. Năm 2012, Lã Nhâm Thìn, trong Giáo
trình văn học trung đại Việt Nam (tập 1), nhận định: “Thánh Tông di thảo (nửa cuối
thế kỉ XV) chính là bước đột phá đầu tiên nhằm dần dần thoát khỏi những ảnh hưởng
thụ động và lệ thuộc vào văn học dân gian và văn xuôi lịch sử.” [26, tr.189]. Theo
tác giả, nội dung trong Thánh Tông di thảo đã quan tâm đến sức mạnh của con
người trần tục trước các bậc thần, phong cách nhà văn đã được thể hiện khá rõ nét
qua một số truyện có sự hiện diện của tác giả. Nhà nghiên cứu Vũ Thanh trong bài
Thánh Tông di thảo - Bước đột khởi trong tiến trình phát triển của thể loại truyện
ngắn Việt Nam trung cổ dẫn trong Lê Thánh Tông về tác gia và tác phẩm (2007),
kết luận: “Sự đa dạng của đề tài được phản ánh, sự xuất hiện của những màu sắc mỹ
học mới mẻ, việc hướng tới bản sắc nghệ thuật của thể loại, cũng như việc quan tâm
đến cuộc sống, đến con người trong một ngòi bút đã bắt đầu tạo được nét riêng biệt
quý giá, đã xác định được vị trí quan trọng của Thánh Tông di thảo trong tiến trình
phát triển của truyện ngắn Việt Nam trung cổ” [13, tr.503]. Phạm Ngọc Lan trong
bài viết Những bài kí trong Thánh Tông di thảo lại đi sâu nghiên cứu về hai nhóm
kí tồn tại trong tác phẩm, gồm: nhóm kí đậm chất ngụ ngôn tạp kí và nhóm kí đậm
chất trữ tình rồi đi đến kết luận: “Với tính chất cốt truyện, thể văn bay bướm của bút
kí, cảm hứng trữ tình và giọng điệu tự sự hào hoa, các bài kí đã đem đến cho người
đọc một chất thơ đặc biệt khó quên, nó rất khác với lối ghi chép thụ động các thần
tích, thần phả, nó mang dáng dấp của những truyện truyền kì” [13, tr.510]. Tác giả
Lê Nhật ký trong bài Yếu tố hư ảo trong Thánh Tông di thảo thì nhấn mạnh: “Yếu
tố kì ảo có mặt trong phần lớn các truyện của Thánh Tông di thảo. Nó tồn tại dưới
nhiều hình thức, trong đó hình thức biến dạng, đi vào cõi lạ và thần tiên phù trợ là
tiêu biểu hơn cả” [13, tr.511]. Đó còn là các bài báo đăng trên tạp chí khoa học, luận
văn, luận án trong hơn mười năm trở lại đây như: Văn hoá tâm linh trong văn xuôi
trung đại của Hoàng Thị Minh Phương, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Sư
phạm Tp. Hồ Chí Minh, năm 2007; Thánh Tông di thảo nhìn từ truyền thống truyện
dân gian Việt Nam và từ đặc điểm truyện truyền kỳ của Vũ Phương Thanh, in trên
Tạp chí Khoa học, tập XXXVII, Số 4B, năm 2008, Trường Đại học Vinh; Loại hình
các nhân vật trong truyện truyền kì Việt Nam qua ba tác phẩm tiêu biểu: Thánh
Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục của Trương Thị Hoa, Luận
văn Thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh, năm 2011; Truyện truyền
4
kỳ Việt Nam thời trung đại: diện mạo và đặc trưng nghệ thuật của Lê Dương Khắc
Minh, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Học viện Khoa học xã hội, năm 2019; Thế giới
nghệ thuật trong Thánh Tông di thảo của Phạm Thị Trang, Khóa luận tốt nghiệp,
Trường Đại học Quy Nhơn, năm 2021; Hệ thống chủ đề trong Thánh Tông di thảo
của Nguyễn Thị Thu Thảo, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Quy Nhơn, năm 2022;...
Như vậy, có thể thấy, Thánh Tông di thảo là tác phẩm truyền kỳ được nghiên
cứu từ khá sớm. Lịch sử nghiên cứu tác phẩm đã đạt được nhiều kết quả quan trọng.
Tuy nhiên chưa có một công trình nghiên cứu nào về Thánh Tông di thảo từ góc
nhìn văn hóa một cách chuyên sâu. Luận văn Thánh Tông di thảo từ góc nhìn văn
hóa sẽ mang đến những thể nghiệm ban đầu trong việc tiếp cận, giải mã những giá
trị của tác phẩm bằng con đường tiếp cận văn hóa.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Những dấu ấn văn hóa dân tộc Việt Nam và sự chi
phối của chúng trong tập truyện Thánh Tông di thảo trên cả hệ thống chủ đề và
phương thức thể hiện.
- Phạm vi nghiên cứu: Tập truyện Thánh Tông di thảo, do Nguyễn Bích Ngô
dịch, Nguyễn Văn Tú - Đỗ Ngọc Toại hiệu đính, Hội Luật gia Việt Nam - Nhà xuất
bản Hồng Đức, năm 2017.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên
cứu chính sau đây:
- Phương pháp tiếp cận văn hóa học trong nghiên cứu văn học: Phương pháp
này được sử dụng trong việc nghiên cứu, làm rõ những vấn đề văn hóa tồn tại trong
tập truyện Thánh Tông di thảo.
- Phương pháp văn học sử: Người viết sử dụng phương pháp nghiên cứu này
nhằm tìm hiểu cuộc đời, thân thế, sự nghiệp của Lê Thánh Tông; thời đại và hoàn
cảnh xã hội mà tác giả đang sống cũng như quá trình hình thành và phát triển của
thể loại truyền kỳ.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Bằng phương pháp phân tích, tổng hợp
nguồn tư liệu liên quan đến đề tài, chúng tôi sẽ đi sâu làm rõ dấu ấn văn hóa nhìn từ
hệ thống chủ đề và dấn ấn văn hóa nhìn từ phươpng thức thể hiện.
Ngoài ra, tùy từng trường hợp cụ thể, tác giả sử dụng các phương pháp
nghiên cứu hỗ trợ khác để làm sáng rõ các vấn đề nghiên cứu của đề tài.
5
5. Đóng góp của luận văn
Đóng góp của luận văn thể hiện qua việc tác giả đề tài đã cố gắng tập trung
nghiên cứu, làm sáng rõ 3 nội dung chính:
- Một là, làm rõ khái niệm văn hóa, mối quan hệ giữa tác phẩm Thánh Tông
di thảo với môi trường văn hóa, văn học thời kì trung đại Việt Nam, những vấn đề
liên quan đến tác giả, vị trí của tác phẩm trong tiến trình vận động của truyền kì
Việt Nam thời trung đại cùng cơ sở nghiên cứu tác phẩm từ góc nhìn văn hóa.
- Hai là, tập trung phân tích những dấu ấn văn hóa trong Thánh Tông di thảo
nhìn từ hệ thống chủ đề qua hệ tư tưởng văn hóa, những sinh hoạt văn hóa tinh thần
và hệ thống nhân danh, địa danh, thắng tích văn hóa.
- Ba là, làm sáng rõ những dấu ấn văn hóa trong Thánh Tông di thảo nhìn từ
phương thức thể hiện qua không gian, thời gian nghệ thuật, sự dung hợp thể loại và
yếu tố hoang đường, kì ảo.
Từ đó, luận văn chỉ ra những giá trị của tác phẩm Thánh Tông di thảo cũng
như vị trí của nó trong tiến trình vận động, phát triển của thể loại truyện truyền kì
trong dòng văn xuôi trung đại nước ta.
Luận văn có thể được sử dụng làm tư liệu tham khảo cho học sinh, sinh viên,
học viên, giáo viên, người nghiên cứu,… trong việc học tập, giảng dạy, nghiên cứu
tác phẩm Thánh Tông di thảo nói riêng cũng như thể loại truyền kỳ trung đại Việt
Nam nói chung. Đồng thời, luận văn cũng có thể trở thành tài liệu tham khảo cho tất
cả những ai muốn tìm hiểu những nét đặc sắc văn hóa dân tộc thời trung đại nói
chung, thời Lê Thánh Tông nói riêng.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được
cấu trúc thành 03 chương:
- Chương 1: Thánh Tông di thảo trong môi trường văn hóa, văn học trung đại
Việt Nam
- Chương 2: Dấu ấn văn hóa trong trong Thánh Tông di thảo nhìn từ hệ
thống chủ đề
- Chương 3: Dấu ấn văn hóa trong trong Thánh Tông di thảo nhìn từ phương
thức thể hiện
6
Chƣơng 1
THÁNH TÔNG DI THẢO TRONG MÔI TRƢỜNG VĂN HÓA,
VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
1.1. Khái niệm văn hóa và mối quan hệ giữa văn hóa với văn học
1.1.1. Khái niệm văn hóa
Văn hóa là một khái niệm khá phức tạp, mang nội hàm rộng với rất nhiều
cách hiểu khác nhau. Trước khi trở thành đối tượng nghiên cứu phục vụ cho chương
trình Đại học đại cương ngành khoa học xã hội và nhân văn ở Việt Nam những năm
chín mươi của thế kỉ XX, khái niệm văn hóa đã là đối tượng nghiên cứu của một số
ngành khoa học như Dân tộc học, Nhân loại học, Xã hội học ở châu Âu từ những
năm giữa thế kỉ XIX trở đi.
Năm 1871, Edward Burnett Tylor, người sáng lập ra khoa Nhân học của
nước Anh, trong tác phẩm Văn hóa nguyên thủy (Primitive culture), lần đầu tiên ông
nêu định nghĩa về văn hóa. Theo ông, “Văn hóa là một tổng thể phức tạp bao gồm
tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và cả những khả
năng và thói quen khác mà con người đạt được với tư cách là một thành viên của xã
hội” [4, tr.13]. Đây là định nghĩa nhận được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học.
Sau Edward Burnett Tylor, năm 1952, các nhà Xã hội học và Dân tộc học
nước Mỹ đã thống kê có khoảng 150 khái niệm về văn hóa và phân loại các khái
niệm này về các mặt nghĩa chủ yếu như nghĩa miêu tả, nghĩa lịch sử, nghĩa chuẩn
mực, nghĩa tâm lý, nghĩa cấu trúc, nghĩa biến sinh, nghĩa phát sinh.
Trong phát động “Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa” (1988-1997), Tổng
giám đốc UNESCO Federico Mayor đã đưa ra một khái niệm chính thức về văn
hóa: “Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo trong quá khứ và hiện
tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá
trị, các truyền thống và các thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của từng
dân tộc” [8, tr.10].
Từ góc nhìn của những nhà nghiên cứu về văn hóa, trên thế giới đã tồn tại
những khái niệm khác nhau về văn hóa. Tuy nhiên, một khái niệm nào nêu ra cũng
chỉ đề cập đến một phương diện, biểu hiện nào đó của khái niệm văn hóa.
Ở Việt Nam, dưới góc nhìn của những nhà ngôn ngữ học, từ văn hóa có rất
nhiều nghĩa. Trong Từ điển tiếng Việt, các nhà biên soạn đã nêu ra năm nét nghĩa cơ
7
bản của từ “văn hóa”. Cụ thể: 1. “tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh
thần do con người sáng tạo trong quá trình lịch sử”; 2. “những hoạt động của con
người nhằm thỏa mãn nhu cầu đời sống tinh thần (nói tổng quát)”; 3. “tri thức, kiến
thức khoa học (nói khái quát)”; 4. “trình độ cao trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của
văn minh” và 5. “nền văn hóa của một thời kì cổ xưa, được xác định trên cơ sở một
tổng thể những di vật tìm thấy được có những đặc điểm giống nhau” [18, tr.1062].
Trên cơ sở những nét nghĩa cơ bản về văn hóa đã nêu, các nhà nghiên cứu
văn hóa Việt Nam đã lần lượt đưa ra những kiến giải có phần khác nhau về khái
niệm quen thuộc này. Trong công trình Cơ sở văn hóa Việt Nam, nhà văn hóa học
Trần Ngọc Thêm quan niệm: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất
và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn,
trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội” [25, tr.10].
Nhà nghiên cứu Phan Ngọc lại khẳng định: “Văn hóa là mối quan hệ giữa thế giới
biểu tượng trong một cá nhân hay một tộc người với cái thế giới thực tại ít nhiều đã
bị cá nhân này hay tộc người này mô hình hóa theo cái mô hình tồn tại trong biểu
tượng. Điều biểu hiện rõ nhất chứng tỏ mối quan hệ này, đó là văn hóa dưới hình
thức dễ thấy nhất, biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng của cá nhân hay tộc
người, khác các kiểu lựa chọn riêng của cá nhân hay các tộc người khác” [16, tr.1718]. Lê Nguyên Cẩn thì cho rằng: “Văn hóa là một phức hợp mang tính tổng thể
của một cộng đồng trong tiến trình thời gian thông qua việc sáng tạo, học hỏi, tích
lũy kinh nghiệm sống từ thế hệ này sang thế hệ khác” [3, tr.13]. Huỳnh Công Bá
khái quát: “Văn hóa là tổng thể các giá trị vật chất, tinh thần và ứng xử mang tính
biểu trưng, do một cộng đồng người sáng tạo ra và tích lũy được qua quá trình sinh
tồn trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và lịch sử - xã hội
của mình, cũng như sự hoàn thiện đối với bản thân mình” [4, tr.22]. Trần Quốc
Vượng nêu: “Văn hóa, theo nghĩa rộng, là cái tự nhiên được biến đổi bởi con người,
bao hàm cả kỹ thuật, kinh tế để từ đó hình thành một lối sống, một thế ứng xử, một
thái độ tổng quát của con người đối với vũ trụ, thiên nhiên và xã hội, là cái vai trò
của con người trong vũ trụ đó, với một hệ thống những chuẩn mực, những giá trị,
những biểu tượng, những quan niệm… tạo nên phong cách diễn tả tri thức và nghệ
thuật của con người” [34, tr.22]
Mỗi nhà nghiên cứu khi nêu khái niệm văn hóa đều dựa trên những cơ sở
khoa học nhất định. Dù được định nghĩa bằng nhiều cách hiểu khác nhau nhưng văn
hóa được nhìn nhận có những điểm gặp nhau ở bản chất, đặc trưng, chức năng. Bản
8
chất của văn hóa là đa dạng, bao gồm những giá trị vật chất, tinh thần của một dân
tộc. Đặc trưng của văn hóa thể hiện ở tính hệ thống, tính giá trị, tính lịch sử, tính
nhân sinh. Văn hóa có chức năng nhận thức thế giới, trở thành động lực phát triển
xã hội, giúp con người khám phá những quy luật của tự nhiên, xã hội và chính bản
thân để hướng đến cái chân - thiện - mỹ.
1.1.2. Mối quan hệ giữa văn hóa với văn học
Nghiên cứu về văn hóa nói chung và tìm hiểu cấu trúc của hệ thống văn hóa
nói riêng, Trần Ngọc Thêm xây dựng mô hình cấu trúc của hệ thống văn hóa gồm
bốn thành tố cơ bản: văn hóa nhận thức, văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên,
văn hóa tổ chức cộng đồng, văn hóa ứng xử với môi trường xã hội. Các thành tố của
văn hóa hiện diện trong đời sống con người cụ thể qua một số phương diện như:
ngôn ngữ, tôn giáo, tín ngưỡng, văn học nghệ thuật, ứng xử, sinh hoạt, pháp luật,
giáo dục… Như vậy, văn học là một thành tố cơ bản của văn hóa. Giữa văn hóa và
văn học có mối quan hệ gắn bó hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau.
Bàn về mối quan hệ giữa văn hóa và văn học, nhiều nhà nghiên cứu đã đưa
ra những nhận xét, đánh giá cụ thể. Trần Ngọc Thêm khẳng định “quan hệ giữa văn
hóa với văn chương là mối quan hệ giữa hệ thống với yếu tố, giữa toàn thể với bộ
phận” [25, tr17]. Đỗ Lai Thúy lại cho rằng: trong mối quan hệ qua lại giữa văn hóa
với văn học thì “văn hóa chi phối văn học với tư cách là hệ thống chi phối yếu tố,
toàn thể chi phối bộ phận” [20]. Lê Nguyên Cẩn thì cho rằng: “Nếu coi văn hóa là
toàn bộ các giá trị vật chất và tinh thần mà con người sáng tạo ra trong suốt tiến
trình lịch sử nhằm tạo dựng khuôn mặt riêng cho nó, nhằm tạo ra bản sắc văn hóa
cho riêng mình thì tác phẩm văn học là một trong những giá trị sáng tạo nó” [3,
tr.11]. Theo đó, mối quan hệ giữa văn hóa và văn học là mối quan hệ mang tính chi
phối, tác động. Văn hóa chi phối văn học, diện mạo văn hóa của một dân tộc tác
động đến sự ra đời, phát triển của văn học dân tộc đó. Khi sáng tác văn học, dù nhà
văn phát huy vai trò tưởng tượng, hư cấu đến mức độ nào thì tác phẩm văn học khó
có thể vượt qua dấu hiệu và giá trị văn hóa của cộng đồng, của dân tộc mà nhà văn
chịu ảnh hưởng. Tuy nhiên, so với các yếu tố vốn có tính ổn định như ngôn ngữ, tôn
giáo, tín ngưỡng, pháp luật, giáo dục… thì văn học luôn có xu hướng vận động,
phát triển. Bản chất của văn học là sáng tạo. Chính sự vận động, phát triển, sáng tạo
không ngừng này mà văn học luôn là bộ phận phong phú, đa dạng và có vai trò
quan trọng làm nên diện mạo của mỗi nền văn hóa.
Bên cạnh mối quan hệ mang tính chất tác động, chi phối, giữa văn hóa và
9
văn học còn có mối quan hệ hỗ trợ, bổ sung. Nguyễn Hòa khi nghiên cứu về mối
quan hệ giữa văn hóa với văn chương đã nhấn mạnh: “Mỗi tác phẩm văn chương là
một sản phẩm văn hóa bao gồm sự thống nhất không thể chia cắt của hai mặt: một
mặt chứa đựng một số ý nghĩa của chính nền văn hóa đã khai sinh ra nó; một mặt là
sản phẩm văn hóa do chủ thể thẩm mỹ là nhà văn sáng tạo ra, vừa là nơi phóng
chiếu ý tưởng văn hóa của cá nhân, vừa góp phần làm phong phú, bổ sung một
(những) giá trị mới vào nền văn hóa đã khai sinh ra nó” [12]. Theo quan điểm này,
văn học được hưởng thụ, tiếp thu, kế thừa các giá trị văn hóa để tạo nên giá trị bản
thân. Đến lượt mình, văn học góp phần làm nên sự đa dạng, phong phú, giàu có cho
văn hóa. Bất kỳ một tác phẩm văn học nào cũng chứa đựng những vỉa tầng văn hóa
ở các mức độ khác nhau. Tác phẩm văn học trở thành sản phẩm có sự kết tinh cao
nhất của văn hóa cộng đồng dân tộc. Vì vậy, văn học trở thành sản phẩm tinh thần
của cả một thời đại. Chính giá trị văn hóa có trong tác phẩm đã tạo cho tác phẩm
văn học sức mạnh để tự nâng mình, tạo sức vươn tỏa mới.
Đối với người nghệ sĩ sáng tạo văn chương, văn hóa là chất liệu, nguồn cảm
hứng, mạch nguồn giá trị của văn học. Văn học, vì vậy, không thể tách rời văn hóa.
Ngược lại, văn học còn tiếp cận, khai thác, miêu tả, tái hiện văn hóa qua tác phẩm
bằng chất liệu ngôn từ nghệ thuật và những phương thức thể hiện độc đáo. Chính vì
vậy, văn hóa hiện lên trong tác phẩm văn học vừa đa dạng trong phương diện biểu
hiện vừa sinh động, lung linh, đầy chất nghệ thuật. Chuyển tải văn hóa của một
cộng đồng, dân tộc đến với mọi người có rất nhiều con đường. Nhưng thông qua tác
phẩm văn học có thể được xem là con đường ngắn nhất và hiệu quả nhất.
Một trong những quy luật vận động của văn học là vận động trong sự bảo lưu
và tiếp biến. Trong sự vận động ấy, văn học đã và đang giữ gìn, phát huy những giá
trị văn hóa qua các thời kỳ. Do vậy, văn học được xem là một trong những tài liệu
quan trọng để tìm hiểu, nghiên cứu về văn hóa của mỗi dân tộc, quốc gia, vùng
miền,... Đồng thời, nghiên cứu tác phẩm văn học trong mối quan hệ với văn hóa,
hay tiếp cận tác phẩm văn học từ góc nhìn văn hóa là hướng nghiên cứu có cơ sở
khoa học, hiệu quả.
1.1.3. Môi trường văn hóa, văn học thời kỳ trung đại Việt Nam
Xét trên tổng thể, môi trường văn hóa do con người tạo nên. Nó là kết quả
của phép ứng xử của con người với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và với
chính bản thân mình. Vì vậy, môi trường văn hóa trở thành một bộ phận quan trọng
của môi trường sống; gắn bó hữu cơ, mật thiết với môi trường tự nhiên và môi
10
trường xã hội. Trong lịch sử của một dân tộc, ở mọi thời đại, môi trường văn hóa
cùng với tư tưởng, đạo đức, lối sống là những nội dung quan trọng góp phần xây
dựng nhân cách con người, hình thành lối sống, nếp sống, chuẩn mực xã hội. Môi
trường văn hóa trở thành yếu tố nền tảng để xây dựng một xã hội tốt đẹp, nhân văn
và phản ánh sự tiến bộ xã hội.
Môi trường văn hóa thời kỳ trung đại Việt Nam gắn liền với sự ra đời và phát
triển của nhà nước phong kiến, hoạt động theo mô hình và nguyên tắc quân chủ
chuyên chế, lấy Nho - Phật - Đạo và văn hóa bản địa làm nền tảng tinh thần cho xã
hội, trong đó quan trọng và gần như xuyên suốt là hệ tư tưởng Nho giáo. Đây là hệ
tư tưởng đề cao “thiên mệnh”, chủ trương “nhân trị”, “đức trị” (cai trị bằng lòng
nhân, bằng đạo đức) cùng hàng loạt những quy tắc ứng xử xã hội được quy định
trong “tam cương”, “ngũ thường”. Dưới sự chi phối của Nho giáo, văn hóa trung
đại mang một bản sắc độc đáo riêng so với văn hóa thời hiện đại. Trật tự nhà nước
phong kiến được tạo nên bởi nền tảng ý thức hệ Nho giáo đã chi phối một cách sâu
sắc các phương diện của đời sống văn hóa thời trung đại. Từ văn hóa vật chất đến
văn hóa tinh thần, ta đều thấy dấu ấn rõ nét của Nho giáo. Chẳng hạn, những mệnh
đề đạo đức Nho gia như “quân, sư, phụ”, “phu xướng phụ tùy”, “tam tòng tứ
đức”,… thể hiện rõ trong văn hóa ứng xử, giao tiếp, văn hóa gia đình, dòng họ của
người Việt. Đặc biệt, giáo dục Việt Nam thời phong kiến là nền giáo dục đề cao
Hán học. Nó chịu sự chi phối mạnh mẽ của Nho giáo trên mọi phương diện từ tài
liệu học tập, tổ chức và phương pháp giáo dục, thi cử… Nho giáo đã trực tiếp hình
thành nên một nền văn hóa giáo dục, thi cử mang màu sắc riêng. Đời sống văn hóa
tinh thần của tầng lớp trí thức trong xã hội (nho sĩ, quan lại, vua chúa) chịu ảnh
hưởng chủ yếu từ hệ tư tưởng này. Bên cạnh Nho giáo, Phật giáo, tư tưởng Lão Trang và Đạo giáo cũng có ảnh hưởng lớn đến nền văn hóa Việt Nam thời trung đại.
Phật giáo với hệ thống giáo lí cùng chùa chiền, sư sãi, quy tắc ứng xử đã để lại dấu
ấn đậm nét trong đời sống văn hóa người Việt. Tư tưởng Lão - Trang và Đạo giáo
với triết lí vô vi, thuyết tương đối, hình ảnh các đạo sĩ, phép tu tiên cùng những giai
thoại về thần tiên cũng được biểu hiện, chi phối, cộng hưởng trong tín ngưỡng dân
gian nói riêng và trong nền văn hóa trung đại Việt Nam nói chung.
Môi trường văn hóa thời kỳ trung đại Việt Nam trở thành cái nôi hình thành,
nuôi dưỡng, truyền bá, thưởng thức văn học trung đại. Ra đời trong môi trường văn
hóa trung đại, văn học trung đại Việt Nam chịu sự chi phối, tác động toàn diện và
sâu sắc của văn hóa trung đại. Đây là sự chi phối của hệ thống đối với bộ phận.
11
Dưới sự tác động, chi phối của môi trường văn hóa phương Đông thời trung đại,
văn học trung đại Việt Nam mang những đặc thù riêng, khác với văn học dân gian
có trước và song hành với nó, đồng thời khác với văn học hiện đại ra đời sau nó.
Nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam vì thế cần đặt trong mối tương liên với môi
trường văn hóa trung đại đương thời.
Thời kỳ văn học viết trung đại Việt Nam hình thành và phát triển từ khoảng
thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX, gắn liền với quá trình xây dựng và bảo vệ quốc gia
phong kiến độc lập tự chủ, trải qua nhiều triều đại. Trải dài trong suốt mười thế kỷ,
văn học trung đại Việt Nam gắn liền với sự hình thành, thịnh suy, tồn vong của các
triều đại phong kiến Việt Nam. Nhà nước phong kiến Việt dù ở trong tình trạng
thịnh hay suy đều có những tác động to lớn đến sự vận động, phát triển của nền văn
hóa, văn học thời trung đại.
Là thời kỳ đầu tiên trong tiến trình phát triển của bộ phận văn học viết dân
tộc, văn học trung đại Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền văn hóa dân gian
đã tồn tại từ hàng nghìn năm trước. Văn hóa dân gian dân tộc với những tác phẩm
văn học, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, nếp sống, lối nghĩ… từ bao đời đã đi vào
tâm thức người Việt, nuôi dưỡng tâm hồn người Việt qua bao thế hệ. Văn học dân
gian là sáng tác tập thể, được lưu giữ bằng phương thức truyền miệng từ đời này
sang đời khác, phong phú, đa dạng về mặt thể loại đã trở thành nền tảng để văn học
trung đại Việt Nam làm cơ sở xây dựng truyền thống của mình.
Dưới thời phong kiến, nền văn học trung đại không chỉ tiếp tục kế thừa và
cách tân mạch nguồn văn hóa, văn học dân gian dân tộc mà còn giao lưu, tiếp thu có
chọn lọc và cải biến cho phù hợp những tinh hoa văn hóa, văn học nhân loại, nhất là
của Trung Hoa. Trong sự kế thừa và cách tân văn học dân gian, bảo lưu và tiếp biến
tinh hoa văn hóa, văn học Trung Hoa, văn học trung đại Việt Nam trên tiến trình
phát triển mười thế kỉ gồm hai thành phần chủ yếu là văn học chữ Hán và văn học
chữ Nôm. Hai thành phần này cùng tồn tại bên nhau, quan hệ mật thiết với nhau tạo
thành hiện tượng song ngữ ở văn học trung đại Việt Nam. Hai thành phần văn học
chữ Hán và văn học chữ Nôm này không đối lập mà bổ sung cho nhau trong quá
trình phát triển của văn học dân tộc. Trải qua những giai đoạn phát triển khác nhau,
văn học trung đại Việt Nam đã định hình được diện mạo riêng với nhiều đặc điểm
lớn, rõ nét.
Trước hết, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa nhân đạo là hai nội dung lớn,
xuyên suốt quá trình tồn tại và phát triển của văn học trung đại Việt Nam. Dù có cơ
12
sở sâu xa từ truyền thống dân tộc nhưng cả hai nội dung này khi thể hiện trong các
tác phẩm văn học trung đại đều chịu ảnh hưởng bởi nền văn hóa Trung Hoa, dựa trên
nền tảng ý thức hệ Nho giáo. Theo đó, chủ nghĩa yêu nước trong văn học trung đại
gắn liền với tư tưởng “trung quân ái quốc” (trung với vua là yêu nước, yêu nước là
trung với vua). Vì vậy, hình tượng trung tâm trong văn học trung đại Việt Nam là
hình tượng người quân tử ôm ấp chí lớn về việc giúp nước, cứu đời, thuận thiên
hành đạo. Cảm hứng chủ đạo là cảm hứng tự cường, tự hào dân tộc, tự hào trước
chiến công thời đại, tự hào trước truyền thống lịch sử trong công cuộc giữ gìn giang
sơn; biết ơn công nghiệp to lớn của các bậc tiền nhân cũng như của thế hệ mình;
ngợi ca chí làm trai, người quân tử,… Văn học trung đại Việt Nam đã hình thành
nên dòng thơ văn “tỏ lòng”, “thuật hoài”, “ngôn chí” đặc sắc với nhiều tác phẩm
đỉnh cao như Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão, Cảm hoài của Đặng Dung, Dụ chư tì
tướng hịch văn của Trần Quốc Tuấn, Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu,
Ngôn chí của Nguyễn Trãi, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi…
Chịu ảnh hưởng của hệ tư tưởng chính thống là Nho giáo, văn học trung đại
Việt Nam mang tính quy phạm. Tính quy phạm là sự quy định chặt chẽ theo khuôn
mẫu định sẵn. Trước hết, tính quy phạm của văn học trung đại Việt Nam thể hiện ở
quan điểm văn học coi trọng mục đích giáo huấn. Tác giả văn học trung đại quan
niệm “thi dĩ ngôn chí” (thơ để nói chí), “văn dĩ tải đạo” (văn để chở đạo), mà “đạo”,
“chí” ở đây thực chất là vấn đề lí tưởng “tu tề trị bình”, chí làm trai, mộng tang
bồng hồ thỉ,… Từ quan điểm coi trọng mục đích giáo huấn, văn học trung đại Việt
Nam tư duy nghệ thuật theo kiểu mẫu nghệ thuật có sẵn đã thành công thức. Với
quan niệm “thuật nhi bất tác” (kể lại mà không cần sáng tác ra cái mới), văn học
trung đại Việt Nam mang tính tập cổ, sùng cổ ở cách sử dụng thi liệu. Điển tích,
điển cố được dẫn nhiều, dùng nhiều văn liệu quen thuộc. Kinh sách, câu nói của
thánh hiền thường được các tác giả văn học trung đại dẫn lại hoặc vận dụng vào
trong tác phẩm. Chính điều này khiến văn học trung đại Việt Nam mang khuynh
hướng trang nhã. Đề tài, chủ đề hướng tới cái cao cả; hình tượng nghệ thuật hướng
tới vẻ đẹp tao nhã, mĩ lệ hơn là vẻ đẹp đơn sơ, mộc mạc; ngôn ngữ nghệ thuật là
chất liệu ngôn ngữ cao quý, cách diễn đạt trau chuốt, hoa mĩ hơn là thông tục, tự
nhiên, gần với đời sống. Văn học trung đại Việt Nam thiên về ước lệ, tượng trưng,
tính chất phải đẹp, phải hay, phải sang trọng mà người xưa gọi đó là “phun châu nhả
ngọc”, “lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu”.
Cũng chịu ảnh hưởng từ môi trường văn hóa trung đại, lực lượng sáng tác
13
chính của văn học trung đại là đội ngũ trí thức, chủ yếu là nho sĩ, quan lại, vua chúa
và một ít tăng lữ. Đối tượng độc giả của văn học trung đại cũng rất hạn chế. Tác
phẩm được viết ra chủ yếu để phục vụ chính tác giả hoặc một số bạn văn thân thiết
của họ. Trong môi trường văn hóa trung đại, tác phẩm văn chương được xem là
phương tiện để giải trí, thú tiêu khiển như ngâm thơ, xướng họa thơ, đối đáp thơ. Ý
thức về bản quyền trong văn học trung đại còn rất mờ nhạt (do đó, có nhiều tác
phẩm khuyết danh). Việc in ấn, phát hành, bảo quản tác phẩm văn học trong thời
trung đại cũng gặp rất nhiều khó khăn, do đó dẫn đến nhiều tác phẩm bị thất lạc,
vấn đề tác giả của tác phẩm còn nhiều tồn nghi, thiếu chính xác,… Vì những lí do
trên mà trong môi trường văn hóa trung đại, văn chương ít được tiếp cận với quảng
đại quần chúng độc giả.
Nhìn chung, ra đời trong môi trường văn hóa trung đại, đồng thời là một bộ
phận cấu thành nên văn hóa trung đại, văn học trung đại mang những đặc trưng
riêng, có quan hệ chặt chẽ với các thành tố khác và cả hệ thống văn hóa trong tính
chỉnh thể của nó. Vì thế, nghiên cứu văn học trung đại không thể tách rời ra khỏi
môi trường văn hóa trung đại. Ngược lại, đặt văn học trung đại trong môi trường
văn hóa trung đại, nhìn nhận tác phẩm bằng cái nhìn văn hóa sẽ giúp người nghiên
cứu gợi mở, giải mã được nhiều vấn đề quan trọng.
1.2. Vấn đề tác giả và vị trí của Thánh Tông di thảo trong tiến trình vận động
của truyền kỳ Việt Nam thời trung đại
1.2.1. Vấn đề tác giả của Thánh Tông di thảo
Tập truyện Thánh Tông di thảo gồm mười chín truyện, cuối mỗi truyện có
lời bàn của Sơn Nam Thúc, nhưng Sơn Nam Thúc là ai thì cũng chưa ai khẳng định
được. Nhìn chung, vấn đề tác giả của Thánh Tông di thảo, đến nay vẫn còn nhiều
điểm nghi vấn, gây tranh cãi trong giới nghiên cứu.
Đinh Gia Khánh, trong bài Về Thánh Tông di thảo, đã đặt vấn đề “Thánh
Tông di thảo có phải đúng là do Lê Thánh Tông viết ra hay không? Hiện nay chưa
giải đáp được dứt khoát vấn đề này. Một số truyện đã do người đời Nguyễn chữa lại
và một số lại có thể do người đời Nguyễn viết ra. Tuy nhiên lời tương truyền rằng
tác giả Thánh Tông di thảo là Lê Thánh Tông cũng không phải là hoàn toàn vô căn
cứ” [13, tr. 484].
Hai nhà nghiên cứu Lê Sỹ Thắng và Hà Thúc Minh, trong “Lời giới thiệu”
sách Thánh Tông di thảo, do Nguyễn Bích Ngô dịch, đã tổng hợp được ba loại ý
14
kiến khác nhau về tác giả của Thánh Tông di thảo. Loại ý kiến thứ nhất, căn cứ vào
cách xưng hô trong tác phẩm khẳng định tác giả của Thánh Tông di thảo là Lê
Thánh Tông. Loại ý kiến thứ hai, dựa vào tên địa danh, sự kiện, các học vị,... nhận
định Thánh Tông di thảo không phải là tác phẩm của Lê Thánh Tông. Loại ý kiến
thứ ba, cho rằng: Trong Thánh Tông di thảo, xen vào những bài của chính Lê Thánh
Tông, có cả những bài của người đời sau.
Hai tác giả Lại Nguyên Ân và Bùi Văn Trọng Cường khi bàn về tác giả của
Thánh Tông di thảo trong cuốn Từ điển Văn học Việt Nam từ nguồn gốc đến hết thế
kỷ XIX đã cho rằng: “Tên sách vốn có nghĩa là: bản thảo còn sót lại của Lê Thánh
Tông. Các triều Lý, Trần, Lê đều có những vua mang miếu hiệu Thánh Tông,
nhưng vì Lê Thánh Tông có tiếng là ông vua giỏi văn học nên người ta gắn tên sách
này cho ông. Hơn nữa người ta còn chú ý đến xu hướng đề cao ý thức hệ Nho giáo
vốn là nét nổi bật ở vua Lê Thánh Tông, hoặc người ta lưu ý đến lối sáng tác “tập
cổ” trong một số truyện, đến giọng tự đắc, khoa trương, thích dạy đời của một ông
vua hay chữ.” [2, tr.570]. Thế nhưng, cũng trong công trình nghiên cứu này, hai tác
giả cũng đã đưa ra quan điểm trái ngược của Trần Văn Giáp khi nói tới tác giả của
Thánh Tông di thảo. Trần Văn Giáp xem đây là một văn bản giả mạo. Ông cho
rằng, văn bản này chỉ là một tập truyện được viết khoảng cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX, có thể là sau năm Quý Tỵ Thành Thái thứ 5 (1893), tác giả có bút danh Sơn
Nam Thúc.
Tác giả Bùi Duy Tân trong sách Từ điển văn học (bộ mới) lại cho rằng:
“Không thể chỉ căn cứ vào một vài địa danh (Hà Nội, Đoái Hồ,...) hoặc thuật ngữ
(Phó bảng, Cử nhân,...) đến thời Nguyễn mới có để kết luận đây là một tác phẩm giả
mạo. Vì những danh từ ấy có thể do người sau sửa lại... Có thể xem Thánh Tông di
thảo là một tập sách, trong đó có những bài do Lê Thánh Tông viết, người đời sau
sửa chữa; có những bài do người đời sau viết thêm. Chính vì thế mà nội dung và
tính chất của tác phẩm khá phức tạp, nhiều truyện có quan điểm trái ngược nhau.”
[5, tr.1636].
Từ những ý kiến xoay quanh việc xác định tác giả của Thánh Tông di thảo,
vấn đề nêu ra tác giả của Thánh Tông di thảo là Lê Thánh Tông cũng không phải là
hoàn toàn vô căn cứ. Vì vậy, trong khi chờ đợi một bằng chứng khoa học chắc chắn
từ các nhà nghiên cứu văn học về Thánh Tông di thảo, chúng tôi tạm thời xem tác
phẩm Thánh Tông di thảo là của Lê Thánh Tông. Với giả thiết này, khi tìm hiểu
Thánh Tông di thảo từ góc nhìn văn hóa, người viết thấy cần thiết phải tìm hiểu một
15
số nét cơ bản về cuộc đời và sự nghiệp của Lê Thánh Tông để có thể hiểu tác phẩm
một cách sâu sắc nhất ở các phương diện liên quan.
Lê Thánh Tông tên tự là Tư Thành, lại có tên nữa là Hạo. Ông sinh ngày 20
tháng Bảy năm Nhâm Tuất, tức ngày 25 tháng 8 năm 1442, niên hiệu Đại Bảo thứ
ba, con trai út, thứ tư của vua Lê Thái Tông, sau ba anh: Nghi Dân, Khắc Xương và
Thái Tông Bang Cơ. Mẹ ông là bà Ngô Thị Ngọc Giao, con quan Thái bảo Ngô Từ,
một khai quốc công thần thời khởi nghĩa Lam Sơn. Theo ghi chép của Lê Quý Đôn
trong Đại Việt thông sử thì “Khi Quang Thục Hoàng Thái hậu (tức Ngô Thị Ngọc
Dao) còn là Tiệp dư đã từng vì trái ý, bị vua Thái Tông bỏ tù ở vườn hoa, Trịnh Khả
cứu bà thoát nạn” [22, tr.104]. Có nhiều chuyện kể rằng, Tư Thành được mẹ sinh ra
ở chùa Huy Văn, bên ngoài cung cấm. Hai mẹ con sống lánh mình trong dân gian.
Tư Thành mới sinh chưa đầy nửa tháng thì mùng 4 tháng Tám, tức ngày 9
tháng Chín năm 1442 vua Lê Thái Tông đột tử ở Lệ Chi Viên, Thái tử Lê Bang Cơ
lên ngôi, tức Lê Nhân Tông. Tư Thành lên bốn tuổi, Thái hậu Nguyễn Thị Anh
đang nắm chính sự thay con Lê Bang Cơ, phong làm Bình Nguyên vương, được trở
về cung cấm, sống trong phủ đệ riêng, cùng học tập với các thân vương. Tư Thành
tuấn tú, thông tuệ, biết rõ thân phận mình nên ngày đêm chăm chỉ học tập, dáng dấp
đoan chính, không lộ anh khí ra bên ngoài, chỉ vui với sách vở thánh hiền. Thái hậu
Nguyễn Thị Anh quý và coi Tư Thành như con đẻ của bà, còn Nhân Tông Bang Cơ
thì cho là người em hiếm có.
Mùa đông năm Kỷ Mão (1459), người con cả của Thái Tông là Lê Nghi Dân
kết bè đảng, đột nhập cung cấm giết mẹ con Nhân Tông chiếm ngôi. Nghi Dân đổi
phong Tư Thành là Gia Vương và vẫn cho ở nhà Tây để trong nội điện. Giữa năm
Canh Thìn (1460), sau tám tháng trị vì, mùng 6 tháng Sáu, các triều thần dấy nghĩa,
phế truất Nghi Dân. Khi Nghi Dân bị lật đổ, trong triều có người bàn lập Tư Thành
làm vua, nhưng quan nội thái úy Lê Lăng bàn rằng nên lập Cung vương Khắc
Xương, không nên bỏ anh lập em, dẫm lại vết xe đổ Nghi Dân - Bang Cơ. Tuy
nhiên, triều thần đến đón Cung vương, song ông này từ chối. Khi đó họ mới rước
Tư Thành lên ngôi, bấy giờ ông vừa tròn mười tám tuổi.
Lê Thánh Tông là một trong những ông vua ở ngôi lâu nhất trong lịch sử các
triều đại phong kiến Việt Nam. Ba mươi tám năm trị vì, mười năm đầu lấy niên hiệu
Quang Thuận (1460-1469), hai tám năm sau, đổi niên hiệu là Hồng Đức (14701497). Vua tự xưng hiệu là Thiên Nam Động chủ, Đạo Am chủ nhân. Vua mất ngày
30 tháng Giêng năm Đinh Tỵ (1479), niên hiệu Hồng Đức thứ 28, được dâng miếu
- Xem thêm -