MỤC LỤC
Danh Sách Thành Viên Nhóm 5
I.
II.
Mở Đầu…………………………………………………………….1
Nội Dung
1. Hoàn cảnh ra đời…………………………………………………2
2. Mục tiêu và nguyên tắc hoạt động……………………………….3
3. Trụ sở và thành viên của Liên Hợp Quốc………………………..6
4. Tài Chính của Liên Hợp Quốc…………………………………..8
5. Ngôn Ngữ……………………………………………………….9
6. Các cơ quan chủ yếu của Liên Hợp Quốc………………………10
7. Các Tổ chức trong Liên hợp quốc………………………………36
8. Các hoạt động tiêu biểu của Liên Hơp Quốc…………………..43
III. Kết Luận và kiến nghị …………………………………………….45
Tài Liệu Tham Khảo
i
ii
Phần I: Mở Đầu
Liên Hiệp Quốc hay Liên Hợp Quốc, tên tiếng anh United Nation (UN).
Liên hợp quốc ( LHQ) là một tổ chức quốc tế có mục đích duy trì hòa bình và
an ninh trên thế giới, phát triển các mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc và
tiến hành hợp tác quốc tế giữa các nước trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình
đẳng và quyền tự quyết của các dân tộc.
Liên Hợp Quốc chính thức ra đời vào ngày 24/10/1945 khi Hiến chương Liên
Hợp Quốc được Trung quốc, Pháp, Liên Xô, Vương quốc Anh, Hợp chủng quốc
Hoa kỳ và đa số các quốc gia ký trước đó phê chuẩn.
Tên gọi "Liên Hợp Quốc" đã được Tổng thống Mỹ “Franklin D. Roosevelt”
sáng lập ra và được sử dụng lần đầu tiên trong "Tuyên ngôn của Liên Hợp
Quốc" vào ngày 1/1/1942, trong đó 26 quốc gia đã khẳng định cam kết tiếp tục
cuộc đấu tranh chống lại các nước thuộc phe phát xít.
Tính tới năm 2011, Liên Hiệp Quốc có 193 thành viên, bao gồm hầu hết
các quốc gia có chủ quyền trên Trái Đất.
Trụ sở chính của Liên Hợp Quốc tại thành phố New York, Mỹ (1952).
1
Liên Hiệp Quốc sử dụng 6 ngôn ngữ chính thức: tiếng Ả Rập, tiếng Anh, tiếng
Nga, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Trung. Liên Hợp Quốc là tổ chức
toàn cầu lớn nhất trên thế giới.
Liên Hiệp Quốc và các cơ quan chuyên môn của nó quyết định các vấn đề về
điều hành và luật lệ. Theo hiến chương LHQ thì tổ chức này gồm 6 cơ quan
chính, chủ yếu gồm: Đại hội đồng, Hội đồng Bảo An, Hội đồng kinh tế và xã
hội, Ban thư kí, Tòa án Quốc tế vì Công lý, Hội đồng Ủy trị Liên Hiệp Quốc.
Ngoài ra, một số tổ chức tiến hành quản lý các cơ quan của Hệ thống Liên Hiệp
Quốc, ví dụ như Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp
Quốc(UNICEF).
2
Phần II: Nội Dung
1. Hoàn Cảnh Ra Đời
Liên Hợp Quốc ra đời là một sự kiện quan trọng và là sự kết hợp của nhiều
yếu tố khác nhau, như: vai trò kém hiệu quả của Hội Quốc Liên trong việc giữ
gìn hoà bình, an ninh quốc tế, sự bùng nổ của Chiến tranh thế giới thứ hai cùng
những hậu quả thảm khốc đối với loài người và nỗ lực lớn lao của các nước
trong việc thiết lập một thể chế toàn cầu có vai trò hiệu quả hơn đối với hoà
bình và an ninh quốc tế.
Sự thất bại của Hội Quốc Liên (tiền thân của Liên Hợp Quốc) đã đặt ra yêu cầu
phải thiết lập một thể chế đa phương hữu hiệu có tính toàn cầu, nhằm duy trì
hoà bình và an ninh quốc tế. Trong một thời gian dài, hệ thống an ninh tập thể
của Hội Quốc Liên tỏ ra không hiệu quả vì không được sự quan tâm ủng hộ của
các cường quốc. Những nỗi kinh hoàng của Chiến tranh thế giới thứ nhất chưa
đủ sức thuyết phục các quốc gia hiểu rằng quyền lợi hoà bình của họ đòi hỏi cần
có một trật tự quốc tế với các quyền lợi quốc gia truyền thống làm ưu tiên hàng
đầu. Hội Quốc Liên trở thành một thể chế cứng nhắc, không thể hiện được chức
năng dàn xếp hoặc thiết lập các liên minh năng động, nhằm ngăn chặn các hoạt
động bành trướng quyền lực của một số cường quốc.
Với ý định chuẩn bị cho thời kỳ hậu chiến, nhằm loại trừ khả năng xảy ra một
cuộc chiến tranh thế giới thứ ba và bảo đảm một thế cân bằng mới trong quan hệ
quốc tế sau chiến tranh, ba cường quốc chính của phe Đồng minh - Anh, Mỹ và
Liên Xô - đã tiến hành hai hội nghị thượng đỉnh quan trọng tại Tê-hê-ran (tháng
11/1943) và I-an-ta (tháng 2/1945).
Nội dung trao đổi chính giữa Trớc-trin, Xta-lin và Ru-dơ-ven bao gồm số
phận châu Âu và tương lai của Liên Hợp Quốc. Việc Liên Xô tán thành thiết lập
tổ chức Liên Hợp Quốc tại Hội nghị I-an-ta mở ra khả năng hợp tác giữa các
nước đồng minh trong việc xây dựng một trật tự thế giới mới sau chiến tranh.
Tại I-an-ta, ba cường quốc trên đã thống nhất với nhau về một số điểm then
chốt trong việc thiết lập tổ chức Liên Hợp Quốc: chấp nhận ghế thành viên
riêng rẽ của U-cờ-rai-na và Bạch Nga (nay là Bê-la-rút), dành quyền phủ quyết
cho các thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an, Liên Hợp Quốc có quyền
giám sát việc tạo dựng trật tự châu Âu.
3
Đến Hội nghị Pốt-xđam từ 17/7 đến 2/8/1945, ba cường quốc (thực chất chủ
yếu là Mỹ và Liên Xô, vì Anh đã bị suy yếu) thoả thuận thành lập cơ chế để giải
quyết các vấn đề sau chiến tranh, như vấn đề bồi thường chiến tranh của Đức và
xác định lại biên giới các quốc gia. Hội đồng Ngoại trưởng 5 nước gồm Nga,
Mỹ, Anh, Pháp và Trung Quốc được thành lập. Trên cơ sở thoả thuận tại Hội
nghị I-an-ta, đại biểu của 50 quốc gia đã tham dự Hội nghị Xan Phran-xít-xcô
tháng 4/1945 và dự thảo Hiến chương Liên Hợp Quốc.
Trên cơ sở Hiến chương, tổ chức Liên Hợp Quốc đã chính thức được thành lập
với sự tham gia của 51 quốc gia sáng lập. Sự ra đời của Liên Hợp Quốc đã
chấm dứt hoàn toàn cơ chế cân bằng quyền lực giữa các cường quốc châu Âu
dựa trên cơ sở của Hội nghị Viên năm 1815. Cân bằng quyền lực trên cơ sở
Liên Hợp Quốc là thế cân bằng linh hoạt dựa trên tương tác trong từng vấn đề
giữa ba cạnh: hoà hợp quyền lực giữa 5 thành viên thường trực Hội đồng Bảo
an (còn gọi là P5), tập hợp các nước phương Tây/phát triển, tập hợp các nước
Á–Phi–Mỹ La-tinh/đang phát triển, trong đó tiếng nói của các nước P5 có trọng
lượng đặc biệt.
"Một sự nghiệp vĩ đại để tạ ơn Đức Chúa toàn năng..." Tổng thống Mỹ Harry
S. Truman đã nói như vậy về thành tựu của hội nghị tại San Francisco, một hội
nghị đã góp phần vào việc soạn thảo bản Hiến chương Liên Hợp Quốc năm
1945. Câu nói của tổng thống Truman đã đại diện cho hàng triệu người, những
người tin rằng tổ chức mới này sẽ làm cho những cuộc chiến tranh thế giới lùi
sâu vào dĩ vãng. Lời tựa của bản Hiến chương đã nêu rõ mục đích của tổ chức
này: "Chúng tôi, những dân tộc của Liên Hợp Quốc, quyết tâm cứu những thế
hệ mai sau khỏi thảm họa chiến tranh...".
2. Mục Tiêu Và Nguyên Tắc Hoạt Động
2.1 Mục Tiêu
Theo Hiến chương Liên Hợp Quốc, các quốc gia sáng lập đã quyết tâm thiết lập
Liên Hợp Quốc thành một tổ chức quốc tế toàn cầu với mục tiêu hàng đầu là
bảo đảm một nền hoà bình và trật tự thế giới bền vững.
Theo Điều 1 của Hiến chương, Liên Hợp Quốc được thành lập nhằm 4 mục
tiêu:
-Duy trì hoà bình và an ninh quốc tế.
4
-Thúc đẩy quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc và quốc gia trên cơ sở tôn trọng
nguyên tắc bình đẳng về quyền lợi giữa các dân tộc và nguyên tắc dân tộc tự
quyết.
- Thực hiện hợp tác quốc tế thông qua giải quyết các vấn đề quốc tế trên các
lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hoá và nhân đạo trên cơ sở tôn trọng các quyền con
người và quyền tự do cơ bản cho tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc,
màu da, ngôn ngữ và tôn giáo
-Xây dựng Liên Hợp Quốc làm trung tâm điều hoà các nỗ lực quốc tế vì các
mục tiêu chung.
2.2 Nguyên Tắc Hoạt Động
Để bảo đảm Liên Hợp Quốc là một tổ chức quốc tế thực sự phục vụ mục tiêu
chung của cộng đồng quốc tế, Hiến chương Liên Hợp Quốc cũng quy định các
nguyên tắc hoạt động của Tổ chức Liên Hợp Quốc.
Các nguyên tắc chủ đạo gồm:
-Bình đẳng về chủ quyền quốc gia
-Tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị quốc gia
-Cấm đe doạ sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế
-Không can thiệp vào công việc nội bộ các nước
-Tôn trọng các nghĩa vụ quốc tế và luật pháp quốc tế
-Giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hoà bình.
Các mục tiêu và nguyên tắc hoạt động trên của Liên Hợp Quốc mang tính bao
quát, phản ánh mối quan tâm toàn diện của các quốc gia. Các quan tâm ưu tiên
này thay đổi tuỳ theo sự chuyển biến cán cân lực lượng chính trị bên trong tổ
chức này. Thời gian đầu khi mới ra đời, cùng với sự tăng vọt về số lượng thành
viên, Liên Hợp Quốc tập trung vào các vấn đề phi thực dân hoá, quyền tự quyết
dân tộc và chủ nghĩa phân biệt chủng tộc Apácthai.
Trong thời kỳ gần đây Liên Hợp Quốc ngày càng quan tâm nhiều hơn tới các
vấn đề kinh tế và phát triển. Hoạt động của Liên Hợp Quốc trong gần 60 năm
qua cho thấy trọng tâm chính của Liên Hợp Quốc là duy trì hòa bình an ninh
quốc tế và giúp đỡ sự nghiệp phát triển của các quốc gia thành viên.
5
Đặc điểm bao trùm của Liên Hợp Quốc là tổ chức này không phải là một nhà
ước siêu quốc gia. Liên Hợp Quốc là tổ chức đa phương toàn cầu đầu tiên có
những hoạt động thực chất và đã có nhiều cố gắng trong việc phối hợp và điều
tiết các mối quan hệ giữa các quốc gia độc lập có chủ quyền trên nguyên tắc tôn
trọng chủ quyền bình đẳng của các quốc gia.
Theo Điều 2 mục 7 của Hiến Chương, Liên Lợp Quốc không được can thiệp
vào các vấn đề thuộc quyền tài phán nội bộ của các nước. Tất cả các quốc gia
tham gia Liên Hợp Quốc theo nguyên tắc bình đẳng chủ quyền. Nguyên tắc này
được phản ánh triệt để nhất trong cơ chế tham gia bỏ phiếu các quyết định và
nghị quyết tại Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc (các quốc gia lớn nhỏ đều có một
phiếu).
Một đặc điểm nổi bật khác của Liên Hợp Quốc là tổ chức này phản ánh sự dàn
xếp và cân bằng quyền lực giữa các cường quốc thắng trận. Thực tế này được
thể hiện trong cơ chế hoạt động của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc - cơ quan
chấp hành có thực quyền nhất của Liên Hợp Quốc và đảm nhiệm trách nhiệm
hàng đầu của Liên Hợp Quốc là duy trì hoà bình và an ninh quốc tế. Chỉ các
quyết định của HĐBA mới có tính cưỡng chế thực hiện. Các nghị quyết tại các
cơ quan chính khác của Liên Hợp Quốc như Đại hội đồng, Hội đồng Kinh tế–
Xã hội, Hội đồng Quản thác, và cả Toà án Quốc tế chỉ có tính khuyến nghị, đạo
lý và tạo sức ép dư luận. Để bảo đảm lợi ích và thu hút sự tham gia của cho các
cường quốc, Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc là cơ quan duy nhất dành cho 5
cường quốc quyền phủ quyết (veto) khi thông qua các nghị quyết, quyết định
của Hội đồng. Quyền hạn của Hội đồng Bảo an tập trung vào hai lĩnh vực hoạt
động chính là giải quyết hoà bình các tranh chấp quốc tế và tiến hành các biện
pháp cưỡng chế.
So với Hội Quốc Liên, Liên Hợp Quốc chứng tỏ đầy đủ hơn tính chất toàn cầu
(thành phần gồm hầu hết các quốc gia độc lập trên mọi châu lục) và đặc biệt là
tính toàn diện của nó: chương trình nghị sự không bó hẹp vào vấn đề duy trì hoà
bình, an ninh, mà bao gồm cả việc thúc đẩy hợp tác vì phát triển kinh tế–xã hội
của cộng đồng các dân tộc; bản thân hệ thống Liên Hợp Quốc bao gồm hàng
loạt cơ quan, chương trình, quỹ, tổ chức chuyên môn tập trung vào mọi lĩnh vực
của đời sống các quốc gia và quan hệ quốc tế ngoài lĩnh vực chính trị - quốc
phòng, từ tiền tệ đến nông nghiệp, văn hoá, khoa học–kỹ thuật...
Tổ chức Liên Hợp Quốc ra đời thực sự có ý nghĩa to lớn trong đời sống chính
trị quốc tế trong gần 60 năm qua. Đây là sự kiện quan trọng đánh dấu sự xuất
6
hiện của các hoạt động ngoại giao đa phương hiện đại, một bước ngoặt quyết
định trong lịch sử phát triển của nền ngoại giao đa phương nói chung. Tuy
nhiên, sự ra đời của Liên Hợp Quốc và bản thân Hiến chương Liên Hợp Quốc
tất nhiên chưa đủ để bảo đảm sự bình đẳng hoàn toàn và triệt để giữa các quốc
gia lớn nhỏ.
Sự đóng góp của Liên Hợp Quốc đối với hoà bình an ninh quốc tế trong gần 60
năm qua là rất đáng kể. Tuy nhiên, thực tế cho thấy trong nhiều vấn đề, nhiều sự
kiện, Liên Hợp Quốc không thể hiện được vai trò của mình hoặc có thể nói Liên
Hợp Quốc chưa làm tròn sứ mệnh của mình. Các siêu cường vẫn có vai trò lớn
và nhiều khi giữ vai trò quyết định trong quá trình ra quyết định của Liên Hợp
Quốc, đặc biệt là cơ cấu và cơ chế hoạt động của Hội đồng Bảo an, Hiến
chương Liên Hợp Quốc và các cơ quan chuyên môn của Liên Hợp Quốc.
3. Trụ Sở Và Thành Viên Của Liên Hợp Quốc
3.1 Trụ Sở
Trụ sở Liên Hiệp Quốc tại Thành phố New York
Toà nhà trụ sở Liên Hiệp Quốc hiện nay được xây dựng trên một khu đất rộng
16 acre tại Thành phố New York trong giai đoạn từ năm 1949 tới 1950, bên
cạnh Khu phía Đông của thành phố. Khu đất này được John D. Rockefeller,
Jr. mua với giá 8.5 triệu dollar, con trai ông Nelson là nhà thương thuyết chủ
yếu với chuyên viên thiết kế William Zeckendorf, vào tháng 12 năm 1946. Sau
đó John D. Rockefeller, Jr. tặng khu đất này cho Liên Hiệp Quốc.
7
Trụ sở được một đội các kiến trúc sư quốc tế gồm cả Le Corbusier (Thuỵ
Sĩ), Oscar Niemeyer (Brasil) và đại diện từ nhiều nước khác thiết kế. Wallace
K. Harrison, một cố vấn của Nelson Rockefeller, lãnh đạo đội. Đã xảy ra một vụ
rắc rối giữa những người tham gia về thẩm quyền của từng người. Trụ sở Liên
Hiệp Quốc chính thức mở cửa ngày 9 tháng 1 năm 1951. Trụ sở chính của Liên
Hiệp Quốc nằm tại New York, trụ sở một số cơ quan khác của tổ chức này nằm
tại Geneva, La Hay, Wien,Montréal, Copenhagen, Bonn và nhiều nơi khác.
Địa chỉ trụ sở Liên Hiệp Quốc là 760 United Nations Plaza, New York, NY
10017, USA. Vì những lý do an ninh, tất cả thư từ gửi tới địa chỉ trên đều được
tiệt trùng.
Các tòa nhà Liên Hiệp Quốc đều không được coi là các khu vực tài phán chính
trị riêng biệt, nhưng thực sự có một số quyền chủ quyền. Ví dụ, theo những thỏa
thuận với các nước chủ nhà Cơ quan quản lý thư tín Liên Hiệp Quốc được phép
in tem thư để gửi thư tín trong nước đó.
Từ năm 1951 văn phòng tại New York, từ năm 1969 văn phòng tại Geneva, và
từ năm 1979 văn phòng tại Wien đã in ấn tem riêng của mình. Các tổ chức của
Liên Hiệp Quốc cũng sử dụng tiền tố viễn thông riêng, 4U, và về mặt không
chính thức, các trụ sở tại New York, Geneva và Wien được coi là các thực thể
riêng biệt đối với các mục đích radio không chuyên.
Bởi trụ sở chính của Liên Hiệp Quốc đã trải qua một quá trình sử dụng khá dài,
Liên Hiệp Quốc hiện đang trong quá trình xây dựng một trụ sở tạm
do Fumihiko Maki thiết kế trênĐại lộ thứ nhất giữa Phố 41 và Phố 42 để dùng
tạm khi công trình hiện nay đang được tu sửa. Trước năm 1949, Liên Hiệp
Quốc sử dụng nhiều địa điểm tại Luân Đôn và tiểu bang New York.
3.2 Thành Viên
Tới năm 2011 có 193 quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc, gồm tất cả
các quốc gia độc lập được thế giới công nhận. Trong số những nước không phải
thành viên, đáng chú ý nhất là Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), ghế của họ tại
Liên Hiệp Quốc đã được chuyển giao cho Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm
1971; Tòa Thánh (thực thể quản lý Thành Vatican), vốn đã từ bỏ quy chế thành
viên nhưng vẫn là một quốc gia quan sát viên; Nhà nước Palestine (là một quan
sát viên cùng với Chính quyền Quốc gia Palestine). Hơn nữa, những dân tộc
dưới chủ quyền nước ngoài và các quốc gia không được công nhận cũng không
8
hiện diện tại Liên Hiệp Quốc, như Transnistria. Thành viên mới nhất của Liên
Hiệp Quốc là Nam Sudan, chính thức gia nhập ngày 14 tháng 7 năm 2011.
Liên Hiệp Quốc đã vạch ra các nguyên tắc cơ bản cho tư cách thành viên:
-Tư cách thành viên của Liên Hiệp Quốc mở rộng cho tất cả các quốc gia yêu
chuộng hòa bình và chịu chấp nhận các nguyên tắc được đặt ra trong Hiến
chương hiện thời và trong các phán quyết của Tổ chức, có thể và sẵn sàng thực
thi những nguyên tắc đó.
-Sự thu nhận một quốc gia như thế vào Liên Hiệp Quốc sẽ bị ảnh hưởng bởi
quyết định của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc với sự giới thiệu của Hội đồng
Bảo an Liên Hiệp Quốc.
4. Tài Chính Của Liên Hợp Quốc
Liên Hiệp Quốc hoạt động nhờ tiền đóng góp và tiền quyên tự nguyện từ các
quốc gia thành viên. Những ngân sách chính thức hai năm của Liên hiệp quốc
và các tổ chức chuyên biệt của họ lấy từ những khoản đóng góp. Đại hội đồng
thông qua ngân sách chính thức và quyết định khoản đóng góp của mỗi quốc gia
thành viên. Điều này dựa chủ yếu trên năng lực chi trả của mỗi nước, tính theo
những số liệu thống kê thu nhập cùng với những yếu tố khác.
Đại hội đồng đã đưa ra nguyên tắc rằng Liên hiệp quốc sẽ không quá phụ
thuộc vào bất kỳ một quốc gia thành viên nào trong lĩnh vực tài chính cần thiết
cho những hoạt động của mình. Vì thế, có một mức "trần", quy định khoản tiền
tối đa một nước có thể đóng góp cho ngân sách. Tháng 12 năm 2000, Đại hội
đồng đã sửa đổi tỷ lệ đóng góp để phản ánh chính xác hơn cục diện thế giới hiện
tại. Như một phần của sự sửa đổi này, trần đóng góp được giảm từ 25% xuống
22%. Hoa Kỳ là quốc gia duy nhất đóng góp ở mức trần, nhưng những khoản
tiền họ còn thiếu lên tới hàng trăm triệu dollar (xem Hoa Kỳ và Liên Hiệp
Quốc). Theo mức đóng góp mới được thông qua năm 2000, các nước đóng góp
lớn khác vào ngân sách Liên Hiệp Quốc năm 2001 là Nhật
Bản (19.63%), Đức (9.82%), Pháp (6.50%), Anh (5.57%), Ý (5.09%), Canada (
2.57%), Tây Ban Nha (2.53%) và Brasil (2.39%).
Các chương trình đặc biệt của Liên Hiệp Quốc không được tính vào ngân sách
chính thức của tổ chức này (ví dụ nhưUNICEF và Chương trình Phát triển Liên
Hiệp Quốc - UNDP), chúng hoạt động nhờ những khoản quyên góp tự nguyện
từ các chính phủ thành viên. Một số các khoản đóng góp dưới hình thức các
loại thực phẩm nông nghiệp viện trợ cho những người bị ảnh hưởng, nhưng chủ
yếu vẫn là tiền mặt.
9
5. Ngôn Ngữ
Liên Hiệp Quốc sử dụng sáu ngôn ngữ chính thức: tiếng Ả Rập, tiếng
Hoa, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga và tiếng Tây Ban Nha. Ban thư ký sử
dụng hai ngôn ngữ làm việc: (tiếng Anh và tiếng Pháp).
Khi Liên Hiệp Quốc được thành lập, năm ngôn ngữ chính thức được lựa chọn
là: tiếng Anh, tiếng Trung, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Nga. Tiếng
Ả Rập được đưa vào thêm năm 1973. Hiện có những tranh cãi trái chiều về việc
liệu có nên giảm bớt số lượng ngôn ngữ chính thức (ví dụ chỉ giữ lại tiếng Anh)
hay nên tăng thêm con số này. Áp lực đòi đưa thêm tiếng Hindi thành ngôn ngữ
chính thức đang ngày càng gia tăng. Năm 2001, các nước nói tiếng Tây Ban
Nha phàn nàn rằng tiếng Tây Ban Nha không có tư cách ngang bằng so với
tiếng Anh.
Những nỗ lực chống lại sự tụt giảm vị thế của tiếng Pháp trong tổ chức này
cũng rất to lớn; vì thế tất cả các Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc đều phải biết dùng
tiếng Pháp và rõ ràng việc Tổng thư ký mới Ban Ki-Moon gặp khó khăn để có
thể nói trôi chảy ngôn ngữ này trong buổi họp báo đầu tiên của ông bị một số
người coi là một sự mất điểm
Tiêu chuẩn của Liên Hiệp Quốc đối với các tài liệu bằng tiếng Anh (Hướng dẫn
xuất bản Liên Hiệp Quốc) tuân theo quy tắc của tiếng Anh. Liên Hiệp Quốc và
tất cả các tổ chức khác là một phần của hệ thống Liên Hiệp Quốc sử
dụng phương pháp đánh vần Oxford. Tiêu chuẩn của Liên Hiệp Quốc về tiếng
Hoa (Quan thoại) đã thay đổi khi Trung Hoa Dân Quốc(Đài Loan) phải nhường
ghế cho Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1971. Từ năm 1945 đến 1971 kiểu
chữ phồn thể được sử dụng, và từ năm 1971 kiểu chữ giản thể đã thay thế.
Trong số các ngôn ngữ chính thức của Liên Hiệp Quốc, tiếng Anh là ngôn ngữ
chính thức của 52 quốc gia thành viên, tiếng Pháp của 29 thành viên, tiếng Ả
Rập là 24, tiếng Tây Ban Nha là 20, tiếng Nga tại 4 và tiếng Trung Quốc tại 2
nước. Tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Đức là những ngôn ngữ được sử dụng ở khá
nhiều nước thành viên Liên Hiệp Quốc (8 và 6) nhưng lại không phải là ngôn
ngữ chính thức của tổ chức này.
6. Các Cơ Quan Chủ Yếu Của Liên Hợp Quốc ( Hệ Thống Liên Hợp
Quốc)
Liên Hợp Quốc gồm 6 cơ quan chính là: Đại hội đồng, Hội đồng Bảo an, Hội
đồng Kinh tế–Xã hội, Hội đồng Quản thác, Toà án Quốc tế và Ban Thư ký.
10
6.1. Đại hội đồng Liên Hợp Quốc
6.1.1. Thành viên
Đại hội đồng là cơ quan đại diện rộng rãi nhất của Liên Hợp Quốc. Số thành
viên trong đại hội đồng LHQ cho đến giữa 2004 là 191. Khác với Hội đồng
Bảo an, các thành viên Đại hội đồng đều là các thành viên bình đẳng, không
phân biệt quốc gia lớn hay nhỏ, mỗi quốc gia thành viên đều được 1 phiếu bầu.
Các nước thành viên được chia theo nhóm khu vực để phân bổ vị trí khi bầu
vào các cơ quan cơ chế Liên Hợp Quốc. Hiện nay có 5 nhóm khu vực: châu Á,
châu Phi, Mỹ La-tinh và Ca-ri-bê, Đông Âu, phương Tây và các nước khác.
Cho đến ngày 31/5/2003, E-xtô-ni-a, Ki-ri-ba-ti, Đông Ti-mo và Pa-lau không
thuộc nhóm khu vực nào.
6.1.2 Chức năng quyền hạn
- Xem xét và kiến nghị về các nguyên tắc hợp tác trong việc duy trì hoà bình
và an ninh quốc tế, kể cả những nguyên tắc liên quan đến giải trừ quân bị và các
qui định về quân bị;
- Bàn bạc về các vấn đề liên quan tới hoà bình và an ninh quốc tế, trừ trường
hợp tình hình hoặc tranh chấp hiện đang được thảo luận tại Hội đồng Bảo an, và
đưa ra các khuyến nghị về các vấn đề đó;
- Bàn bạc và khuyến nghị về các vấn đề theo qui định của Hiến chương có tác
động đến chức năng, quyền hạn của các cơ quan thuộc Liên Hợp Quốc;
- Nghiên cứu và khuyến nghị để thúc đẩy hợp tác chính trị quốc tế, phát triển và
pháp điển hoá luật pháp quốc tế; thực hiện các quyền con người và các quyền tự
do cơ bản cho mọi người, và hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội,
văn hoá, giáo dục và y tế;
- Khuyến nghị các giải pháp hoà bình cho mọi tình huống có thể làm phương
hại quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc;
- Nhận và xem xét các báo cáo của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc và các cơ
quan khác thuộc Liên Hợp Quốc;
- Xem xét, thông qua ngân sách Liên Hợp Quốc và phân bổ đóng góp của các
nước thành viên;
11
- Bầu các thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, các
thành viên Hội đồng Kinh tế - Xã hội , các thành viên được bầu vào Hội đồng
Quản thác, cùng Hội đồng Bảo an bầu các thẩm phán Toà án quốc tế, và bầu
Tổng thư ký Liên Hợp Quốc (nhiệm kỳ 5 năm) theo khuyến nghị của Hội đồng
Bảo an.
Theo nghị quyết "Đoàn kết vì hoà bình" (Uniting for Peace) thông qua tại Đại
hội đồng tháng 11/1950, Đại hội đồng có thể hành động nếu Hội đồng Bảo an,
vì không đạt được sự nhất trí giữa các thành viên, không thể có hành động trong
một trường hợp có nguy cơ đe doạ hoà bình, phá vỡ hoà bình hoặc hành động
xâm lược. Đại hội đồng được quyền xem xét vấn đề ngay lập tức để có khuyến
nghị với các nước thành viên thực hiện các biện pháp tập thể, trong trường hợp
phá hoại hoà bình hoặc xâm lược, bao gồm biện pháp sử dụng vũ lực khi cần
thiết, để duy trì và khôi phục hoà bình và an ninh quốc tế.
6.1.3 Các khoá họp và Cơ cấu:
Các khoá họp: Có các loại là khoá họp thường kỳ, khoá đặc biệt thường kỳ và
khoá họp đặc biệt khẩn cấp của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc.
* Khoá họp thường kỳ: Theo Nghị quyết 57/301 (2002), Đại hội đồng quyết
định khoá họp thường kỳ hàng năm của Đại hội đồng sẽ bắt đầu vào ngày thứ 3
của tuần thứ 3 của tháng 9, tính từ tuần đầu tiên có ít nhất một ngày làm việc.
Nghị quyết cũng quy định buổi thảo luận chung của Đại hội đồng sẽ được tiến
hành vào ngày thứ 3 sau khi khai mạc khoá họp thường kỳ và sẽ kéo dài liên tục
trong 9 ngày. Các quy định này được áp dụng từ khóa họp thường kỳ thứ 58 của
Đại hội đồng Liên Hợp Quốc.
Các khoá họp sẽ được tổ chức tại trụ sở của Liên Hợp Quốc ở Niu Oóc, trừ khi
tại khoá họp trước đó Đại hội đồng quyết định hoặc đa số các thành viên Liên
Hợp Quốc yêu cầu tổ chức họp ở nơi khác.
Mỗi khoá họp có một Chủ tịch chủ trì, do các nhóm khu vực luân phiên đề cử.
Sau tuần đầu thống nhất chương trình nghị sự, Đại hội đồng sẽ tiến hành thảo
thuận chung của các trưởng đoàn. Cấp tham gia thường ở cấp cao như Nguyên
thủ quốc gia, Thủ tướng, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thứ trưởng ngoại giao...
Các nước thành viên bày tỏ lập trường quan điểm về những vấn đề quốc tế quan
tâm. Sau đó, 6 Ủy ban của Đại hội đồng bắt đầu nhóm họp song song với Đại
hội đồng. Phần lớn các đề mục được thảo luận tại Ủy ban trước khi đưa ra Đại
hội đồng, một số được thảo luận thẳng tại Đại hội đồng.
12
* Khoá đặc biệt thường kỳ:
Do Tổng thư ký Liên Hợp Quốc triệu tập, theo yêu cầu của Hội đồng Bảo an
hoặc đa số các nước thành viên Liên Hợp Quốc. Khoá họp đặc biệt thường kỳ
sẽ được tổ chức trong vòng 15 ngày kể từ khi Tổng thư ký nhận được yêu cầu
trừ khi Đại hội đồng đã ấn định ngày tổ chức khoá họp đặc biệt từ trước. Sau
đó, Tổng thư ký sẽ thông báo cho các nước thành viên ít nhất 14 ngày trước khi
khai mạc khoá họp đặc biệt, nếu không thì phải trước 10 ngày. Cho tới nay, đã
có 27 khoá họp đặc biệt thường kỳ trong đó chủ yếu là theo yêu cầu của Đại hội
đồng. Chủ đề của các khoá họp bao gồm các vấn đề chính trị, kinh tế, môi
trường, xã hội. Từ năm 1990 trở lại đây, các khoá họp đặc biệt thường kỳ của
Đại hội đồng chủ yếu xoay quanh các vấn đề như: hợp tác kinh tế quốc tế, ma
tuý, dân số, môi trường, bình đẳng giới, HIV/AIDS. Điều này cho thấy rõ xu thế
của của Liên Hợp Quốc sau chiến tranh lạnh là tập trung bàn về vấn đề phát
triển.
* Khoá họp đặc biệt khẩn cấp:
Có thể được triệu tập trong vòng 24 giờ kể từ khi Tổng thư ký nhận được yêu
cầu của Hội đồng Bảo an, hoặc yêu cầu hoặc thông báo của đa số các nước
thành viên Liên Hợp Quốc. Khoá họp này phải được thông báo cho các nước
thành viên ít nhất trước 12 giờ. Cho tới nay đã có 10 khóa họp đặc biệt khẩn cấp
được triệu tập, trong đó đa số được triệu tập theo yêu cầu của Hội đồng Bảo an
còn lại là của các nước đặc biệt quan tâm đến tình hình xung đột. Vì mang tính
khẩn cấp nên chủ đề của các khoá họp này cũng có những nét khác so với các
khoá họp đặc biệt thường kỳ ở chỗ các khoá họp đặc biệt khẩn cấp thường bàn
về các vấn đề chính trị cụ thể như giải quyết xung đột khu vực hoặc trong bản
thân một nước (vấn đề Trung đông 1956, Hungary 1956, Trung đông 1958,
Congo 1960...).
Khi muốn yêu cầu triệu tập một khoá họp đặc biệt, Hội đồng Bảo an phải có
một quyết định chính thức về vấn đề này được 9 thành viên Hội đồng Bảo an bỏ
phiếu ủng hộ. Mặc dù Hiến chương quy định các khoá họp đặc biệt được triệu
tập theo yêu cầu của đa số thành viên Liên Hợp Quốc nhưng trên thực tế cho
đến nay chưa có một yêu cầu nào được đưa ra và có chữ ký của đa số nước
thành viên. Thay vào đó, một nước thành viên sẽ trình yêu cầu triệu tập khoá
họp đặc biệt lên Tổng thư ký Liên Hợp Quốc. Tổng thư ký sẽ ngay lập tức
thông báo các nước thành viên khác và hỏi ý kiến của họ về yêu cầu này. Nếu
13
đa số các nước bỏ phiếu thuận trong vòng 30 ngày thì một khoá họp đặc biệt sẽ
được triệu tập.
* Kết quả của các khoá họp thể hiện bằng các nghị quyết và quyết định được
thông qua (các hình thức thông qua văn kiện được đề cập ở phần thủ tục hoạt
động). Các nghị quyết và quyết định này không có giá trị ràng buộc pháp lý mà
chỉ có giá trị khuyến nghị và đạo lý phản ánh ý chí, nguyện vọng chung của
đông đảo các nước thành viên Liên Hợp Quốc.
6.1.4. Cơ cấu:
Có 6 Ủy ban chính:
+ Ủy ban 1: Giải trừ quân bị và An ninh quốc tế
+ Ủy ban 2: Kinh tế - Tài chính
+ Ủy ban 3: Văn hoá - Xã hội - Nhân đạo
+ Ủy ban 4: Chính trị đặc biệt và Phi thực dân hoá
+ Ủy ban 5: Hành chính - Ngân sách Liên Hợp Quốc
+ Ủy ban 6: Luật pháp quốc tế
Ngoài ra còn có các Ủy ban sau được thành lập theo các nguyên tắc thủ tục của
Đại hội đồng:
Các Ủy ban thủ tục/ ban thường trực/Các cơ quan đặc biệt và phụ trợ/Các Ủy
ban thủ tục
+ Ủy ban chung: gồm Chủ tịch Đại hội đồng, 21 phó chủ tịch và 6 chủ tịch các
Ủy ban chính. Ủy ban này xem xét chương trình nghị sự tạm thời và danh sách
các vấn đề bổ sung, xem xét các đề nghị về việc bổ sung các đề mục vào
chương trình nghị sự, bố trí sắp xếp các đề mục vào các Ủy ban và trình báo cáo
lên Đại hội đồng để được phê duyệt. Ủy ban này giúp Chủ tịch Đại hội đồng
vạch ra chương trình nghị sự cho các cuộc họp toàn thể, quyết định các đề mục
trọng tâm, phối hợp công việc giữa các Ủy ban, và nói chung làm các việc của
Đại hội đồng thuộc thẩm quyền của Chủ tịch. Ủy ban cũng có thể đưa khuyến
nghị cho Đại hội đồng về thời gian kết thúc của các khoá họp. Tuy nhiên, Ủy
ban không thể quyết định bất cứ vấn đề gì có tính chất chính trị.
+ Ủy ban kiểm tra tư cách đại biểu
14
Ủy ban này gồm 9 thành viên được bầu ngay lúc bắt đầu mỗi khóa họp theo đề
nghị của Chủ tịch. Ủy ban xem xét và báo cáo về các Ủy nhiệm thư của các đại
biểu. Nếu một đại diện bị một thành viên Ủy ban phản đối sẽ tạm thời ngồi
trong Đại hội đồng với các quyền như các đại diện khác cho tới khi Ủy ban đã
báo cáo và Đại hội đồng có quyết định về vấn đề đó.
* Các Ủy ban thường trực
Có 2 Ủy ban thường trực được thành lập, theo qui định thủ tục của Đại hội
đồng, để giải quyết các vấn đề tiếp theo trong và giữa các khoá họp thường kỳ.
+ Ủy ban tư vấn về các vấn đề hành chính và ngân sách
Ủy ban này được thành lập tại phiên họp đầu tiên của Đại hội đồng theo Nghị
quyết 14A(I)(1946). Ủy ban có trách nhiệm kiểm tra và báo cáo về ngân sách
thường của Liên Hợp Quốc và ngân sách của việc gìn giữ hoà bình và các tài
khoản của Liên Hợp Quốc, và ngân sách hành chính của các cơ quan chuyên
môn. Ủy ban này cũng tư vấn cho Đại hội đồng về các vấn đề hành chính và tài
chính khác. Số thành viên của Ủy ban tăng lên nhiều lần, hiện nay có 16 thành
viên (theo Nghị quyết 32/103(1977) của Đại hội đồng).
Các thành viên của Ủy ban được Đại hội đồng bầu ra theo khuyến nghị của Ủy
ban 5 trên cơ sở đại diện cho một khu vực địa lý rộng rãi, và có quyền tái cử.
Phải có ít nhất 3 thành viên là các chuyên gia tài chính giỏi. Các chuyên gia tài
chính này không được nghỉ hưu cùng một lúc.
+ Ủy ban đóng góp
Ủy ban này được thành lập theo Nghị quyết 14(I)(1946) của Đại hội đồng nhằm
tư vấn Đại hội đồng về mức đóng góp của các nước thành viên vào chi tiêu của
Liên Hợp Quốc, định số tiền đóng góp của các nước thành viên mới, xem xét đề
nghị của các nước thành viên về thay đổi mức đóng, xem xét việc áp dụng Điều
19 Hiến chương Liên Hợp Quốc trong các trường hợp chậm đóng niên liễm. Ủy
ban cũng được quyền khuyến nghị hoặc tư vấn về mức đóng góp cho một tổ
chức chuyên môn nếu được tổ chức đó yêu cầu. Thành viên của Ủy ban này
được tăng lên nhiều lần, hiện nay có 18 thành viên (theo Nghị quyết 31/96
(1976) của Đại hội đồng).
Các thành viên của Ủy ban được Đại hội đồng chọn theo khuyến nghị của Ủy
ban 5 trên cơ sở đại diện cho một khu vực địa lý rộng rãi và có trình độ và kinh
nghiệm. Nhiệm kỳ là 3 năm, và có quyền được bầu lại.
15
Thêm vào đó, các cơ quan Hiệp định được thành lập bởi các Công ước quốc tế
phải trình báo cáo lên Đại hội đồng về các hoạt động của họ.
* Các cơ quan đặc biệt và phụ trợ
+ Các cơ quan liên chính phủ:
Ủy ban hoà giải cho Palestine (1948); Ủy ban khoa học của Liên Hợp Quốc về
đánh giá ảnh hưởng của phóng xạ nguyên tử (UNSCEAR) (1955); Ủy ban về sử
dụng hoà bình khoảng không vũ trụ (thành lập năm 1959); Ủy ban đặc biệt về
thực hiện Tuyên bố về Phi thực dân hoá-Ủy ban 24 (1961); Ủy ban đặc biệt về
các hoạt động gìn giữ hoà bình (1965); Ủy ban đặc biệt điều tra các hành động
của Israel làm tổn hại các quyền con người của nhân dân Palestine và các nước
Arập khác trên những lãnh thổ bị họ chiếm đóng (1968); Nhóm làm việc về chi
tiêu cho các công việc cứu trợ của Liên Hợp Quốc và các cơ quan khác cho tị
nạn Palextin vùng Cận Đông (UNRWA) (1970); Ủy ban quan hệ với nước chủ
nhà (1971); Ủy ban đặc biệt về Ấn Độ Dương (1972); Ủy ban thực hiện các
quyền bất khả xâm phạm của nhân dân Palestine (1975); Ủy ban đặc biệt về
Hiến chương LHQ (1975); Ủy ban thông tin (1978); Ủy ban giải trừ quân bị
(1978); Hội nghị giải trừ quân bị (1978); Ủy ban về các hội nghị (1988); Tiến
trình tham vấn mở không chính thức về đại dương và luật biển (1999); Ủy ban
đặc biệt Công ước quốc tế về bảo vệ và thúc đẩy các quyền và nhân phẩm của
người tàn tật (2001), Nhóm làm việc đặc biệt của Đại hội đồng về các hoạt động
tiến hành sau các hội nghị lớn của Liên Hợp Quốc và các cuộc họp thượng đỉnh
trong lĩnh vực kinh tế-xã hội (2002).
+ Các nhóm làm việc mở:
-Nhóm làm việc không chính thức về một chương trình nghị sự cho hoà bình,
được thành lập tại Đại hội đồng khoá 47 và ngừng họp từ năm 1996.
-Nhóm làm việc về đại diện bình đẳng và tăng thành viên Hội đồng Bảo an,
được thành lập theo Nghị quyết 48/26 (1993) của Đại hội đồng.
-Nhóm làm việc cấp cao về tình hình tài chính của Liên Hợp Quốc, được thành
lập theo Nghị quyết 49/143 (1994) của Đại hội đồng và ngừng họp từ năm
1997.
-Nhóm làm việc cấp cao về tăng cường hệ thống Liên Hợp Quốc, được thành
lập theo Nghị quyết 49/252 (1994) của Đại hội đồng và hoàn thành công việc
năm 1997.
16
-Nhóm làm việc về nguyên nhân xung đột và thúc đẩy một nền hoà bình và phát
triển bền vững ở Châu Phi, được thành lập theo Nghị quyết 54/234 (1999) của
Đại hội đồng và đình chỉ hoạt động năm 2001.
+ Các cơ quan tư vấn:
- Ủy ban tư vấn về các chương trình viện trợ của Liên Hợp Quốc về giáo dục,
truyền bá kiến thức về luật quốc tế (1965).
- Ban tư vấn về các vấn đề về giải trừ quân bị (1982).
+ Các cơ quan chuyên gia:
- Ban kiểm toán (1946)
- Ủy ban luật quốc tế (ILC) (1947)
- Ủy ban đầu tư (1947)
- Quỹ hưu của nhân viên Liên Hợp Quốc (1948)
- Toà án hành chính Liên Hợp Quốc (1949)
- Ban các kiểm toán viên đối ngoại (1959)
- Đơn vị thanh tra chung (JIU) (1966)
- Ủy ban Liên Hợp Quốc về luật thương mại quốc tế (UNCITRAL) (1966)
- Ủy ban quốc tế về dịch vụ dân sự (1972)
- Ủy ban giải quyết vấn đề nhà ở cho con người (UN-HABITAT) (1977)
6.1.5. Thủ tục hoạt động của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc
Chương trình nghị sự * Tại các khoá họp thường kỳ, thông thường, chương
trình nghị sự của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc gồm khoảng 150 đề mục, liên
quan đến tất cả các lĩnh vực thuộc sự quan tâm của cộng đồng quốc tế.
* Chương trình nghị sự tạm thời của khoá họp thường kỳ do Tổng thư ký soạn
thảo và chuyển cho các nước thành viên chậm nhất là 60 ngày trước ngày khai
mạc, bao gồm:
+ Báo cáo của Tổng thư ký;
17
+ Báo cáo của các cơ quan chính của Liên Hợp Quốc, các cơ quan thuộc Đại
hội đồng Liên Hợp Quốc và các tổ chức chuyên môn thuộc Liên Hợp Quốc;
+ Các đề mục do Đại hội đồng quyết định tại khoá họp trước;
+ Các đề mục do các cơ quan chính của Liên Hợp Quốc kiến nghị;
+ Các đề mục do bất cứ thành viên nào đề nghị;
+ Các đề mục liên quan đến ngân sách;
+ Các đề mục thuộc Điều 35, đoạn 2 của Hiến chương do các nước không phải
thành viên đề nghị.
* Bổ sung đề mục
Các nước thành viên, các cơ quan chính của Liên Hợp Quốc và Tổng thư ký
được đưa đề mục bổ sung 30 ngày trước khi khai mạc khoá họp.
* Thông qua chương trình nghị sự
+ Chương trình nghị sự tạm thời và danh sách đề mục bổ sung cùng báo cáo của
Ủy ban chung (gồm Chủ tịch và các Phó chủ tịch Đại hội đồng) được chuyển
cho Đại hội đồng thông qua khi khai mạc.
+ Muốn đưa một đề mục phải kèm theo một bản giải thích hoặc dự thảo nghị
quyết.
+ Việc sửa đổi hoặc gạt bỏ một đề mục phải do Đại hội đồng thông qua bằng bỏ
phiếu với số phiếu quá bán của những nước có mặt và tham gia bỏ phiếu.
Đoàn tham gia
* Mỗi nước thành viên gồm 5 đại biểu chính thức, 5 đại biểu dự khuyết và
không hạn chế số lượng cố vấn.
* Đại biểu dự khuyết có thể trở thành đại biểu chính thức theo bổ nhiệm của
trưởng đoàn.
* Ủy nhiệm thư và danh sách thành viên phải được người đứng đầu Nhà nước,
Chính phủ hoặc Bộ trưởng Ngoại giao cấp và gửi cho Tổng thư ký Liên Hợp
Quốc một tuần trước ngày khai mạc.
Các hình thức thông qua văn kiện
* Tại các Ủy ban, các nghị quyết được thông qua bằng đa số thường hoặc thông
qua không cần bỏ phiếu.
18
- Xem thêm -