ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA LỊCH SỬ
ĐỀ TÀI LỊCH SỬ VIỆT NAM CỔ TRUNG – ĐẠI
VIỆC ĐÁNH GIÁ LẠI VƢƠNG TRIỀU MẠC
Tp.Hồ Chí Minh, tháng 4 năm 2013
MỤC LỤC
CHƢƠNG I: NHÀ LÊ ĐỔ, TRIỀU MẠC RA ĐỜI
1. Sự sụp đổ của triều Lê:
2. Sự hình thành nhà Mạc
CHƢƠNG II: NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA VƢƠNG TRIỀU MẠC
ĐỐI VỚI LỊCH SỬ DÂN TỘC
1.Xây dựng đội ngũ quan lại
2. Tổ chức bộ máy nhà nƣớc
3.Tổ chức hành chính địa phƣơng
4.Tổ chức lực lƣợng quân đội
5.Tình hình kinh tế
a.Tình hình sở hữu ruộng đất thời Mạc
b.Tình hình nông nghiệp thời Mạc
c. Tình hình thủ công nghiệp thời Mạc
d. Tình hình thương nghiệp thời Mạc
6. Tình hình văn hóa thời Mạc
a.Tư tưởng và tôn giáo
b. Giáo dục và thi cử
c.Thành tựu về văn học
d. Kiến trúc và điêu khắc
CHƢƠNG III: NGHIÊN CỨU VỀ VƢƠNG TRIỀU MẠC THỜI
ĐỔI MỚI.
1. Về ngụy triều của nhà vấn đề Mạc
2. Sự kiện đầu hàng của nhà Mạc (ngoại giao)
3. Vấn đề trả lại đất cho nhà Minh
CHƢƠNG IV: Ý KIẾN CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU VỀ VƢƠNG
TRIỀU MẠC
NHÀ MẠC (1527 – 1592)
Những ý kiến đánh giá khác nhau về nhà Mạc
Đánh giá chung về Mạc Đăng Dung và những ngƣời kế vị của
triều đình này, có khá nhiều công trình nghiên cứu đã xuất bản ở Việt
Nam và ở nƣớc ngoài, với những ý kiến khác nhau. Có thể tạm chia
làm hai cách tiếp cận. Thứ nhất là những ý kiến tập trung kết tội Mạc
Đăng Dung với ba tội danh chính, đồng thời cũng gạt bỏ luôn tất cả
những đóng góp tích cực khác của nhà Mạc. Thứ hai là những ý kiến
vừa là sự phê phán lại những lời buộc tội sai lệch, vừa tìm cách minh
oan cho nhà Mạc và thậm chí đánh giá cao đóng góp của nhà Mạc
trong lịch sử Việt Nam thế kỉ XVI.
Ở nhóm thứ nhất, có thể liệt kê đƣợc khá nhiều nhà Sử học Việt
Nam ở những năm đầu thế kỉ XX. Họ phê phán trƣớc hết sự cắt đất
của nhà Mạc cho nhà Minh, trên cơ sở tƣ liệu ghi trong” Đại Việt sử
kí toàn thƣ”
Trƣớc hết là Trần Trọng Kim, tác giả tiêu biểu nhất, trong tác
phẩm của ông, Việt Nam sử lƣợc, xuất bản năm 1956, đã viết về Mạc
Đăng Dung nhƣ sau: “ Mạc Đăng Dung đã làm tôi nhà Lê mà lại giết
vua để cƣớp lấy ngôi, ấy là một ngƣời nghịch thần; đã làm chủ một
nƣớc mà không giữ lấy bờ cõi, lại đem cắt đát mà dâng cho ngƣời, ấy
là một ngƣời phản quốc. Làm ông vua mà không giữ đƣợc cái danh
giá cho trọn vẹn, đến nỗi phải cỡi trần ra trói mình lại, đi đến quỳ lạy
ở trƣớc cửa một ngƣờ tƣớng của quân nghịch để cầu lấy cái phú quý
cho một thân mình và một nhà mình, ấy là một ngƣời không biết liêm
sỉ”. Cuối cùng tác giả kết luận: “ đối với vua là nghịch thần, đối với
nƣớc là phản quốc, đối với cách ăn ở của loài ngƣời, là không có nhân
phẩm; một ngƣời nhƣ thế ai mà kính phục…”
Trần Trọng Kim còn liệt kê 5 động mà Mạc Đăng Dung cắt cho
nhà Minh là” Tƣ Phù, Kim Lặc, Cổ Xâm, Liễu Cát và La Phù”. Đây là
công trình sử học đầu tiên đƣợc viết bằng chữ quốc ngữ về nhà Mạc
trong thời thuộc Pháp. Sách đƣợc tái bản nhiều lần và phổ biến rộng
rãi ở miền Nam Việt Nam cho đến ngày thống nhất cả nƣớc 1975.
Ở miền Bắc cũng có một số sách lịch sử Việt Nam phê phán
Mạc Đăng Dung. Chẳng hạn:”…Trƣớc sự đe dọa của nhà Minh, Mạc
Đăng Dung đã đầu hàng và đem dâng một phần đất của Tổ quốc cho
kẻ thù để mong đƣợc rảnh tay dàn áp nhân dân và đối phó với phe
phái đối lập trong nƣớc…”
Những nhận định về nhà Mạc nhƣ vừa nêu trên đã gây ảnh
hƣởng đến các công trình nghiên cứu lịch sử khác, cũng nhƣ một số
công trình nghiên cứu văn học, đặc biệt là một số sách giáo khoa
giảng dạy trong nhà trƣờng.
Lê Hữu Thu, trong cuốn sách giáo khoa về lịch sử trung học,
từng viết: “ Thấy quân nhà Minh sữa soạn sang đánh, Mạc Đăng
Dung sợ hãi quá chừng, bèn để Mạc Phúc Hải ở lại giữ nƣớc rồi cùng
với bọn Vũ Nhƣ Quế tự trói mình sang chịu tội ở cửa Nam Quan. Bọn
ấy lạy phục xuống đất để nộp sổ điền thổ và sổ dân đinh.Lại xin đâng
đất 5 động( Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sung, La Phù, Liễu Cát) và đất
Khâm Châu, cùng rất nhiều vàng bạc”.
Nguyễn Phan Quang, trong sách giáo khoa ở Đại học sƣ phạm,
cũng viết:” Run sợ trƣớc thế lực của quân Minh, Mạc Đăng Dung sai
ngƣời lên biên gới gặp quan tƣớng nhà Minh dâng biểu xin
hàng…Sau đó, Đăng Dung còn cử ngƣời sang tận kinh đô nhà Minh
dâng biểu xin hàng và cắt đất 5 động ở phía Đông Bắc cho sát nhập
vào Khâm Châu”. Nguyễn Phan Quang còn đƣa thêm lời bình nhƣ
sau: “ Với chính sách đối ngoại nhục nhã ấy, nhà Mạc tƣởng có thể
thỏa hiệp với phong kiến nƣớc ngoài để tập trung lực lƣợng cũng cố
nền thống trị trong nƣớc và trấn áp những bè phái đối lập.
Đinh Gia Khánh:” Năm 1540, Đăng Dung làm một việc nhục
nhã, tự trói mình, quỳ gối đầu hàng trƣớc kẻ thù. Giặc Minh khi ấy
không dám liều mạng xâm lƣợc nƣớc ta nhƣ chúng từng sang trừng trị
Hồ Qúy Ly năm 1470, vì sợ nhân dân ta. Nhƣng việc Mạc Đăng Dung
cắt đất, thuần phục một cách nhục nhã và hơn nữa đôi với nhà Minh
thì về danh nghĩa không dám xƣng là quốc vƣơng đủ cho thấy giai cấp
phong kiến đã đốn mạt nhƣ thế nào”.
Trần Lê Sáng, viết:
“ Mạc Thái Tổ Đăng Dung đã gây nên sự phẫn nộ lớn trong
nhân dân khi vua này dẫn quần thần lên tận biên giới, cởi trần tự trói,
quỳ trƣớc mặt một viên quan nhà Minh, cắt đất dâng cho nhà Minh.
Lịch sử không tha thứ cho việc làm nhục nhã này của nhà Mạc”…
Lê Thành Khôi, viết: “ Để tranh thủ nhà Minh, khi mà họ đang lung
túng bởi các cuộc nổi dậy của nông dân và sức ép của Mông Cổ nơi
biên giới, Mạc Đăng Dung đã tặng họ 5 động để sát nhập vào Khâm
Châu”.
Tóm lại, các tác giả ở nhóm thứ nhất đều coi những sự kiện về
Mạc Đăng Dung nhƣ những sự thực lịch sử mà không hề xem xét lại
thực chất của nó, cũng nhƣ nguồn tài liệu góc của các sự kiện
này.Hơn nữa những nhận xét về các sự kiện trên lại quá gay gắt.
Nhóm tiếp cận thứ hai, Lê Văn Hòe, năm 1952, phê phán Trần
Trọng Kim là ngƣời đã” giáng một quả búa quá nặng lên đầu Mạc
Đăng Dung”. Đồng thời ông cũng đƣa ra nhận xét của mình là “việc
lên ngôi của Mạc Đăng Dung hoàn toàn phù hợp với tiến trình lịch
sử”. Phạm Văn Sơn viết: “ Trong bối cảnh lịch sử nhƣ vậy, Mạc Đăng
Dung chỉ mất một số ít vàng bạc và 5 động mà tránh đƣợc tai họa
chiến tranh. Đối với những nhà sử học chân chính, chúng ta không có
gì phải đòi hỏi hơn nữa”. Và ông kết luận” Cần phải xóa cái án Mạc
Đăng Dung trong lịch sử dân tộc để tránh lời buộc tội nặng nề với cha
ông”.
Trần Quốc Vƣợng, trong hội thảo khoa học về Nguyễn Bỉnh
Khiêm( tổ chức tại Hải Phòng năm 1985), viết:” Hành động đầu hàng
của nhà Mạc do Minh sử chép là một sự chính đại để khoe khoang,
hành động ấy do vua Lê sau này cũng lặp lại gần nguyên xi thì lại
không bị sử gia nhà Lê nêu lên để phê phán. Đó chẳng qua là một
hành động tƣợng trƣng, một sự nhún mình của nƣớc nhỏ đối với nƣớc
lớn trong điều kiện tƣơng quan chính trị. Gs. Trần kết luận:” Vào lúc
đó, theo chúng tôi, nhà chính khách Mạc Đăng Dung đầy kinh nghiệm
và thực tế đã chấp nhận khổ nhục kế tức tự trói mình lại mong đạt một
mục đích là quân đội Mao Bá Ôn rút quân”. Tuy nhiên sau đó, ông đã
khẳng định việc ra biên giới đầu hàng và cắt đất cho nhà Minh là có
thật.
Trong hội thảo khoa học “ Nhà Mạc và dòng họ Mạc trong lịch
sử” tổ chức 1994 ở Hải Phòng, một số học giả khẳng định một lần nữa
nhà Mạc không mắc tội” phản quốc”.
Tất cả tác giả ở nhóm hai đều muốn biện minh cho Mạc Đăng
Dung và vƣơng triều Mạc bằng cách phê phán những nhận định thành
kiến của nhóm thứ nhất và bƣớc đầu phân tích thực chất các sự kiện
chính trị lien quan đến việc đánh giá nhà Mạc. Tuy nhiên nhìn chung
họ chƣa đƣa ra nguồn gốc sử liệu tin cậy để chứng minh lại tính đích
thực của các sự kiện chính trị này. Theo cách đặc vấn đề của cả hai
nhóm thì việc đánh giá nhà Mạc xoay quanh một số sự kiện chủ yếu
sau đây:
Sự lên ngôi của Mạc Đăng Dung
Sự đầu hàng của nhà Mạc trƣớc sự đe dọa của nhà Minhkhi mà
chúng đã không có ý chí chinh phạt Việt Nam.
Là một ông vua mà Mạc Đăng Dung lại tự trói mình ra biên giới
dâng biểu đầu hàng.
Việc cắt đất cho nhà Minh và chấp nhận chức An Nam Đô thống
sứ do nhà Minh Ban cho.
Và để làm rõ hơn về vấn đề này sau đây chúng ta hãy cùng tìm
hiểu những công lao đóng góp của nhà Mạc cho dân tộc qua đó có cái
nhìn mới hơn về vƣơng triều Mạc.
CHƢƠNG I.NHÀ LÊ ĐỔ, TRIỀU MẠC RA ĐỜI
1.Sự sụp đổ của tiều Lê:
Điểm qua các triều đại thì trƣớc thịnh trên dƣới chung sức chung
lòng, đất nƣớc giàu mạnh và sau thì suy trên thoái dƣới bất bình, quốc
gia rối ren dân chúng khổ sở. Triều Lê cũng không tránh khỏi quy luật
này, khi vua Lê Thái Tông mất cuộc suy thoái của bộ máy triều nhà
Lê cũng bắt đầu và đến thời của Lê Uy Mục, Lê Tƣơng Dực tên vua
bạo chúa thì bộ máy nhà nƣớc xuống dốc trầm trọng không còn cái
thời thóc lúa đầy đồng trâu chẳng buồn ăn nữa mà thay vào đó là các
phong trào đấu tranh nỗi lên của nhân dân chống cảnh lầm than. Một
phần cũng vì về chính sách chung của các Hoàng đế thời Lê sơ là vừa
không ngừng mở rộng ruộng công, coi đó là cơ sở quyền lực nhà nƣớc
thống nhất, vừa thừa nhận vừa tạo điều kiện cho ruộng tƣ phát triển,
nhƣng trong bối cảnh chung của giai đoạn đầu thì là một chính sách
đúng đắn, mà quá trình phát triển của ruộng tƣ là sự thu hẹp của ruộng
công nên phát triển một mức nào đó sẽ bị phá và gây xung đột, hai
yếu tố trong chính sách đồng thời này sẽ triệt tiêu lẫn nhau. Các vua
đời sau không biết vun vắn không biết thay đổi chính sách cho phù
hợp nên làm nhà Lê từ một triều đại cƣờng thịnh thành đổ nát và
không còn uy tín trƣớc nhân dân.
2.Sự hình thành nhà Mạc:
Vào đầu thế kỷ XVI, nhà Lê suy yếu dần, dựa vào công lao của
mình trong việc đàn áp các cuộc khởi nghĩa của ngƣời dân, đánh bại
các thế lực chống đối và đặc biệt là nhờ sự ủng hộ của các quan tƣớng
trong triều, Nhân Quốc Công Mạc Đăng Dung tự phế vua Chiêu Tông
lập Lê Xuân (Lê Cung Hoàng) lên làm vua. Chiêu Tông cố gắng khôi
phục địa vị, nhƣng đến năm 1526 thì Mạc Đăng Dung bắt và đã giết
Chiêu Tông. Đầu năm 1527 Mạc Đăng Dung tự xƣng là Thái Sƣ An
Hƣng Vƣơng. Tháng 6-1527, Mạc Đăng Dung ép Lê Xuân nhƣờng
ngôi cho mình. Triều Mạc đƣợc dựng lên từ đó. Ngay sau khi Mạc
Đăng Dung lên ngôi, nhà Mạc đã chịu nhiều tổn thất lớn do các thế
lực chống đối, và các bề tôi trung thành của nhà Lê nổi lên.
Trong các thế lực chống đối lớn mạnh hơn cả là thế lực của
Nguyễn Kim, Nguyễn Kim là con của Ngyên Hoằng Dụ từng là tƣớng
cũ của nhà Lê, ông đã tìm ra một ngƣời thuộc dòng dõi nhà họ Lê là
Lê Ninh và tôn Lê Ninh lên ngôi nhằm tạo ra thế lực chống nhà Mạc
và đã chiếm đƣợc gần nhƣ cae vùng Thanh Hóa và Nghệ An ngày
nay. Năm 1545 Nguyễn Kim bị ám hại, quyền lãnh đạo nằm trong tay
con rể là Trịnh Kiểm và hậu duệ của Trịnh Kiểm. Bây giờ triều Mạc
đóng ở Thăng Long, tức là phía bắc nên gọi là Bắc triều, Triều Lê
đóng ở Thanh Hóa tức phía nam nên gọi là Nam triều. Liên tục từ năm
1533 đến năm 1592, hai bên đánh nhau tổng cộng 38 trận gây đau
thƣơng cho nhân dân, tàng phá nền kinh tế và không một lực lƣợng
nào chính nghĩa cả. Tuy nhiên để yên ổn ở phía bắc tập trung lực
lƣợng ở phái nam, nên nhà Mạc đã tỏ ra bạc nhƣợc trong bang giao
với nhà Minh và mất dần sự ủng hộ của ngƣời dân, đây chính là
nguyên nhân quang trọng dẫn tới sự thất bại của nhà Mạc. Triều Mạc
cũng đƣợc coi là một triều đại chính thống trong lịch sử các triều đại ở
Việt Nam.
CHƢƠNG II: NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA VƢƠNG TRIỀU
MẠC ĐỐI VỚI LỊCH SỬ DÂN TỘC
1.Xây dựng đội ngũ quan lại
Lên ngôi lập ra triều đại mới trong hoàn cảnh đặc biệt, Mạc
Đăng Dung “sợ lòng ngƣời còn mến cũ sâu lại sinh biến” nên đã
không thực hiện những thay đổi lớn về mặt tổ chức nhà nƣớc. Do
đó,nhà Mạc chủ trƣơng vẫn “tuân giữ theo pháp độ của nhà Lê”.
Mạc Đăng Dung thực hiện phủ dụ những quan lại cũ của triều
Lê để họ về với mình nhƣng kết quả cũng không đƣợc là bao. Trong
đợt thăng trật và phong tƣớc đầu tiên vào tháng 2/1528, nhà Mạc chỉ
có trong tay 56 viên quan cũ của nhà Lê ra cộng tác nhƣng họ cũng tỏ
ra không nhiệt tình với triều Mạc. Để xây dựng đội ngũ quan lại trung
thành với mình,vào năm 1529, tức là hai năm sau khi lên ngôi, Mạc
Đăng Dung đã cho mở khoa thi Hội đầu tiên của triều đại mình, lấy đổ
đƣợc 3 Tiến sĩ cập đệ, 8 Tiến sĩ xuất thân và 16 Đồng Tiến sĩ xuất
thân. Và từ đó trở đi, cứ tiếp tục 3 năm một lần, nhà Mạc đều đặn mở
đƣợc 22 kì thi Hội, lấy đổ 13 Trạng nguyên và 499 Tiến sĩ để bổ xung
vào đội ngũ quan lại.
2.Tổ chức bộ máy nhà nƣớc
Về quan chế, triều Mạc cũng có đầy đủ các ban văn võ nhƣ dƣới
triều Lê.Trong cơ cấu quan chức của triều Mạc, bên dƣới vua cũng có
Tam thái (gồm Thái sƣ, Thái phó, Thái bảo), Tam thiếu (gồm Thiếu
sƣ, Thiếu phó, Thiếu bảo). Ngƣời giữ các chức quan này,đại bộ phận
đều là quần thần cũ của triều Lê. Quan lại ở các ty về hàng võ có Đô
chỉ huy sứ, Đô chỉ huy đồng tri và Đô chỉ huy thiêm sự. Chức quan
đứng đầu hàng ngũ các quan lại đƣợc nhà Mạc gọi là Phụ chính. Đến
thời Mạc Phúc Hải, chức này đƣợc giao cho hai ngƣời: môt ngƣời phụ
trách về quân sự và một ngƣời phụ trách về chính trị.
Về các văn phòng bên cạnh vua thì có Hàn lâm viện và Đông
các viện, có tổ chức Ngự sử đài bao gồm cả Lục khoa. Ngoài ra còn
có Tôn nhân phủ, Quốc tử giám.
Về Lục bộ,nhà Mạc cũng duy trì 6 bộ nhƣ dƣới thời Lê và đứng
đầu là các chức Thƣợng thƣ, giúp việc cho Thƣợng thƣ có các chức
Tả-Hữu Thị lang, Tả - Hữu Lang trung, Viên ngoại lang...
Học tập chế độ của nhà Trần,Mạc Đăng Dung làm vua đƣợc 3
năm rồi nhƣờng ngôi cho con là Mạc Đăng Doanh, ông làm Thái
thƣợng hoàng, lui về Cổ Trai (Hải Dƣơng) nhƣng luôn theo dõi theo
công việc ở triều đình. Mạc Đăng Doanh (1530-1540) làm vua đƣợc
10 năm lại truyền ngôi cho con là Mạc Phúc Hải. Nhƣ vậy, nhà vua có
thể theo dõi và kiểm soát công việc cai trị của ngƣời kế vị và đề
phòng tình trạng biến loạn trong cung đình vào những lúc đổi ngôi.
Nhờ đó,cung đình của triều Mạc cơ bản luôn đƣợc ổn định. Ngoài
ra,việc truyền nối ngôi vua luôn đƣợc giữ đúng nguyên tắc đích
trƣởng. Điều đó đã góp phần tạo nên tính ổn định của bộ máy nhà
nƣớc dƣới thời Mạc.
3.Tổ chức hành chính địa phƣơng
Nhà Mạc lúc mới lên ngôi vẫn giữ nguyên 13 đạo của thời Lê
cùng với tên gọi cũ là Kinh Bắc, Sơn Tây,Hải Dƣơng, Sơn Nam,
Hƣng Hóa,Lạng Sơn, Tuyên Quang,Ninh Sóc,...
Dƣới đạo là phủ, huyện, châu, tổng và xã. Về quan chế, ở cấp
đạo có Tam ty gồm: Đô chỉ huy sứ ty, Thừa tuyên sứ ty và Hiến sát sứ
ty. Ở cấp phủ do các chức Tri phủ và Phủ thừa đứng đầu, ở cấp huyện
do các chức Tri huyện và Huyện thừa đứng đầu, ở cấp châu do chức
Tri châu đứng đầu, ở cấp tổng do các chức Tổng chính và Trùm tổng
đứng đầu, ở cấp xã do các chức Xã trƣởng, Xã chính và Xã sử đứng
đầu
Sau này,khu vực hành chính thuộc quyền quản lí của nhà Mạc
chỉ còn lại vùng đất từ Sơn Nam trở ra Bắc và cũng không nắm chặc
chẽ đƣợc các địa phƣơng.Uy thế triệt để của nhà Mạc chỉ có ở vùng
Kiến An (Hải Phòng),vốn là đất phát tích của dòng họ nhà Mạc và
Dƣơng Kinh (Hải Dƣơng),là kinh đô thứ hai của triều Mạc.
4.Tổ chức lực lƣợng quân đội
Do hoàn cảnh đặc biệt ở thế kỷ 15 là chiến tranh, loạn lạc diễn ra
triền miên, nhà Mạc ngay từ khi lên ngôi đã phải đối phó với mọi tình
huống nên phải ra sức củng cố lực lƣợng quân đội. Bản thân các vua
nhà Mạc cũng nhiều lần tự thân làm tƣớng đốc đại quân xuống xông
pha trận mạc Quân đội nhà Mạc đƣợc định chế theo tứ trấn (Sơn Nam,
Sơn Tây, Kinh Bắc và Hải Dƣơng) ,cùng với 4 vệ (Hƣng Quốc, chiêu
vũ, cẩm y, kim ngô) và ngũ phủ cùng với các vệ sở trong và ngoài các
Nhà Mạc cũng y theo lệ của nhà Lê, cho bổ sung nhân viên và
binh lính ở các ty. Ở mỗi ty đều có đặt một viên chỉ huy sứ, 1 chỉ huy
đồng tri, một chỉ huy thiêm sự, 10 trung hiệu, 1.100 trung sĩ và chia ra
làm 22 phiên túc trực. Nếu ngƣời nào làm việc có công lao thì đƣợc
bổ nhiệm lên các chức Thiên Hộ, Thống Chế, Quản Lĩnh, Trung úy. Ở
mỗi vệ đều có đặt một viên thƣ ký, dùng trong các hạng ký lục xuất
thân. Còn các trung sĩ thì đều theo lệ chia phiên, mỗi phiên chia làm 5
giáp, mỗi giáp đặt một viên giáp thủ đứng đầu. Quan bản ty sẽ chọn
lấy trong hạng trung hiệu ngƣời nào xứng đáng làm giấy đƣa lên để
đƣợc thăng
Ngoài ra, để động viên các tƣớng nhằm tăng cƣờng lực lƣợng
quốc phòng, nhà Mạc đã cấp ruộng lộc cho sĩ quan quân đội. Theo đó,
hạng nhất trung hiệu và hạng nhất trung sĩ mỗi ngƣời đƣợc cấp hai
phần rƣỡi ruộng đất công của làng xã
Nhìn chung, quân đội thời Mạc tƣơng đối đông, có đến 12 vạn
ngƣời. Đó là chỗ dựa quan trọng cho sự tồn tại của
5.Tình hình kinh tế
a.Tình hình sở hữu ruộng đất thời Mạc
Khi mới lên ngôi sợ lòng ngƣời mến cũ nhà Mạc tạm thời giữ
nguyên pháp độ của nhà Lê. Do đó, chế độ ruộng đất của nhà Mạc vẫn
giữ nguyên nhƣ dƣới triều Lê thông qua sổ điền đã đƣợc Mạc Đăng
Dung cho lập vào năm 1524, dƣới triều vua Lê Cung Hoàng, để thu
thuế.
Đến 1528, Mạc Đăng Dung mới sai bề tôi bàn định lại các chế độ gồm
“binh chế”, “điền chế “ và “lộc chế”. Cả ba chế độ này đều liên quan
đến vấn đề sở hữu ruộng đất.
Dƣới thời Mạc chế độ quân điền đã đƣợc nhà nƣớc phục hồi,
nhƣng trƣớc hết ƣu tiên cho sĩ quan quân đội, vốn là chỗ dựa tinh thần
của triều đại. Cho dù có ƣu đãi thì ruộng phần của sĩ quan cũng không
đƣợc phép vƣợt quá 2 phần của dân và về diện tích cũng không đƣợc
phép vƣợt quá 2 mẫu
Nhà Mạc đã phục hồi ruộng đất quân cấp trên cơ sở Quan điền
và Tam bảo điền. Quan điền là ruộng đất công của nhà nƣớc. Còn
Tam bảo điền là ruộng của chùa dùng để đèn nhang thờ cúng ở
chùa.Theo điền chế của nhà Mạc, Tam bảo điền đã đƣợc lấy bớt để
ban cấp cho sĩ quan và chia cho xã dân cày cấy, đối với quan điền thì
do nhà nƣớc thu tô thuế, còn Tam bảo điền thì do nhà chùa thu để
dùng vào việc đèn nhang thờ cúng ở
Nhà Mạc cũng chú ý phục hồi loại ruộng đất ao đầm thuộc tài
sản hƣơng hỏa của nhà chùa đã bị chấp chiếm, cùng với loại ruộng đất
hƣơng hỏa tổ tiên của nhân dân.
Nhƣ vậy, dƣới thời Mạc chế độ quân điền đã đƣợc phục hồi nhƣng
còn nhiều hạn chế vì số ruộng đất sau khi cấp lại cho binh lính còn lại
không nhiều.
b.Tình hình nông nghiệp thời Mạc
Nhà Mạc nắm quyền cai trị ở đồng bằng Bắc Bộ có nhiều điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp: đất đai màu mỡ, khí hậu
ít khắc nghiệt và thời tiết ít thiên tai hơn vùng Bắc Trung Bộ.
Mạc Đăng Dung sau khi lập ra triều Mạc và ở ngôi đƣợc ba năm
thì đã nhƣờng ngôi cho con trai là Mạc Đăng Doanh và tự mình làm
Thái Thƣợng Hoàng giúp con trông coi việc nƣớc. Mạc Đăng Doanh
(1530- 1540) là một ông vua “tính tình khoan hậu, giản dị, giữ pháp
độ, cấm hà khắc tàn bạo, ít việc tạp dịch, nhẹ thuế khóa”. Nhờ đó mà
đời sống của nhân dân dần đƣợc phục hồi và trở lại ổn định.
Tóm lại, từ sau ngày thành lập, với gần hai phần ba thế kỷ tồn tại trên
cƣơng vị là ngƣời quản lý đất nƣớc, nhà Mạc đã tạo ra gần hai thập kỷ
tƣơng đối yên ổn trên địa bàn cai trị chủ yếu của mình là vùng đồng
bằng Bắc Bộ. Những năm đó tình hình kinh tế công nghiệp khá phồn
thịnh, mà cho dù có theo quan điểm chình thống thì các sử thần nhà
Lê và các tác giả cũng không thể phủ nhận đƣợc.
c. Tình hình thủ công nghiệp thời Mạc
Dƣới thời Mạc, các nghề thủ công thuộc quyền quản lý của nhà
nƣớc nhƣ nghề đúc tiền, đóng thuyền, chế tạo súng... phát triển theo
hƣớng mở rộng, trong dân gian các nghề thủ công cổ truyền cũng tiếp
tục phát triển và phổ biến rộng rãi. Hầu nhƣ làng nào cũng có các lò
rèn, phƣờng mộc, phƣờng xây dựng, nghề làm đồ đá, nghề dệt, nghề
sản xuất đồ gốm, nghề điêu khắc gỗ...
+Với nghề dệt, bên cạnh những phƣờng nghề dệt vải và dệt lụa ở
đô thị, thì những làng nghề ở nông thôn có bƣớc phát triển cao hơn
trƣớc, đồng thời còn có sự nở rộ thêm tại nhiều nơi nhƣ làng La (Hà
Đông), làng Bƣởi (bên ngoài Đông Kinh). Nghề dệt đã sản xuất đƣợc
nhiều mặt hàng cao cấp nhƣ gấm, the và đạt đến trình độ mỹ thuật tinh
xảo, không chỉ cung cấp cho vua chúa, quan lại mà còn đƣợc ngƣời
nƣớc ngoài rất ƣa chuộng.
+Về nghề gốm, vào thời Mạc xuất hiện nhiều trung tâm sản xuất
gốm sứ nổi tiếng nhƣ Bát Tràng sản xuất dụng cụ gia đình, đồ thờ,
gạch ngói, Chu Đậu (Hải Dƣơng) sản xuất đồ thờ cúng vật ụng gia
đình, Thổ Hà sản xuất chum vại... Một nét nữa trong thủ công nghiệp
thời Mạc là đã xuất hiện hình thức quảng cáo, thể hiện ở việc ghi tên
ngƣời sản xuất và cơ sở sản xuất ngay trên sản phẩm (gốm). Đó là
một biểu hiện sinh động của sự phát triển kinh tế hàng hóa, của sự
cạnh tranh trong sản xuất và sự khẳng định bản quyền trong sản xuất
thủ công nghiệp gốm sứ ở thời Mạc.
+Về xây dựng, trong suốt thời gian trị vì nhà Mạc đã có tất cả
trên 130 công trình kiến trúc đƣợc xây dựng mới và tôn tạo sửa chữa
từ những công trình cũ. Trong đó chủ yếu là các loại hình kiến trúc
nhƣ: chùa, quán, cầu ,đình, miếu...Riêng kiến trúc chùa ở thời Mạc có
phần nhỏ hơn so với chùa ở thời Lý- Trần.
+Các nghề điêu khắc đá, gỗ cũng rất phát triển. Qua sự phong
phú về số lƣợng bia Mạc trong bộ sƣu tập “Văn bia thời Mạc” (hiện
đƣợc biết đến 147 tấm bia) cùng với số lƣợng tƣợng bằng đá và bằng
gỗ, cũng nhƣ loại phù điêu gỗ trang trí ở đình chùa đền miếu cho thấy
về sự phát triển mạnh mẽ của nghề điêu khắc đá và gỗ ở thời Mạc.
d. Tình hình thƣơng nghiệp thời Mạc
Nhà Mạc không quá “trọng nông ức thƣơng” nhƣ ở thời Lê sơ
trƣớc đó, lại có những chính sách nƣơng tay, cởi mở đối với thƣơng
nghiệp nên dƣới triều Mạc thƣơng nghiệp có nhiều điều kiện thuận lợi
để phát triển.
Nhà Mạc từ Mạc Đăng Dung, Mạc Đăng Doanh, cho đến Mạc
Phúc Hải, Mạc Phúc Nguyên đều nhiều lần cho đúc tiền.Việc đúc tiền
xuất phát từ nhiều mục đích khác nhau,nhƣng bản thân nó đã có tác
dụng góp phần là phƣơng tiện trao đổi hàng hóa lúc bây giờ.Tuy ở
phía đối lập với nhà Mạc, nhƣng chính sử triều Lê cũng phải ghi nhận
rằng với những biện pháp chấn chỉnh trật tự trị an đó của nhà Mạc là
mở cửa giao lƣu, buôn bán troa đổi hàng hóa với bên ngoài.
Sự phát triển của thủ công nghiệp đã kích thích mạnh mẽ đối với
thƣơng nghiệp, hình thành một hệ thống chợ địa phƣơng với sự bố trí
xen kẽ các ngày phiên giúp cho cƣ dân nông thôn thƣờng xuyên tiếp
xúc với nhau và tìm thấy những sản phẩm cần thiết cho nhu cầu sinh
hoạt của mình. Cùng với mạng lƣới chợ ở nông thôn còn có hệ thống
chợ ở các thị trấn, thị tứ và đô thị.
Hàng hóa trao đổi gồm cả nông lâm thổ sản và hàng thủ công
nghiệp. Đặc biệt một số sản phẩm địa phƣơng ở thời Mạc nhƣ gốm sứ
Bát Tràng và Hải Dƣơng đã trở thành những sản phẩm uy tín trên thị
trƣờng quốc tế.
Nhà Mạc đã đƣa ra những chính sách về kinh tế nhƣ: binh điền,
lộc điền, quân điền, dựa vào luật Hống Đức của nhà Lê để yên lòng
dân, nhƣng có những tiến bộ rõ rệt hơn. Nhìn chung thì nhà Mạc có
tầm nhìn kinh tế vĩ mô khác hẳn với chính sách bảo thủ của nhà Lê
lúc bấy giờ. Có xu thế tiến bộ hơn giao lƣu và cởi mở, chú trọng vào
thủ công nghiệp, thƣơng mại, kinh tế hàng hóa điều là những nghành
kinh tế mũi nhọn góp phần đƣa đất nƣớc phát triển. Trong Đại Việt sử
ký toàn thƣ phải ghi nhận: “Đêm ngủ không đóng cửa, ngoài đƣờng
không ai nhặt của rơi”.
6. Tình hình văn hóa thời Mạc
a.Tƣ tƣởng và tôn giáo:
Tôn giáo nhà Mạc vẫn tuân thủ theo hệ tƣ tƣởng thiết chế của
nhà Lê, lấy Tống nho làm tƣ tƣởng thiết chế chính vì lên ngôi trong
hoàn cảnh đặc biệt, nên Mạc Đăng Dung buộc phải tìm cách giành lấy
chính thống của mình bằng cánh đề cao Nho giáo và nhất là việc tổ
chức thi cử Nho học một cách hết sức đều đặn. Tuy nhiên, nhà Mạc
cũng không độc tôn Tống Nho, đồng thời cũng không quá khắc khe
với các hệ thống phi Nho nhƣ thời Lê Sơ, vì vậy Phật và Đạo giáo lại
đƣợc khởi lên. Trong nƣớc chùa chiền và đạo quán đƣợc trùng tu và
xây dựng mới ở khắp mọi nơi. Càng về cuối nhà Mạc, các chùa quán
càng đƣợc trùng tu tân tạo nhiều. Ngoài ra còn có tín ngƣỡng thờ Mẫu
có sự mạnh mã và lan tràn trong nhân dân. Vào Năm 1533, dƣới thời
nhà Mạc, đạo Thiên Chúa, một tôn giáo phát triển ở phƣơng Tây,
cũng đã thâm nhập vào đất nƣớc ta và bắt đầu xuất hiện ở vùng biển
Xứ Nam và đã có một bà công chúa của triều Mạc đã bỏ Bắc triều để
vào Nam theo đạo Gia Tô.
Nhờ đƣờng lối chính trị cởi mở và sự phát triển kinh tế công
thƣơng, Phật giáo và Đạo giáo đƣợc hung thịnh. Đạo Khổng vẫn đƣợc
coi trọng, nhƣng không chiếm ƣu thế độc tôn. Vì vậy cả ba đạo này
cùng đồng thời tồn tại, cùng có su hƣớng hòa đồng trong thực hành
tôn giáo, hình thành tín ngƣỡng dân gian mang tính chất tổng hợp mà
đỉnh cao là sự xuất hiện đạo Cao Đài về sau này.
b. Giáo dục và thi cử
Với nhƣ̃ng đóng góp của vƣơng triề u Ma ̣c đố i với lich
̣ sƣ̉ dân
tô ̣c tƣ̀ kinh tế , văn hóa và đă ̣c biê ̣t là giáo du ̣c . Trong lich
̣ sƣ̉ giáo du ̣c
và khoa cử Việt Nam sau thời vua Lê Thánh Tông thì chỉ có triều Mạc
mới liên tu ̣c thƣ̣c hiê ̣n đƣơ ̣c quy chế 3 năm mở thi Hô ̣i mô ̣t lầ n . Giáo
dục thời Mạc đạt cực thịnh nhất vào đời vua Mạc Đăng Doanh , lên
ngôi khi đấ t nƣớc loa ̣n ly và chiế n tranh triề n miên giƣ̃a các phe phái
đố i lâ ̣p, nhƣng về mă ̣t giáo du ̣c ở thời vua Ma ̣c Đăng Doanh đã làm
đƣơ ̣c nhƣ̃ng viê ̣c vô cùng quan tro ̣ng và có ý nghiã , không chỉ đă ̣t nề n
móng cho các triều vua sau mà còn cho cả vƣơng triều Mạc
. Đó là
viê ̣c đào ta ̣o đƣơ ̣c mô ̣t đô ̣ i ngũ trí thƣ́c nho ho ̣c có nhiề u tài năng và
tâm huyế t phu ̣ng sƣ̣ cho vƣơng triề u Ma ̣c với nhƣ̃ng gƣơng mă ̣t vô
cùng sáng giá đại diện cho lớp trí thức mới của triều Mạc nói riêng và
tri thƣ́c của Đa ̣i Viê ̣t trong thế kỷ XVI nó i chung nhƣ: Nguyễn Thiế n ,
Nguyễn Bin̉ h Khiêm, Giáp Hải. Họ đều là những bậc trí thức có tài đỗ
đa ̣t dƣới triề u vua Ma ̣c Đăng Doanh.
Vào đầu thời Mạc , dƣới thời vua Ma ̣c Đăng Dung mới chỉ tổ
chƣ́c đƣơ ̣c mô ̣t khoa thi tiế n si ̃ (năm 1529) tuyể n cho ̣n ngƣời tài vào
giúp việc triều đình thì dƣới triều vua thứ hai – Mạc Đăng Doanh , cƣ́
đều đặn 3 năm mở mô ̣t khoa thi cho ̣n tiế n si ̃ , mă ̣c cho chiế n sƣ̣ xảy ra
triề n miênVề nô ̣i dung giáo du ̣c thi cƣ̉ nhấ t luâ ̣t tuân theo thể lê ̣ của
nhà Lê. Không chỉ lo tổ chƣ́c các khoa thi Tiế n si ̃ cho ̣n ngƣời tài vào
giúp việc trong triều đình của nhà Mạc mà Mạc Đăng Doanh đã chăm
lo tới sƣ̣ nghiê ̣p giáo du ̣c chung của đấ t nƣớc nhƣ cho tu sƣ̃a la ̣i Quố c
Tử giám và đi tham hỏi tế lễ các bậc tiên hiền tiên thánh…Sách Đại
Viê ̣t thông sƣ̉ ghi :” Vào mùa xuân , năm Bính thân , nguyên hiê ̣u
Nguyên Hòa thƣ́ 4- 1536, Đăng Doanh đã sai Đông quân tả đô đố c
Khiêm quâ ̣n công Ma ̣c Điǹ h Khoa tu sƣ̉a la ̣ i trƣờng Quố c Tƣ̉ giám .
Vào năm sau 1537 Mạc Đăng Doanh còn đích thân “đến trƣờng Thái
học để làm lễ Thích điện tế tiên Thánh tiên sƣ”.
Nhƣng đến thời nhà Mạc thì khác, vào thời Mạc Đăng Dung,
nhất là vào lúc trị vì của Mạc Đăng Doanh thì giáo dục bƣớc qua một
giai đoạn mới vẫn tiếp tục giáo dục con cháu dòng họ để lãnh đạo đất
nƣớc và đặt biệt chú trọng đến dân nhân, đã nhận thấy đƣợc cái gốc
mạnh suy của đất nƣớc là ở dân. Nên không chỉ có con cháu trong
dòng họ mới đƣợc học hành đỗ đậu làm quan, thời nhà Mạc không
giới hạn cho việc học tập và phát triển nhân tài, không nhất thiết và
vào khuôn khổ phép tắt nhƣ nhà Lê trƣớc đó
Nhƣng điều cốt lõi ở đây là nhà Mạc đã mạnh dạng kết hợp
đƣợc tinh thần dân tộc và thời đại một cách hài hòa bề vững mà không
còn bị trói buộc bởi chế độ quân chủ Nho giáo thời Lê sơ, tự do thi
tuyển công bằng không còn phân biệt đẳng cấp hay giới tính. Chính vì
vậy suốt thời kỳ phong kiến Việt Nam chỉ một lần xuất hiện trong thời
nhà Mạc tiến sĩ nữ duy nhất và đầu tiên trong nền giáo dục khoa cử
Hán ngữ đầu tiên của Việt Nam Nguyễn Thị Duệ, sau này nhân dân
vẫn thờ phụng tôn sùng bà.
Hồ ng Đƣ́c thiêṇ chính thƣ làn chính sách giáo dục của nhà
Mạc:
Hồ ng Đƣ́c thiê ̣n chiń h thƣ là mô ̣t bô ̣ luâ ̣t thời Ma ̣c , có nghĩa nó
là sách ghi chép về những chính sách tốt thời Hồng Đức
. Văn bản
“Hồ ng Đƣ́c thiê ̣n chiń h thƣ” hiê ̣n còn không ghi cu ̣ thể tên tác giả và
niên đa ̣i biên soa ̣n , do đó gây nên hiể u lầ m . Có ngƣời cho rằng đây là
bô ̣ luâ ̣t đƣơ ̣c biên soa ̣n dƣới thời vua Lê Thánh Tông . Bởi lẽ , sách
gồ m khoảng 80 điề u mu ̣c lớn ghi chép các lê ̣ lê ̣nh về ruô ̣ng đấ t , hôn
nhân, quy chế để tang… đƣơ ̣c ban hành chủ yế u dƣới thời Hồ ng Đƣ́c .
Tuy nhiên , nhiề u nhà nghiên cƣ́u đã chƣ́n g minh đƣơ ̣c “Hồ ng Đƣ́c
thiê ̣n chính thƣ” không phải là bô ̣ luâ ̣t đƣơ ̣c ban hành dƣới thời Hồ ng
đƣ́c. Nhà nghiên cứu Đinh Khắc Thuần khẳng định : “Hồ ng Đƣ́c thiê ̣n
chính thƣ đƣợc coi là tập sách về luật lệ biên soạn dƣới niên hiệu
Hồ ng Đƣ́c (1470-1497) thời Lê nhƣng thƣ̣c chấ t nó đƣơ ̣c biên soa ̣n
vào thời Mạc”.
“Hồ ng Đƣ́c thiê ̣n chiń h thƣ”chỉ ghi chép các luâ ̣t lê ̣ của nhà Lê sơ
cũng nhƣ hai niên đại Đại Chính và Quảng Hòa nhà Mạc mà không hề
đề cập tới các niên hiệu của nhà Lê trung hƣng . Điề u đó cho thấ y sách
đƣơ ̣c biên soa ̣n trong vùng nhà Ma ̣c quản ly , với khuôn thời gian dƣới
đời vua Ma ̣c Phúc Hải (1541-1546), hoă ̣c Ma ̣c Phúc Nguyên (15461564) hay Ma ̣c Mâ ̣u Hơ ̣p (1564-1592).
Về đời vua Mạc Mậu Hợp có thể loại trừ , vì “Hồng Đức thiện
chính thƣ” không ghi một niên đại nào của Mạc Mậu Hợp. Đồng thời,
căn cƣ́ vào lời của quan Trung Trinh đa ̣i phu Thanh hin
̀ h Hiế n sát sƣ́
đa ̣o Kinh bắ c là Nguyễn Nhƣ Cƣơng tâu vào “ngày mùng 8 tháng 10
năm Quảng Đa ̣i thƣ́ 3 (1543)”, chúng ta càng có thể chắc chắn rằng
“Hồ ng Đƣ́c thiê ̣n chiń h thƣ” đƣơ ̣c biên soa ̣n trong khoảng thời gian
tƣ̀ năm 1541 đến 1564. Tƣ̀ nhƣ̃ng phân tić h trên chúng ta có thể đ i
đến kết luận: “Hồ ng Đƣ́c thiê ̣n chính thƣ” là tác phẩ m đƣơ ̣c biên soa ̣n
dƣới thời Ma ̣c , trong khoảng thời gian từ 1541 đến 1564, nhằ m ghi
chép và bổ sung các điều luật tiêu biểu có từ thời Hồng Đức làm thành
bô ̣ luâ ̣t phu ̣c vu ̣ cho vƣơng triề u này.
Chính sách của nhà Mạc trong “Hồng Đức thiện chính thƣ”
Chính sách giáo dục của nhà Mạc đƣợc đề cập đến trong “Hồng
Đức thiê ̣n chiń h thƣ” gồ m các nội dung chủ yế u sau:
Bổ n phâ ̣n của ho ̣c trò : Thời n hà Mạc ngƣời thầy và nghề dạy
học đƣợc Nhà nƣớc bảo vệ bằng những luật lệ . Luâ ̣t Hồ ng Đƣ́c thiê ̣n
chính quy định học trò phải có bổn phận kính trọng thầy giáo “ khi
gă ̣p phải kiń h cẩ n , lễ phép , không đƣơ ̣c khinh nhờn nga ̣ o ma ̣n”. Nế u
coi thƣờng không tôn kiń h thầ y , thì chẳng những “học nghiệp không
thành” mà còn “bị khép vào tội bất kính” , sẽ bị xử phạt bằng hình
thƣ́c “roi vo ̣t” và nô ̣p tiề n . Điề u thƣ́ 13 trong “Hồ ng Đƣ́c thiê ̣n chiń h
thƣ” quy đinh
̣ rõ : “Kẻ nào khinh nhờn với thầ y thì bi ̣pha ̣t 50 quan
tiề n quý, kẻ nào đánh chửi thầy thì tiền phạt thêm 15 quan, và đánh 80
trƣơ ̣ng”. Đây là mƣ́c pha ̣t khá nă ̣ng , vì thời Mạc một mẫu ruộng giá
30 quan mà ở đây mƣ́c phạt không phạt không kính thầy lên đến 50
quan, tính ra là gần 2 mẫu ruô ̣ng, đó là chƣa kể ngƣời bi ̣pha ̣m tô ̣i còn
bị đánh 80 trƣơ ̣ng. Mƣ́c pha ̣t trên cho thấ y điạ vi ̣của ngƣời thầ y giáo
trong xã hô ̣i cũng nhƣ sƣ̣ nghiêm minh củ
a luâ ̣t pháp đƣơng thời .
Không chỉ với thầ y da ̣y , nế u ho ̣c trò vô lễ , xúc phạm đến ngƣời thân
trong gia điǹ h thầ y cũng bi ̣luâ ̣t pháp tri ̣tô ̣i, tuy mƣ́c pha ̣t có nhe ̣ hơn.
Nghĩa thầy là một thứ tình cảm , sâu nă ̣ng, thiêng liêng và cao cả ,
đòi hỏi ngƣời ho ̣c trò phải luôn khắ c ghi , bởi lẽ ơn da ̣y bảo của thầ y
giáo cũng nhƣ nghĩa sinh thành của cha mẹ . Vì thế nếu học trò quên
công ơn thầ y , pháp luật sẽ phạt “suốt đời không cho đi thi
, không
đƣơ ̣c ra là m quan hoă ̣c theo nghề da ̣y ho ̣c” . Với ngƣời trí thƣ́c phong
kiế n, đi ho ̣c dùi mài kinh sƣ̉ là để ra làm quan “tiế n vi quan” , không
chí ít cũng lui về làm thầy dạy học “thoái vi sƣ” . Điề u luâ ̣t trên tỏ rõ
tuy xã hô ̣i và nhà nƣớc trọng vọng kẻ sĩ, nhƣng đố i với ho ̣c trò bô ̣i ơn
thầ y thì luâ ̣t pháp sẵn sàng cắ t đƣ́t con đƣờng tiế n thân cũng nhƣ vi ̣trí
của họ trong xã hội . Có thể nói , thời Ma ̣c ngƣời thầ y luôn đƣơ ̣c Nhà
nƣớc đề cao. Điạ vi ̣cũng nhƣ quyề n lơ ̣i của ho ̣ đƣơ ̣c pháp luâ ̣t bảo vê .̣
Điề u này cho ta thấ y chiń h sách coi tro ̣ng tri thƣ́c của vƣơng triề u
Mạc.
Tƣ cách đa ̣o đƣ́c thí sinh : Mô ̣t trong nhƣ̃ng mu ̣c đić h quan tro ̣ng
của khoa cử thời Mạc là tuyển chọn ngƣời tà i đƣ́c ra làm quan , phục
vụ vƣơng triều. Do đó , viê ̣c xem xét tƣ cách đa ̣o đƣ́c ho ̣c trò trƣớc khi
thi là yêu cầ u đầ u tiên.
Để đủ điề u kiê ̣n đi thi Hƣơng , học trò phải đƣợc các xã trƣởng
“bảo kế t” về tƣ cách đa ̣o đƣ́c và phải nô ̣p giấ y “thông căn cƣớc” khai
rõ lý lịch ba đời , không đƣơ ̣c giả ma ̣o . Nế u ai khai ma ̣o ho ̣ để đi thi ,
hay là để bổ quan chƣ́c thì bi ̣khép vào tô ̣i mấ t tổ tôn . Quy đinh
̣ này
cho thấ y thể lê ̣ ti cƣ̉ rấ t chă ̣t chẽ . Nó hạn chế đƣợc viê ̣c gian lâ ̣n trong
thi cƣ̉ cũng nhƣ giúp cho nhà nƣớc cho ̣n đƣơ ̣c nhƣ̃ng ngƣời có phẩ m
hạnh.
Còn với giám sinh Quốc Tử Giám , nhà Mạc có hẳn một điều luật
riêng vì ho ̣ đƣơ ̣c đào luyê ̣n dƣới trƣờng Quố c ho ̣c có chấ t lƣơ ̣ng cao,
với nhƣ̃ng ngƣời thầ y tài giỏi , đƣ́c ha ̣nh , mô pha ̣m và đƣơ ̣c hƣởng
nhƣ̃ng ƣu đaĩ đă ̣c biê ̣t của Nhà nƣớc và ho ̣ sẽ là nhƣ̃ng ngƣời giúp
viê ̣c trung thành , phục vụ đắc lực cho bộ máy quản lý xã hội . Do đó ,
yêu cầ u của Nhà nƣớc đối với các Giám sinh về trình độ học vấn , nhấ t
là tƣ cách đạo đức cũng cao hơn so với học trò của địa phƣơng, trƣờng
làng. Mô ̣t khi ho ̣ làm nhƣ̃ng điề u sai trái vi pahmj quy đinh
̣ nhƣ
phóng đãng, cờ ba ̣c sẽ bi ̣pha ̣ t rấ t nă ̣ng , “ba khoa không đƣơ ̣c đi thi ,
không đƣơ ̣c bổ du ̣ng” . Nế u không biế t sƣ̉a chƣ̃a mà còn tái pha ̣m thì
mƣ́c pha ̣t sẽ càng nă ̣ng hơn , có thể bị tội đồ thậm chí bị lƣu đày . Nhờ
đinh
̣ lê ̣ này ho ̣c trò trƣờng Giám luôn lo tu d ƣỡng đạo đức , chăm chỉ
học hành, chấ t lƣơ ̣ng trƣờng Quố c ho ̣c vì thế đƣơ ̣c nâng lên mô ̣t bƣớc.
Ngay cả nhƣ̃ng ngƣời đã đỗ Sinh đồ trong các kỳ thi Hƣơng , nhà
Mạc cũng quy đinh chặt chẽ : “Là Sinh đồ là đã đỗ đa ̣t khoa trƣờng
phải giữ lễ nghĩa , biế t liêm sỉ , không đƣơ ̣c càn rỡ làm điề u sai trái
không đúng luâ ̣t pháp” ; Và nếu vi phạm họ cũng sẽ “bị xử theo pháp
luâ ̣t”, không có bấ t cƣ́ mô ̣t đă ̣c ân nào . Với nhƣ̃ng quy lê ̣ chă ̣t chẽ về
tƣ cách đa ̣o đƣ́c thí sinh nói trên , giáo dục nhà Mạc đã chọn lựa đƣợc
và đào tạo đƣợc một đội ngũ trí thức có học hạnh, bổ sung vào bô ̣ máy
nhà nƣớc.
Chính sách đãi ngộ : Nhà Mạc có chính sách đãi ngộ về vật chất
và tinh thần rấ t lớn đố i với hiề n tài , đă ̣c biê ̣t là nhƣ̃ng ngƣời đỗ tiế n si ̃.
Sau khi thi đâ ̣u , các tân tiến sĩ đƣợc gia nhập vào hàng ngũ quan lại ,
không chỉ đem tài năng phu ̣ng sƣ̣ đấ t nƣớc
, thƣ̣c hiê ̣n lý tƣởng
“thƣơ ̣ng trí quân , hạ trạc dân” (trên giúp viê ̣c vua ) của bản thân , mà
còn làm dạng danh gia đình, dòng họ. Điề u 37 trong “Hồ ng Đƣ́c thiê ̣n
chính thƣ” cho biết những ngƣời thân của ngƣời đỗ đạt cũng đƣợc
triề u đin
̀ h phong thƣởng tro ̣ng hâ ̣u . “Nói con đỗ đa ̣t thì nên thƣơng
cho cha phẩ m hàm để thiên ha ̣ noi theo đa ̣o cha con
, mô ̣t nhà vinh
hiể n”.
c.Thành tựu về văn học
Các triều đại khác văn hóa thuộc cung đình, các điệu hát chủ yếu
cũng chỉ phục vụ cho vua chúa và quan lại, khác vậy để văn hóa về
với cộng đồng nhân dân, nhà Mạc chủ trƣơng xây dựng văn hóa đình
làng. Từ thời Mạc, đình làng đƣợc dùng làm nơi sinh hoạt cộng đồng
làng xã. Hai ngôi đình nổi tiếng nhất thời kỳ này là đình Đông Lỗ và
đình Tây Đằng. Nghệ thuật kiến trúc và trang trí thời Mạc đƣợc đánh
giá là đã tạo một bƣớc ngoặt lớn trong lịch sử nghệ thuật Việt Nam.
d. Kiến trúc và điêu khắc
Kiến trúc
Dƣới thời Mạc, hoạt động kiến trúc đƣợc tiến hành tƣơng đối
rầm rộ nhƣng chủ yếu là các công trình kiến trúc dân gian. Thời này,
kiến trúc cung đình có phần sút kém do tình hình Nam-Bắc triều.Do
đó kiến trúc ở Đông Kinh thời Mạc không có nhiều những triều đình.
Năm 1582,Mạc Mậu Hợp cho dựng điện Gỉang học, nhƣng ngày
khánh thành đã bị hỏa hoạn thiêu trụi. Đến năm 1585, Mạc Mậu Hợp
cho đắp lũy, đào hào xung quanh thành Thăng Long và tu sữa Hoàng
thành,làm nhiều cung điện lầu gác, nhƣng qui mô không lớn.
Các công tình đƣợc nhà Mạc chú hơn cả là những kiến trúc nhà
cửa,cung thất ở Cổ Trai và Hải Dƣơng-Dƣơng Kinh (kinh đô thứ hai
của nhà Mạc). Các cung điện này có diện tích quá nhỏ và đơn
sơ.Những công trình kiến trúc của nhà Mạc tại Thăng Long và Hải
Dƣơng,có những cung điện nổi tiếng nhƣ Phúc Huy và Hƣng Quốc,
đều đã bị Trịnh Tùng sai quân đốt trụi trong lần Nam triều tiến ra
Thăng Long và truy đuổi tàn quân nhà Mạc (1592).
Nhà Mạc cho xây dựng nhiều các công trình phòng thủ ở các địa
phƣơng, nhiều đến nổi tên “thành nhà Mạc” đƣợc nhân dân địa
phƣơng gán cho hầu hết các di tích thành cổ ở trong vùng. Xây dựng
bằng việc lợi dụng địa hình tự nhiên khá triệt để. Quân Mạc thƣờng
xuyên di chuyển, nên các công trình quân sự thƣờng mang tính tạm
thời. Thành tƣờng hầu hết là tƣờng đất, góc thành có chòi canh. Một
số thành địa phƣơng nhƣ thành xã Xích Thổ, Cẩm Phả ở Quảng Yên;
thành cổ Kì Giang ở Lạng Sơn; thành động Thiềm Sơn ở Hải
Dƣơng;v...v...
Nổi bật trong kiến trúc ở thời Mạc là các kiến trúc dân gian nhƣ
đình, chùa, quán,đền, miếu, chợ, bến đò v...v...Dựa trên tƣ lệu văn bia
và thực địa, hiện đƣợc biết đến 104 ngôi chùa, 6 đạo quán,14 cầu, 5
đình,8 đền miếu v...v...tức có gần 200 kiến trúc đƣợc trùng tu và xây
dựng dƣới triều Mạc. Qua đó cho thấy chùa chiền chiếm tỉ lệ áp đảo
(trên 77%). Kiến trúc chùa tƣơng đối nhỏ nhƣng cũng đủ chỗ cho Phật
tử lui tới hƣơng khói,kiến trúc gỗ đơn giản nhƣng chắc chắn, mái chùa
thấp, trang trí thông thoáng. Bố cục thƣờng theo lối “nội công ngoại
quốc” với nhiều thành phần kiến trúc phức tạp. Mặc bằng kiến trúc
ngôi chùa thời Mạc gồm có Tam quan, Tiền đƣờng, Thiêu hƣơng và
Thƣợng điện –kiến trúc cơ bản mà chùa nào cũng có. Ngoài ra, còn có
các kiến trúc khác nhƣ hậu đƣờng, gác chuông, nhà sân, hành lang,...
Khác với chùa,các đình làng ở thời Mạc có phần bề thế hơn và
thuộc vào loại xƣa nhất ở nƣớc ta. Triều Mạc đã để lại hai ngôi đình
khá nguyên vẹn là đình Tây Đằng (Hà Nội) và đình Lỗ Hạnh (Bắc
Ninh). Qua tƣ liệu văn bia, còn có hai ngôi đình khác là đình Trung
Hoài (Thái Bình) và đình Đại Đoan đƣợc xây dựng trên nền cũ của
một ngôi đình cũ đã đổ. Thời Mạc, kiến trúc ngôi đình có phần đơn
giản,chỉ là nếp nhà có mặt bằng hình chữ nhật gọi là Đại đình, thƣờng
có 3 gian 2 chái (nhƣ đình Tây Đằng),có khi là 5 gian 2 chái (nhƣ đình
Lỗ Hạnh). Kết cấu mái đình gồm 4 mái với góc đao uốn cong. Đình
có sàn để làm nơi ngồi hội họp, sinh hoạt của dân làng. Quanh nhà
Đại đình có cột hiên,chái và hè nhƣng không có liếp che, không gian
bên trong sáng sủa và thoáng mát. Có thể nói, đến lúc này cấu trúc
- Xem thêm -