TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
-oOo-
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Đề tài:
Ý THỨC VÀ VAI TRÒ CỦA TRI THỨC TRONG
THỰC TIỄN XÃ HỘI HIỆN NAY
Chuyên ngành: Sư phạm Giáo dục công dân
Mã ngành: 52140204
Giáo viên hướng dẫn
Ths-GVC Nguyễn Đại Thắng
CẦN THƠ 11 - 2013
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Ngọc Giàu
MSSV: 6106609
Lớp: ML1068A1
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................................... 1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................................. 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................. 2
4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................... 2
5. Kết cấu luận văn ........................................................................................................ 2
PHẦN NỘI DUNG .......................................................................................................... 3
Chương 1: ........................................................................................................................ 3
LÝ LUẬN CHUNG CỦA TRIẾT HỌC VỀ Ý THỨC VÀ TRI THỨC ........................ 3
1.1. Quan niệm của triết học Mác – Lênin về ý thức ...................................................... 3
1.1.1. Khái niệm về ý thức ....................................................................................... 3
1.1.2. Nguồn gốc của ý thức ..................................................................................... 4
1.1.3. Bản chất của ý thức ........................................................................................ 8
1.2. Ý thức – tri thức khoa học..................................................................................... 10
1.2.1. Khái niệm tri thức khoa học ......................................................................... 10
1.2.2. Kết cấu của ý thức ........................................................................................ 11
Chương 2: ...................................................................................................................... 22
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM – ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI
PHÁP ............................................................................................................................. 22
2.1. Vai trò của tri thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội trong quá trình công nghiệp
hóa hiện đại hóa........................................................................................................... 22
2.2. Những định hướng phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam...................................... 27
2.3. Những giải pháp cần thiết và cấp bách cho nền kinh tế Việt Nam hiện nay ........... 41
2.3.1. Phát triển kinh tế tri thức gắn với việc phát triển giáo dục và đào tạo đi đôi với bảo
vệ môi trường, phát triển bền vững .............................................................................. 41
2.3.2. Nâng cao vai trò tổ chức và quản lý của nhà nước tận dụng thời cơ và những cơ
hội lớn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ...................................... 57
2.3.3. Sử dụng có hiệu quả nguồn lực con người, nhanh chống ứng dụng những thành
tựu khoa học – công nghệ, kinh tế tri thức thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước ...................................................................................................................... 59
KẾT LUẬN .................................................................................................................... 65
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................. 67
LỜI CẢM ƠN
Qua gần 4 năm học tập, rèn luyện tại trường Đại Học Cần Thơ, em đã tích
lũy được những kiến thức cần thiết để thực hiện Luận văn tốt nghiệp của mình.
Để thực hiện luận văn tốt nghiệp này, em đã gặp phải nhiều khó khăn, vướng
mắc, và những băn khoăn lo lắng, không biết phải chọn đề tài gì? Lập đề cường ra
sao? Thực hiện bài làm như thế nào? Muôn vàn những thắc mắc xoay quanh.
Nhưng trong thời gian qua em nhận được sự tận tình hướng dẫn, góp ý, chia sẽ
những kinh nghiệm quý báo và sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy Nguyễn Đại Thắng và
tất cả thầy cô giảng viên Khoa Khoa Học Chính Trị. Tất cả những câu hỏi của em
đều được giải đáp, thầy còn giúp em chỉnh sữa những kiến thức em còn sai phạm.
Bên cạnh đó em còn nhận được sự động viên của Cố vấn học tập và tất cả các bạn
trong tập thể lớp sư phạm Giáo Dục Công Dân khóa 36. Nhận được nguồn tài liệu
từ thư viện Khoa Khoa Học Chính Trị, Trung tâm học liệu Trường Đại Học Cần
Thơ, thư viện Thành phố Cần Thơ.
Tuy có nhiều cố gắng trong quá trình thực hiện đề tài, nhưng do khả năng,
thời gian và những hạn chế khác nên đề tài không tránh khỏi những sai sót. Vì vậy
em rất mong được sự nhận xét và đóng góp của thầy cô và các bạn để em kiệp thời
khắc phục những thiếu sót cho luận văn hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Đại Thắng, Cố vấn học tập và tập
thể lớp sư Phạm Giáo Dục Công Dân khóa 36, thư viện Khoa Khoa Học Chính Trị,
Trung tâm học liệu Trường Đại Học Cần Thơ, thư viện Thành phố Cần Thơ đã tạo
điều kiện giúp em thực hiện tốt bài luận văn tốt nghiệp này.
Em chân thành cám ơn!
Cần Thơ, ngày
tháng 11 năm
2013
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Ngọc Giàu
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trải qua một thời gian dài sống trong chiến tranh đất nước Việt Nam phải
hứng chịu bao đau thương mất mát. Sau cuộc chiến đất nước hoang tàn, đổ nát cơ
sở vật chất cũ kỹ, lạc hậu. Sau hơn 20 năm kể từ ngày đất nước hoàn toàn được giải
phóng, giờ đây chúng ta đang được sống trong nền kinh tế - văn hóa - chính trị ổn
định, cuộc sống của người dân được cải thiện rõ rệt. Đặc biệt là từ năm 1986 trở lại
đây, đó là năm chúng ta tiến hành công cuộc đổi mới đất nước một cách toàn diện.
Về mọi mặt đời sống xã hội có những chuyển biến sâu sắc, tích cực. Đảng và nhà
nước đã vận dụng có sáng tạo tư duy của triết học Mác - Lênin “Bản chất con người
là tổng hòa các quan hệ xã hội”. Vì vậy con người là sản phẩm của xã hội nhưng
cũng chính con người làm nên xã hội ấy, ý thức chỉ tồn tại ở con người, chỉ con
người mới có những tư duy khoa học sáng tạo tiếp thu và phát huy tri thức của nhân
loại. Thành công của chúng ta trong cuộc đổi mới không thể không kể đến vai trò
của tri thức khoa học, chính tri thức khoa học đã giúp ta bước những bước tiến dài
trên con đường đổi mới một cách vững chắc và hiệu quả. Chúng ta luôn coi khoa
học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự phát triển đất nước.
Trong bài luận văn này em chọn đề tài: “Ý thức và vai trò của tri thức
trong thực tiễn xã hội hiện nay”. Bài viết này một phần nào thể hiện quan điểm
cách nhìn của giới trẻ Việt Nam về cuộc sống và những biến đổi lớn lao của đất
nước mình, đặc biệt là những vấn đề về tri thức khoa học trong công cuộc đổi mới.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài này là ý thức và vai trò của tri
thức trong thực tiễn hiện nay, tuy nhiên đây là vấn đề tương đối rộng, nên em chỉ
dừng lại ở phạm vi vai trò của tri thức. Và đề xuất những giải pháp cấp bách cho
tình hình kinh tế nước ta hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ ý thức và vai trò của tri thức trong
thực tiễn hiện nay. Đồng thời tìm ra phương hướng giải pháp trong thời gian tới.
1
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, luận văn tập trung giải quyết một số
nhiệm vụ:
- Làm rõ vai trò của tri thức trong thực tiễn cuộc sống hiện nay.
- Tìm ra phương hướng, giải pháp phát triển nền kinh tế tri thức trong thời
gian tới.
4. Phương hướng nghiên cứu
- Phương pháp luận: Dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, chủ trương đường lối và chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về ý
thức và vai trò của tri thức.
- Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Để thực hiện đề tài này tác giả kết hợp
nhiều phương pháp: Phương pháp lịch sử, logic, phương pháp phân tích tổng hợp từ
đó giúp tác giả tránh được hiện tượng giáo điều và máy móc trong quá trình nghiên
cứu.
5. Bố cục luận văn
Đề tài này được trình bày 3 phần:
- Phần mở đầu
- Phần nội dung: gồm 2 chương; 5 tiết.
- Phần kết luận: Tổng kết lại vấn đề.
2
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1:
LÝ LUẬN CHUNG CỦA TRIẾT HỌC VỀ Ý THỨC VÀ TRI THỨC
1.1. Quan niệm của triết học Mác – Lênin về ý thức
1.1.1. Khái niệm về ý thức
Theo triết học Mác - Lênin “ý thức là sự phản ánh sáng tạo của thế giới
khách quan vào bộ não của người thông qua lao động và ngôn ngữ”. Để đưa ra được
định nghĩa trên con người phải trải qua một quá trình lịch sử lâu dài với những quan
niệm về ý thức nhiều khi sai lệch hoặc không trọn vẹn.
Ngay từ thời cổ xưa, khi con người còn rất mơ hồ về cấu tạo của bản thân vì
chưa lý giải được các sự vật hiện tượng xung quanh mình. Do chưa giải thích được
giấc mơ là gì họ đã cho rằng: có một linh hồn nào đó cư trú trong cơ thể và có thể
rời bỏ cơ thể, linh hồn này không những điều khiển được suy nghĩ tình cảm của con
người mà còn điều khiển toàn bộ hoạt động của con người. Nếu linh hồn rời bỏ cơ
thể thì cơ thể sẽ trở thành cơ thể chết.
Tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm đã phát triển quan niệm linh hồn của con
người nguyên thủy thành quan niệm về vai trò sáng tạo của linh hồn đối với thế
giới, quan niệm về hồi tưởng của linh hồn bất tử và quan niệm về một linh hồn phổ
biến không chỉ ở trong con người mà cả trong các sự vật, hiện tượng, trong thế giới
cõi người và cõi thần, quan niệm về ý thức tuyệt đối, về lý tính thế giới.
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thì đồng nhất ý thức với cảm giác và cho rằng
cảm giác của con người chi phối thế giới. . . Như vậy, cả tôn giáo lẫn chủ nghĩa duy
tâm đều cho rằng ý thức tồn tại độc lập với thế giới bên ngoài và là tính thứ nhất,
sáng tạo ra thế giới vật chất…
Chủ nghĩa duy vật chất phác cổ đại thì cho rằng linh hồn không thể tách
rời cơ thể và cũng chết theo cơ thể, linh hồn do những hạt vật chất nhỏ tạo thành.
Khi khoa học tự nhiên phát triển, con người đã chứng minh được sự phụ
thuộc của các hiện tượng tinh thần, ý thức vào bộ óc con người thì một bộ phận nhà
3
duy vật theo chủ nghĩa duy vật máy móc cho rằng óc trực tiếp tiết ra ý thức như gan
tiết ra mật.
Chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII - XVIII và chủ nghĩa duy vật Phơ- Bách quan
niệm ý thức bao gồm cả tâm lý, tình cảm, tri thức, trí tuệ, tự ý thức và định nghĩa ý
thức là sự phản ánh của thế giới khách quan. Định nghĩa này chưa chỉ rõ được vai
trò của xã hội, của ý thức.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định ý thức là đặc tính và sản phẩm của
vật chất, ý thức là sự phản ánh khách quan vào bộ óc con người thông qua lao động
và ngôn ngữ. Nói vấn đề này C.Mác nhấn mạnh: tinh thần, ý thức chẳng qua nó chỉ
là cái vật chất di chuyển vào bộ óc con người và được cải biến đi trong đó.
Tóm lại, ý thức bao gồm những yếu tố tri thức và những yếu tố tình cảm, ý
chí trong sự liên hệ tác động qua lại nhưng về căn bản ý thức có nội dung tri thức và
luôn hướng tới tri thức.
1.1.2. Nguồn gốc của ý thức
Nguồn gốc tự nhiên
Theo quan điểm của triết học Mác - Lê nin, ý thức là một thuộc tính của một
dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người, là sự phản ánh thế giới khách quan vào
bộ não người. Nếu không có sự tác động của thế giới khách quan vào bộ não người
và không có bộ não người với tính cách là cơ quan vật chất của ý thức thì sẽ không
có ý thức. Bộ não người và sự tác động của thế giới khách quan vào bộ não người là
nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Cùng với sự tiến hóa của thế giới, vật chất có tính phân hóa cũng phát triển
từ thấp đến cao. Trong đó ý thức là hình thức phản ánh cao nhất, ý thức ra đời là kết
quả của sự phát triển lâu dài của thế giới tự nhiên cho tới khi xuất hiện con người và
bộ óc con người. Khoa học đã chứng minh rằng thế giới vật chất nói chung và trái
đất nói riêng đã tồn tại rất lâu trước khi con người xuất hiện, rằng hoạt động tâm lý
của con người diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não con người.
4
Bộ óc Người:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức là thuộc tính của một
dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc người. Bộ óc người hiện đại là sản phẩm
của quá trình tiến hoá lâu dài về mặt sinh vật - xã hội và có cấu tạo rất phức tạp,
gồm khoảng 14 - 15 tỷ tế bào thần kinh [5,tr.165]. Các tế bào này tạo nên nhiều mối
liên hệ nhằm thu nhận, xử lý, dẫn truyền và điều khiển toàn bộ hoạt động của cơ thể
trong quan hệ với thế giới bên ngoài thông qua các phản xạ có điều kiện và không
điều kiện.
Sự phản ánh:
Cũng theo chủ nghĩa Mác-Lênin, hoạt động ý thức con người diễn ra trên cơ
sở hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc người. Sự phụ thuộc của ý thức vào hoạt
động của bộ óc thể hiện ở chỗ khi bộ óc bị tổn thương thì hoạt động ý thức sẽ bị rối
loạn. Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc người mà không có sự tác động của thế giới bên
ngoài để bộ óc phản ánh lại tác động đó thì cũng không thể có ý thức. Phản ánh là
thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất. Phản ánh là năng lực giữ lại,
tái hiện lại của hệ thống vật chất này những đặc điểm của hệ thống vật chất khác.
Trong quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, thuộc tính phản ánh
của vật chất cũng phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp:
1. Phản ánh vật lý: Là hình thức phản ánh đơn giản nhất ở giới vô sinh, thể
hiện qua các quá trình biến đổi cơ, lý, hoá.
2. Phản ánh sinh học: Là những phản ánh trong sinh giới trong giới hữu
sinh cũng có nhiều hình thức khác nhau ứng với mỗi trình độ phát triển của thế giới
sinh vật.
- Tính kích thích: Thể hiện ở thực vật, động vật bậc thấp, đã có sự chọn lọc
trước những tác động của môi trường.
- Tính cảm ứng: Thể hiện ở động vật bậc cao có hệ thần kinh, xuất hiện do
những tác động từ bên ngoài lên cơ thể động vật và có phản ứng lại. Nó hoàn thiện
hơn tính kích thích, được thực hiện trên cơ sở các quá trình thần kinh điều khiển
mối quan hệ giữa cơ thể với môi trường thông qua cơ chế phản xạ không điều kiện.
5
- Tâm lý động vật: Là hình thức cao nhất trong giới động vật gắn liền với các
quá trình hình thành các phản xạ có điều kiện, thông qua các cảm giác, tri giác, biểu
tượng ở động vật có hệ thần kinh trung ương.
3. Phản ánh ý thức: là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện
thực, ý thức chỉ nảy sinh ở giai đoạn phát triển cao của thế giới vật chất, cùng với sự
xuất hiện của con người. (sự phản ánh này không thể hiện ở cấp độ cảm tính như
cảm giác, tri giác, biểu tượng nhờ hệ thống tín hiệu thứ nhất mà còn thể hiện ở cấp
độ lý tính: khái niệm, phán đoán, suy lý nhờ tín hiệu thứ hai là ngôn ngữ. Sự phản
ánh ý thức là sự phản ánh có mục đích, có kế hoạch, tự giác, chủ động vào sự vật
hiện tượng buộc sự vật bộc lộ ra những đặc điểm của chúng. Sự phản ánh ý thức
luôn gắn liền với tự nhiên làm cho tự nhiên thích nghi với nhu cầu phát triển xã hội.
Nguồn gốc xã hội
Để ý thức có thể ra đời, bên những nguồn gốc tự nhiên thì điều kiện quyết
định cho sự ra đời của ý thức là nguồn gốc xã hội, thể hiện ở vai trò của lao
động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội.
“Sau lao động và cùng với lao động là ngôn ngữ đó là hai sự kích thích chủ
yếu của sự chuyển biến bộ não loài vật thành bộ não loài người, từ tâm lý động vật
thành ý thức”
Lao động:
Lao động là hoạt động đặc thù của con người, là hoạt động bản chất người.
Đó là hoạt động chủ động, sáng tạo, có mục đích. Lao động đem lại cho con người
dáng đi thẳng đứng, giải phóng hai tay. Điều này cùng với chế độ ăn có thịt đã thực
sự có ý nghĩa quyết định đối với quá trình chuyển hoá từ vượn thành người, từ tâm
lý động vật thành ý thức. Nhờ có lao động, con người tách ra khỏi giới động vật.
Một trong những sự khác nhau căn bản giữa con người với động vật là ở chỗ động
vật sử dụng các sản phẩm có sẵn trong giới tự nhiên, còn con người thì nhờ lao
động mà bắt giới tự nhiên phục vụ mục đích của mình, thay đổi nó, bắt nó phục
tùng những nhu cầu của mình. Chính thông qua hoạt động lao động nhằm cải tạo
thế giới khách quan mà con người mới có thể phản ánh được thế giới khách quan,
6
mới có ý thức về thế giới đó. Sự hình thành ý thức không phải là quá trình thu nhận
thụ động, mà đó là kết quả hoạt động chủ động của con người. Nhờ có lao động,
con người tác động vào thế giới khách quan, bắt thế giới khách quan bộc lộ những
thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động của mình thành những hiện
tượng nhất định, và các hiện tượng ấy tác động vào bộ óc người, hình thành dần
những tri thức về tự nhiên và xã hội.
Như vậy, ý thức được hình thành chủ yếu do hoạt động cải tạo thế giới khách
quan của con người, làm biến đổi thế giới đó. ý thức với tư cách là hoạt động phản
ánh sáng tạo không thể có được ở bên ngoài quá trình con người lao động làm biến
đổi thế giới xung quanh. Vì thế có thể nói khái quát rằng lao động tạo ra ý thức tư
tưởng, hoặc nguồn gốc cơ bản của ý thức tư tưởng là sự phản ánh thế giới khách
quan vào đầu óc con người trong quá trình lao động của con người. Lao động không
xuất hiện ở trạng thái đơn nhất, ngay từ đầu nó đã mang tính tập thể xã hội. Vì vậy,
nhu cầu trao đổi kinh nghiệm và nhu cầu trao đổi tư tưởng cho nhau xuất hiện.
Chính nhu cầu đó đòi hỏi xuất hiện ngôn ngữ. Lao động con người xác lập mối
quan hệ xã hội của mình.
Ngôn ngữ:
Do nhu cầu của lao động và nhờ lao động mà ngôn ngữ được hình thành.
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Không có ngôn ngữ
thì ý thức không thể tồn tại và thể hiện được. Ngôn ngữ vừa là phương tiện giao tiếp
trong xã hội, đồng thời là công cụ của tư duy nhằm khái quát hóa, trừu tượng hóa
hiện thực. Nhờ ngôn ngữ mà con người tổng kết được thực tiễn, trao đổi thông tin,
trao đổi tri thức từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ý thức không phải thuần túy là hiện
tượng cá nhân mà là một hiện tượng xã hội, do đó không có phương tiện trao đổi xã
hội về mặt ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và phát triển được.
Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin thì ngôn ngữ là phương tiện để
con người giao tiếp trong xã hội, là hệ thống tín hiệu thứ hai, là cái vỏ vật chất của
tư duy, là hình thức biểu đạt của tư tưởng. Ngôn ngữ là yếu tố quan trọng để phát
triển tâm lý, tư duy của con người và xã hội loài người.
7
Vậy, nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển
của ý thức là lao động, là thực tiễn xã hội. Ý thức phản ánh hiện thực khách quan
vào bộ óc con người thông qua lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội. Ý thức là
sản phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội.
1.1.3. Bản chất của ý thức
Khái niệm bản chất ý thức: Ý thức là sự phản ánh năng động sáng tạo của
bộ óc con người; là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Bản tính phản ánh và sáng tạo
- Ý thức là sự phản ánh sáng tạo thế giới: Ý thức là sự phản ánh hiện thực
khách quan vào trong bộ óc con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan. Tuy nhiên, không phải thế giới khách quan tác động vào bộ óc người là tự
nhiên trở thành ý thức. Ngược lại, ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo về thế
giới, do nhu cầu của việc con người cải biến giới tự nhiên quyết định và được thực
hiện thông qua hoạt động lao động.
Theo C.Mác, “ý thức chẳng qua chỉ là vật chất đươc đem chuyển vào trong
đầu óc con người và được cải biến đi trong đó” [5,tr.171]. Sự phản ánh sáng tạo của
ý thức biểu hiện ở sự cải biến cái vật chất di chuyển vào trong bộ não con người
thành cái tinh thần, thành những hình ảnh tinh thần. Sáng tạo của ý thức là sáng tạo
của phản ánh, dựa trên cơ sở của phản ánh, trong khuôn khổ và theo tính chất, quy
luật của phản ánh.
Tính sáng tạo của ý thức được thể hiện ra rất phong phú. Trên cơ sở những
cái đã có, ý thức có thể tạo ra tri thức mới về sự vật, có thể tưởng tượng ra những
cái không có trong thực tế, có thể tiên đoán, dự báo về tương lai, có thể tạo ra những
ảo tưởng, những huyền thoại, những giả thuyết lý thuyết khoa học hết sức trừu
tượng và khái quát cao [5,tr.171].
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc người, song đây
là sự phản ánh đặc biệt – phản ánh trong quá trình con người cải tạo thế giới. Quá
trình ý thức là quá trình thống nhất của 3 mặt là:
8
+ Trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự trao đổi này
mang tính chất hai chiều, có định hướng, có chọn lọc các thông tin cần thiết.
+ Tiếp đến là mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh
thần. Thực chất, đây là quá trình “sáng tạo lại” hiện thực của ý thức theo nghĩa: mã
hóa các đối tượng vật chất thành các ý tưởng tinh thần phi vật chất.
+ Cuối cùng là chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức quá
trình hiện thực hóa tư tưởng, thông qua hoạt động thực tiễn biến cái quan niệm
thành cái thực tại, biến cái ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật chất
ngoài hiện thực.
Trong giai đoạn này, con người lựa chọn những phương pháp, phương tiện,
công cụ để tác động vào hiện thực khách quan nhằm thực hiện mục đích của mình.
Ý thức là sự phản ánh sáng tạo, vì phản ánh đó dù trực tiếp hay gián tiếp, dù
dưới dạng ý tưởng thì bao giờ cũng phải dựa vào những tiền đề vật chất, dựa trên
hoạt động thực tiễn nhất định. Sự sáng tạo của ý thức không đối lập, loại trừ, tách
rời sự phản ánh mà ngược lại thống nhất với phản ánh, trên cơ sở của phản ánh.
Phản ánh và sáng tạo là hai mặt thuộc bản chất của ý thức. Ý thức, trong bất
kỳ trường hợp nào cũng là sự phản ánh và chính thực tiễn xã hội của con người tạo
ra sự phản ánh phức tạp, năng động, sáng tạo của bộ óc.
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan
Ý thức là hình ảnh của thế giới khách quan, do thế giới khách quan quy định
cả về nội dung và hình thức biểu hiện nhưng nó không còn y nguyên như thế giới
khách quan mà đã được cải biến thông qua lăng kính chủ quan (tâm tư, tình cảm,
nguyện vọng, kinh nghiệm, tri thức, nhu cầu…) của con người. Theo C.Mác: ý thức
“chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được
cải biến đi trong đó”.
Bản tính xã hội
Ý thức là sản phẩm lịch sử của sự phát triển xã hội nên về bản chất là có tính
xã hội: ý thức không phải là một hiện tượng tự nhiên thuần túy mà là một hiện
9
tượng xã hội. Ý thức bắt nguồn từ thực tiễn lịch sử - xã hội, phản ánh những quan
hệ xã hội khách quan.
Sự ra đời và tồn tại của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi
phối không chỉ của các quy luật tự nhiên, mà còn chịu sự chi phối của các quy luật
xã hội; được quy định bởi nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt thực
tiễn của đời sống xã hội. Với tính năng động, ý thức đã sáng tạo lại hiện thực theo
nhu cầu của thực tiễn xã hội. Ở các thời đại khác nhau, thậm chí ở cùng một thời
đại, sự phản ánh (ý thức) về cùng một sự vật hiện tượng có sự khác nhau – theo các
điều kiện vật chất và tinh thần mà chủ thể nhận thức phụ thuộc.
1.2. Ý thức – tri thức khoa học
1.2.1. Khái niệm tri thức khoa học
Tri thức có nguồn gốc từ thế giới hiện thực, là sự phản ánh thế giới đó trong
đầu óc con người thông qua quá trình nhận thức. Cho nên bản chất của tri thức là
hình ảnh của thế giới hiện thực trong đầu óc con người. Hình ảnh đó càng ngày
càng được nhận thức của con người bổ sung cho chi tiết, chính xác hơn trên con
đường nhận thức và cải biến tự nhiên.
Trong lịch sử phát triển tư duy của nhân loại có rất nhiều quan niệm khác
nhau về khoa học, một mặt nó phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội, mặt
khác phụ thuộc vào trình độ của nhận thức. Xét về phương diện xã hội khoa học là
một hiện tượng xã hội có nhiều mặt, trong đó biểu hiện sự thống nhất giữa những
yếu tố vật chất và những yếu tố tinh thần. Về phương diện nhận thức, khoa học là
giai đoạn cao nhất của nhận thức, nhận thức lí luận về phương diện triết học, khoa
học là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt. Khoa học không chỉ phản ánh tồn tại xã
hội, phụ thuộc vào xã hội, những chân lý của nó được thực tiễn xã hội kiêm nghiệm
mà khoa học còn là kết quả của quá trình sáng tạo logic, của trực giác thiên tài:
Khoa học là yếu tố ngày càng có vai trò đặc biệt quan trọng của lực lượng sản xuất,
quyết định trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nói riêng, của phương thức sản
xuất và của xã hội nói chung.
10
Như vậy Tri thức khoa học: là những hiểu biết được tích lũy một cách có hệ
thống nhờ hoạt động nghiên cứu khoa học, các họat động này có mục tiêu xác định
và sử dụng phương pháp khoa học. Không giống như tri thức kinh nghiệm, tri thức
khoa học dựa trên kết quả quan sát, thu thập được qua những thí nghiệm và qua các
sự kiện xảy ra ngẫu nhiên trong hoạt động xã hội, trong tự nhiên. Tri thức khoa học
được tổ chức trong khuôn khổ các ngành và bộ môn khoa học.
1.2.2. Kết cấu của ý thức
Ý thức là một hiện tượng tâm lý - xã hội có kết cấu rất phức tạp bao gồm
nhiều thành tố khác nhau có quan hệ mật thiết với nhau. Có thể chia cấu trúc của ý
thức theo hai chiều:
Thứ nhất: theo chiều ngang bao gồm các yếu tố như tri thức, tình cảm, ý
chí…, trong đó tri thức là yếu tố cơ bản, cốt lõi.
Tri thức là hiểu biết, kiến thức của con người về thế giới. Nói đến tri thức là
nói đến học vấn, tri thức là phương thức tồn tại của ý thức. Sự hình thành và phát
triển của ý thức có liên quan mật thiết với quá trình con người nhận biết và cải tạo
thế giới tự nhiên. Con người tích lũy được càng nhiều tri thức thì ý thức thật cao,
càng đi sâu vào bản chất sự vật và cải tạo thế giới có hiệu quả hơn. Tính năng động
của ý thức nhờ đó mà tăng lên.
Từ vài thập niên gần đây, với những tác động mạnh mẽ của các tiến bộ khoa
học và công nghệ, đặc biệt của công nghệ thông tin và truyền thông, thế giới đang
biến chuyển tới một nền kinh tế và xã hội mới mà thông tin và tri thức được xem là
nguồn lực chủ yếu. Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, điều đó cũng tác động
mạnh mẽ đến các nước đang phát triển.
Như người ta thường nói, nó mang đến cho ta cả những cơ hội, cả những
thách thức. Cơ hội thì thường dễ tuột qua nếu không đủ bản lĩnh và hiểu biết để tận
dụng, còn thách thức thì đầy nghiêm khắc và nghiệt ngã… Nền kinh tế tri thức, xã
hội tri thức… nó là của ai? Nó có là của ta, cho ta hay không? Điều đó phụ thộc vào
bản lĩnh và ý chí phát huy mọi tiềm năng tri thức trong đất nước ta, phụ thuộc vào
11
khả năng mở rộng môi trường tự do và lành mạnh cho các hoạt động giao lưu thông
tin và tri thức trong xã hội ta.
Chúng ta đều biết rằng tri thức có vai trò hết sức quan trọng góp phần tạo nên
mọi thành tựu và tiến bộ trong lịch sử phát triển của văn minh nhân loại. Mặc dù
những câu hỏi mang tính triết học về bản chất của tri thức, về quá trình hình thành
tri thức, về quan hệ giữa vật chất và trí tuệ… vẫn đang được tranh luận và chưa có
câu trả lời thoả đáng, nhưng trong mọi hoạt động lĩnh vực khoa học, kinh tế, văn
hoá, tri thức vẫn luôn được tìm kiếm, phát hiện và tác động ngày càng lớn đến sự
phát triển xã hội loài người.
Máy tính điện tử, công cụ chủ yếu của công nghệ thông tin hiện đại, là loại
máy móc thay thế con người trong các hoạt động trí óc. Chất lượng và khối lượng
của các hoạt động trí óc không ngừng tăng lên theo sự tiến triển nhanh chóng về khả
năng lưu trữ và xử lý thông tin của máy. Từ hàng chục năm nay, cùng với khả năng
tính toán khoa học kĩ thuật không ngừng được nâng cao, các hệ thống máy tính đã
được ứng dụng để tổ chức nhiều cơ sở dữ liệu thuộc mọi quy mô trong các ngành
kinh tế , xã hội, hình thành dần kết cấu hạ tầng thông tin quốc gia, nền móng của sự
phát triển thông tin ở nhiều nước. Sự phong phú về thông tin, dữ liệu cùng với khả
năng kịp thời khai thác chúng đã mang đến những năng suất và chất lượng mới cho
công tác quản lý, hoạt động kinh doanh, phát triển sản xuất và dich vụ… Nhưng rồi
các yêu cầu về thông tin trong các loại hoạt động đó, đặc biệt là trong việc làm
quyết định, ngày càng đòi hỏi chất lượng cao hơn, những người làm quyết định
không những cần dữ liệu mà còn cần có thêm nhiều hiểu biết, nhiều tri thức để hỗ
trợ cho việc ra quyết định của mình. John Naisbett đã cảnh báo “chúng ta đang chìm
ngập trong dữ liệu mà vẫn đói tri thức”, điều đó cũng báo trước rằng việc ứng dụng
công nghệ thông tin đã chuyển sang một bước mới mà nội dung là trợ giúp con
người nhiều hơn trong việc tìm kiếm tri thức và trong các hoạt động trí tuệ, tức là
chuyển đổi từ sự giàu có tri thức, nguồn lực chủ yếu cho sự phát triển kinh tế trong
giai đoạn mới.
Các khái niệm thông tin dữ liệu và tri thức có liên quan chặt chẽ với nhau và
khó mà phân biệt được bằng những định nghĩa rõ ràng. Trong bài này, ta hiểu thông
12
tin là khái niệm chung nhất bao gồm mọi hiểu biết về các sự vật, hiện tượng, quan
hệ… mà con người thu nhận được qua trực giác, giao tiếp, khảo sát, thực nghiệm, lý
giải, nghiên cứu… Dữ liệu thường được cho bởi các giá trị mô tả sự kiện, hiện
tượng cụ thể: còn tri thức thường được xem là những hiểu biết có mức độ khái quát
nào đó, về mối quan hệ giữa các thuộc tính, các sự vật, hiện tượng, mang tính “quy
luật” ở chừng mực nhất định, mà con người thu được qua từng trải nghiệm, qua
phân tích số liệu , qua nghiên cứu, lý giải, suy luận… Đó không phải là những định
nghĩa, mà chỉ là những quy ước được dùng trong bài, và vì vậy cũng có thể có ít
nhiều nhầm lẫn.
Hoạt động nhận thức của con người bao gồm việc tìm kiếm tri thức để
tăng cường hiểu biết về tự nhiên, xã hội và cuộc sống, đồng thời sử dụng các tri
thức có được để tạo nên các kỹ thuật, công nghệ và giải pháp nhằm không ngừng
cải thiện cuộc sống của mình. Trải qua thế kỉ tích luỹ, và ngày nay có thêm sự trợ
giúp đắc lực của công nghệ thông tin, chúng ta đã có khả năng sử rộng rãi trong các
hoạt động kinh tế, xã hội ở vào thời đại mà bản thân thông tin và tri thức cũng đang
trở thành yếu tố chính của các loại hoạt động đó. Và dĩ nhiên, con người không chỉ
thụ động sử dụng những tri thức tìm kiếm được, mà ngày càng chủ động tìm kiếm,
thu thập thêm nhiều tri thức cho hoạt động của mình. Nếu như trong nhiều thế kỉ
qua, khoa học luôn hướng tới việc phát hiện những tri thức có giá trị phổ biến dưới
dạng những nguyên lý, quy luật, định lý… thì ngày nay, chúng ta cũng ngày càng
thấy rõ rằng trong cuộc sống thường nhật, trong việc quản lý kinh doanh, làm ăn
hằng ngày của chúng ta cũng rất cần có thêm những tri thức, có thể có ý nghĩa phổ
biến hẹp hơn.
Trước hết ta cần tìm hiểu khái niệm về tri thức
Khái niệm tri thức được đề cập đến từ xa xưa trong triết học phương Tây.
Đối với hầu hết các triết gia như Platon, Aristotle, Descartes, và tri thức được định
nghĩa là “lòng tin có lý do chính đáng về sự thật”. Định nghĩa này vẫn còn rất phổ
biến ngày nay. Ví dụ Nonaka (1994) định nghĩa tri thức là “một quá trình năng động
của con người để tìm lý do chính đáng cho những lòng tin cá nhân trong khát vọng
tìm hiểu sự thật”.
13
Gần đây, một số tác giả có đưa ra vài định nghĩa khác, bao gồm “thông
tin có giá trị trong hành động”, “thông tin, công nghệ, bí quyết, và kỹ năng”.
Davenport and Prusak [25,tr.5] đưa ra một định nghĩa khá toàn diện về tri thức như
sau: “Tri thức là một tập hợp bao gồm kinh nghiệm, giá trị, thông tin, và sự hiểu
biết thông thái mà có thể giúp đánh giá và thu nạp thêm những kinh nghiệm và
thông tin mới. Tri thức được tạo ra và ứng dụng trong đầu óc của những người có
nó. Trong một tổ chức, tri thức không chỉ được hàm chứa trong các văn bản và tài
liệu, mà còn nằm trong thủ tục, quy trình, thông lệ, và nguyên tắc của tổ chức đó”
Vậy tri thức là:
- Các thông tin, các tài liệu, các cơ sở lý luận, các kỹ năng khác nhau, đạt
được bởi một tổ chức hay một cá nhân thông qua các trải nghiệm thực tế hay thông
qua sự giáo dục đào tạo; các hiểu biết về lý thuyết hay thực tế về một đối tượng,
một vấn đề, có thể lý giải được về nó; là những gì đã biết, đã được hiểu biết trong
một lĩnh vực cụ thể hay toàn bộ, trong tổng thể.
- Tri thức là quá trình nghiên cứu nhằm khám phá ra những kiến thức mới, học
thuyết mới, … về tự nhiên và xã hội. Những kiến thức hay học thuyết mới này, tốt hơn, có
thể thay thế dần những cái cũ, không còn phù hợp. Ví dụ: Quan niệm thực vật là vật thể
không có cảm giác được thay thế bằng quan niệm thực vật có cảm nhận.
Khoa học bao gồm một hệ thống tri thức về quy luật của vật chất và sự vận động
của vật chất, những quy luật của tự nhiên, xã hội, và tư duy. Hệ thống tri thức này hình
thành trong lịch sử và không ngừng phát triển trên cơ sở thực tiễn xã hội. Phân biệt ra 2 hệ
thống tri thức: tri thức kinh nghiệm và tri thức khoa học.
Tri thức kinh nghiệm: là những hiểu biết được tích lũy qua hoạt động sống hàng
ngày trong mối quan hệ giữa con người với con người và giữa con người với thiên nhiên.
Quá trình nầy giúp con người hiểu biết về sự vật, về cách quản lý thiên nhiên và hình thành
mối quan hệ giữa những con người trong xã hội. Tri thức kinh nghiệm được con người
không ngừng sử dụng và phát triển trong hoạt động thực tế. Tuy nhiên, tri thức kinh
nghiệm chưa thật sự đi sâu vào bản chất, chưa thấy được hết các thuộc tính của sự vật và
mối quan hệ bên trong giữa sự vật và con người. Tri thức kinh nghiệm còn được gọi là tri
thức ẩn là những tri thức thu được từ sự trải nghiệm thực tế, dạng tri thức này
thường ẩn trong mỗi cá nhân và rất khó “mã hóa” và chuyển giao, thường bao gồm:
14
niềm tin, giá trị, kinh nghiệm, bí quyết, kỹ năng... Ví dụ: Trong bóng đá, các cầu thủ
chuyên nghiệp có khả năng cảm nhận bóng rất tốt. Đây là một dạng tri thức ẩn, nó
nằm trong mỗi cầu thủ. Nó không thể “mã hóa” thành văn bản, không thể chuyển
giao, mà người ta chỉ có thể có bằng cách tự mình luyện tập. Vì vậy, tri thức kinh
nghiệm chỉ phát triển đến một hiểu biết giới hạn nhất định, nhưng tri thức kinh nghiệm là
cơ sở cho sự hình thành tri thức khoa học.
Tri thức khoa học: là những hiểu biết được tích lũy một cách có hệ thống nhờ hoạt
động nghiên cứu khoa học, các họat động này có mục tiêu xác định và sử dụng phương
pháp khoa học. Không giống như tri thức kinh nghiệm (tri thức ẩn), tri thức khoa học dựa
trên kết quả quan sát, thu thập được qua những thí nghiệm và qua các sự kiện xảy ra ngẫu
nhiên trong hoạt động xã hội, trong tự nhiên. Tri thức khoa học cũng giống như tri thức
hiện đó là những tri thức được giải thích và mã hóa dưới dạng văn bản, tài liệu, âm
thanh, phim, ảnh,… thông qua ngôn ngữ có lời hoặc không lời, nguyên tắc hệ
thống, chương trình máy tính, chuẩn mực hay các phương tiện khác. Đây là những
tri thức đã được thể hiện ra ngoài và dễ dàng chuyển giao, thường được tiếp nhận
qua hệ thống giáo dục và đào tạo chính quy. Tri thức khoa học được tổ chức trong
khuôn khổ các ngành và bộ môn khoa học (discipline) như: triết học, sử học, kinh tế học,
toán học, sinh học,…
Tri thức còn được phân ra thành mấy loại như sau:
- Biết cái gì nói về sự nhận biết các sự kiện, các vật thể, các hiện tượng…; ở đây tri
thức rất gần gũi với thông tin, khối lượng tri thức có thể đo bằng bite.
- Biết tại sao thường để chỉ tri thức khoa học, hiểu biết về bản chất của tự nhiên. Tri
thức này là cơ sở cho những tiến bộ công nghệ, đổi mới sản phẩm trong phần lớn các
ngành công nghiệp; tạo ra các tri thức này thường là các cơ quan nghiên cứu và các trường
đại học.
- Biết thế nào là để chỉ kỹ năng hoặc năng lực làm một việc gì. Đây là loại tri thức
đặc trưng cho năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp. Người ta thường lập mạng lưới
công nghiệp để các doanh nghiệp có thể chia sẽ và tổ hợp các yếu tố của loại tri thức này;
- Biết ai là cái biết quan trọng nhất. “Biết ai” bao gồm thông tin về ai biết cái gì, ai
biết làm thế nào, làm những gì. Đó cũng là tri thức về quan hệ xã hội, về tổ chức tập hợp
lực lượng, về cách tiếp cận với các chuyên gia và sử dụng hiệu quả nhất tri thức của họ…
15
Đối với người quản lý và các tổ chức, tri thức này là hàng đầu để thích nghi với sự đổi mới
ngày càng nhanh.
Một trong những tri thức khoa học có vai trò tác động đến sự phát triển của
xã hội loài người đó là công nghệ Nano.
Công nghệ nano, (tiếng Anh: nanotechnology) là ngành công nghệ liên quan
đến việc thiết kế, phân tích, chế tạo và ứng dụng các cấu trúc, thiết bị và hệ thống
bằng việc điều khiển hình dáng, kích thước trên quy mô nanômét khi không rõ ràng,
tuy nhiên chúng đều có chung đối tượng là vật liệu nano.
Vật liệu nano: là vật liệu trong đó có ít nhất một chiều có kích thước cỡ
nanômét. Về trạng thái của vật liệu, các nhà khoa học phân chia thành ba trạng thái:
rắn, lỏng và khí. Vật liệu nano được tập trung nghiên cứu hiện nay chủ yếu là vật
liệu rắn, sau đó mới đến chất lỏng và khí. Về hình dáng vật liệu, các nhà khoa học
phân ra thành các loại sau:
- Các vật liệu nano một chiều: màng mỏng, các lớp, các bề mặt...
- Các vật liệu nano hai chiều: dây nano, các ống nano.
- Các vật liệu nano ba chiều: các hạt nano, các hạt keo, các chấm lượng tử,
các vật liệu dạng tinh thể nano, các đám nano...
- Ngoài ra còn có vật liệu có cấu trúc nano hay nanocompozit trong đó chỉ
có một phần của vật liệu có kích thước nano, hoặc cấu trúc của nó có nano ba chiều,
một chiều, hai chiều đan xen nhau.
Hai yếu tố chính tạo nên các tính chất của vật liệu nano, làm cho nó khác biệt
lớn đối với các vật liệu khác, đó là diện tích bề mặt được tăng lên đáng kể và các
hiệu ứng lượng tử. Những yếu tố này có thể làm thay đổi hoặc tăng cường các tính
chất ví dụ như độ phản ứng, độ cứng và các tính chất về điện. Khi giảm kích thước
một hạt, thì tỷ lệ các nguyên tử ở trên bề mặt tăng lên so với các nguyên tử ở bên
trong. Ví dụ, một hạt có kích thước 30 nm có 5% nguyên tử ở trên bề mặt của nó,
với kích thước 10nm có 20% nguyên tử trên bề mặt của nó và 3 nm có 50% nguyên
tử trên bề mặt của nó. Do vậy, các hạt nano sẽ có diện tích bề mặt trên đơn vị khối
lớn hơn so với các hạt ở kích thước lớn hơn. Vì các phản ứng hóa học xúc tác diễn
16
ra ở bề mặt, nên điều này có nghĩa là một khối vật liệu dạng hạt nano sẽ phản ứng
nhạy hơn với cùng khối vật liệu đó có cấu tạo từ các hạt lớn hơn. Song song với các
hiệu ứng diện tích bề mặt, các hiệu ứng lượng tử bắt đầu chi phối những tính chất
của vật liệu khi kích thước bị giảm xuống cỡ nano. Chúng có thể tác động tới phản
ứng điện, từ tính và quang học của vật liệu đặc biệt là khi cấu trúc của kích cỡ hạt
tịnh tiến tới mức kích cỡ nhỏ nhất trong bảng kích thước nano.
Vật liệu nano khai thác những hiệu ứng này bao gồm các chấm lượng tử, các
tia laze năng lượng lượng tử (quantum well lasers), các linh kiện điện quang... Đối
với các vật liệu khác, ví dụ như những chất rắn tinh thể, khi kích thước các thành
phần cấu trúc của chúng giảm, thì diện tích giao diện trong lòng vật liệu tăng lên sẽ
tác động mạnh tới các tính chất điện và cơ. Hầu hết các kim loại được tạo ra từ các
hạt tinh thể nhỏ, khi vật liệu bị giảm kích cỡ xuống thì ranh giới giữa các hạt giảm
xuống đến mức gần bằng không, vì vậy tạo cho nó độ rắn. Nếu những hạt này có thể
được làm cho cực nhỏ, hoặc thậm chí ở kích thước nano, thì diện tích giao diện bên
trong vật liệu tăng lên rất nhiều, điều này càng làm tăng độ cứng của nó. Ví dụ,
niken tinh thể nano có độ cứng bằng thép. Hiện nay có rất nhiều vật liệu nano mới
chỉ đang ở giai đoạn sản xuất trong phòng thí nghiệm, nhưng một số ít đã bắt đầu
được thương mại hóa.
Ý chí: là mặt năng động của ý thức biểu hiện ở năng lực thực hiện những
hành động có mục đích, đòi hỏi phải có sự nổ lực khắc phục khó khăn.
- Ý chí có tính mục đích: đây là phẩm chất quan trọng của ý chí, giúp con
người điều chỉnh hành vi hướng vào mục đích tự giác.
- Ý chí có tính độc lập: đây là phẩm chất cho phép con người quyết định và
thực hiện hành động theo những quan điểm niềm tin của mình, không bị chi phối
bởi các tác động bên ngoài.
- Ý chí có tính quyết đoán: đây là khả năng đưa ra quyết định kịp thời, dứt
khoát trên cơ sở tính toán căn nhắc cẩn thận, chắc chắn.
- Ý chí có tính kiên trì: thể hiện ở sự khắc phục những khó khăn, trở ngại
khách quan và chủ quan để đạt được mục đích đã đề ra.
17
- Xem thêm -