Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Báo cáo thực tập tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện ninh sơn...

Tài liệu Báo cáo thực tập tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện ninh sơn, tỉnh ninh thuận

.DOC
37
803
90
Đang tải nội dung...

Mô tả:

2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở lý luận, thực tiễn từ việc nghiên cứu tình hình tội phạm TCTS trên địa bàn huyện Ninh Sơn từ năm 2014 đến năm 2018, đề tài thể hiện rõ tình hình tội phạm TCTS trên địa bàn huyện qua đó đưa ra được các biện pháp phòng ngừa tội phạm TCTS về mặt lập pháp cũng như về mặt thực tiễn áp dụng tại huyện Ninh Sơn nói riêng và các địa bàn khác nói chung. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiện cứu: là tình hình tội phạm TCTS nói riêng và tình hình tội phạm nói chung trên địa bàn huyện Ninh Sơn. Ngoài ra tác giả còn nguyên cứu về các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam, các công trình nghiên cứu khoa học cũng như các quan điểm lập pháp về tội phạm TCTS. Phạm vị nghiên cứu:  Về nội dung, đề tài được nghiên cứu và tiếp cận dưới góc độ của tội phạm học, luật hình sự.  Về không gian, đề tài được nghiên cứu và khảo sát trong phạm vi huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận.  Về thời gian, đề tài được nghiên cứu với số liệu thực tiễn của TAND huyện Ninh Sơn từ năm 2014 đến năm 2018. 4. Phương pháp nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu đề ra, tác giả đã sử dụng nhiều phương pháp chuyên ngành của nghiên cứu pháp luật và phương pháp nghiên cứu của tội phạm học. Trong đó có thể kể đến như: phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh và so sách pháp luật, phương pháp phân tích, phương pháp thống kê, phương pháp tổng hợp, … 5. Bố cục của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận và các danh mục thì nội dung của đề tài được chia làm ba chương: Chương 1: Khát quát chung về tội phạm trộm cắp tài sản Chương 2: Tình hình tội phạm trộm cắp trên địa bàn huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận từ năm 2014 đến năm 2018 Chương 3: Đánh giá và kiến nghị công tác phòng ngừa đối với tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT CHUNG Về TỘI PHạM TRỘM CẮP TÀI SẢN 1.1. Khái niệm tội phạm trộm cắp tài sản Căn cứ theo Điều 32 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quyền sở hữu là một quyền của công dân được ghi nhận và quyền sở hữu được pháp luật bảo hộ. Để bảo hộ, Nhà nước ta đã có nhiều biện pháp được sử dụng như là các biện pháp về dân sự. Nhưng biện pháp nghiêm khắc hơn cả là sử dụng pháp luật hình sự. Pháp luật nước ta đã hình sự hóa các hành vi nguy hại cho xã hội xâm phạm đến sở hữu, hơn thế nữa còn quy định về các biện pháp cưỡng chế hình sự đối với người thực hiện loại tội phạm này. Trong số các loại tội phạm xâm phạm sở hữu phải kể đến “Trộm cắp tài sản”. Một loại tội phạm có độ phổ biến cao ở khắp nơi trên cả nước hiện nay. Điểm qua lịch sử thì pháp luật hình sự nước ta đã có những ghi nhận về tội phạm này từ rất sớm. Ở thời phong kiến, tội phạm TCTS được ghi nhận trong nhiều quy phạm luật hình sự thời bấy giờ. Điển hình trong “Bộ luật Hồng Đức” một bộ luật được xem là đỉnh cao của thành tựu lập pháp Việt Nam thời phong kiến. Tội phạm TCTS là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cao trong các tội phạm xảy ra trong xã hội phong kiến. Sự đánh giá này được thể hiện tại quy định về hình phạt đối với người phạm tội TCTS và cách thức sắp xếp vị trí của các quy định của tội TCTS trong các quy định về tội phạm . Theo sự thay đổi của xã hội pháp luật hình sự cũng có nhiều thay đổi về quy định tội phạm TCTS và được ghi nhận trước khi BLHS năm 1985 ra đời. Cụ thể là Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân do Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua vào năm 1970. Trên tinh thần kế thừa hai pháp lệnh trên BLHS năm 1985 của nước ta cũng đã quy định loại tội phạm này tại hai chương: Chương IV – Các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa và Chương VI – Các tội xâm phạm sở hữu của công dân. Tại gia đoạn này, TCTS được quy định tại hai điều luật khác nhau căn cứ trên loại tài sản mà hành vi trộm cắp xâm phạm đến. Còn tại BLHS năm 1999, với sự thay đổi của các chính sách bình đẳng trong xã hội giữa các thành phần kinh tế và các hình thức sở hữu thì tội phậm xâm phạm sở hữu chỉ còn được quy định trong Chương XIV – Các tội xâm phạm sở hữu. Và trên cơ sở lấy BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 làm nền tảng, thì BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 cũng có một vài thay đổi. Thay đổi lớn nhất đó là các dấu hiệu định tội khi chiếm đoạt tài sản có giá trị dưới 2 triệu đồng. Cụ thể là thay thế dấu hiệu “Gây hậu quả nghiệm trọng” bằng dấu hiệu “Gây ảnh hướng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”; cụ thể hóa dấu hiệu “Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm” bằng cách liệt kê các tội phạm mang tính chiếm đoạt tài sản theo quy định của BLHS năm 2015. Ngoài ra còn thêm các dấu hiệu đó là tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với bị hại. Mặc dù qua quá trình hình thành có nhiều sự phát triển và hoàn thiện nhưng pháp luật hình sự nước ta chưa có một khái niệm cụ thể “Trộm cắp tài sản” là như thế nào?

Tài liệu liên quan