Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khoa học xã hội Văn học Các lý thuyết mô hình phát triển...

Tài liệu Các lý thuyết mô hình phát triển

.DOC
41
320
139

Mô tả:

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài. Trào lưu dân chủ xã hội có lịch sử hình thành từ hơn một thế kỷ nay và phát triển qua các giai đoạn với những thăng trầm, phức tạp. Sự ra đời của trào lưu này có quan hệ nhất định đối với chủ nghĩa Mác và giai cấp công nhân. Từ đầu những năm 80 đến giữa những năm 90 của thế kỷ XX, các đảng dân chủ xã hội ở Tây Âu lâm vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng cả về lý luận và thực tiễn.Đến giữa thập niên 90, tình hình lại thay đổi một cách căn bản. Các đảng dân chủ xã hội ở hầu hết các nước châu Âu lần lượt thắng cử, trở lại cầm quyền với những quan điểm lý luận và đường lối, chính sách mới. Hiện nay, trào lưu dân chủ xã hội có ảnh hưởng mạnh mẽ và các đảng dân chủ xã hội có một vai trò rất quan trọng trong đời sống chính trị ở châu Âu, đặc biệt là các nước Tây Âu. Trong số các đảng dân chủ xã hội cầm quyền hoặc liên minh cầm quyền, có Đảng Dân chủ xã hội Đức là đảng ra đời sớm nhất và trong hoạt động chính trị thực tiễn của mình, đảng đã đạt được những thành công nhất định. Đảng Dân chủ xã hội Đức là Đảng dân chủ xã hội lớn nhất, có đóng góp quan trọng nhất về nhều mặt cho Quốc tế xã hội Chủ nghĩa cả trên phương diện lí thuyết và thưc tiễn. Việc đảng áp dụng tư tưởng của lý luận “Con đường thứ Ba” vào việc hoạch định đường lối, chính sách phát triển đất nước đã thu được nhiều thành tựu khá nổi bật. Những thành công trong quá trình cầm quyền của Đảng Dân chủ xã hội Đức đã đặt ra cho chúng ta yêu cầu cấp thiết là cần phải nghiên cứu về mô hình tổ chức và hoạt động của Đảng Dân chủ xã hội Đức một cách toàn diện và có hệ thống hơn. Trong tình hình hiện nay, nước ta đang trong quá trình thực hiện đổi mới toàn diện đất nước, mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa, “sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” 1. Đảng và Nhà nước 1 Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội, 2001, tr. 42. 1 ta đã có nhiều quan hệ với nhiều Đảng dân chủ xã hội cầm quyền, trong đó có Đảng Dân chủ xã hội Đức. Đảng , Nhà nước và nhân dân ta luôn coi trong tăng cường đoàn kết thúc đẩy mối quan hê hữu nghị hơp tác Viêt Nam và Công hòa liên bang Đức, giữa Đảng cộng sản Viêt Nam và SPD. Chúng ta không có mong muốn nào hơn là phát triển quan hê hữu nghị, hơp tác bình đẳng cùng có lợi. Chúng ta luôn mong muốn thắt chặt quan hệ với Cộng hòa liên bang Đức, nó chứng tỏ bước đi đa dạng hóa đa phương hóa các mối quan hệ đối ngoại của Việt Nam là đúng đắn. Việc nghiên cứu về mô hình tổ chức của Đảng dân chủ xã hội Đức là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết vì nó liên quan chặt chẽ với việc nghiên cứu lý luận về thế giới hiện đại, về những thay đổi, xu thế của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Qua việc đánh giá tính ưu việt và những hạn chế trong thực tiễn cầm quyền của Đảng Dân chủ xã hội Đức, nhằm cung cấp các căn cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách đối ngoại và các chính sách phát triển của Đảng và nhà nước ta trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động hội nhập quốc tế hiện nay của nước ta. Từ những lí do mang tính cấp thiết như trên em đã chọn đề tài Mô hình tổ chức và hoạt động của Đảng Dân chủ xã hội Đức (SPD) làm đề tài tiểu luận kết thúc môn Các lý thuyết, mô hình phát triển và mô hình phát triển của Việt Nam hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài. Trào lưu dân chủ xã hội và Đảng Dân chủ xã hội Đức ở Việt Nam hiện nay đã được nghiên cứu một cách khá đầy đủ, nhất là sau khi chiến tranh lạnh kết thúc. Một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như: “ Về trào lưu xã hội dân chủ hiện đại” của Trần Nhâm…. Ngoài ra còn có một số bài viết về trào lưu dân chủ xã hội được đăng trên các tạp chí lí luận chuyên ngành như: Đảng Dân chủ xã hội Đức (SPD) từ sau khi thống nhất nước Đức đến nay của tác giả An Mạnh Toàn đăng trên tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 3, tr.17 – 22. Đặc biệt, phải kể 2 đến cuốn Đảng Dân chủ xã hội Đức – Lịch sử, lí luận và kinh nghiệm thực tiễn, cuốn sách là kết quả của một dự án của một nhóm các cán bộ nghiên cứu của Học viện Chính trị hành chính quốc gia Hồ Chí Minh thực hiện từ sự hỗ trợ của Viện Friedrich Ebert - CHLB Đức. Nhóm nghiên cứu đã tiếp cận và phát triển một số vấn đề lịch sử lí luận và kinh nghiệm thực tiễn của phong trào dân chủ xã hội Đức. Tuy nhiên việc nghiên cứu một cách có hệ thống, cụ thể về mô hình tổ chức và hoạt động của Đảng Dân chủ xã hội Đức thì chưa có ai đề cập đến. Chính vì vậy trong tiểu luận này sẽ đi sâu và giải quyết các vấn đề đã đặt ra. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài. Trên cơ sở quan điểm mác xít về chủ nghĩa xã hội dân chủ, tiểu luận đi sâu và làm rõ lịch sử hình thành và phát triển của Đảng Dân chủ xã hội Đức và tổ chức hoạt động lãnh đạo, một số chính sách lớn trong hoạt động cầm quyền của Đảng Dân chủ xã hội Đức. Từ đó đưa ra một số nhận xét về những giá trị thực tiễn mà Đảng đã đạt được trong thời kỳ cầm quyền của mình và những hạn chế, những khó khăn, thách thức trong thời kỳ toàn cầu hóa mà Đảng Dân chủ xã hội Đức phải đối mặt. Làm rõ mô hình tổ chức hoạt động lãnh đạo của Đảng và sự vận dụng lý luận “Con đường thứ Ba” của Đảng Dân chủ xã hội Đức vào hoạt động cầm quyền của mình. Phân tích, đánh giá một số chính sách lớn của Đảng Dân chủ xã hội Đức. Đưa ra những nhận xét về mô hình tổ chức và hoạt động của Đảng. 4. Phạm vi nghiên cứu. Do trào lưu dân chủ xã hội đang phát triển và phổ biến ở nhiều nước phát triển Tây Âu với những hình thức khác nhau. Trong khuôn khổ của một tiểu luận, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu trào lưu dân chủ xã hội ở nước Đức – điển hình là Đảng Dân chủ xã hội Đức. 3 5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu. Trong quá trình giải quyết các nhiệm vụ đã đề ra, tiểu luận quán triệt và tuân thủ hệ quan điểm, nguyên lí phương pháp luận cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và những quan điểm lí luận của Đảng cộng sản Việt Nam. Kết hợp phương pháp phân tích - tổng hợp, đánh giá thông tin; phương pháp lôgic và phương pháp lịch sử và một số phương pháp: phương pháp đối chiếu, phương pháp so sánh… Kế thừa có chọn lọc các công trình nghiên cứu khoa học có liên quan đến nội dung nghiên cứu trong đề tài. 6. Ý nghĩa của đề tài. Là đề tài nghiên cứu về mô hình tổ chức và hoạt động của một Đảng chính trị trên thế giới, nên tiểu luận có thể sử dụng làm tài liệu cho việc nghiên cứu những nội dung có liên quan tới xu thế chính trị thế giới, về tư tưởng chính trị thế giới đương đại. 7. Kết cấu của đề tài. Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận được chia thành 3 chương và 8 tiết. NỘI DUNG 4 CHƯƠNG 1:LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA ĐẢNG DÂN CHỦ XÃ HỘI ĐỨC. 1.1. Khái quát về Đảng Dân chủ xã hội ở châu Âu. Lịch sử trào lưu dân chủ xã hội gắn liền với ra đời của giai cấp công nhân với chủ nghĩa tư bản ở Châu Âu. Tuy nhiên, không phải trào lưu dân chủ xã hội ra đời đồng thời với chủ nghĩa tư bản và giai cấp công nhân. Trào lưu dân chủ xã hội ra đời vào khoảng giữa thế kỷ XIX – giai đoạn mà giai cấp công nhân đã đạt đến trình độ độc lập về tổ chức và nhận thức về địa vị xã hội của mình. Tổ chức dân chủ xã hội đầu tiên xuất hiện trong phong trào cách mạng Đức vào những năm 1848 – 1849, một quốc gia Châu Âu sớm có phong trào công nhân, mặt khác là một dân tộc giàu tiềm năng về lí luận. Có thể coi hai tổ chức tiền thân của trào lưu dân chủ xã hội là Tổng hội Công nhân Đức (ADAV), thành lập năm 1863 do Ferdinad Lassalle (1825 – 1864) tổ chức và lãnh đạo và Đảng Công nhân dân chủ xã hội Đức( SDAP) ra đời vào năm 1869 (sau khi có bản Tuyên ngôn của Đảng cộng sản 21 năm). Đảng này do August Bebel (1840– 1913 ), một người mácxít tổ chức và lãnh đạo.Tháng 9 – 1875 tại Gotha (Đức), đã diễn ra Đại hội hợp nhất ADAV và SDAP thành Đảng Công nhân xã hội chủ nghĩa Đức (SPAD). Các nhà nước dân chủ được thiết lập theo tinh thần của dân chủ xã hội ở nhiều nước châu Âu đã thể hiện một trình độ, mức sống chưa từng có trong lịch sử và trên toàn cầu về việc thực hiện những mục tiêu chính trị có tầm quan trọng như là sự tôn trọng quyền con người, bảo đảm dân chủ, an toàn xã hội, mức sống cao và mọi người đều được học hành. Các Đảng dân chủ xã hội ra đời trong nửa cuối thế kỷ XIX, xuất phát từ sự phản kháng chống lại ách bóc lột và áp bức các giai cấp lao động trong hầu hết các nước ở châu Âu. Đến nay, cương lĩnh với những tư tưởng chính trị, đường lối cải cách của các đảng dân chủ xã hội đã trở thành đường lối chính trị chung ở hầu khắp các nước thuộc châu Âu. 5 Trào lưu dân chủ xã hội là một trào lưu tư tưởng và chính trị trong phong trào công nhân, lúc đầu chịu ảnh hưởng tích cực của chủ nghĩa Mác, về sau xa dần mục tiêu đấu tranh phong trào công nhân, thực hiện những thỏa hiệp chính trị với giai cấp tư sản. Lịch sử tồn tại của nó là một quá trình đầy mâu thuẫn và thăng trầm, gắn liền với những cuộc đấu tranh trong nội bộ từng đảng cũng như trong trào lưu nói chung, giữa hai trào lưu dân chủ xã hội và cộng sản trong phong trào công nhân quốc tế. Được hình thành, phát triển trong quá trình phân hóa của phong trào công nhân quốc tế, trào lưu dân chủ xã hội đứng trên lập trường của chủ nghĩa cải lương. Tập hợp trong trào lưu này bao gồm các đảng dân chủ xã hội có tên gọi khác nhau theo từng nước.Hoạt động tại các nước tư bản chủ nghĩa, các tổ chức đảng này là đại diện chính trị trong một bộ phận đáng kể trong giai cấp công nhân và là một lực lượng có vai trò to lớn trong hệ thực hiệnống chính trị các nước tư bản chủ nghĩa. Những nét tiêu biểu của trào lưu dân chủ xã hội là sự thừa nhận các phương thức tác động xã hội thuần túy hòa bình và dần dần, xu hướng thay thế đấu tranh giai cấp bằng hợp tác giai cấp, quan niệm về tính chất “siêu giai cấp” của nhà nước và của dân chủ, quan niệm về chủ nghĩa xã hội như là một phạm trù đạo đức. 1.2. Hoàn cảnh ra đời của Đảng Dân chủ xã hội Đức. Đảng dân chủ xã hội Đức là chính đảng công nhân đầu tiên được thành lập trên thế giới. Tên gọi SPD có từ năm 1891 nhưng bản thân Đảng có cội nguồn lịch sử từ năm 1863, khi F. Lassalle sang lập ra Tổng hội công nhân Đức (ADAV). Đây là đảng có tính chất tiêu biểu nhất và thể hiện được sắc nét nhất những đặc điểm cơ bản trong các đảng dân chủ xã hội ở Tây Âu. SPD là đảng lớn, có truyền thống lý luận và nhiều kinh nghiệm thực tiễn phong phú, có nhiều đóng góp quan trọng đối với trào lưu dân chủ xã hội thế giới. Trải qua hơn một thế kỷ, Đảng dân chủ xã hội Đức từ một đảng bị coi thường, bị bức hại trở thành đảng được thừa nhận và tham gia chế định thể chế, 6 tư một đảng đối lập trở thành chính đảng luân phiên ở CHLB Đức trong nhiều thập niên qua. Đồng thời, đó cũng là quá trình chuyển đổi của đảng từ đảng cách mạng sang đảng cải lương, từ đảng của giai cấp công nhân sang đảng nhân dân. Đảng dân chủ xã hội Đức ra đời trong hoàn cảnh: 1.2.1. Các quan hệ chính trị và xã hội ở Đức và châu Âu giữa thế kỷ XIX. Vào giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản châu Âu đã có những bước phát triển quan trọng: cuộc cách mạng công nghiệp đã hoàn thành căn bản ở Anh. Chủ nghĩa tư bản đã chuyển từ giai đoạn cách mạng sang giai đoạn độc quyền. Sự bóc lột tàn nhẫn của nó đối với giai cấp công nhân ở hàng loạt các quốc gia châu Âu đã thúc đẩy phong trào công nhân với tính cách là một phong trào độc lập ra đời. Mâu thuẫn trong lòng chủ nghĩa tư bản đã gay gắt, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản đã phát triển. Tuy nhiên, lúc đó chủ nghĩa tư bản vẫn đang trên đà phát triển, những mâu thuẫn vốn có của nó tuy đã bộc lộ rõ và ngày càng sâu sắc nhưng vẫn chưa phát triển đến mức cao nhất. Giai cấp thống trị bảo thủ đã tìm mọi cách ngăn chặn chủ nghĩa tự do trong chính trị, nhưng chủ nghĩa xã hội tự do đã phát huy sức mạnh của nó trong kinh tế. Giữa thế kỷ XIX, phong trào vô sản đã có xu hướng tổ chức nhau lại và đã có sự ra đời của các tổ chức cách mạng của giai cấp vô sản. Giai cấp vô sản đã bước lên vũ đài chính trị với tư cách là một lực lượng xã hội độc lập, đấu tranh giải phóng mình đồng thời giải phóng toàn thể loài người. Cuộc cách mạng công nghiệp làm cho lực lượng sản xuất phát trển mạnh mẽ làm cho hai giai cấp mới nổi bật trên vũ đài chính trị: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản hiện đại. Tình trạng tương phản giữa hai giai cấp ấy bộc lộ rõ ràng hơn bất cứ thời kỳ nào trước đó. Đằng sau bộ mặt phồn vinh, xa hoa lộng lẫy của chủ nghĩa tư bản là cuộc sống cực khổ của những người lao động làm thuê. Mâu thuẫn giữa tư sản 7 và quý tộc phong kiến chưa được giải quyết triệt để thì mâu thuẫn giữa tư sản và vô sản đã trở nên gay gắt. Những cuộc đấu tranh quyết liệt của công nhân ở nhiều nước trong những năm 30 và 40 của thế kỷ XIX đã chứng thực tình trạng đó. Ở Đức, tình trạng đối kháng giai cấp cũng phát triển làm bùng nổ ra cuộc khởi nghĩa của những người thợ dệt vùng Silesia vào năm 1844. Cuộc đấu tranh nói trên chứng tỏ rằng, lúc này vai trò của giai cấp vô sản đã nổi đảngần trên vũ đài chính trị với tư cách là một lực lượng xã hội độc lập, đồng thời cũng báo hiệu thời kỳ giai cấp vô sản trực tiếp đánh vào kẻ thù của mình là giai cấp tư sản. Tuy nhiên ở giai đoạn này, giai cấp vô sản cũng chỉ mới bắt đầu bước vào con đường đấu tranh tự giác chống chủ nghĩa tư bản. Vì thế, trong phong trào công nhân ở nhiều nước kể cả trong những người lao động tiên tiến, còn nhiều ảnh hưởng của các học thuyết xã hội chủ nghĩa không tưởng tiểu tư sản. 1.2.2. Các lý thuyết giải quyết vấn đề xã hội có bước phát triển mới và nảy sinh các quan điểm rất khác nhau. Giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa xã hội không tưởng phát triển đến đỉnh cao. Nó đã phê phán ung nhọt của chủ nghĩa tư bản, phỏng đoán về xã hội tương lai và khẳng định cần thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chế độ xã hội chủ nghĩa.Đến những năm 40 của thế kỷ XIX, chủ nghĩa xã hội không tưởng đã bất lực hoàn toàn vì nó không đáp ứng được yêu cầu của lịch sử không giải thích đúng bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản; chưa phát hiện đúng quy luật phát triển của xã hội; chưa thấy rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản và chủ trương xây dựng xã hội mới chỉ bằng thuyết phục, giáo dục, nêu gương chứ không phải bằng con đường cách mạng. Trong tình hình đó, chủ nghĩa Mác ra đời. Thời kỳ đầu, C. Mác và Ph. Ăngghen tham gia nhóm Hêghen trẻ. Lúc đó, cả hai ông đều đứng trên lập trường của chủ nghĩa dân chủ cách mạng và thế giới quan còn chịu ảnh hưởng của triết học cổ điển Đức. 8 Về sau, cùng với quá trình nghiên cứu lý luận và thâm nhập đời sống xã hội, trực tiếp hoạt động trong phong trào công nhân quốc tế, hai ông đã chuyển biến từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật, từ chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa cộng sàn khoa học. Năm 1848, khi Tuyên ngôn của Đảng cộng sản ra đời đã đánh dấu cái mốc ra đời của chủ nghĩa Mác. Tuyên ngôn là một trong các tác phẩm chủ yếu của chủ nghĩa xã hội khoa hoc, trung tâm kiến giải sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản và vai trò của Đảng cộng sản, là tác phẩm vừa có tính chất lý luận, vừa có tính chất cương lĩnh của Đảng cộng sản. Tuyên ngôn ra đời cũng đánh dấu cái mốc chuyển từ thời kỳ đấu tranh tự phát sang thời kỳ đấu tranh tự giác của giai cấp vô sản. Tuyên ngôn thể hiện tính chiến đấu của học thuyết Mác, là lời tuyên bố của sự cáo chung của các học thuyết trước đó. Tuy nhiên, trong giai đoạn này cũng đã xuất hiện quan điểm về chủ nghĩa cải lương trong phong trào công nhân, trong đó có quan điểm của Stephan Born (1824 -1898), một người thợ in đã sang lập ra tổ chức “Tình anh em của những người công nhân”. Thông qua tổ chức này, họ muốn trở thành một lực lượng chính trị và đạo đức, tiến hành những cải cách xã hội trong một thực thể nhà nước dân chủ. Tháng 10 – 1848, S. Born và Wilhelm Weitling (1808 – 1871) đã khẳng định chỉ có nền cộng hòa dân chủ xã hội mới giải quyết được vấn đề xã hội. 1.3. Quá trình phát triển của Đảng Dân chủ xã hội Đức. 1.3.1. Giai đoạn thứ nhất từ năm 1836 đến chiến tranh thế giới thứ 1. Ở giai đoạn đầu, phong trào dân chủ xã hội ở Đức gắn liền với tên tuổi của F. Lassalle và ADAV. F. Lassalle đã thành công trong việc thức tỉnh phong trào lao động ở Đức sau 15 năm, kể từ sau cuộc thất bại của cuộc cách mạng 1848. F. Lassalle đã rút ra được những kinh nghiệm quý từ phong trào thống nhất Italia, từ cuộc xung đột hiến pháp nước Phổ. F. Lassalle cho rằng, tầng lớp trung lưu đã phản bội những ý tưởng của cuộc cách mạng 1848. Những công nhân mà ông muốn lôi kéo đã được tổ chức lại thành những Hiệp hội công nhân 9 và Hiệp hội giáo dục công dân, do những nhà dân chủ thuộc tầng lớp trung lưu sáng lập ra có nhu cầu khao khát thống nhất lại. Điều đó đã dẫn tới sự liên minh giữa các tổ chức. Trong Bức thư ngỏ ngày 1– 3– 1863, F. Lassalle đã trình bày quan điểm của mình trước cuộc họp của Uỷ ban Leipzig về làm thế nào để cải thiện địa vị xã hội và chính trị cho người công nhân. Lời kêu gọi của ông về thành lập một đảng công nhân độc lập với ảnh hưởng của tầng lớp trung lưu đã được đáp lại. Ngày 23– 6– 1863 , đại biểu từ 11 địa phương về họp tại Leipzig đã thành lập ADAV và bầu F. Lassale làm chủ tịch. Số lượng thành viên của tổ chức tính đến cuối năm 1864 mới có 4.600 người. F. Lassale lãnh đạo ADAV sau 15 tháng thì ông chết (31– 8– 1864) trong một cuộc đọ súng. Con đường mà F. Lassale chỉ ra cho những công nhân là tự tổ chức thành một đảng công nhân độc lập, trong đó những khẩu hiệu chính trị về quyền bầu cử bình đẳng, đầy đủ, những hiệp hội của người sản xuất, sự bóc lột và đấu tranh giai cấp luôn chiếm vị trí trọng tâm. Với lý thuyết “quy luật sắt về tiền công”, F. Lassale đã thành công trong việc đánh bại đối thủ chính Schulze Delitzsch (1808 – 1883) trong cuộc chiến giành lấy sự ủng hộ của những người công nhân. Ông cho rằng, chỉ khi nào người công nhân xây dựng được những nghiệp đoàn sản xuất của riêng mình thì tại đó việc chấm dứt sự chênh lệch giữa tiền công và lợi nhuận, việc người công nhân chấp nhận đủ tiền thưởng cho công sức bỏ ra mới trở thành giải pháp có thể khắc phục tình trạng khó khăn. Tính chất hai mặt tiêu biểu cho khuynh hướng dân chủ xã hội thế kỷ XIX, giữa hệ tư tưởng cấp tiến và thực tế theo khuynh hướng cải cách là đặc điểm trong tổ chức của F. Lassale. Giai đoạn hình thành phong trào lao động dân chủ cũng cần phải kể đến Quốc tế I. C. Mác và Ph. Ăngghen đã phê phán kế hoạch đấu tranh phiến diện của F. Lassale là chỉ nhằm vào tầng lớp tư sản tự do. Quan điểm này của C. Mác và Ph. Ăngghen đã được thể hiện rõ từ bản Tuyên ngôn của Đảng cộng sản viết năm 1848. Đó là giai cấp công nhân phải chống lại khuynh hướng tả khuynh 10 trong việc liên minh với các lực lượng dân chủ thuộc tầng lớp trung lưu, chỉ khi nào người công nhân giành được những điều kiện kinh tế và chính trị thì tại đó mới là thời gian thích hợp cho giai cấp vô sản hành động độc lập. Sau khi F. Lassale chết, một tổ chức lao động độc lập mới được thành lập. C. Mác và Ph. Ăngghen đến nước Anh vào tháng 6– 1849. C. Mác hoạt động ở đây cho đến khi qua đời. Quan điểm của C. Mác về sự đoàn kết quốc tế đã mở ra con đường cho những người công nhân Đức con dường thoát khỏi sự cô lập xã hội và chính trị. Đó là con đường họ đã đi theo. Một đảng lao động mới ở Đức được thành lập và đã tham gia tổ chức công nhân quốc tế. Ở Đức, giữa hai đảng SDAP và ADAV đã có sự bất công gay gắt, đôi khi đã dẫn tới bạo lực, nhưng từ năm 1873 những bất đồng ấy bắt đầu dần dần lắng xuống. Chính sách đàn áp của Chính phủ đưa ra từ năm 1871 đã gây ảnh hưởng đối với cả hai đảng và đưa họ vào tới chỗ hòa giải và xây dựng sự hiểu biết lẫn nhau. Cuối cùng, cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1873 đã buộc cả hai đảng phải quan tâm trực tiếp và kịp thời đối phó với những vấn đề trước mắt của giai cấp công nhân như: bãi công, nhà ở và các vấn đề liên đoàn lao động. Trên thực tế, chính hàng ngũ công nhân đã tác động dẫn hai đảng đến chỗ hợp nhất. Hội nghị hợp nhất hai đảng được tổ chức ở Gotha (Đức), từ 23 đến 27– 5– 1875 đã thành công. Việc ứng dụng thành công phổ thông đầu phiếu của SAPD đã đưa ra một phương thức đấu tranh mới và hoạt động. Điều đó cũng làm tăng thêm lực lượng quần chúng của SAPD. Đạo luật chống những người xã hội chủ nghĩa có kết quả hai mặt tự mâu thuẫn với nhau; về nhận thức, nó đã đưa ra thuyết cấp tiến hóa, nhưng về phương pháp nó đã dẫn đảng tới hoạt động thực tiễn để đạt được cải cách thông qua quốc hội. Sau khi đạo luật chống những người xã hội chủ nghĩa bị hủy bỏ vào năm 1890, tại cuộc tổng tuyển cử ngày 20– 2– 1890 số phiếu của đảng đạt 19,7%, trở thành đảng nhiều phiếu nhất ở Đức. Những biện pháp để SPD có thể phát huy ảnh hưởng của mình đối với quá trình xây dựng pháp luật 11 là chấp nhận những sách lược thỏa hiệp và coi trọng hoạt động ở cấp độ địa phương. Năm 1891, tại Hội nghị Erfurt đã khẳng định tên gọi của đảng là Đảng dân chủ xã hội Đức(SPD) và vạch ra cương lĩnh mới- Cương lĩnh Erfurt do E. Bernstein và K. Kautsky trình bày và SPD ngày càng trở thành một bộ phận quan trọng trong cơ cấu chính trị của đế chế Đức. Ngày 25– 7– 1914 Uỷ ban chấp hành SPD đã cảnh báo khi có những dấu hiệu của của cuộc chiến tranh thế giới. Ở Đức, sự chia rẽ trong SPD đã đưa đến sự hình thành SPD độc lập (USPD) và SPD đa số (MSPD), dẫn đến sự mất vị trí độc tôn với tư cách là đại biểu chính trị của phong trào lao động Đức. Song về sau, liên hiệp đảng mới là một bước quan trọng trong tiến trình của đảng. Từ một đảng độc lập gần như bị loại thành một đảng có tiềm năng cầm quyền mặc dù sự phát triển của đảng và việc thực hiện chính sách một cách độc lập và chủ động vẫn còn những khó khăn, hạn chế. 1.3.2. Giai đoạn thứ hai từ sau chiến tranh thế giới thứ 1 đến hết chiến tranh thế giới thứ 2. Giai đoạn này gắn với cuộc khủng hoảng năm 1919 – 1933 của chủ nghĩa tư bản và sự ra đời của chủ nghĩa phát xít. Cuộc cách mạng tháng Mười một bùng nổ năm 1918 tại Đức là một sự kiện quan trọng. Thực ra, cuộc cách mạng tháng Mười một mang tính tự phát nhiều hơn là được chuẩn bị một cách có tổ chức. Nó thiếu sự lãnh đạo của MSPD, USPD và liên minh Spartacus, hình thái nhà nước chuyên chế đã sụp đổ bởi sự nổi dậy của quần chúng. Ngày 10– 11– 1918, chính phủ cách mạng lần đầu tiên họp tại phủ Thủ tướng. Song cũng chính tại thời điểm đó, sự liên minh giữa hai đảng phải MSPD và USPD thực chất đã tan vỡ. Đêm ngày 29 rạng sáng 30– 12– 1919, các đại diện của USPD trong hội đồng dân ủy, sau khi tranh cãi về việc sử dụng quân đội chống lại những lính thủy nổi loạn, đã phải rời bỏ vị trí của họ trong nội các. Hai đại diện của MSPD đã thay đổi ý chí trong Hội đồng dân ủy, đại diện của USPD rút ra khỏi chính phủ. Nhà nước mới trên nền đảng cũ xuất hiện. Quốc hội mới bầu ngày 19/1/1919 gồm 165 12 đại biểu, MSPD chiếm đa số. Trong khi đó USPD chỉ được 22 ghế. Quốc hội đã bầu F. Ebert làm Tổng thống đế chế Đức. Hai ngày sau, Quốc hội bổ nhiệm P.Scheidemann làm Thủ tướng. Trong Chính phủ mới có 6 bộ trưởng là người MSPD, chiếm một nửa chính phủ mới. MSPD đã đưa ra 3 điều kiện làm nền tảng cho chính sách của chính phủ đó là: thừa nhận hình thái nhà nước cộng hòa; trong chính sách tài chính đánh mạnh vào tài sản; thực hiện một chính sách xã hội sâu rộng và xã hội hóa những ngành công nghiệp cần thiết. Năm 1922, USPD đã quay lại với Đảng mẹ. Năm 1923, số thành viên của SPD đạt tới con số cao nhất tính đến lúc đó là 1.262.072 người. SPD khó nhận được sự ủng hộ của những người lao động nông nghiệp. SPD chỉ thâm nhập được vào một bộ phận các tầng lớp những người lao động văn phòng, công nhân viên chức có vị trí thấp, nông dân là các chủ trang trại nhỏ, một số thợ thủ công và người bán hàng lẻ. Sau đó vì nhiều lý do mà quy mô của SPD đã thu hẹp lại đáng kể. Ngày 30 – 1– 1933, Adolf Hitler (1889 – 1945) lên nắm quyền Thủ tướng, Chủ nghĩa phát xít lên nắm chính quyền đã thực hiện một nền độc tài trên toàn nước Đức. SPD rơi vào một tình thế rất khó khăn, ngày càng bị sức ép của nhiều phía và phải chấp nhận những đạo luật phục vụ lợi ích phục vụ lợi ích của bọn đại địa chủ. Tại Đại hội ở Leipzig (Đức) năm 1931, đa số đại biểu đã tán thành thực hiện sách lược ôn hòa. Cần tập trung mọi nỗ lực chống lại chủ nghĩa phát xít. SPD quyết định ủng hộ Paul von Hindenburg (1847 – 1934) trong cuộc bầu cử Tổng thống. Năm 1945, sau sự sụp đổ của Đức Quốc xã, SPD trở thành niềm hi vọng của tất cả những ai muốn phấn đấu cho một nền dân chủ xã hội, xã hội chủ nghĩa. Những người dân chủ xã hội từng đứng vững 12 năm liền trong thời kỳ chế độ độc tài Hitler thống trị đã liên kết với những đảng viên dân chủ xã hội tị nạn chính trị ở nước ngoài trở về. Vượt qua những đối lập cũ về tổ chức và lý luận, ngọn cờ của chủ nghĩa dân chủ xã hội đã tập hợp được lực lượng đông đảo thuộc các tầng lớp khác nhau nhằm phấn đấu cho một tương lai tốt đẹp hơn. Đối với SPD, năm 1945 không có nghĩa là một sự sụp đổ mà là một sự bắt đầu mới. 13 1.3.3. Giai đoạn thứ ba từ sau chiến tranh thế giới thứ 2 đến những năm 70 của thế kỉ XX. Đây là thời kỳ Đảng xây dựng lại về tổ chức và thực hiện quyền lãnh đạo của mình. Đầu tháng 10 – 1945, hệ thống tổ chức của SPD đã được thiết lập lại trên phần lớn lãnh thổ Đức. Đội ngũ cán bộ, đảng viên của đảng ở các tổ chức này chủ yếu là những người dân chủ xã hội đã trung thành với đảng trong suốt 12 năm qua. Đến ngày 30 – 9 – 1946 gần một rưỡi sau khi Đức Quốc xã sụp đổ, SPD đã có 633.244 đảng viên ở vùng phía Tây và ở thành phố Berlin. Cuối năm đó, SPD kết nạp thêm được 70.000 đảng viên mới. Mạng lưới tổ chức của đảng vượt xa thời cộng hòa Weimar. Cuối năm 1946, tại vùng phía tây có trên 8.000 chi bộ, nhiều hơn năm 1931 gần 3.000 chi bộ. Uỷ ban Trung ương SPD được thành lập tại Berlin vào giữa tháng 6 – 1945, do Otto Grotewohl (1894– 1964) làm chủ tịch. Ông đã ra tuyên bố kêu gọi tiến hành đấu tranh nhằm xây dựng lại SPD trên cơ sở thống nhất giai cấp công nhân về tổ chức. Ngày 9 -5- 1946, đại biểu ba vùng phía Tây và tây Berlin tiến hành đại hội tại Hanover. K. Schumacher được bầu làm chủ tịch đảng. Từ đó, SPD là một đảng thống nhất của đảng xã hội chủ nghĩa. Tại Đại hội đảng lần thứ nhất sau chiến tranh, SPD đã cụ thể hóa các quan điểm của mình. Trong đó SPD bác bỏ: chủ nghĩa tự do theo hình thái ban đầu của nó; chủ nghĩa tư bản độc quyền với thiên hướng đế quốc chủ nghĩa; nhà nước đảng cấp; thứ chủ nghĩa tư bản nhà nước tập trung dưới hình thái một nền kinh tế không thị trường; chủ nghĩa tự do mới đang hình thành. SPD cho rằng nền kinh tế điều tiết và xã hội hóa là sự thực hiện tư tưởng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực kinh tế. Về đối ngoại, SPD chủ trương tái thống nhât nước Đức trong các đường biên giới tồn tại vào năm 1937 và hướng về phương Tây. Sau khi “ Bức tường Berlin” được dựng lên vào ngày 13– 8– 1961, tình hình có sự thay đổi căn bản. Sự kiện này đánh dấu một giai đoạn mới của lịch sử nước Đức sau chiến tranh. Trong cuộc bầu cử Quốc hội liên bang ngày 17– 9– 1961, SPD tăng thêm 4,4% phiếu bầu so với năm 1957,đạt tỷ lệ 36,2%. Song SPD vẫn là 14 đảng đối lập, đề nghị của SPD về việc thành lập một chính phủ có sự tham gia của tất cả các chính đảng không được hưởng ứng. Khi liên minh cầm quyền CDU – FDP sụp đổ tháng 11 – 1962, điều kiện để ra đời một đại liên minh xuất hiện, SPD bắt đầu có cơ hội đặt chân vào Chính phủ. Đến cuộc bầu cử Quốc hội liên bang ngày 28 – 9 – 1969, SPD được 42,7% phiếu bầu, SPD đã có khả năng thành lập nội các cùng với FDP với 5,8% phiếu bầu. Tuy nhiên, đến cuộc bầu cử Quốc hội ngày 19 – 11 – 1972, SPD mới giành được chiến thắng với 45,8% phiếu bầu, bỏ xa các đối thủ CDU – CSU là 1,1% và FDP là 8,4%. Đây là thắng lợi lớn trong lịch sử bầu cử của SPD. 1.3.4. Giai đoạn thứ tư, từ đầu những năm 70 của thế kỷ XX đến hết thế kỷ XX. Từ kinh nghiệm thực tiễn hoat động đòi hỏi SPD phải suy nghĩ sâu sắc hơn về những mục tiêu và con đường mà chính sách của đảng vạch ra. Sau thắng lợi vang dội trong cuộc bầu cử tháng 11 – 1972, SPD lại liên tiếp bị thất bại trong các cuộc bầu cử Quốc hội bang. Cuộc bầu cử Quốc hội liên bang ngày 3 – 10 – 1976, SPD cũng chiếm được đa số nhưng rất khiêm tốn. Thành tích của chính phủ liên minh SPD – FDP gây ấn tượng lớn: thực hiện thành công chính sách hòa bình và hiểu biết lẫn nhau, nền kinh tế phát triển khá ổn định, xây dựng tốt mạng lưới an sinh xã hội, soạn thảo luật bảo hộ lao động mới cho thanh niên…Nhìn chung Chính phủ liên minh SPD – FDP (1976 – 1980) đã tỏ rõ sự vững vàng, ổn định của nó. Họ đã thành công trong việc duy trì mức sống của nhân dân, loại trừ được những mâu thuẫn xã hội nặng nề ở trong nước và thực hiện một chính sách đối ngoại khôn ngoan, có sức thuyết phục. Nhiệm vụ chủ yếu của SPD trong nhiệm kỳ thứ ba của liên minh cầm quyền SPD – FDP là: kết nạp đảng viên mới, thu hút thêm những người ủng hộ đảng, động viên đảng viên và cử tri ủng hộ đảng. Trong thời gian này, SPD cũng giữ một vị trí nổi bật trong SI. Khác với phần lớn các đảng dân chủ xã hội ở châu Âu, SPD liên tục cầm quyền trong thời kỳ này. Tuy nhiên, sự bất bình về những thỏa ước trong liên minh SPD – FDP ngày càng tăng, các ý kiến của SPD phân hóa hơn 15 nhiều so với hai nhiệm kỳ trước. Sự tan ra của liên minh chỉ còn là vấn đề thời gian. Ngày 17 – 9 – 1982 sự liên minh giữa SPD – FDP sụp đổ sau khi FDP công bố một tài liệu dài chống lại chính sách của Chính phủ, chấm dứt sự cầm quyền của nó trong Chính phủ liên bang. Tự đánh giá lại mình, SPD thừa nhận rằng những người dân chủ xã hội ở cấp bang và địa phương đã không giữ vững được uy tín của mình và của đảng đã từng có. Điều đó xảy ra không chỉ tư nguyên hân bên ngoài, mà còn có nguyên nhân từ trong đảng: tranh cãi nội bộ; đề bạt, bổ nhiệm cán bộ không đúng; những quyết định sai lầm và sự yếu kém của những đảng viên dân chủ xã hội giữ các cương vị chóp bu trong Chính phủ bang và các tòa thị chính. Mặt khác, còn do các giải pháp chính sách không được ủng hộ của một bộ phận lớn dân cư, sự chênh lệch trong thu nhập và các nhóm dân cư trong xã hội Đức ngày càng rõ nét. Điều đó làm cho công bằng xã hội vẫn chỉ là một ước mơ xa vời. Từ một hệ thống đa đảng ổn định, tồn tại hàng chục năm liền ( CDU, SPD, FDP), giờ đây xuất hiện thêm đảng thứ tư – Đảng Xanh. Trong thời gian ngắn, đảng này đã có đại biểu trong Hội đồng nhân dân địa phương, đại biểu trong Quốc hội của trên 50% số bang trong toàn liên bang. Đến tháng 3 – 1983, Đảng Xanh đã có chân trong Quốc hội liên bang. Năm 1989, SPD đã xây dựng được cương lĩnh hoạt động riêng của mình. Đến tháng 9 – 1998 tại cuộc bầu cử Quốc hội liên bang, SPD đã thắng cử và cùng với Đảng Xanh đứng ra thành lập chính phủ liên minh cầm quyền. CHƯƠNG 2:TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG VÀ MỘT SỐ CHÍNH SÁCH LỚN CỦA ĐẢNG DÂN CHỦ XÃ HỘI ĐỨC. 2.1. Cương lĩnh hoạt động của Đảng Dân chủ xã hội Đức. 16 2.1.1. Hoàn cảnh ra đời cương lĩnh Berlin. * Tình hình thế giới. Tình hình thực tế về chính trị, kinh tế gắn liền với xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra ở nhiều nước khác do các đảng dân chủ xã hội cầm quyền đòi hỏi phải có những thay đổi cho phù hợp đã cho thấy: các chính sách dân chủ xã hội truyền thống ắt hẳn là không được tiếp tục theo đuổi nữa, bởi chúng không thể thực hiện thành công trong môi trường văn hóa và kinh tế xã hội của “chủ nghĩa tư bản tiến bộ”. Nó đặt ra cho các đảng dân chủ xã hội phải tìm kiếm những khái niệm và phương thức mới để xác định và phát triển chính trị dân chủ xã hội trong một môi trường đang thay đổi bao gồm sự định rõ vấn đề toàn cầu hóa, hội nhập khu vực và thế giới và hậu công nghiệp hóa. Ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu lâm vào tình trạng trì trệ và tích tụ nhân tố khủng hoảng ngày càng tăng. Những khuyết tật của mô hình xã hội kiểu cũ từng bước được nhiều nước xã hội chủ nghĩa nhận thức ra. Từ những năm 80 của thế kỷ XX, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, Trung Quốc, Việt Nam lần lượt tiến hành cải tổ, cải cách, đổi mới. Song, do nhiều nguyên nhân, đặc biệt là do đường lối cải tổ phạm sai lầm, nhiều nước đã không thành công trong đổi mới. Phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa lâm vào tình trạng thoái trào, điều đó đặt ra nhiều vấn đề lý luận quan trọng về con đường phát triển của chủ nghĩa xã hội và tác động sâu sắc đến các đảng dân chủ xã hội cả về tư tưởng và chính sách cụ thể, thúc đẩy các đảng này cần có những nhận thức mới phù hợp với tình hình chính trị toàn cầu đang biến đổi phức tạp. Ở các nước tư bản phát triển, do các đảng dân chủ xã hội cầm quyền, mô hình kinh tế thị trường xã hội đạt được một số thành tựu nhất định. Tuy nhiên cũng bắt đầu xuất hiện những hạn chế, đòi hỏi các đảng dân chủ xã hội ở một số nước: Áo, Thụy Điển, Đức … phải đề ra đường lối tư tưởng mới. Về lý luận, cũng như hoạt động thực tiễn, nhất là thực tiễn chính trị, các đảng theo trào lưu dân chủ xã hội trong giai đoạn này, một mặt vẫn tuyên bố kế thừa và giữ vững 17 truyền thống, kể cả việc khẳng định uy tín của C. Mác, mặt khác lại từ bỏ những tư tưởng cơ bản nhất của học thuyết Mác, từ bỏ mục tiêu xó bỏ giai cấp, xóa bỏ chủ nghĩa tư bản. Các nhà lý luận dân chủ xã hội ở đây cố gắng xây dựng học thuyết của mình khác với chủ nghĩa Mác cả về mặt lý luận và phương pháp luận. * Tình hình trong nước. Mùa thu năm 1989, bức tường ngăn cách Đông và Tây Đức bị phá bỏ, Chủ nghĩa xã hội ở đông Đức sau 40 năm tồn tại bị sụp đổ. SED mất quyền lãnh đạo xã hội và phải đổi tên thành PDS, đồng thời tuyên bố đoạn tuyệt với chủ nghĩa xã hội theo “chủ nghĩa Xtalin”, thực hành chủ nghĩa dân chủ xã hội. PDS trong điều lệ dự thảo mới đã tuyên bố đảng là thực hiện chủ nghĩa dân chủ xã hội, nhân đạo; đảng không còn là đội tiền phong và đảng giai cấp nữa, mà là một đảng mở cửa với tất cả mọi người thuộc các giai cấp và các tầng lớp. Nếu như khi bức tường ngăn cách Đông và Tây Đức vừa được dựng lên thể hiện sức mạnh to lớn của SED và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Đức, thì khi bức tường bị phá bỏ đã thể hiện sự tan vỡ của SED và chủ nghĩa xã hội ở Đông Đức, kéo theo đó là sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu. Tình hình chính trị trong nước và quốc tế trên đây đã tác động mạnh đến sự ra đời của Cương lĩnh Berlin năm 1989 và những thay đổi trong chính sách kinh tế - xã hội của SPD thể hiện trong Cương lĩnh. 2.1.2.Nội dung cơ bản của Cương lĩnh Berlin. Sự phát triển của cương lĩnh phụ thuộc vào ba khía cạnh: giới lãnh đạo, giới nghiệp đoàn và các chuyên gia. Cơ sở chính sách của SPD xuất phát từ những kinh nghiệm và các giá trị cơ bản xây dựng một xã hội đoàn kết đem lại tự do như nhau cho tất cả mọi người. SPD tiếp tục truyền thống của các phong 18 trào nhân dân dân chủ thế kỷ XIX và chủ trương xây dựng cả dân chủ và chủ nghĩa xã hội, quyền tự quyết của con người trong chính trị và kinh tế. Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, SPD đầu tiên đảm nhiệm trách nhiệm cầm quyền. Đảng đã tỏ rõ mình là chỗ dựa đáng tin cậy nhất của nền dân chủ đầu tiên của nước Đức và bắt tay vào xây dựng nhà nước xã hội dân chủ và chấp nhận sự đối mặt với sự thống trị quốc xã, song đảng đã không có khả năng ngăn chặn nó. Với tư cách là đảng cầm quyền, SPD đã giành được những thành tựu đáng trân trọng, đó là: mở rộng các quyền cho con người làm công trong xí nghiệp và các quyền tham gia của công dân; phát triển nhà nước xã hội; xóa bỏ sự thiệt thòi về pháp lý của hàng loạt các nhóm dân cử. SPD kể từ khi ra đời, luôn luôn ủng hộ hòa bình và hợp tác quốc tế, ngày nay chủ nghĩa quốc tế thuộc truyền thống dân chủ xã hội đã trở thành chính sách hiện thực duy nhất. Những giá trị cơ bản của chủ nghĩa dân chủ xã hội bắt rễ sâu trong lịch sử và cả trong tương lai, những giá trị đó vẫn là nền tảng của chính sách cải cách của SPD. Cách nhìn về con người, SPD hiểu con người như thực thể lý trí và tự nhiên, là thực thể cá nhân và xã hội; là một bộ phận của tự nhiên con người chỉ có thể sống trong và cùng với tự nhiên. Phẩm giá con người đòi hỏi phải để họ tự quyết định lấy cuộc sống của họ trong cộng đồng với những người khác. Đảng phải có nghĩa vụ đối với quyền của con người, nhà nước là nền kinh tế tồn tại là vì con người và các quyền của nó, chứ không phải là ngược lại. Để quyền con người phát huy đầy đủ hiệu lực của nó đòi hỏi phải đảm bảo các quyền tự do, quyền tham gia chính trị và các quyền xã hội cơ bản. Các quyền đó không được thay thế nhau và không được lợi dụng để đối lập nhau. Chính trị được SPD xem là một yếu tố cần thiết trong cuộc sống của con người. Hoạt động chính trị phải có giới hạn, không thể vượt qua những giới hạn đó mà lại không gây tổn hại cho mỗi người và xã hội. Các đảng chính trị vừa là người khởi động, vừa là lực lượng trung gian giữa xã hội và nhà nước.Tự do, công bằng, đoàn kết là những giá trị cơ bản của chủ nghĩa xã hội; dân chủ, chính 19 trị là thước đo đối với một trật tự mới tốt đẹp hơn của xã hội và đồng thời cũng là định hướng cho hành động của mỗi đảng viên dân chủ xã hội. Tự do, công bằng, đoàn kết quy định lẫn nhau và dựa vào nhau, bổ sung và giới hạn lẫn nhau. Thực hiện những giá trị cơ bản, hoàn tất nền dân chủ là nhiệm vụ lâu dài của chủ nghĩa dân chủ xã hội – mục tiêu phấn đấu của SPD. Hòa bình trên cơ sở an ninh chung. Một thế giới hòa bình đòi hỏi phải đảm bảo các quyền tự quyết cho tất cả mọi dân tộc. SPDchủ trương chấm dứt việc chạy đua vũ trang và thúc đẩy quá trình giải trừ quân bị, ngăn chặn việc xuất khẩu vũ khí và phương tiện quân sự. Hòa bình phải xuất phát từ nước Đức, người Đức cũng như các dân tộc khác trên thế giơi đều có quyền tự quyết. Vấn đề dân tộc phải đặt dưới các đòi hỏi của hòa bình. Dân tộc Đức sẽ tìm thấy sự thống nhất của mình trên cơ sở sự tự quyết tự do. Trong mỗi xã hội đều tồn tại nhiều nền văn hóa thể hiện mối quan hệ giữa người với người, giữa người với những sinh vật và vật thể khác. Văn hóa chung sống được khẳng định và đông kết trong văn hóa chính trị, trong khả năng kết hợp sự đồng thuận cơ bản cần thiết với những tranh luận cần thiết, để làm được điều đó cần có sự khoan dung. SPD muốn phấn đấu cho một xã hội đoàn kết của những người tự do và bình đẳng, không có các đặc quyền giai cấp, trong đó mọi người đều có thể quyết định một cách bình đẳng về cuộc sống và công việc của mình. Vì một chính sách lao động mới, SPD quan niệm quyền lao động là quyền con người. Nghĩa vụ của nhà nước là chăm lo cho người lao động có việc làm đầy đủ, thất nghiệp không phải là một sự rủi ro các nhân mà đó là một vấn đề do xã hội gây nên, do đó phải được giải quyết về chính sách. Giảm giờ làm việc, góp phần tạo việc làm và làm chủ thời gian. Trước mắt cũng như trong tương lai, việc rút ngắn thời gian làm việc là một đóng góp đáng kể nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống. Xây dựng thế giới lao động phù hợp cới con người, SPD chủ trương 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan