BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN
PHẠM THỊ LỆ ANH
CẢM THỨC THỜI GIAN
TRONG THƠ NGUYỄN KHUYẾN
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8220121
Ngƣời hƣớng dẫn: TS. PHẠM THỊ NGỌC HOA
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan công trình này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi dƣới sự
hƣớng dẫn của TS. Phạm Thị Ngọc Hoa. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là
trung thực và chƣa đƣợc công bố trong bất cứ một công trình nghiên cứu nào.
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài .................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ..................................................................................2
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................10
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu....................................................................11
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ..................................................................................11
6. Cấu trúc luận văn ..............................................................................................12
Chƣơng 1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH CẢM THỨC THỜI GIAN TRONG THƠ
NGUYỄN KHUYẾN ................................................................................................14
1.1. Cảm thức thời gian trong thơ ca trung đại .....................................................14
1.1.1. Giới thuyết chung về thuật ngữ “cảm thức thời gian” ...........................14
1.1.2. Diễn tiến cảm thức thời gian trong thơ trung đại Việt Nam ..................18
1.2. Cơ sở chi phối cảm thức thời gian trong thơ Nguyễn Khuyến ......................26
1.2.1. Điều kiện lịch sử, văn hóa và xã hội ......................................................26
1.2.2. Quê hƣơng và truyền thống gia đình Nguyễn Khuyến ..........................30
1.3. Nguyễn Khuyến - đƣờng đời và đƣờng thơ ...................................................34
1.3.1. Nguyễn Khuyến – quãng thời gian tham chính, nhập thế ......................34
1.3.2. Nguyễn Khuyến – Những tháng ngày xuất thế từ quan .........................38
Tiểu kết Chƣơng 1 ................................................................................................43
Chƣơng 2. CÁC KIỂU CẢM THỨC THỜI GIAN TRONG THƠ NGUYỄN
KHUYẾN ..................................................................................................................44
2.1. Biểu hiện các kiểu thời gian trong thơ Nguyễn Khuyến ...............................44
2.1.1. Thời gian chu kỳ .....................................................................................44
2.1.2. Thời gian sự kiện ....................................................................................49
2.1.3. Thời gian tâm lí ......................................................................................56
2.2. Ứng xử của nhà thơ trƣớc các kiểu thời gian.................................................61
2.2.1. Suy cảm, buồn đau trƣớc thời thế ...........................................................61
2.2.2. Hoài niệm về thời gian đã qua ................................................................67
2.2.3. Hƣớng về lối sống ẩn cƣ.........................................................................72
Tiểu kết Chƣơng 2 ................................................................................................76
Chƣơng 3. PHƢƠNG THỨC NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN CẢM THỨC THỜI
GIAN TRONG THƠ NGUYỄN KHUYẾN .............................................................77
3.1. Hệ thống hình ảnh thể hiện các kiểu thời gian trong thơ ...............................77
3.1.1. Hình ảnh mang nghĩa biểu trƣng ............................................................77
3.1.2. Hình ảnh mang nghĩa thực về dòng chảy thời gian ................................83
3.2. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ trong thơ Nguyễn Khuyến .............................87
3.2.1. Hệ thống ngôn ngữ giản dị, thuần phác trong thơ Nôm .........................87
3.2.2. Hệ thống điển cố, thi liệu thể hiện kiểu thời gian tâm lí ........................94
3. 3. Giọng điệu thơ Nguyễn Khuyến ................................................................ 100
3.3.1. Giọng thơ thâm trầm sâu lắng trƣớc dòng chảy thế cuộc .................... 100
3.3.2. Giọng điệu trào lộng, u mua trƣớc diễn biến nhân tâm cuộc thế ........ 105
3.3.3. Phức điệu trữ tình và trào lộng trong thơ Nguyễn Khuyến ................. 109
Tiểu kết Chƣơng 3 ............................................................................................. 114
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 116
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH ................................................. 119
QUYẾT ĐỊNH GIAO TÊN ĐỀ TÀI LUẬN VĂN THẠC SĨ (BẢN SAO)
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Nhìn từ góc độ thi pháp học, không gian, thời gian là phƣơng thức thể hiện
thiết yếu để các tác gia văn học xây dựng thế giới nghệ thuật và định hình phong
cách sáng tác cá nhân. Tìm hiểu tƣ tƣởng tình cảm của ngƣời nghệ sĩ khó có thể bỏ
qua bình diện thời gian với các cung bậc cảm xúc, nhận thức về thời cuộc đƣợc thể
hiện khá rõ hoặc đƣợc “ẩn tàng” trong từng tác phẩm. Là thành tố quan trọng trong
các tác phẩm văn học trung đại nói chung và thơ trung đại Việt Nam nói riêng, cảm
thức thời gian hiện hữu trong tác phẩm nhƣ một lẽ tự nhiên. Yếu tố thời gian mang
tính quan niệm, nhận thức và là sự chiếu ứng toàn bộ thế giới tinh thần của con
ngƣời trong tác phẩm. Đó là mô hình thế giới độc lập mang tính chủ quan và ý
nghĩa tƣợng trƣng của tác giả thể hiện. Đó còn là con đƣờng mô hình hóa các mối
liên hệ về thời gian cuộc đời, không gian xã hội, đạo đức, về trật tự thế giới đặt
trong sự lựa chọn chủ ý của ngƣời nghệ sĩ. Trƣờng hợp Nguyễn Khuyến cũng
không ngoại lệ. Là một tác gia văn học trung đại, cuộc đời trải nghiệm qua nhiều
mốc lịch sử đầy biến động, Nguyễn Khuyến không quên ghi dấu từng chặng đƣờng
đời đi qua bằng những trang thơ đầy khắc khoải, tâm trạng.
1.2. Nguyễn Khuyến (1835 - 1909) là vị đại diện khá tiêu biểu cho lớp ngƣời
đƣợc xã hội phong kiến đào tạo. Ông quyết chí đi thi và đỗ đầu cả ba kỳ thi, đƣợc
vua Tự Đức ban cờ biển và hai chữ Tam nguyên; tài năng lừng lẫy một thời. Nhìn
từ phƣơng diện văn tự, sáng tác của Nguyễn Khuyến bao gồm cả chữ Hán và chữ
Nôm. Trong những sáng tác Hán Nôm ấy, nhà thơ đã gửi vào đó những cảm xúc,
nhận thức, suy tƣ về không gian và thời gian. Hai yếu tố này đƣợc hiện hữu trong
thơ với nhiều sắc thái, tầng bậc khác nhau. Nghiên cứu về tác phẩm, tác giả Nguyễn
Khuyến trên nhiều phƣơng diện đã đƣợc đặt ra từ trƣớc đến nay không hề ít. Song,
tìm hiểu những cảm xúc, nhận thức, cảm thức thời gian của ngƣời nghệ sĩ mẫn cảm,
lắng sâu thế sự đƣợc thể hiện trong thơ để hiểu sâu sắc hơn từng trạng huống cảm
xúc của nhà thơ qua từng thời điểm khác nhau trong cuộc đời nhà thơ là vấn đề
nhiều thú vị còn bỏ ngỏ để chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện.
Nghiên cứu cảm thức thời gian trong thơ Nguyễn Khuyến là nghiên cứu sự
2
tƣơng quan giữa cái “tôi” của ngƣời nghệ sĩ với dòng chảy thời gian, giữa con
ngƣời cá nhân trƣớc các chặng đƣờng lịch sử thời đại đặt ra trong suốt cuộc đời nhà
thơ. Tìm hiểu cảm thức thời gian thể hiện trong thơ chữ Hán và chữ Nôm, một mặt
nhận diện vai trò ý nghĩa của các kiểu thời gian biểu hiện trong thơ ca trung đại nói
chung, thi phẩm Nguyễn Khuyến nói riêng; Mặt khác qua đó, khẳng định, nhận diện
quan niệm, tƣ tƣởng và tâm hồn tình cảm của nhà thơ trong từng thời đoạn lịch sử
cụ thể. Tiếp cận và lí giải các bình diện thời gian gắn với những cảm thức của nhà
thơ đƣợc biểu hiện trong thơ chữ Hán và chữ Nôm cũng là cách góp thêm cái nhìn
đa chiều về tƣ tƣởng, tình cảm ngƣời nghệ sĩ. Điều này có ý nghĩa góp phần gợi ra
cách hiểu và thẩm bình thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Khuyến, đồng thời mở rộng
liên hệ mối quan hệ với thơ ca trung đại nói chung, nghiên cứu và giảng dạy thơ
Nguyễn Khuyến nói riêng. Tìm hiểu các dạng thức thời gian đƣợc biểu hiện trong
thơ chữ Hán và chữ Nôm sẽ là căn cứ góp phần hoàn chỉnh chân dung nhà thơ
Nguyễn Khuyến, nhà Nho phong kiến cuối mùa với những nét riêng khó lẫn trong
dòng chảy Văn học trung đại Việt Nam.
Từ những lý do đã nêu, trên cơ sở kế thừa các kết quả nghiên cứu trƣớc đây,
chúng tôi chọn đề tài Cảm thức thời gian trong thơ Nguyễn Khuyến để thực hiện.
Hy vọng, kết quả từ những khảo sát nghiên cứu góc nhìn cảm thức thời gian biểu
hiện trong thơ Nguyễn Khuyến sẽ là những căn cứ góp phần giải mã thế giới tinh
thần của nhà thơ, nhà Nho phong kiến cuối mùa.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nguyễn Khuyến là nhà thơ lớn, nhân cách lớn của thời đại, của dân tộc. Sự
nghiệp thơ ca của Nguyễn Khuyến đƣợc đánh giá cao. Việc nghiên cứu cuộc đời và
thơ văn của nhà thơ, nhà Nho phong kiến cuối mùa cũng đạt đƣợc nhiều thành tựu
trên nhiều phƣơng diện: sƣu tầm, dịch thuật, giới thiệu, nghiên cứu… Trong phạm
vi liên quan đến đề tài, chúng tôi lƣợc thuật một số công trình nghiên cứu sau.
2.1. Lịch sử nghiên cứu về cảm thức thời gian trong thơ trung đại Việt Nam
Trong các công trình chuyên luận đƣợc xuất bản trƣớc năm 1975 ở hai miền
Nam – Bắc, ngoài các luận đề nghiên cứu chuyên sâu về các tác gia, thể loại và các
vấn đề liên quan đến nội dung cũng nhƣ phƣơng thức biểu đạt, chúng tôi chƣa ghi
3
nhận đƣợc một quan điểm nghiên cứu nào đánh giá về cảm thức thời gian. Song,
với tƣ cách là một phƣơng diện của thi pháp thì thời gian nghệ thuật trong thơ trung
đại cũng thu hút đƣợc sự quan tâm của giới phê bình. Thời gian nghệ thuật và cảm
thức thời gian trong thơ trung đại là hai phƣơng diện cụ thể nhƣng lại thống nhất
trong một đối tƣợng đó là tác giả - tác phẩm. Vì thế, về mặt phƣơng pháp luận, khi
nghiên cứu về cảm thức thời gian, chúng ta không thể không tiếp cận thời gian nghệ
thuật của từng tác giả, tác phẩm và giai đoạn văn học cụ thể.
Bàn về ý nghĩa của các giá trị thời gian đƣợc biểu hiện trong thơ ca trung đại,
năm 1996, trong công trình nghiên cứu Văn học trung đại Việt Nam (Trƣờng Đại
học Sƣ phạm thành phố Hồ Chí Minh), Lê Trí Viễn đã trình bày quan điểm của
mình về cách hiểu thời gian trung đại. Ông cho rằng,“thời gian là tuyến tính trôi
chảy không ngừng, một qua không trở lại (…) và là “thời gian chu kỳ đi rồi quay
trở lại chứ không đi mất” [73; tr. 19]. Thời gian trong trong văn chƣơng trung đại
còn là “thời gian trống rỗng trừu tƣợng mà chất chứa một nội dung cụ thể (…).
Thời gian nhuốm màu thiêng liêng và đạo đức” [73; tr. 19]. Tác giả nhấn mạnh thời
gian chu kỳ có tác động mạnh mẽ và sâu sắc hơn đến cảm quan của con ngƣời, đó là
“ý thức về thời gian chu kỳ sâu hơn và có sức xóa mờ thời gian tuyến tính” [73; tr.
20]. Tác giả lí giải những điểm khác biệt trong nhận thức và cảm xúc của con ngƣời
trung đại so với con ngƣời hiện đại. Tác giả phát hiện những biểu hiện của thời gian
trong văn học trung đại với những kiến giải khá hợp lý và có tính phát hiện. Trong
công trình của mình, tuy không chú tâm nghiên cứu vấn đề thành một chƣơng riêng
biệt, nhƣng Lê Trí Viễn đã giúp ngƣời đọc nhận thức và lí giải đƣợc những biểu
hiện cơ bản về các kiểu thời gian trong văn học trung đại.
Năm 1999, trong Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam - một
chuyên luận nghiên cứu chuyên sâu về các yếu tố thi pháp văn học trung đại, Trần
Đình Sử đã dành sự quan tâm về các kiểu thời gian trong thơ trung đại nói chung
với các nội dung: “Mô hình chung của thời gian; Thời gian vũ trụ bất biến; Thời
gian con ngƣời” [59; tr. 193]. Cụ thể, về thời gian trong thơ, tác giả đã xác định các
khái niệm: Thời gian vũ trụ bất biến trong thơ từ thế kỉ X - XVII: Vô thời gian trong
thơ Thiền – loại thời gian “Bất biến”, thƣờng trụ, bởi vì không sinh không diệt”
4
[59; tr. 197]. Cũng theo tác giả, thời gian lịch sử trong thơ tƣơng quan với thời gian
với thời gian vũ trụ - kiểu thời gian đƣợc không gian hóa với “tính bất biến của lịch
sử hóa thân vào dấu tích” [59; tr. 204]; Và cuối cùng là thời gian con ngƣời với nỗi
buồn thƣơng u uất cá nhân…Dẫn chứng cho dòng thời gian bất biến, tĩnh tại trong
thơ nhà Nho, tác giả dẫn giải: “Trong thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm thời
gian vũ trụ là một niềm mơ ƣớc(…). Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng thể hiện một quan
niệm vũ trụ tự nhiên, nhƣng ông thiên về tính biến dịch vĩnh hằng” [59; tr. 201].
Việc xác lập các mô hình thời gian, các kiểu thời gian trong thơ trung đại phần nào
giúp ngƣời đọc có thêm nhận thức về lý thuyết chung thời gian nghệ thuật trong thơ
ca trung đại Việt Nam.
Nghiên cứu về diễn tiến thơ trữ tình của một thời đại cụ thể, năm 1983,
Nguyễn Phạm Hùng trong bài“Về diễn tiến của thơ trữ tình đời Trần” (in trong Tạp
chí Văn học số 4), đã chỉ ra diễn biến các dòng chảy thời gian theo các xúc cảm của
thi nhân đời Trần. Tác giả nhận định: “Thời gian là những cảm xúc thơ về một quá
khứ vô cùng vinh quang và đầy chiến thắng, cảm xúc trữ tình của các thi sĩ cũng
gặp nhau trong sự hồi tƣởng chiến công của cha ông trên dòng sông Bạch Đằng”
và đến thời vãn Trần, “Thời gian đƣợc phản ánh co giãn theo tâm trạng con ngƣời,
niềm vui lại qua nhanh mà nỗi buồn sao đằng đẵng” [25; tr. 17]. Nhƣ vậy, trƣớc
Nguyễn Khuyến, cảm thức thời gian ở mỗi nhà thơ thời Trần đã có những cảm
quan, cảm xúc khác nhau phụ thuộc vào quan niệm, tƣ tƣởng và đặc biệt là cảm
hứng từ chính cuộc đời của mỗi cá nhân nghệ sĩ.
Năm 2001, trong chuyên luận Đặc điểm thơ Thiền Việt Nam thời Lý - Trần,
Đoàn Thị Thu Vân cũng quan tâm đề cập và lí giải khá rõ những biểu hiện của thời
gian trong thơ Thiền thời Lý Trần nhƣ là một biểu hiện của thi pháp của Thiền thi.
Với một dung lƣợng ngắn, tác giả đã nêu bật một cách khác cô đọng, súc tích những
đặc điểm về thời gian nghệ thuật trong thơ Thiền Lý –Trần. Nhà nghiên cứu cho
rằng thơ Thiền đề cập đến “Thời gian hiện thực của trần thế vô cùng ngắn ngủi và
chóng vánh” [70; tr.21]. Tác giả thơ Thiền đặc biệt đề cao thời gian hiện tại, chủ
trƣơng sống cho trọn vẹn cái “giây phút này” [70; tr.21]. Về giá trị thẩm mỹ của các
biểu hiện thời gian trong thơ, Đoàn Thị Thu Vân khẳng định: “Thời gian đóng vai
5
trò cột mốc cho một bƣớc ngoặt của tâm thức, đánh dấu sự đổi khác giữa sau và
trƣớc” [70; tr.17]. Theo tác giả, thời gian trong thơ Thiền thƣờng là mùa thu, ban
đêm (với trăng sáng, gió trong và hơi đêm mát lạnh). Đó là thời điểm của sự hòa
điệu giữa con ngƣời và vạn vật, vũ trụ. Nhƣ vậy, cách tiếp cận và đánh giá của
Đoàn Thị Thu Vân có những nét khác biệt do đối tƣợng nghiên cứu, song những
khái quát mà nhà nghiên cứu đã nêu bật phần nào giúp cho chúng ta nhận ra dòng
chảy thời gian với các nhận thức, cảm suy của ngƣời nghệ sĩ biểu hiện trong sáng
tác thơ ca đã có từ rất sớm.
Trong công trình Thi pháp thơ Nôm Nguyễn Trãi (năm 2002, Luận án Hoàng
Thị Thu Thủy), tác giả công trình đã đề cập đến vấn đề thời gian trong thơ chữ Hán
và chữ Nôm của một tác gia tiêu biểu thế kỉ XV, Nguyễn Trãi. Hoàng Thị Thu
Thủy đã khảo sát các yếu tố nghệ thuật trong đó có thời gian. Tác giả định danh
thành những kiểu thời gian: Thời gian quá khứ gắn liền với chu trình đời ngƣời. Tác
giả nhấn mạnh: “Đời ngƣời có những quãng thời gian có ý nghĩa đặc biệt gắn với
tuổi trẻ, ƣớc mơ, công danh, hạnh phúc,…cho nên hoài niệm quá khứ cũng là nét
chung của con ngƣời” [67; tr. 66]. Ngoài ra, tác giả cũng giới thuyết về thời gian
mang tâm sự đời thƣờng với khuynh hƣớng cá nhân. Theo Hoàng Thị Thu Thủy:
“Đó là kiểu thời gian đầy dƣ vị buồn tiếc, xót xa, thiếu ấm áp và vắng vẻ”. Nghiên
cứu từ góc độ thi pháp thơ Nôm, tác giả chứng minh cho sự tồn tại của yếu tố thời
gian xuất hiện trong thơ tiếng Việt buổi đầu với nhận xét: “Thời gian nghệ thuật
trong Quốc âm thi tập vừa mang những đặc trƣng chung của thời gian nghệ thuật
thời trung đại, vừa mang dấu ấn riêng của phong cách thơ Nguyễn Trãi, phong
cách của một thi nhân “lo đời”, “đau đời”, “ẩn ức” trƣớc thế sự…” [67; tr.67].
Nhƣ vậy, trên dòng chảy thời gian tuyến tính của vũ trụ, trong sáng tác nghệ thuật
của ngƣời nghệ sĩ vẫn mang những suy cảm về thời gian với dấu ấn riêng của phong
cách thi nhân. Nhận định trên là căn cứ thêm gợi dẫn để chúng tôi tìm hiểu cảm
thức thời gian tác gia Nguyễn Khuyến.
Nghiên cứu nhà thơ, nhà Nho, triết nhân Nguyễn Bỉnh Khiêm qua Bạch Vân
quốc ngữ thi tập, Lê Văn Tấn trong bài viết “Bạch Vân quốc ngữ thi tập các hình
thức diễn đạt về sự ẩn dật” (Tạp chí Khoa học số 7 (58) – 2015, Trƣờng Đại học Sƣ
6
phạm thành phố Hồ Chí Minh), đã nhấn mạnh: “Trong thời gian hƣu trí ở quê nhà
Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn gián tiếp dự bàn tham gia trực tiếp vào chính sự”(…)
Trong thời gian ở ẩn tại Trung Am, thi nhân luôn thể hiện mình là một ẩn sĩ thanh
cao” [64; tr.21]. Nhƣ vậy, trong quãng thời gian nào, lúc tham chính hay ẩn cƣ,
Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn có những suy cảm đậm tính triết lý trƣớc mọi thế cuộc.
Nghiên cứu ở khía cạnh con ngƣời nhàn dật trong thơ Nôm Đƣờng luật,
trƣờng hợp Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hà Ngọc Hòa với bài viết Con ngƣời nhàn dật, tự
tại trong thơ Nôm Đƣờng luật (Tạp Chí Khoa Học, Đại học Huế, tập 72A, số 3,
năm 2012), đã dẫn ra các chặng đƣờng đời nhiều biến động mà chính bản thân nhà
thơ đã trải qua với nhiều trạng huống cảm xúc. Tác giả nhận định: “Nguyễn Bỉnh
Khiêm nhập thế khi chế độ phong kiến bƣớc dần vào con đƣờng suy tàn (…). Ra
làm quan với triều đình nhà Mạc, không phải Nguyễn Bỉnh Khiêm không thấy
những khó khăn trƣớc mắt, nhƣng ông vẫn tin vào sự phục hƣng của chế độ, vào tài
“phù nghiêng đỡ lệch” của mình, để rồi cuối cùng phải ngậm ngùi “Giúp nƣớc
thƣơng dân chƣa thỏa lòng ta hồi trƣớc. Băn khoăn rất thẹn già không có tài” [20;
131-136]. Tài “phù nghiêng đỡ lệch” của Trạng Trình thì đã rõ, thẹn vì mình
“không có tài” nhƣ đã thán chỉ là cách nói “ƣu tƣ” trƣớc thế cuộc. Đó là cách nói,
cách ngẫm về nhân tình thế thái trƣớc dòng chảy thế cuộc với đủ mùi vị “mặn, nhạt,
chua cay lẫn ngọt bùi” (Thói đời) của thời đại mà ông đang hiện diện.
Những nhận xét trên đây của các tác giả đƣợc xem là những gợi dẫn cần thiết để
chúng tôi nghiên cứu về khía cạnh cảm thức thời gian trong sáng tác của nhà thơ Nguyễn
Khuyến, tác giả cuối thế kỉ XIX, giai đoạn cuối của văn học trung đại Việt Nam.
Từ những công trình đã nêu, có thể nhận thấy nghiên cứu về cảm thức thời
gian tuy không phải vấn đề mới lạ, song, từ góc độ nghiên cứu thi pháp về tác giả
tác phẩm, lĩnh vực này cũng cần đƣợc luận giải với tƣ cách là một đối tƣợng khoa
học và có ảnh hƣởng nhất định đến quá trình nghiên cứu phong cách tác giả. Với
những gì đƣợc lƣợc thuật trên là cơ sở khoa học quan trọng để chúng tôi tiếp nối đi
sâu tìm hiểu cảm thức thời gian trong thơ Nguyễn Khuyến
2.2. Lịch sử nghiên cứu về cảm thức thời gian trong thơ Nguyễn Khuyến
Nghiên cứu Nguyễn Khuyến về thơ và cuộc đời, từ trƣớc đến nay hẳn đã thu
7
hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học lý luận phê bình. Cho đến nay, nghiên cứu
từ nhiều góc độ khác nhau về tác gia Nguyễn Khuyến vẫn còn là mảnh đất màu mỡ
chờ đợi nhiều hƣớng khai thác mới. Theo đó, tìm hiểu về những suy cảm nhận thức
của “nhà thơ làng cảnh Việt Nam” biểu hiện trong thơ chữ Hán và chữ Nôm đƣợc
xem là một hƣớng tiếp cận mới, với hy vọng mang lại những kết quả khả quan góp
phần hoàn thiện chân dung nhà thơ.
Sự nghiệp thơ Nguyễn Khuyến dành lại đời sau với một khối lƣợng tác phẩm
tƣơng đối lớn, thơ Nôm: 105 bài, thơ chữ Hán: 166 bài. Nhận xét nghệ thuật thơ
văn Nguyễn Khuyến, nhiều nhà nghiên cứu có chung nhận định thơ ông đã đạt tới
một trình độ cổ điển. Qua nhiều diễn giải cái hay nét đẹp trong không gian, thời
gian biểu hiện trong thơ Nguyễn Khuyến, Nguyễn Lộc đã khái quát thành tựa đề:
“Nguyễn Khuyến - Một phong cách trong văn học” (Giáo trình Văn học Việt Nam
nửa cuối thế kỷ XIX (1976, in lại 2000 - Nguyễn Lộc). Không phải ngẫu nhiên mà
Nguyễn Khuyến đƣợc gọi trìu mến: Nhà thơ làng cảnh Việt Nam với tiếng cƣời
trong phức điệu u mua (humour).
Nghiên cứu Nguyễn Khuyến từ góc độ cuộc đời và thơ, trong công trình Thi
hào Nguyễn Khuyến - đời và thơ, (1981), Nguyễn Huệ Chi đã xác định mối quan
hệ giữa dòng chảy thời gian với sự biểu đạt cảm xúc, những suy cảm ngẫm ngợi của
nhà thơ trƣớc thế cuộc, thể hiện nỗi niềm khắc khoải, tự trào hay phê phán, ở những
thời điểm khác nhau… Và, trong hoàn cảnh, trạng huống nào vẫn hiện lên chính
hình bóng con ngƣời nhà thơ. Tiếp tục nghiên cứu về Nguyễn Khuyến trên phƣơng
diện khác về thế giới nghệ thuật thơ, Nguyễn Huệ Chi cho rằng Nguyễn Khuyến là
một hiện tƣợng đa dạng, có quá trình vận động từ ông Nghè Tam nguyên đến “ông
Tiến sĩ giấy”, từ vị quan Hàn lâm đến “Ông Phỗng đá”, từ cụ Thƣợng Và đến một
“lão nông”, trong đó thời điểm trở về (1884) có ý nghĩa bƣớc ngoặt... Những bƣớc
ngoặt ấy luôn gắn liền với sự trải lòng qua từng bài thơ Nôm, Hán. Trong bài báo
“Một vài phƣơng hƣớng tiếp cận thơ văn Nguyễn Khuyến” (Tạp chí Văn học, số 4,
1985), Nguyễn Huệ Chi nhấn mạnh: “Ở từng thời đoạn khác nhau của lịch sử dân
tộc đƣợc Nguyễn Khuyến thể hiện khá chi tiết qua thời gian nhuốm đẫm những tâm
sự cá nhân. Do vậy, thời gian nghệ thuật và những suy tƣ về nó chính là một
8
phƣơng diện biểu đạt cần quan tâm khi tìm hiểu về thơ Nguyễn Khuyến” [2; tr.21 –
22]. Nhƣ vậy, hiểu thêm về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Khuyến, hẳn khó bỏ qua
“thời gian nghệ thuật và những suy tƣ về nó” đƣợc biểu hiện trong thơ ông. Nhận
định này là gợi dẫn, thêm căn cứ để chúng tôi tìm hiểu về cảm thức thời gian trong
thơ Nguyễn Khuyến.
Trong bài viết “Nguyễn Khuyến với thời gian” trên Tạp chí Văn học (số 4,
1985), Nguyễn Đình Chú nhấn mạnh: “Quả thật, Nguyễn Khuyến xứng đáng đƣợc
mệnh danh là nhà thơ với những mối khắc khoải về thời gian trong văn chƣơng
trung đại Việt Nam. Với ông, thơ văn cũng nhƣ con ngƣời đều là những biểu hiện
của ứng xử và thể hiện thời gian. Cả hai phƣơng diện ấy ngày nay đã quyện lại
thành một giá trị không thể tách bạch, tạo nên những “đặc trị” thẩm mỹ không dễ
gì trong một lúc đã khám phá đƣợc hết” [4; tr.44]. Nhận định của nhà nghiên cứu
Nguyễn Đình Chú đã nhấn mạnh những giá trị, “đặc trị” về cảm thức thời gian
trong thơ Nguyễn Khuyến. Đó không chỉ là phƣơng thức biểu đạt mà còn là dấu ấn
quan trọng trong thế giới nghệ thuật thơ Hán Nôm của Tam nguyên Yên Đổ. Và vì
thế, Nguyễn Khuyến không phải là một hiện tƣợng văn học quá phức tạp nhƣng để
hiểu thấu đáo cần có cách nhìn nhận mới: nhìn từ góc độ thi pháp Không – Thời
gian, đó là giá trị nhân bản đƣợc khơi gợi từ hồn thơ này.
Trong tiểu luận “Từ những biến động trong nguyên tắc phản ánh thực tại của
văn chƣơng nhà Nho đến bức tranh sinh hoạt nông thôn trong thơ Nguyễn Khuyến”
(1992) đƣợc sƣu tuyển lại trong Nguyễn Khuyến, Tác gia – Tác phẩm, Trần Nho
Thìn đã khẳng định: “Nếu tiêu chuẩn cốt yếu của cảm hứng về thời gian là cảm
hứng nghiên cứu, phân tích những giá trị thẩm mĩ thì thơ văn Nguyễn Khuyến đã có
những dấu hiệu đáng kể vƣơn đến tầm khái quát” và “Những biểu đạt về thời gian
trong thơ ông bƣớc đầu thoát ly khỏi tính chất công thức của lối cảm thụ thế giới
khách quan của nhà nho để phản ánh đƣợc cái cụ thể, cái bề bộn, đa dạng trong
thực tại ấy.” [41; tr. 142]. Nhận định của Trần Nho Thìn cho thấy sự cần thiết để
nghiên cứu tìm hiểu những nét riêng của nhà Nho Yên Đổ đã thoát ly khỏi tính chất
công thức của lối cảm thụ thế giới khách quan của nhà nho qua những cách biểu đạt
về thời gian trong thơ ông.
9
Trong công trình Những thế giới nghệ thuật thơ (1997), với bài viết: “Con
ngƣời trong sáng tác của Nguyễn Khuyến”, nghiên cứu từ điểm nhìn con ngƣời cá
nhân của nhà thơ, khảo sát từng mốc thời gian cụ thể trong cuộc đời của Nguyễn
Khuyến để theo dõi bƣớc đƣờng nghệ thuật của ông và định hƣớng cho quá trình
đánh giá về hệ thống đặc điểm thi pháp trong thơ Yên Đổ, Trần Đình Sử nhấn mạnh
những giá trị biểu đạt của thời gian nghệ thuật đối với sự thể hiện con ngƣời và
quan niệm về con ngƣời trong thơ Nguyễn Khuyến. Ông xác nhận: “Sự đối lập giữa
thời gian quá khứ và thời gian hiện tại của cuộc chiến chống thực dân Pháp qua
từng bài thơ chữ Hán, chữ Nôm của ông đã góp phần thể hiện sự suy tƣ, quá trình
tiến triển của một con ngƣời luôn mang khát vọng kinh bang tế thế” [60; tr.127].
Trong chuyên luận Thơ Nôm Đường luật (1998), Lã Nhâm Thìn đã đề cập
đến đặc điểm về sự thể hiện thời gian nghệ thuật trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến.
Có thể nói đây là một công trình nghiên cứu có giá trị về mặt phƣơng pháp luận vì
nó đã đề cập đến rất nhiều phƣơng diện trong thơ văn Nguyễn Khuyến, nhất là
những đánh giá xác đáng về một số đóng góp, cách tân về biểu đạt thời gian của
Tam nguyên Yên Đổ so với những nhà thơ đƣơng thời.
Tìm hiểu nhà Nho Nguyễn Khuyến không thể không gắn với tìm hiểu bối cảnh
xã hội đƣơng thời. Trong bài viết “Nguyễn Khuyến trong bối cảnh văn hóa xã hội
Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lịch sử
số 9, (1998), Trần Quốc Vƣợng cho rằng, Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến là
bậc đại Nho, đại quan triều Tự Đức ở cuối mùa quân chủ – Nho giáo Việt Nam.
Ông là một bậc thi bá của Tao đàn Việt Nam (cả chữ Hán cả chữ Nôm), một nhà
thơ lớn giàu lòng yêu nƣớc, phẩm chất cao quý, bảo trọng khí tiết mà cam chịu sống
nghèo, rất cận nhân tình và là nhà thơ của dân tình. Tác giả khẳng định: “Thƣởng
thức thơ của ông, ngƣời đọc dƣờng nhƣ đi dọc theo con lộ lịch sử, bởi trong những
bài thơ của ông đều gắn liền với những mốc thời gian quan trọng”. Nhƣ vậy, trên
những dòng thơ dù gián tiếp hay trực tiếp, Nguyễn Khuyến đã giãi bày những suy
cảm của mình để ngƣời thƣởng thức thơ ông “dƣờng nhƣ đi dọc theo từng con lộ
lịch sử”. Trên từng “con lộ” ấy đã in đậm những suy cảm cá nhân của Tam Nguyên
Yên Đổ.
10
Sau Lã Nhâm Thìn, Trần Ngọc Vƣơng, Biện Minh Điền, Nguyễn Kim Châu
đã tiếp tục có những nghiên cứu cụ thể về Nguyễn Khuyến. Trong Phong cách
nghệ thuật Nguyễn Khuyến (2008), Biện Minh Điền đã có những gợi mở ban đầu
về vai trò của những dấu hiệu cách tân trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến đối với quá
trình hiện đại hoá văn học, trong đó có vấn đề về thời gian nghệ thuật. Ông nhấn
mạnh: “Nguyễn Khuyến đã thực sự đảm nhận một vai trò không thể thay thế đƣợc
trong thế khép lại một chặng đƣờng dài của văn học cổ điển trung đại dân tộc,
đồng thời cũng chuẩn bị một số điều kiện quan trọng cho văn học sau đó bƣớc vào
phạm trù hiện đại.”[11; tr.383]. Nguyễn Khuyến đảm nhiệm vai trò quan trọng cho
bƣớc chuyển giao “khép lại” một chặng đƣờng dài “văn học cổ điển trung đại dân
tộc” và chuẩn bị một số điều kiện quan trọng “bƣớc vào” phạm trù hiện đại. Đặt
trong bối cảnh xã hội đƣơng thời, đảm nhiệm sứ mệnh này của Nguyễn Khuyến hẳn
không hề dễ.
Có thể nói, cho đến nay, nghiên cứu về tác gia Nguyễn Khuyến vẫn là dòng
chảy liên tục với nhiều sự tiếp nối. Theo đó, tiếp tục nghiên cứu tìm hiểu về vấn đề
cảm thức thời gian biểu hiện trong thơ Nguyễn Khuyến là điều đƣợc xem còn bỏ
ngỏ. Qua những tài liệu lƣợc thuật nghiên cứu Nguyễn Khuyến ở nhiều góc độ khác
nhau, nhất là ở phƣơng diện thi pháp học sẽ là hƣớng gợi mở để chúng tôi đi sâu
nghiên cứu về cảm thức thời gian trong thơ Nguyễn Khuyến.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong thế giới nghệ thuật thơ ca của Nguyễn Khuyến, thời gian đƣợc cảm
nhận, ý thức một cách hệ thống dƣới nhiều dạng thức khác nhau biểu hiện những
trạng huống cảm xúc khác nhau trong từng chặng đƣờng đời…của chính nhà thơ.
Đề tài chúng tôi tập trung nghiên cứu về các biểu hiện cảm thức thời gian
trong thơ của Nguyễn Khuyến và những phƣơng thức nghệ thuật thể hiện các kiểu
thời gian trong nhận thức và cảm xúc của nhà thơ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở kế thừa những công trình nghiên cứu thơ Nguyễn Khuyến, chúng
tôi tiếp tục tìm hiểu, tổng kết các bình diện thời gian nghệ thuật đƣợc thể hiện trong
11
thơ chữ Hán, chữ Nôm. Đồng thời, thông qua phân tích các giá trị nội dung, nghệ
thuật biểu hiện cảm thức thời gian của nhà thơ, luận văn góp phần hiểu thêm về tâm
hồn, tƣ tƣởng tình cảm và những đóng góp đặc sắc trong sáng tạo nghệ thuật của tác
gia Nguyễn Khuyến.
3.3. Văn bản khảo sát
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi tập trung khảo sát những tác phẩm thơ
Hán Nôm đƣợc sƣu tuyển trong sách Thơ văn Nguyễn Khuyến do Xuân Diệu giới
thiệu [8]. Sách do Nhà xuất bản Văn học xuất bản năm 1979. Xuất phát từ yêu cầu
nghiên cứu của phạm vi đề tài đặt ra, chúng tôi chọn khảo sát 271 bài thơ, trong đó
có 166 bài thơ chữ Hán và 105 bài thơ chữ Nôm của Nguyễn Khuyến. Những trích
dẫn về thơ Nguyễn Khuyến, cả phần phiên âm, dịch nghĩa và dịch thơ trong luận
văn này đều đƣợc chuyển dẫn từ công trình nêu trên. Ngƣời viết thừa hƣởng thành
quả của những ngƣời đi trƣớc và không sáng tạo gì thêm về phiên âm dịch nghĩa
của văn bản.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận văn đi sâu vào tìm hiểu những vấn đề liên quan đến cảm thức thời gian trong
thơ Nguyễn Khuyến, qua đó góp phần phác họa rõ thêm chân dung một tác gia quan
trọng trong tiến trình phát triển văn học trung đại Việt Nam nửa cuối thế kỉ XIX.
- Luận văn góp phần nâng cao chất lƣợng trong việc nghiên cứu, giảng dạy và học
tập thơ Nguyễn Khuyến trong nhà trƣờng hiện nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi vận dụng tổng hợp linh hoạt một số phƣơng pháp:
- Phƣơng pháp thống kê phân loại: Phƣơng pháp này đƣợc sử dụng để tập
hợp và thống kê đƣợc số lƣợng những câu thơ, bài thơ có biểu hiện trực tiếp hoặc
gián tiếp yếu tố thời gian và cảm nhận thời gian của tác giả.
- Phƣơng pháp thống kê miêu tả: Sau khi xác định đƣợc những câu thơ, bài
thơ có biểu hiện yếu tố thời gian, chúng tôi tiến hành mô tả sự biểu hiện ấy nhằm
làm rõ đặc trƣng thời gian, biểu hiện các ý nghĩa thời gian của nhà thơ.
- Phƣơng pháp so sánh: Phƣơng pháp này đƣợc áp dụng trong việc so sánh
thơ Nguyễn Khuyến với thơ của các tác giả trung đại khác nhƣ Nguyễn Trãi,
12
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du,… Mục đích của việc so sánh là nhằm phát hiện sự
sáng tạo độc đáo, phong cách nghệ thuật riêng của Nguyễn Khuyến trong sáng tác văn
chƣơng trên hai chiều hƣớng thơ bác học chữ Hán và thơ bình dân chữ Nôm.
Bên cạnh các phƣơng pháp trên, chúng tôi còn sử dụng kết hợp các thao tác
phân tích, tổng hợp để giải quyết vấn đề. Thao tác phân tích đƣợc sử dụng khi mô tả
loại hình thơ nhằm làm rõ những biểu hiện đặc trƣng nhất của các biểu hiện thời
gian trong thơ Nguyễn Khuyến.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Thƣ mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận
văn kết cấu theo 03 chƣơng:
Chƣơng 1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH CẢM THỨC THỜI GIAN TRONG
THƠ NGUYỄN KHUYẾN
Nội dung Chƣơng 1 tập trung nghiên cứu những vấn đề về cách hiểu và sự
biểu đạt của cảm thức thời gian trong thơ trung đại Việt Nam. Ngoài ra, để xác định
những cơ sở hình thành và vận động của cảm thức thời gian trong thơ Nguyễn Khuyễn,
tìm hiểu về các điều kiện lịch sử, xã hội, văn hóa và quá trình cá nhân của nhà thơ là
những căn cứ cần thiết. Những yếu tố này đã góp phần xác định rõ các phƣơng hƣớng
biểu đạt và định hình cho sự thể hiện của cảm thức thời gian trong thơ ông.
Chƣơng 2. CÁC KIỂU CẢM THỨC THỜI GIAN TRONG THƠ
NGUYỄN KHUYẾN
Trên cơ sở những căn cứ đã đƣợc xác định ở Chƣơng một, Chƣơng hai
chúng tôi nhận diện các dạng thức biểu hiện thời gian trong thơ Nguyễn Khuyến
(Thời gian chu kỳ theo tuần hoàn vũ trụ, thời gian diễn ra những sự kiện trong đời
sống xã hội, thời gian tâm lý in đậm nỗi niềm cảm suy của ngƣời nghệ sĩ) và những
ứng xử suy nghiệm của nhà thơ trƣớc dòng chảy thế cuộc.
Chƣơng 3. PHƢƠNG THỨC NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN CẢM THỨC
THỜI GIAN TRONG THƠ NGUYỄN KHUYẾN
Chƣơng 3, Luận văn sẽ đi sâu tìm hiểu những hình ảnh tiêu biểu cùng với
nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ và giọng điệu trữ tình thể hiện những suy tƣ ngẫm
ngợi, nhận thức các dòng chảy thời gian của nhà thơ biểu hiện qua thơ chữ Hán và
13
thơ chữ Nôm Nguyễn Khuyến. Đây là những biểu hiện khá rõ ràng, giúp cho ngƣời
đọc có thể nhận thức đầy đủ về hệ giá trị thẩm mĩ của thế giới nghệ thuật thơ Yên
Đổ trong mối liên hệ với các nhà thơ cùng thời.
14
Chƣơng 1
CƠ SỞ HÌNH THÀNH CẢM THỨC THỜI GIAN
TRONG THƠ NGUYỄN KHUYẾN
1.1. Cảm thức thời gian trong thơ ca trung đại
1.1.1. Giới thuyết chung về thuật ngữ “cảm thức thời gian”
Lịch sử tồn tại của thế giới vật chất đƣợc xác định qua ba chiều thời gian quá
khứ, hiện tại và tƣơng lai. Thời gian là một đại lƣợng vận hành thƣờng nhật trƣớc sau, tiền - hậu, đầu – đuôi, thủy – chung… Tuy không phải là yếu tố duy nhất giúp
cho việc cảm nhận và khám phá tâm hồn con ngƣời, nhƣng thời gian đã giúp cho
việc xác định rõ những thuộc tính của con ngƣời qua quá trình sinh tồn lâu dài và
tƣơng tác với thế giới xung quanh. Theo Từ điển Tiếng Việt (Tác giả Hoàng Phê)
định nghĩa: “Thời gian là một phạm trù triết học, cùng với không gian là hình thức
tồn tại của vật chất, của thế giới. Không có sự vật hiện tƣợng nào tồn tại ngoài nó,
chỉ trong thời gian và không gian thì sự vật mới có tính xác định” [54; tr.52]. Theo
đó, danh từ “thời gian” đƣợc hiểu là một đại lƣợng tồn tại khách quan của mọi vật
chất, mọi sự vật hiện tƣợng trong thế giới hiện hữu này. Sự tồn tại của con ngƣời
không thể không quan hệ đến bối cảnh không gian và lịch trình của thời gian. Sự
hiện hữu của thời gian luôn dung chứa vạn vật và con ngƣời cùng với các hiện
tƣợng tự nhiên, xã hội… Chính vì thế, trong cuộc đời của mình con ngƣời có thể
cảm nhận đƣợc sự tuần hoàn của thời gian, bƣớc đi của nó luôn và sẽ gắn liền với ý
thức của con ngƣời. Đó chính là ý thức trƣớc dòng chảy thời gian theo cảm xúc chủ
quan và nó trở thành một hiện tƣợng mang tính phổ quát trong hiện thực cũng nhƣ
trong sáng tác nghệ thuật.
Trong đời sống văn chƣơng, khi phác họa hoàn chỉnh chân dung ngƣời nghệ
sĩ, việc xem xét đánh giá những biểu hiện nhận thức trƣớc các dòng chảy thời gian
đƣợc chuyển hóa trong cảm xúc ý thức của chủ thể trữ tình qua sáng tác nghệ thuật
thực sự có ý nghĩa không kém phần quan trọng. Không chỉ nhận thức vòng quay
của tự nhiên, con ngƣời cũng ý thức rất rõ về vòng đời. Việc đo đếm, xác định sự
vận động của tự nhiên theo một chu kì để phục vụ cho lao động sản xuất, con ngƣời
15
cũng đồng thời nhận thấy tác động của nó đối với đời sống. Họ tính toán các ngày
tháng lành, ngày hung tháng hạn để dự tính làm những việc quan trọng: đi xa, cƣới
vợ, làm nhà… Ngƣời ta cũng đã chứng minh các ngày đặc biệt: thảm họa từ thiên
nhiên, sự thay đổi triều đại, tai nạn lớn… đều có liên quan đến các dấu hiệu khác
thƣờng trên bầu trời.
Từ xa xƣa, con ngƣời đã nhận thức thời gian (cùng với không gian) chính là
hình thức tồn tại của thế giới vật chất, không một vật thể nào có thể tồn tại ngoài
thời gian. Trong Các phạm trù văn hóa trung cổ (1996), A.JA. Gurevich nhấn
mạnh: “Khó mà tìm đƣợc tiêu chí, khắc họa đầy đủ bản chất của văn hóa nhƣ là
khái niệm thời gian. Trong khái niệm thể hiện đầy đủ cảm quan và thế giới của thời
đại, hành vi của con ngƣời, ý thức của nó, nhịp của cuộc sống, thái độ đối với sự
vật”[17; tr.98]. Nhận thức này là cơ sở khách quan để đi đến khái niệm phần nào
mang tính chủ quan: cảm thức thời gian.
“Cảm thức thời gian” là một khái niệm thuộc lĩnh vực tâm lý học chuyên sâu.
Trong nghiên cứu văn học, các nhà phê bình đã vay mƣợn cách nói này để định
hình cho một lối cảm nhận thời gian tâm lí thƣờng tồn tại trong tác phẩm nghệ
thuật. Từ góc nhìn tâm lý học, cảm thức là phƣơng cách mà con ngƣời nhận thức,
đánh giá, xem xét một vấn đề thông qua con mắt chủ quan, bằng chính cảm nhận
của mình chứ không phụ thuộc vào bất kì một ai khác. Trong văn học, thời gian
khách quan đƣợc phản chiếu khi đi vào tác phẩm thông qua lăng kính cảm nhận của
nhà văn, do đó nó đã có sự biến chuyển và không còn là chính mình. Ngƣời ta có
thể thấy thời gian nhanh nhƣ thoi đƣa, hoặc chậm đến nỗi một ngày nhƣ nghìn thu
(Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại); Hoặc thời gian không còn là một khái niệm
trừu tƣợng mà có khi tồn tại ở dạng cụ thể nhƣ hƣơng vị, nhƣ màu sắc, nhƣ vật thể
hiện hữu. Thời gian đƣợc cảm nhận không phải bằng các đại lƣợng vật lý thông
thƣờng nhƣ giây, phút, giờ, tháng, năm… mà bằng chính cảm xúc mang rất rõ yếu
tố chủ quan của con ngƣời. Chẳng hạn khi Nguyễn Du cảm nhận bƣớc đi của thời
gian bằng những hình ảnh đầy sắc màu suy cảm: “Sen tàn cúc lại nở hoa,/ Sầu dài
ngày ngắn, đông đà sang xuân” (Truyện Kiều). Không chỉ diễn giải bốn mùa trôi
chảy trong một năm. Mùa hạ -> mùa thu -> mùa đông -> mùa xuân, Nguyễn Du còn
16
diễn tả dòng thời gian gắn với màu sắc tâm lý “dài ngắn, nhanh chậm” trong dòng
chảy tuyến tính. Tâm trạng trong trong cảnh li biệt và những xúc cảm buồn bã có
thể làm cho con ngƣời ta cảm thấy thời gian trôi đi thật lâu: “Ngày vui ngắn chẳng
tày gang” hoặc “Ba thu dồn lại một ngày dài ghê” (Nguyễn Du). Khi chủ thể trữ
tình mang nặng tâm tƣ trƣớc thời gian khách quan thì thời gian có thể ngƣng đọng
hoặc hoặc trôi nhanh theo cảm nhận của tâm thức. Thời gian đời ngƣời, đối với mỗi
cá nhân mà nói, cũng khác nhau hoàn toàn. Do đó, tâm lý là một trong những yếu
quan trọng ảnh hƣởng đến sự cảm thức thời gian của con ngƣời.
Trong sáng tạo nghệ thuật, thời gian đƣợc cảm nhận và biểu đạt qua quy trình
tâm lý con ngƣời. Thời gian trong cảm thức của con ngƣời nhƣ một cơ thể sống với
các trạng thái cảm xúc phong phú đa dạng, phức tạp đƣợc mở rộng đƣờng biên với
các chiều kích để đánh dấu những phút giây, sự kiện đặc biệt trong cuộc sống của
cá nhân hoặc thời đại. Thời gian luôn tồn tại khách quan, nhƣng đối với mỗi cá
nhân, thời gian lại mang màu sắc, dấu ấn riêng biệt chủ quan của từng cá thể. Cùng
tồn tại trong dòng chảy thời gian, nhƣng mỗi ngƣời nghệ sĩ lại cảm nhận sự trôi
chảy đó bằng nhận thức và quan niệm riêng, in đậm dấu ấn cá nhân. Các thi nhân
đời Đƣờng khi đứng trƣớc vũ trụ bao la, họ luôn mẫn cảm, suy nghiệm cảm nhận
đƣợc sự vô hạn của không gian và sự hữu hạn của kiếp ngƣời. Trần Tử Ngang lắng
nghe thời gian trôi chảy qua tâm thức của một con ngƣời vũ trụ:
Tiền bất kiến cổ nhân,
Hậu bất kiến lai giả.
Niệm thiên địa chi du du,
Độc đƣơng nhiên nhi lệ hạ.
Dịch thơ
(Trƣớc chẳng thấy ngƣời xƣa,
Sau chẳng thấy ngƣời nay.
Ngẫm trời đất thật vô cùng,
Riêng lòng đau mà lệ xót)
(Đăng U Châu đài ca)
Cái quá vãng của thời trƣớc, cái hối hả đến gần của tƣơng lai và cái hiện tồn
cô độc đƣợc Trần Tử Ngang “dồn nén” trong khoảnh khắc cảm nhận qua tấm lòng
- Xem thêm -