ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
Nguyễn Thành Nam
Tên đề tài:
NGHIÊN CỨU CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ
TRANG TRẠI HUYỆN ĐẠI TỪ TỈNH THÁI NGUYÊN
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
Chuyên nghành: Kinh tế nông nghiệp
Mã số: 60 - 31 - 10
Thái Nguyên, năm 2008
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
Nguyễn Thành Nam
Tên đề tài:
NGHIÊN CỨU CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG
TRẠI HUYỆN ĐẠI TỪ TỈNH THÁI NGUYÊN
Chuyên nghành: Kinh tế nông nghiệp
Mã số: 60 - 31 - 10
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
NÔNG NGHIỆP
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM THỊ LÝ
Thái Nguyên, năm 2008
Lêi cam ®oan
- Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
- Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã
được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn
gốc.
Tác giả
Nguyễn Thành Nam
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận
được sự giúp đỡ tận tình của nhiều tập thể, cá nhân. Nhân dịp này tôi xin bày tỏ
lòng biết ơn đến:
Tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn tới tất cả các thầy, cô giáo Trường Đại
học kinh tế và quản trị kinh doanh Thái Nguyên và khoa sau Đại học đã dạy bảo,
giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với cô giáo TS Phạm Thị Lý, người
đã tận tình hướng dẫn dìu dắt tôi trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn cán bộ, nhân viên phòng Nông nghiệp và PTNT,
phòng Thống kê, UBND các xã, thị trấn và các hộ trang trại trên địa bàn huyện Đại
Từ đã nhiệt tình giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình nghiên cứu
đề tài.
Tôi vô cùng biết ơn gia đình, đồng nghiệp và các bạn gần xa đã giúp đỡ
động viên tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2008
Tác giả
Nguyễn Thành Nam
danh môc c¸c b¶ng
STT
Tªn b¶ng
Trang
Biểu 01
Diện tích của huyện theo cấp độ cao tuyệt đối và độ dốc
43
Biểu 02
Tình hình sử dụng đất đai của huyện Đại Từ
44
Biểu 03a
Một số chỉ tiêu cơ bản về kinh tế – xã hội huyện Đại Từ
46
Biểu 03b
Tình hình sản xuất ngành nông nghiệp
48
Biểu 04
Tổng số các trang trại và phân loại trang trại theo loại hình
50
sản xuất
Biểu 05
Kết quả sản xuất kinh doanh năm 2007 của trang trại
Biểu 06
Hiện trạng sử dụng đất trang trại năm 2007
Biểu 7
Phân loại trang trại theo quy mô sử dụng đất
Biểu 8
Vốn sản xuất của trang trại năm 2007
Biểu 9
Tình hình sử dụng lao động của các trang trại
Biểu 10
Thành phần xuất phát các chủ trang trại
Biểu 11
Chi phí sản xuất của các trang trại
Biểu 12
51
56
58
61
63
65
69
76
Tổng thu bình quân của một trang trại năm 2007 huyện Đại Từ
Biểu số 13 Thu nhập từ sản xuất Nông - Lâm - Nghiệp bình quân trang
78
trại điều tra năm 2007.
Biểu 14
Mức thu nhập bình quân lao động trong tuổi và nhân khẩu
của các trang trại năm 2007
82
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong số những thành tích đạt được của công cuộc đổi mới nền kinh tế
đất nước, trong thời gian qua, có thể nói nông nghiệp là một ngành đã có
những bước đột phá ngoạn mục. Thu nhập của nông dân không ngừng tăng
lên, bộ mặt nông thôn được cải thiện đáng kể. Sản xuất nông nghiệp đã đảm
bảo an toàn lương thực cho đời sống xã hội.
Thế nhưng, sự phát triển ấy so với yêu cầu phát triển kinh tế chung trong
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế mạnh mẽ như hiện nay thì vẫn còn quá thấp và nhỏ bé. Cho
đến bây giờ, nông nghiệp Việt Nam vẫn là một nền sản xuất kém hiệu quả và
thiếu tính hợp lý. Cần phải hình thành và phát triển những hình thức sản xuất
phù hợp hơn, mà trong đó, kinh tế trang trại là một mô hình tốt có thể áp dụng
để đáp ứng yêu cầu này.
Đã manh nhà từ rất lâu, nhưng chỉ trong khoảng chục năm trở lại đây,
vai trò của kinh tế trang trại mới thực sự được công nhận và được quan tâm
chú ý, đặc biệt là sau khi Nghị quyết số 03/2000/NQ- CP của Chính phủ ngày
2/2/2000 về kinh tế trang trại ra đời thì kinh tế trang trại mới thực sự được
một sự trợ giúp của Nhà nước về cơ chế, chính sách như là hỗ trợ cho các
doanh nghiệp thông thường của nền kinh tế thị trường. Sự tăng nhanh về số
lượng, gia tăng về giá trị sản lượng đã chứng tỏ đây là một mô hình tổ chức
sản xuất nông nghiệp phù hợp với đặc thù kinh tế nông nghiệp, nông thôn
nước ta, giúp nông dân làm giàu, tăng thu nhập cho bản thân họ và cho xã hội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
2
Không có điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế trang trại với quy mô
đất đai lớn như ở vùng đồng bằng Sông Hồng hay vùng đồng bằng phía nam,
nhưng tỉnh Thái Nguyên là tỉnh miền núi phía Bắc là nơi có nhiều điều kiện
ưu đãi về điều kiện tự nhiên, điều kiện khí hậu…đặc biệt là vùng có truyền
thống sản xuất nông nghiệp lâu đời, trình độ thâm canh của người dân tương
đối cao. Huyện Đại Từ là một huyện miền núi của tỉnh Thái Nguyên trong
những năm qua sản xuất nông nghiệp của huyện đã đạt được nhiều tiến bộ
quan trọng Nhưng để ngành nông nghiệp của huyện đáp ứng được yêu cầu
phát triển trong thời kỳ mới thì phải hợp lý hoá, hiệu quả hoá sản xuất nông
nghiệp nhằm khai thác một cách triệt để tiềm năng về đất đai cũng như khả
năng lao động của con người vùng miền núi này và mô hình kinh tế trang trại
là phù hợp hơn cả. Những năm qua kinh tế trang trại của huyện đã có nhiều
thành tích đáng khích lệ, nhưng thật sự vẫn chưa phát triển tương xứng với
tiềm năng của nó. Câu hỏi đặt ra là: Khả năng phát triển kinh tế trang trại của
vùng đến đâu? làm sao để mô hình được áp dụng đem lại hiệu quả kinh tế xã
hội cao nhất? Trả lời cho câu hỏi này chính là mục đích của đề tài: "Nghiên cứu
các giải pháp phát triển kinh tế trang trại huyện Đại Từ đến năm 2010"
2. Mục tiêu nghiên cứu:
- Mục tiêu chung:
+ Phấn đấu có 100 trang trại vào năm 2010, phấn đấu 50% số trang trại
sản xuất kinh doanh chuyên ngành, chuyên môn hoá cao.
+ Hình thành rõ nét các loại hình trang trại như sau: Chăn nuôi gia súc,
gia cầm quy mô vừa, tiến tới quy mô lớn. Chuyên sản xuất giống. Chuyên sản
xuất chè chất lượng cao. Sản xuất, kinh doanh cây trồng, vật nuôi đặc sản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
3
+ Giá trị sản xuất của loại hình kinh tế trang trại đạt từ 2 - 3% tổng giá trị
sản xuất nông nghiệp, tạo nên nguồn sản phẩm hàng hoá chính hướng tới xuất
khẩu.
+ Thu nhập bình quân 100 triệu đồng/năm/trang trại, thu nhập người lao
động đạt 1 triệu đồng/tháng.
+ Tạo điển hình tiên tiến về thâm canh, chuyên môn hoá, ứng dụng khoa
học công nghệ mới trong sản xuất nông nghiệp.
+ Phấn đấu 100% các chủ trang trại nâng cao tay nghề.
- Mục tiêu cụ thể: Nghiên cứu thực trạng phát triển kinh tế trang trại và
các yếu tố ảnh hưởng đến kinh tế trang trại, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp
nhằm phát triển kinh tế trang trại Huyện Đại Từ, vừa nâng cao thu nhập vừa
giải quyết các vấn đề về xã hội và môi trường.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
3.1. Đối tượng: Các trang trại Huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên. Nghiên
cứu các vấn đề kinh tế- xã hội có liên quan đến việc phát triển kinh tế trang
trại của huyện Đại Từ, trong đó tập trung phân tích hiệu quả kinh tế, phân tích
những tồn tại và đề xuất các giải pháp phát triển kinh tế trang trại huyện Đại
Từ tỉnh Thái Nguyên.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi không gian: Đề tài được tiến hành tập trung nghiên cứu tại 80
trang trại trên địa bàn huyện Đại Từ.
+ Phạm vi thời gian: Tác giả tiến hành thu thập số liệu điều tra từ năm
2006-2007.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
4
+ Phạm vi nội dung: Xung quanh vấn đề phát triển kinh tế trang trại trên
địa bàn huyện Đại Từ còn nhiều vấn đề cần tiếp cận nghiên cứu. Tuy nhiên do
hạn chế về thời gian và trình độ nên tác giả chỉ tiến hành nghiên cứu, đánh giá
sự phát triển của các trang trại.
4 - Kết cấu của luận văn: Ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo,
phụ lục luận văn được chia thành 3 chương cụ thể như sau:
Chƣơng 1: Cơ sở khoa học và phương pháp nghiên cứu:
Chƣơng 2: Tình hình phát triển kinh tế trang trại huyện Đại Từ trong
thời gian qua.
Chƣơng 3: Các giải pháp để phát triển kinh tế trang trại huyện Đại Từ
từ nay đến năm 2010.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
5
CHƢƠNG I
CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
A. Cơ sở khoa học:
I. Cơ sở lý luận:
1. Quan niệm về kinh tế trang trại:
Xuất hiện cách đây khoảng hơn 200 năm, cho đến những năm cuối thế
kỷ XX, kinh tế trang trại mà đặc biệt là trang trại gia đình đã trở thành mô
hình sản xuất phổ biến nhất của nền nông nghiệp các nước phát triển, chiếm
tỷ trọng lớn tuyệt đối về đất đai cũng như khối lượng nông sản, đặc biệt ở các
nước Anh, Pháp, Nga nơi bắt đầu cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đầu tiên
của nhân loại.
Trải qua hàng mấy thế kỷ đến nay kinh tế trang trại tiếp tục phát triển ở
những nước tư bản chủ nghĩa lâu đời cũng như các nước đang phát triển, các
nước công nghiệp mới và đi vào những xã hội chủ nghĩa với cơ cấu và quy
mô sản xuất khác nhau.
Tại Việt Nam, kinh tế trang trại phát triển muộn, chỉ từ sau Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VI, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần được thừa nhận và đặc
biệt là từ sau khi có Nghị quyết 10 của Bộ chính trị (4/98) về đổi mới quản lý
kinh tế Nhà nước, kinh tế hộ nông dân mới từng bước phục hồi và phát triển,
phần lớn họ trở thành những chủ thể tự sản xuất. Cùng với các hộ gia đình
công nhân viên chức làm nông nghiệp, lại có tích lũy về vốn, kinh nghiệm sản
xuất và kinh nghiệp quản lý, tiếp cận được với thị trường, thì sản xuất nông
nghiệp mới thoát khỏi cái vỏ tự cấp, tự túc và vươn tới nền sản xuất hàng.
Kinh tế trang trại ra đời.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
6
Cho đến nay, quan điểm về kinh tế trang trại vẫn được trình bày theo
nhiều khía cạnh khác nhau.
2- Bản chất của kinh tế trang trại:
Trong lịch sử phát triển của nông nghiệp các nước trên thế giới cũng
như ở nước ta đã từng tồn tại các hình thức sản xuất nông nghiệp mang tính
tập trung được tiến hành trên một quy mô diện tích ruộng đất đủ lớn nhằm sản
xuất ra khối lượng nông sản phẩm lớn hơn so với hình thức sản xuất nông
nghiệp truyền thống, phân tán trên những diện tích ruộng đất nhỏ.
Trong phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư bản, các hình thức sản
xuất nông nghiệp tập trung đã tồn tại ở nhiều nước. Thời đế quốc La Mã đã có
sản xuất nông nghiệp tập trung với lực lượng sản xuất chủ yếu là tù binh và
nô lệ. Thời phong kiến ở Châu Âu có các hình thức: Lãnh địa phong kiến và
trang viên. ở Trung Quốc thời nhà Hán đã có hoàng trang, điền trang, đồn
điền, gia trang. ở Việt Nam thời kỳ Lý, Trần, Lê, Nguyễn... có điền trang, ấp,
đồn điền .vv...
Các hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung trong các phương thức sản
xuất trước chủ nghĩa tư bản nêu trên có những điểm chung chủ yếu sau:
- Về mục đích sản xuất, các hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung nói
trên đều sản xuất ra khối lượng nông sản phẩm lớn hơn so với hình thức sản
xuất nông nghiệp truyền thống phân tán trên những diện tích ruộng đất nhỏ,
song đều nhằm mục đích tự cung, tự cấp để đảm bảo nhu cầu tiêu dùng trực
tiếp. Việc trao đổi sản phẩm chỉ thực hiện với bộ phận sản xuất vượt qúa nhu
cầu tiêu dùng trực tiếp của những người chủ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
7
- Về sở hữu, có những hình thức sản xuất dựa trên sở hữu nhà nước như:
Các khu sản xuất nông nghiệp tập trung thời đế chế La Mã; hoàng trang và
đồn điền trong các triều đại phong kiến ở trung Quốc; dồn điền thời Lê,
Nguyễn ở Việt Nam....Đồng thời cũng có những hình thức sở hữu riêng của
một người như Lãnh địa phong kiến và trang viên ở Châu Âu, điền trang, gia
trang ở Trung Quốc, Việt Nam...
Trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, sự tác động và chi phối
của cơ chế thị trường, trình độ phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất và
sự thay đổi lớn lao của quan hệ sản xuất xã hội đã tạo ra những điều kiện và
động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất nông nghiệp tập trung chuyển lên một
trình độ mới cao hơn với những biến đổi cơ bản về kinh tế, tổ chức và kỹ
thuật sản xuất so với các hình thức sản xuất nông nghiệp mang tính tập trung
trước chủ nghĩa tư bản.
Những biến đổi có ý nghĩa quyết định dẫn đến sự thay đổi về chất của
hình thức sản xuất nông nghiệp mang tính tập trung trong phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa bao gồm:
- Sự biến đổi về mục đích sản xuất chuyển từ tự cung, tự cấp là chủ yếu
sang sản xuất hàng hoá. Nông sản phẩm sản xuất ra trước đây chủ yếu là để
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trực tiếp của những người chủ, thì nay trong điều
kiện kinh tế thị trường, được sản xuất ra chủ yếu là để bán nhằm tăng thu
nhập và lợi nhuận.
- Sự biến đổi về mặt sở hữu: Nếu như trong các phương thức sản xuất trước
chủ nghĩa tư bản có những hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung dựa trên sở
hữu nhà nước, có những hình thức dựa trên sở hữu riêng của một người chủ độc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
8
lập, thì nay trong điều kiện kinh tế thị trường hình thức sản xuất nông nghiệp tập
trung về cơ bản là dựa trên quyền sở hữu tư liệu sản xuất của một chủ độc lập.
- Sự thay đổi về cách thức tổ chức sản xuất và kỹ thuật sản xuất: Do mục
đích sản xuất hàng hoá nên ở đây sản xuất được tổ chức theo phương thức
tiến bộ hơn với kỹ thuật sản xuất cao hơn hẳn so với sản xuất nông nghiệp
mang tính tập trung trong các phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư bản.
- Trong thời kỳ Pháp thuộc cùng với sự phát triển của các đồn điền tư
bản tư nhân, những ấp trại vơi các quy mô khác nhau dựa trên sở hữu tư nhân
và có mục đích chính là sản xuất nông sản phẩm để bán đã xuất hiện trên
nhiều vùng.
Ngày nay trong điều kiện kinh tế thị trường, ngôn ngữ các nước đều có
những thuật ngữ để chỉ hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung với những
biến đổi cơ bản so với các hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung trong các
phương thức sẳn xuất trước chủ nghĩa tư bản như đã nêu khi chuyển sang
tiếng Việt thường được dịch là "Trang trại" hay " Nông trại".
“Trang trại" hay " Nông trại" thì có thể hiểu đó là những khu đất tương
đối lớn. Ở đó sản xuất nông nghiệp được tiến hành có tổ chức dưới sự chỉ huy
của một người chủ mà phần đông là chủ gia đình nông dân bao gồm cả nông
dân trong giai đoạn nông nghiệp đi vào sản xuất hàng hoá và từng bước gắn
liền với kinh tế thị trường.
Như vậy có thể thấy rằng trong điều kiện kinh tế thị trường về bản chất
"Trang trại" hay " Nông trại" là thuật ngữ gắn liền với hình thức sản xuất
nông nghiệp mang tính tập trung trên một diện tích ruộng đất đủ lớn nhằm sản
xuất nông sản phẩm hàng hoá với quy mô gia đình là chủ yếu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
9
Tại Việt Nam, trong những năm đổi mới, kinh tế trang trại đã hình thành
và phát triển nhanh trên nhiều vùng, đặc biệt là các vùng có bình quân ruộng
đất tính theo đầu người cao. Sự hình thành và phát triển kinh tế trang trại ở
nước ta những năm qua là nhờ đường lối đổi mới của Đảng mà mốc quan
trọng có ý nghĩa hết sức to lớn là Nghị quyết 10/NQ-TW ngày 5- 4-1988 của
Bộ Chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp và sau đó là chính sách
giao ruộng đất ổn định cho hộ nông dân. Việc trả lại địa vị tự chủ về kinh tế
cho hộ nông dân và việc giao ruộng đất cho hộ nông dân sử dụng ổn định và
lâu dài là cơ sở quan trọng cho kinh tế trang trại mà chủ yếu là trang trại gia
đình ra đời và phát triển ở nước ta trong những năm qua.
3. Khái niệm về kinh tế trang trại
Trong những năm gần đây ở nước ta cơ quan nghiên cứu, cơ quan quản
lý Nhà nước và nhiều nhà khoa học, nhà quản lý đã quan tâm nghiên cứu về
kinh tế trang trại. Một trong những vấn đề được đề cập nhiều là khái niệm về
kinh tế trang trại.
Các cơ quan, các nhà khoa học và quản lý khi nghiên cứu kinh tế trang
trại hầu như đều đưa ra khái niệm về kinh tế trang trại và coi đó là điểm xuất
phát để nghiên cứu về kinh tế trang trại. Tìm hiểu các khái niệm về kinh tế
trang trại đã được đưa ra trong những năm qua, tuy nhiên các ý kiến chưa có
sự thống nhất.
Về thực chất, "Trang trại" và "Kinh tế trang trại" là những khái niệm
không đồng nhất. Kinh tế trang trại là tổng thể các yếu tố vật chất của sản
xuất và các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình tồn tại và hoạt động của
trang trại; còn trang trại là nơi kết hợp các yếu tố vật chất của sản xuất và là
chủ thể của các mối quan hệ kinh tế đó.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
10
Như vậy, nói kinh tế trang trại là nói mặt kinh tế của trang trại. Ngoài
mặt kinh tế, còn có thể nhìn nhận trang trại từ mặt xã hội và mặt môi trường.
Về mặt xã hội, trang trại là một tổ chức cơ sở của xã hội, trong đó có các
quan hệ xã hội đan xen nhau: Quan hệ giữa các thành viên của hộ trang trại,
quan hệ giữa chủ trang trại và những người lao động thuê ngoài, quan hệ giữa
người lao động làm thuê cho chủ trang trại với nhau...
Về mặt xã môi trường, trang trại là một không gian sinh thái, trong đó
diễn ra các quan hệ sinh thái đa dạng. Không gian sinh thái trang trại có quan
hệ chặt chẽ và ảnh hưởng qua lại trực tiếp với hệ sinh thái của vùng.
Như vậy có thể thấy khái niệm trang trại rộng hơn khái niệm kinh tế
trang trại. Tuy nhiên trong các mặt kinh tế, xã hội và môi trường của trang trại
thì mặt kinh tế là mặt cơ bản chứa đựng những nội dung cốt lõi của trang trại.
Vì vậy trong nhiều trường hợp khi nói tới kinh tế trang trại, tức nói tới mặt
kinh tế của trang trại, người ta gọi tắt là trang trại.
Vậy khái niệm trang trại về mặt kinh tế như thế nào? Khái niệm này phải
thể hiện đươc những nét bản chất về kinh tế, tổ chức và kỹ thuật sản xuất của
trang trại trong điều kiện kinh tế thị trường.
Trước hết, trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông,
lâm, ngư nghiệp.
Trang trại là hình thức tổ chức sản xuất cơ sở vì trang trại là đơn vị trực
tiếp sản xuất ra những sản phẩm vật chất cần thiết cho xã hội, bao gồm nông,
lâm, thuỷ sản, đồng thời quá trình kinh tế trong trang trại là quá trình khép kín
với các khâu của quá trình tái sản xuất luôn kế tiếp nhau, bao gồm sản xuất
phân phối, trao đổi, tiêu dùng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
11
Trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất cơ sở là vì trong nông, lâm,
ngư nghiệp ngoài trang trại ra còn có những hình thức tổ chức sản xuất cơ sở
khác như: Nông, lâm trường quốc doanh, kinh tế hộ nông dân...
Là một hình thức tổ chức sản xuất, trang trại không phải là một thành
phần kinh tế và theo cách phân định thành phần kinh tế như hiện nay thì các
chủ thể kinh tế thuộc các thành phần kinh tế hoạt động sản xuất kinh doanh
nông nghiệp đều có thể chọn hình thức tổ chức sản xuất theo kiểu trang trại
nếu có đủ điều kiện.
Như vậy trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông,
lâm, ngư nghiệp là phù hợp vì quan niệm nêu trên đảm bảo đầy đủ các nguyên
tắc quy định.
Mặt khác trang trại còn có những đặc điểm riêng mà nó phân biệt với các
hình thức sản xuất cơ sở khác trong nông lâm, ngư nghiệp đó là: Mục đích
sản xuất của trang trại là sản xuất hàng hoá. Đó là điểm cơ bản của trang trại
được tập trung với quy mô nhất định theo yêu cầu của sản xuất hàng hoá; Các
yếu tố vật chất của sản xuất, trước hết là ruộng đất và tiền vốn trong trang trại
được tập trung với quy mô nhất định theo yêu cầu của sản xuất hàng hoá; Tư
liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của một chủ độc lập.
Tư liệu sản xuất ở trang trại hoặc thuộc quyền sở hữu của người chủ độc lập,
hoặc quyền sử dụng của người chủ độc lập nếu tư liệu sản xuất đi thuê hoặc
được giao quyền sử dụng; Trang trại hoàn toàn tự chủ trong các sản xuất kinh
doanh, từ việc lựa chọn phương hướng sản xuất, quyết định kỹ thuật và công
nghệ sản xuất, tổ chức sản xuất, đến tiếp cận thị trường và tiêu thụ sản phẩm..;
Chủ trang trại là người có ý chí và năng lực, có kiến thức và kinh nghiệm về
sản xuất nông nghiệp và thường là người trực tiếp quản lý trang trại; Trang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
12
trại có nhu cầu cao hơn nông hộ về ứng dụng KHKT, tiếp cận thị trường, thuê
mướn lao động và đều có thu nhập vượt trội hơn...
Từ những nhận thức như trên. PGS.PTS Lâm Quang Huyên, Viện quy
hoạch và thiết kế nông nghiệp cho rằng: "Kinh tế trang trại là loại hình cơ sở
sản xuất nông nghiệp, hình thành và phát triển trong nền kinh tế thị trường từ
khi phương thức này thay thế phương thức sản xuất phong kiến. Trang trại
được hình thành các hộ tiểu nông sau khi phá bỏ cái vỏ tự cấp, tự túc khép
kín, vươn lên sản xuất nhiều nông sản hàng hoá tiếp cận với thị trường, từng
bước thích nghi với nền kinh tế thị trường".1
Khái niệm này đã chỉ đúng bản chất sản xuất hàng hoá của kinh tế trang
trại nhưng lại sai lầm khi cho rằng nguồn gốc của các trang trại chỉ là xây
dựng từ kinh tế của các hộ tiểu nông.
Trong Nghị quyết số 03/2000/NQ - CP ngày 2/2/2000 về kinh tế trang
trại, Chính phủ ta đã thống nhất nhận thức về kinh tế trang trại như sau: "Kinh
tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp, nông
thôn, chủ yếu dựa vào hộ gia đình, nhằm mở rộng quy mô và nâng cao hiệu
quả sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, trồng
rừng, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông, lâm, thuỷ sản".2
Khái niệm này khá đầy đủ, nêu ra được cơ sở, chức năng, hình thức sản
xuất của trang trại nhưng hiện nay trong nền kinh tế thị trường sản phẩm của
trang trại mang tính hàng hoá và đáp ứng nhu cầu thị trường. Chính vì vậy
năm 2004 các giảng viên của Trường Đại học kinh tế Quốc dân đã có quan
điểm: "Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông, lâm,
Báo cáo chuyên đề: "Chính sách phát triển kinh tế trang trại và tác động của nó đến việc và thu nhập của lao
động nông thôn" - Viện Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp- năm 2002.
1
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
13
ngư nghiệp, có mục đích chủ yếu là sản xuất hàng hoá, tư liệu sản xuất thuộc
quyền sở hữu hay thuộc quyền sử dụng của một chủ thể độc lập, sản xuất được
tiến hành trên quy mô ruộng đất và các yếu tố sản xuất được tập trung đủ lớn
với cách tổ chức quản lý tiến bộ và trình độ kỹ thuật cao, hoạt động tự chủ và
luôn gắn với thị trường".3
Đây chính là khái niệm đầy đủ về kinh tế trang trại.
4. Vai trò của kinh tế trang trại đối với phát triển kinh tế - xã hội.
Bất kỳ một hình thức sản xuất nào cũng gây ảnh hưởng đến đời sống
kinh tế xã hội nói chung. Là một thực thể kinh tế, các trang trại hình thành và
phát triển đã có những đóng góp không nhỏ cả về mặt tăng trưởng kinh tế và
phát triển xã hội, làm thay đổi bộ mặt nông nghiệp, nông thôn.
4.1. Phát triển kinh tế trang trại là một tất yếu của quá trình phát triển
sản xuất nông nghiệp - nông thôn.
Các ngành sản xuất đều có xu hướng tích luỹ về vốn và các yếu tố sản
xuất khác: Tư liệu, lao động, kinh nghiệm, trình độ quản lý... Trong nông
nghiệp cũng vậy. Những năm cuối thế kỷ 17 ở các nước bắt đầu công nghiệp
hoá đã có chủ trương chính thúc đẩy các quá trình tập trung ruộng đất, xây
dựng các xí nghiệp nông nghiệp tư bản quy mô lớn với hy vọng mô hình này
sẽ tạo ra nhiều nông sản tập trung với giá rẻ hơn sản xuất gia đình phân tán.
Lúc đầu Marx cùng cho rằng đây là điều tất yếu trong quá trình công nghiệp
hoá nền nông nghiệp tư bản chủ nghĩa nhưng trong tác phẩm cuối của mình
2
Nghị quyết số 03/NQ-CP ngày 22/2/2000 của chính phủ về việc kinh tế trang trại.
3
Thực trạng và các giải pháp phát triển kinh tế trang trại trong thời kỳ đổi mới công nghiệp hoá-hiện đại hoá
ở Việt Nam- Nhà xuất bản quốc gia - năm 2000.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
14
ông đã viết: "Ngay ở nước Anh nền công nghiệp phát triển, hình thức sản xuất
có lợi nhất không phải là các Xí nghiệp nông nghiệp quy mô lớn mà là các
trang trại gia đình không dùng lao động làm thuê". 4 Sở dĩ như vậy là vì sản
xuất nông nghiệp có đặc trưng khác với công nghiệp ở chỗ là phải tác động
vào những vật sống (cây trồng, vật nuôi) nên không phù hợp với hình thức tổ
chức sản xuất tập trung quy mô quá lớn.
Công cuộc đổi mới kinh tế và đổi mới nông nghiệp của Việt Nam mới
bắt đầu cách đây gần hai chục năm. Cơ chế thị trường không chỉ tác động
mạnh mẽ đến hoạt động của các ngành nông nghiệp, dịch vụ mà còn làm thay
đổi căn bản mục đích và do đó thay đổi cả phương thức sản xuất trong nông
nghiệp. Sự phát triển của trao đổi hàng hoá đặt ra yêu cầu làm ra sản phẩm
phải là hàng hoá với giá cả hợp lý và chất lượng đảm bảo hơn. Không chỉ là
các nông trại lớn, ngay cả các đơn vị sản xuất nhỏ như hộ gia đình cũng hiểu rõ
mục đích sản xuất của mình: Sản phẩm để bán chứ không phải để tiêu dùng.
Khi nông nghiệp đã có một bước chuyển mình đáng kể, nhiều hộ nông
dân đã giàu lên, nhận thức và hiểu biết về khoa học kỹ thuật ngày càng sâu
sắc, kinh nghiệm và khả năng quản lý, tổ chức sản xuất ngày càng được nâng
cao, vốn tích luỹ đạt đến một mức độ nhất định, thì cũng là lúc người kinh
doanh nông nghiệp phải nghĩ đến một hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp
mới, có quy mô lớn hơn, tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Thế là họ bỏ vốn, lập nên
các trang trại, thuê nhân công và hoạt động như một nhà kinh doanh thật sự.
Nhận thức được vai trò quan trọng của kinh tế trang trại trong phát triển
kinh tế nói chung, phát triển nông ngiệp - nông thôn nói riêng, Chính phủ đã
có khá nhiều văn bản quan trọng về các vấn đề: Đất đai cho trang trại, vốn sản
4
Kmarx. Toàn tập, tập 25, phần 2
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
15
xuất cho trang trại, hỗ trợ khâu cung ứng đầu vào, đầu ra... Có thể nói, chưa
bao giờ kinh tế trang trại được quan tâm đúng mức như những năm gần đây.
Tuy vậy, kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển từ một nền kinh tế
tự cung tự cấp sang một nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị
trường, sự quá độ của nền kinh tế lại quy định tính đa dạng của nó, về trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, về sở hữu tư liệu sản xuất... Tính không
đồng đều về trình độ sản xuất, một mặt dẫn tới những hình thức tổ chức sản
xuất khác nhau, mặt khác, dẫn tới sự không thống nhất của mỗi hình thức tổ
chức sản xuất. Do vậy trang trại nước ta cũng không thể thuần nhất khi mà
kinh tế còn trong thời gian quá độ. Đó cũng là một quy luật phát triển như quy
luật phát triển của các mô hình sản xuất khác mà thôi.
Như vậy, kinh tế trang trại là một thực thể khách quan, xuất hiện như là
kết quả của quá trình tích luỹ về vốn, kinh nghiệm, năng lực của người chủ
sản xuất, do tác động của cơ chế thị trường, mà trong đó, trang trại gia đình (với
một số ưu thế riêng sẽ được xem xét ở phần sau) là mô hình được lựa chọn số 1.
4.2. Tác động của kinh tế trang trại đến sự phát triển của ngành sản
xuất nông nghiệp.
4.2.1. Phát triển kinh tế trang trại thúc đẩy chuyên môn hoá sản xuất và
chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp - nông thôn và phát triển kinh tế hàng hoá.
Như đã nói, đặc trưng của kinh tế trang trại là mức độ tập trung cao về
đất đai và tích luỹ lâu dài về vốn, đã dần tạo nên một quy mô vượt trội so với
sản xuất của hộ gia đình. Với riêng mỗi trang trại, trong giai đoạn đầu do còn
thiếu vốn và khả năng sản xuất cũng như kinh nghiệm quản lý, họ thường kết
hợp sản xuất nhiều loại nông sản khác nhau nhưng sau đó do sự tích luỹ về
các yếu tố vốn, đất đai, kinh nghiệm sản xuất thì các trang trại sẽ hướng theo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
16
một vài loại sản phẩm do đó quy mô của loại sản phẩm này cũng lớn lên. Do
ảnh hưởng của các lợi thế về quy mô, ta sẽ thấy các trang trại ở trong cùng
một vùng có điều kiện tự nhiên giống nhau sẽ trồng hay nuôi cùng một loại
cây, con như nhau, xây dựng các mô hình thâm canh, chuyên canh, tiếp cận
các biện pháp canh tác hiện đại, từ đấy các vùng chuyên canh, vùng chuyên
môn hoá hình thành, trở thành vùng cung cấp nguyên liệu rộng lớn cho các cơ
sở chế biến.
Đến khi sản xuất quy mô lớn lại đòi hỏi áp dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật vào sản xuất để làm ra sản phẩm với chi phí thấp, chất lượng cao và
đồng đều. Vì mục đích kinh tế trang trại là thị trường: Sản xuất cái gì, khối
lượng bao nhiêu, chất lượng ở mức độ nào... đều phải bắt kịp các tín hiệu của
thị trường. Vì thế các trang trại cũng thay đổi, hàm lượng khoa học kỹ thuật
trong sản phẩm nông nghiệp thậm chí tăng lên. Nhìn chung, kinh tế trang trại
sẽ tăng tỷ lệ chăn nuôi, giảm tỷ lệ trồng trọt, một số tiểu ngành như sản xuất
thực phẩm cao cấp, hoa kiểng... ngày càng phát triển, đem lại nguồn thu lớn.
4.2.2. Phát triển kinh tế trang trại sẽ làm tăng giá trị sản xuất nông nghiệp.
Lợi thế về quy mô của các trang trại (quy mô đất đai, quy mô lao động...)
giúp các trang trại tạo ra một khối lượng sản phẩm lớn. Trang trại có điều
kiện thuận lợi trong cả việc giảm giá thành các yếu tố đầu vào và cả trong
quản lý, tiêu thụ sản phẩm, đặc biệt là dễ dàng hơn khi áp dụng các tiến bộ
khoa học kỹ thuật, sử dụng máy móc, trang thiết bị hiện đại trong hoạt động
sản xuất. Với các hộ gia đình, chi phí cho các thiết bị này chiếm tỷ lệ quá lớn
so với thu nhập và giá trị sản phẩm làm ra, nên thông thường họ phải đi thuê,
tỷ suất lợi nhuận vì thế cũng thấp, khiến cho giá trị của cả ngành nông nghiệp
giảm theo.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
17
Cũng nhờ quy mô lớn, chuyên môn hoá cao, cùng với tính chất sản xuất
hàng hoá mà sản phẩm của trang trại là những sản phẩm có giá trị cao. Thông
thường thì người làm trang trại hiểu rõ mục đích sản xuất của mình là cung
cấp cho thị trường nên họ chỉ chọn kinh doanh những loại cây, con sao cho có
hiệu quả kinh tế cao, đáp ứng yêu cầu mà thị trường đòi hỏi. Hơn thế nữa, sản
phẩm làm ra thường có giá thành cạnh tranh, chất lượng đồng đều, có khả
năng cung cấp với khối lượng lớn nên thường dễ được các cơ cở chế biến và
người tiêu dùng chấp nhận. Giá trị sản phẩm cao không chỉ đem lại thu nhập
cho chủ trang trại mà trong phạm vi toàn ngành, nó sẽ là phần đóng góp đáng
kể để gia tăng giá trị ngành sản xuất nông nghiệp.
4.2.3. Phát triển kinh tế trang trại đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp - nông thôn.
Sản xuất nông nghiệp là đầu vào quan trọng của các ngành công nghiệp,
đặc biệt là công nghiệp chế biến. Rõ ràng là khối lượng, chất lượng, giá cả
nông sản cung cấp cho một nhà máy chế biến thực phẩm nào đó sẽ quyết định
tính cạnh tranh của sản phẩm nhà máy này. Không những thế, sản phẩm của
trang trại sẽ góp phần thúc đẩy các ngành công nghiệp cơ khí, công nghiệp
năng lượng trong các mối liên hệ ngược với các ngành này. Để làm ra sản
phẩm, các trang trại cần sử dụng máy móc, cần tiêu dùng năng lượng, cần
được cung cấp giống, phân bón, thuốc trừ sâu... Đó là không kể những trang
trại kinh doanh tổng hợp còn tự sơ chế, chế biến ngay tại chỗ. Yêu cầu này
cần được sự giúp đỡ của ngành công nghệ sinh học, công nghệ thực phẩm...
Mối quan hệ qua lại này chỉ ra rằng: Sự phát triển của ngành này là động lực
phát triển của ngành kia.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
18
Mặt khác, khi kinh tế trang trại phát triển nó sẽ đem lại thu nhập cho một
bộ phận nông dân, tiêu dùng của khu vực nông nghiệp - nông thôn tăng lên
kéo theo sự khởi sắc của ngành dịch vụ theo đúng quy luật của nền kinh tế thị trường.
Như vậy, kinh tế trang trại không chỉ là lực lượng xung kích đi đầu trong
lĩnh vực sản xuất nông sản hàng hoá, mà còn là lực lượng đi đầu trong ứng
dụng khoa học công nghệ nông nghiệp, do đó là nhân tố cơ bản cho quá trình
công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp - nông thôn nước ta. Điểm yếu
của công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn là tính chất lạc hậu, manh mún,
phân tán của sản xuất nông nghiệp nước ta nói chung, của tỉnh Thái Nguyên
và của huyện Đại Từ nói riêng (cho dù huyện Đại Từ vẫn là huyện có trình độ
thâm canh cao so với các huyện trong tỉnh Thái Nguyên) nên đã hạn chế khả
năng thay đổi cách thức sản xuất từ thủ công sang lao động bằng máy móc
hiện đại. Quy mô đất đai và vốn lớn của các trang trại sẽ khắc phục nhược
điểm này.
Nói chung, trong điều kiện kinh tế thị trường, với yêu cầu công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, nhất là khi Việt Nam đã là thành viên chính thức
của tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì mô hình kinh tế trang trại là một
hướng đi đầy triển vọng cho nông nghiệp Việt Nam. Chắc chắn trong tương
lai, sự phát triển của nông nghiệp huyện Đại Từ phải bao gồm cả sự phát triển
của mô hình kinh tế trang trại.
4.3. Phát triển kinh tế trang trại giải quyết đƣợc những vấn đề về
mặt xã hội và môi trƣờng.
4.3.1. Phát triển kinh tế trang trại sẽ giải quyết được việc làm cho lực
lượng lao động nông thôn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
19
Theo số liệu thống kê năm 2006 trên địa bàn huyện Đại Từ vẫn còn đến
hơn 70% lao động là ở nông thôn. (5) Tính chất mùa vụ của hoạt động sản xuất
nông nghiệp cùng với việc mở rộng dần phạm vị ứng dụng của máy móc hiện
đại càng làm tăng tỷ lệ thất nghiệp trá hình. Theo ước tính, lao động ở khu
vực nông thôn mới chỉ sử dụng hết khoảng 3/4 thời gian lao động nông
nghiệp, như vậy là đã lãng phí một lượng lớn lao động nông thôn. Trong số
đó nhiều người thậm chí còn hoàn toàn không có cả việc làm. Một phần lao
động dư thừa ấy sẽ được giải quyết khi các trang trại hình thành vì trang trại
không chỉ giải quyết việc làm cho bản thân chủ trang trại cũng như người nhà
của họ mà còn thu hút được một lực lượng đáng kể lao động làm thuê, trong
năm 2007 các trang trại của huyện Đại Từ đã thu hút, sử dụng 394 lao động
trong nông thôn.
* Phát triển kinh tế trang trại góp phần tăng cường quan hệ giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Tác động của kinh tế trang trại tới sự phát triển của lực lượng sản xuất
xét ở 3 khía cạnh:
Một là: Nhờ cách làm ăn hiệu quả hơn, kinh tế trang trại đem lại nguồn
thu nhập cao hơn cho người lao động tham gia sản xuất và trong thực tế, rất
nhiều nông dân đã giàu lên thực sự bằng con đường này. Không những thế,
những lao động làm thuê cũng được hưởng một mức thu nhập cao hơn trước
đây, nhờ đó đời sống được cải thiện cả về mặt vật chất và tinh thần.
Hai là: Dựa vào ưu thế của kinh tế trang trại trong việc ứng dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật mà trình độ kỹ thuật, trình độ thâm canh, chuyên môn hoá
công nghiệp của huyện nói chung được nâng lên rõ rệt. Trong thời đại này,
máy móc là bộ phận vô cùng quan trọng của lực lượng sản xuất nông nghiệp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
20
và sự phát triển của máy móc (xét cả về số lượng và chất lượng) chính là sự
phát triển của lực lượng phát triển sản xuất.
Ba là: Kinh tế trang trại phát triển kéo theo sự phát triển của các mối
quan hệ giữa nông dân - nông dân trong việc hợp tác, hỗ trợ sản xuất, thuê
nhân công, đồng thời đẩy mạnh hơn nữa mối quan hệ giữa các khâu sản xuất chế biến - tiêu thụ của quy trình sản xuất hàng hoá. Tiếp theo đó là mối quan
hệ giữa các chủ trang trại và nhà cung cấp, cũng được nâng lên thông qua các
loại hình dịch vụ và chuyển giao kỹ thuật.
4.3.2. Phát triển kinh tế trang trại thúc đẩy phát triển kết cấu hạ tầng
nông thôn.
Rõ ràng là để đáp ứng yêu cầu sản xuất hàng hoá của mình, các trang trại
cần phải được đảm bảo bằng một hệ thống cơ sở hạ tầng đầy đủ và hiện đại.
Nhằm nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh, các trang trại có thể kết hợp
với các địa phương, cùng các doanh nghiệp khác để giải quyết những vấn đề
chung này (giao thông, điện, nước, thuỷ lợi, hệ thống tiêu thụ sản phẩm...),
các công trình giao thông, kho tàng, bến bãi, các phương tiện vận tải được mở
rộng và xây dựng mới để phục vụ cho sản xuất hàng hoá của các trang trại.
Và vì không phải trang trại nào cũng có khả năng tự xây dựng hệ thống này
nên cần có những sự giúp đỡ của Nhà nước.
Đi đôi với việc phát triển của hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất
là hệ thống cơ sở phục vụ đời sống nhân dân, hệ thống trường học, trạm xá,
chợ, các công trình văn hoá, thể thao... Một số thị tứ đã hình thành cùng với
sự phát triển kinh tế trang trại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
21
Huyện Đại Từ đóng góp của kinh tế trang trại sẽ là góp phần xây dựng
mới, tu sửa và mở rộng mạng lưới thuỷ lợi, hệ thống đường xá nối các khu
vực nông thôn khác nhau, nhất là các xã xa trung tâm thị tứ.
4.3.3. Phát triển kinh tế trang trại khai thác hiệu quả các nguồn lực.
Thực tế cho thấy trong các mô hình kinh tế các yếu tố nguồn lực thường
được sử dụng hiệu quả hơn so với kinh tế hộ. Không còn mang tính chất tự
sản tự tiêu, cơ chế thị trường buộc các "Doanh nghiệp trang trại" phải hạch
toán kinh doanh do đó vì lợi nhuận, các yếu tố đầu vào như đất đai, chi phí
mua giống, phân bón, trang thiết bị máy móc, thuê mướn nhân công... đều
được tính toán sao cho đem lại tỷ suất lợi nhuận cao nhất. Rộng hơn, kinh tế
trang trại còn góp phần tích cực vào việc huy động tiền vốn đọng trong một
bộ phận lớn nông dân lâu nay vào sản xuất nông nghiệp.
4.3.4. Phát triển kinh tế trang trại góp phần cải thiện môi trường.
Đối với huyện Đại Từ, có 19 trang trại trồng rừng, các trang trại này đã
góp phần vào công cuộc xây dựng một nền nông nghiệp đa dạng, một nền
sinh thái bền vững.
Tóm lại, mô hình kinh tế trang trại không chỉ là mô hình thích hợp với
sản xuất nông nghiệp huyện Đại Từ mà nó còn phù hợp với cơ chế thị trường
và đem lại những lợi ích to lớn cả về kinh tế và xã hội. Tuy nhiên, nhận thức
về vai trò của nó chưa đủ để chúng ta xây dựng được hệ thống các giải pháp
hiệu quả, bởi vì ta còn phải xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển kinh
tế trang trại nữa.
5. Những đặc trưng cơ bản của kinh tế trang trại và tiêu chí xác định
trang trại:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
22
5.1. Những đặc trưng cơ bản của kinh tế trang trại:
Việc nghiên cứu những đặc trưng của kinh tế trang trại có ý nghĩa quan
trọng trong nghiên cứu cũng như trong thực tiễn quản lý. Để xác định những
đặc trưng của kinh tế trang trại, cần xuất phát từ những điểm khác biệt mang
tính bản chất của kinh tế trang trại so với các hình thức sản xuất nông nghiệp
tập trung khác và so với kinh tế nông hộ. Điều này đòi hỏi phải xuất phát từ
khái niệm về kinh tế trang trại đã được trình bày ở trên. Với quan điểm như
vậy, kinh tế trang trại mang những đặc trưng cơ bản sau đây:
5.1.1.Phát triển kinh tế trang trại gắn với sản xuất nông, lâm, thuỷ sản
theo hướng hàng hoá và theo nhu cầu thị trường.
Kinh tế trang trại là hình thức kinh tế từng bước đưa nông dân từ hộ
nông nghiệp tự cấp tự túc lên các hộ nông nghiệp hàng hoá. Vai trò khách
quan mang tính lịch sử này của kinh tế trang trại gắn liền với tính hai mặt của
hộ nông dân, với trình độ phát triển của sản xuất nông nghiệp và sự giao lưu
hàng hoá giữa thành thị và nông thôn.
Nông hộ vừa là gia đình- đơn vị trực tiếp tiêu dùng của xã hội, vừa là cơ
sở sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp sản xuất ra những sản phẩm tối cần thiết
cho cuộc sống có thể tiêu dùng trực tiếp. Do vậy sản xuất trực tiếp tự túc là
cái vốn có của kinh tế hộ nông dân. Các hộ nông dân muốn làm giầu phải
thoát khỏi tình trạng sản xuất tự túc và từng bước chuyển sang sản xuất hàng
hoá theo phương thức trang trại.
Như vậy các hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung trong nền kinh tế
thị trường mặc dù sản xuất ra khối lượng nông sản phẩm lớn hơn so với hình
thức sản xuất phân tán, song mục đích chủ yếu vẫn là nhằm đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng trực tiếp của những chủ nhân của chúng, còn kinh tế trang trại thì
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
23
ngay từ khi ra đời đã mang tính hàng hoá và càng ngày tính chất và trình độ
sản xuất hàng hoá của nó càng được nâng lên.
Các trang trại đều đi lên từ kinh tế hộ nông dân khi kinh tế hộ phá vỡ vỏ
bọc tự cấp, tự cung vốn có. Như quá trình hình thành và phát triển kinh tế
trang trại gia đình là quá trình nâng cao hay mở rộng tính chất và trình độ sản
xuất hàng hoá của trang trại đồng thời cũng là quá trình thu hẹp tính chất sản
xuất trực tiếp tự cấp, tự túc vốn có của kinh tế hộ nông dân.
Đặc trưng về mục đích sản xuất hàng hoá là đặc trưng quan trọng nhất
của kinh tế trang trại, bởi vì mục đích sản xuất hàng hoá chi phối và ảnh
hưởng lớn, thậm chí quyết định tới các đặc trưng khác cuả kinh tế trang trại.
Quy mô của trang trại lớn gấp nhiều lần quy mô của hộ gia đình hay kiểu
tiểu nông. Nó được đánh giá bằng diện tích đất đai sử dụng, hay bằng giá trị
sản lượng làm ra trong một năm hoặc đo bằng tỷ suất hàng hoá của trang trại.
5.1.2. Tư liệu sản xuất trong trang trại thuộc quyền sở hữu hoặc quyền
sử dụng của một người chủ độc lập.
Trong các trang trại mà tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu của chủ
trang trại trong trường hợp đi thuê hoặc được giao quyền sử dụng thì tư liệu
sản xuất đều thuộc quyền sử dụng của một người chủ độc lập.
Người chủ độc lập ở đây không phải là người chủ biệt lập, tách rời khỏi
các quan hệ liên kết và hợp tác với các chủ thể kinh tế khác. Người chủ độc
lập ở đây là người hoàn toàn có quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh
doanh. Tuy nhiên như đã trình bày ở trên, tư liệu sản xuất trong trang trại
thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của một người chủ độc lập cũng có
nghĩa là những hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông, lâm nghiệp dựa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
24
trên sở hữu Nhà nước và sở hữu tập thể (nông, lâm trường quốc doanh, hợp
tác xã nông nghiệp...) thì không thuộc khái niệm trang trại.
5.1.3. Quá trình tích tụ ruộng đất và vốn đầu tư được tập trung tới quy
mô nhất định theo yêu cầu phát triển sản xuất hàng hoá.
Trong nông nghiệp cũng như trong ngành sản xuất vật chất khác, sản
xuất hàng hoá chỉ có thể được tiến hành khi các yếu tố sản xuất được tập
trung tới quy mô nào đó. Do đó ở các trang trại, sản xuất hàng hoá chỉ có thể
được thực hiện khi ruộng đất, tiền vốn, tư liệu sản xuất... được tập trung tới
quy mô cần thiết (đủ lớn). Đặc trưng này được quy định bởi chính đặc trưng
về mục đích sản xuất của trang trại. ở các trang trại tư nhân, quy mô tập trung
các yếu tố sản xuất lớn hơn hẳn so với các trang trại gia đình, còn các trang
trại gia đình mặc dù có quy mô lớn hơn nhiều so với kinh tế họ tự cấp, tự túc,
song nói chung vẫn nằm trong khuôn khổ gia đình, chịu sự giới hạn nhất định
của các yếu tố sản xuất nội lực. Do vậy, sự tập trung các yếu tố sản xuất
(ruộng đất, tiền vốn, tư liệu sản xuất, lao động...) ở đây dù theo yêu cầu sản
xuất hàng hoá song cũng có những giới hạn nhất định.
Đặc trưng về sự tập trung các yếu tố sản xuất của kinh tế trang trại có thể
biểu thị về mặt lượng bằng những chỉ tiêu chủ yếu sau:
- Quy mô diện tích ruộng đất của trang trại (nếu là trang trại chăn nuôi
thì là số lượng gia súc, gia cầm...)
- Quy mô vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh của trang trại.
5.1.4. Tổ chức và quản lý sản xuất theo phương thức tiến bộ dựa trên sự
chuyên môn hoá sản xuất, thâm canh, ứng dụng TBKHKT, thực hiện hoạch
toán, điều hành sản xuất hợp lý và thường xuyên tiếp cận thị trường.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
25
- Về trình độ chuyên môn hoá sản xuất trong các trang trại: Chuyên môn
hoá sản xuất của trang trại là quá trình gắn liền với việc chuyển phương
hướng sản xuất của trang trại từ sản xuất đa dạng, đa canh kết hợp trồng trọt
với chăn nuôi sang sản xuất chuyên canh, tập trung vào một vài nông sản
hàng hoá có lợi thế so sánh và khả năng sinh lời cao.
Để phản ánh trình độ chuyên môn hoá, có thể sử dụng chỉ tiêu: Cơ cấu
giá trị sản lượng của trang trại; Cơ cấu giá trị sản lượng hàng hoá của trang
trại.
- Trình độ thâm canh trong các trang trại cũng được nâng dần từ thâm
canh truyền thống sang thâm canh kết hợp truyền thống với hiện đại rồi thâm
canh hiện đại. Những chỉ tiêu chủ yếu có thể sử dụng để biểu hiện trình độ
thâm canh là: Vốn đầu tư trên một đơn vị diện tích; Vốn đầu tư cho những
công nghệ sản xuất tiến bộ trên một đơn vị diện tích; Năng suất cây trồng vật
nuôi.
- Về cách thức điều hành sản xuất: Lúc đầu sản xuất hàng hoá còn ít và
giản đơn với mục đích là tối đa hoá lợi ích và tăng thêm thu nhập cho gia đình
thì chủ trang trại vẫn điều hành sản xuất theo kiểu gia trưởng, song đã bắt đầu
đi vào bố trí, tổ chức sản xuất, ghi chép thu chi và hoạch toán đơn giản. Khi
sản xuất hàng hoá là hướng chính, các phạm trù lợi nhuận, giá cả và cạnh
tranh ngày càng lôi cuốn trang trại đi vào kinh doanh nhằm đạt lợi nhuận
nhiều hơn thì cách quản lý theo kiểu gia trưởng không còn thích hợp nữa. Sản
xuất đòi hỏi phải có phương án hợp lý lựa chọn cây trồng, vật nuôi, quy hoạch
ruộng đất, xây dựng kết cấu hạ tầng, áp dụng công nghệ và quy trình thâm
canh... Do vậy quản lý và điều hành sản xuất ở đây được tiến hành trên cơ sở
những kiến thức cần thiết về nông học, sinh học và phương pháp điều hành
sản xuất.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
26
Về hoạt động tài chính và hoạch toán của trang trại: Hoạt động tài chính
và hoạch toán của trang trại dần dần thay đổi. Lúc đầu khi mới đi vào sản xuất
hàng hoá, chủ trang trại thường ghi nhớ trong đầu hoặc có ghi chép, hoạch
toán đơn giản lượng thu, lượng chi và phần thu nhập dôi ra đối với vài cây
trồng, vật nuôi chủ yếu. Khi sản xuất hàng hoá đã trở thành hướng chính, các
trang trại thường thực hiện hoạch toán giá thành và lợi nhuận đối với từng
cây, con hàng hoá. Đến khi trang trại kinh doanh gần như một doanh nghiệp
thì hoạt động tài chính đi vào chiều sâu, bao gồm các nội dung: Kế hoạch tài
chính, hoạch toán giá thành, lợi nhuận, phân tích kinh doanh...Hoạt động tài
chính và hoạch toán của trang trại ngày càng có vai trò quan trọng, đồng thời
cũng ngày càng phức tạp đòi hỏi phải có kiến thức và nghiệp vụ kế toán,
hoạch toán nhất định.
- Về tiếp cận thị trường: Thái độ và hành động đối với thị trường của
trang trại cũng từng bước được thay đổi theo hướng ngày càng tiếp cận và gắn
kết với thị trường.
Lúc đầu trang trại chưa quan tâm nhiều đến thị trường mặc dù đã sản
xuất theo hướng hàng hoá song tỷ trọng sản phẩm tự cung, tự cấp còn khá
cao. Nhưng khi trình độ sản xuất hàng hoá đã nâng lên thì các trang trại
thường xuyên quan tâm đến thị trường và tìm kiếm thị trường. Đến khi giai
đoạn coi kinh doanh là lẽ sống của mình thì thị trường là khâu kết thúc, quyết
định chu kỳ kinh doanh thì trang trại thường xây dựng và thực hiện linh hoạt
chiến lược kinh doanh nhằm đứng vững và phát triển trong cạnh tranh.
Mức độ liên hệ và gắn kết với thị trường có thể xem xét thông qua chỉ
tiêu tỷ trọng chi phí trung gian trong tổng chi phí sản xuất của trang trại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
27
5.1.5. Chủ trang trại là người có ý chí, có năng lực tổ chức quản lý, có
kiến thức và kinh nghiệm sản xuất, đồng thời có hiểu biết nhất định về kinh
doanh.
Người chủ trang trại là người có những tố chất cần thiết để tổ chức và
quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại. Những tố chất cần thiết
và chủ yếu của chủ trang trại là: Có ý chí và quyết tâm làm giàu từ nghề nông;
Có năng lực tổ chức quản lý; Có kiến thức và kinh nghiệm sản xuất nông
nghiệp, đồng thời có hiểu biết nhất định về hoạch toán, phân tích kinh doanh,
tiếp cận thị trường...
Những tố chất của người chủ trang trại nêu trên, về cơ bản không có ở
người chủ nông hộ sản xuất tự cấp, tự túc. Tuy nhiên, những tố chất ngày nói
chung không phải hoàn toàn được hội đủ ngay khi trang trại mới hình thành
mà phần lớn các chủ trang trại, sự hội tụ các tố chất cần thiết cũng trải qua
một quá trình nhất định. Mức độ hoàn thiện của các tố chất cũng gắn liền với
các giai đoạn phát triển của trang trại.
5.1.6. Phát triển kinh tế trang trại giải quyết việc làm cho người lao
động:
Thông thường các trang trại trong nông, lâm, ngư nghiệp đều có quy mô
sản xuất lớn hơn hẳn so với quy mô sản xuất của hộ nông dân. Ngay trong các
trang trại gia đình quy mô sản xuất cũng thường lớn hơn khoảng 3 lần so với
quy mô sản xuất bình quân của một hộ nông dân trong vùng. Điều này dẫn
đến nhu cầu về lao động trong các trang trại đều vượt quá khả năng nguồn lao
động gia đình và do đó các trang trại đều có thuê mướn lao động.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
28
Quy mô thuê mướn lao động của trang trại trong các loại hình khác nhau
và phụ thuộc chủ yếu vào các loại hình trang trại và quy mô sản xuất của các
trang trại.
Có hai hình thức thuê mướn lao động trong các trang trại đó là: Thuê lao
động thường xuyên và thuê lao động theo thời vụ. Trong hình thức thuê lao
động thường xuyên, trang trại thuê người lao động làm việc ổn định quanh
năm, còn trong hình thức thuê lao động theo thời vụ, trang trại chỉ thuê người
lao động làm việc theo thời vụ sản xuất.
Thông thường các trang trại tư nhân có quy mô sản xuất lớn thì thuê cả
lao động thường xuyên và lao động thời vụ, trong đó lao động thường xuyên
là chủ yếu. Các trang trại tiểu nông thuê cả hai loại lao động, nhưng lao động
thời vụ là chủ yếu, còn trang trại gia đình do quy mô sản xuất nhỏ hơn các
loại hình trang trại trên nên thường là lao động thời vụ.
5.2. Tiêu chí xác định trang trại:
Không phải Nhà nước bỏ qua hình thức tổ chức sản xuất này, nhưng vì
đến trước những năm 2000, do chưa có một sự thống nhất về khái niệm cũng
như tiêu chí xác định trang trại nên mang đầy đủ đặc điểm của một đơn vị sản
xuất kinh doanh nhưng chủ trang trại vẫn gặp rất nhiều khó khăn trong việc
xin hưởng các chế độ hỗ trợ của Nhà nước. Thông thường các nhà thống kê
vẫn sử dụng những chỉ tiêu định tính hoặc chỉ tiêu định lượng mà tính định
lượng không cao và các chỉ tiêu này không được thống nhất trong cả nước.
* Tiêu chí định tính
Có thể dùng tiêu chí này để nhận dạng thế nào là một trang trại, đó là các
đặc trưng chủ yếu của kinh tế trang trại:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
29
- Mục đích sản xuất của trang trại là sản xuất nông lâm, thuỷ sản hàng
hoá với quy mô lớn.
- Mức độ tập trung hoá và chuyên môn hoá các điều kiện và yếu tố sản
xuất cao hơn hẳn (vượt trội) so với sản xuất của nông hộ, thể hiện ở quy mô
sản xuất như: Đất đai, đầu con gia súc, lao động, giá trị nông lâm thuỷ sản
hàng hoá.
- Chủ trang trại có kiến thức và kinh nghiệm trực tiếp điều hành sản xuất,
biết áp dụng tiến bộ khoa học-kỹ thuật, tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới
vào sản xuất, sử dụng lao động gia đình và thuê lao động bên ngoài sản xuất
hiệu quả cao, có thu nhập vượt trội so với kinh tế hộ.
* Tiêu chí định lượng:
Dùng để phân biệt rõ ràng trang trại, không phải trang trại và để phân
loại các trang trại khác nhau. Ngày 23/6/2000 Liên Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, Tổng cục thống kê đã ra Thông tư số 69/2000/TTLT/BNNTCT; Sau đó ngày 4/7/2003 Bộ Nông nghiệp và PTNT ra Thông tư số
74/TT-BNN về việc sửa đổi bổ sung mục III của thông tư liên tịch số
69/2000/TTLT/BNN-TCTK ngày 23/6/2000 hướng dẫn xác định tiêu chí kinh
tế trang trại5; Cụ thể như sau:
* Các đối tượng và ngành sản xuất được xem xét để xác định là kinh tế
trang trại
Hộ nông dân, hộ công nhân viên Nhà nước và lực lượng vũ trang đã nghỉ
hưu, các loại đô thị và cá nhân chuyên sản xuất (bao gồm nông nghiệp, lâm
Thông tư số 74/TT-BNN về v iệc sửa đổi bổ sung mục III của thông tư liên t ịch số 69/2000/TTLT/BNNTCTK ngày 23/6/ 2000
5
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
30
nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản) hoặc sản xuất nông nghiệp là chính, có kiêm
nhiệm các hoạt động dịch vụ phi nông nghiệp ở nông thôn.
* Tiêu chí định lượng để xác định là kinh tế trang trại
- Một hộ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản được
xác định là trang trại phải đạt một trong hai tiêu chí về giá trị sản lượng hàng
hoá bình quân 1 năm, hoặc quy mô sản xuất phải tương đối lớn và vượt trội so
với kinh tế nông hộ tương ứng với từng ngành sản xuất và vùng kinh tế.
- Đối với hộ sản xuất kinh doanh tổng hợp có nhiều loại sản phẩm hàng
hoá của các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản thì tiêu chí để xác định
trang trại là giá trị sản lượng hàng hoá, dịch vụ bình quân 1 năm.
* Tiêu trí xác định kinh tế trang trại:
Một hộ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản được
xác định là trang trại phải đạt một trong hai tiêu chí định lượng sau đây:
1. Giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ bình quân 1 năm phải đạt từ 40
triệu đồng trở lên/trang trại.
2. Quy mô sản xuất phải tương đối lớn và vượt trội so với kinh tế nông
hộ tương ứng với từng ngành sản xuất và vùng kinh tế.
Quy mô sản xuất của trang trại được xác định như sau:
STT
Loại hình trang trại
Quy mô
I
Đối với trang trại trồng trọt
1
Cây hàng năm
> 2 ha
2
Cây lâu năm (Chè, cây ăn qủa…)
>3 ha
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Quy mô diện tích
http://www.lrc-tnu.edu.vn
31
3
Lâm nghiệp
II
Đối với trang trại chăn nuôi
> 10 ha
Chăn nuôi đại gia súc: Trâu, bò…
1
- Chăn nuôi sinh sản, lấy sữa
- Có thường xuyên > 10 con
- Chăn nuôi lấy thịt
- Có thường xuyên > 50 con
Chăn nuôi gia súc: Dê, lợn…
2
3
- Chăn nuôi sinh sản
+ Lợn
> 20 con
+ Dê
> 50 con
Chăn nuôi gia cầm: Gà, vịt, ngan…
> 2000 con (không kể số đầu
con dưới 7 ngày tuổi)
Chăn nuôi thuỷ sản
III
> 2 ha
- Đối với chăn nuôi tôm thịt theo
kiểu công nghiệp
> 1ha
Đối với các loại sản phẩm nông lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản có
IV
tính chất đặc thù như: Trồng hoa, cây cảnh, trồng nấm, nuôi ong,
giống thuỷ sản, thuỷ đặc sản thì tiêu chí xác định là giá trị sản
lượng hàng hoá bình quân một năm đạt từ 40 triệu đồng trở lên
5.3. Phân loại kinh tế trang trại
Phân loại theo
Phân loại theo loại hình sản xuất
quy mô
Phân loại theo chủ
thể kinh doanh
Nhỏ: < 2 ha
- Trồng trọt
Trang trại gia đình
Vừa: 2-5 ha
+ Trồng rừng
Trang trại tiểu thủ
Khá lớn: 5-10 ha
+ Trồng cây ăn quả
Trang trang tư nhân
kinh doanh nông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
32
nghiệp.
Lớn: > 10 ha
+ Trồng cây lâu năm
+ Trồng cây lương thực, thực phẩm
+ Kinh doanh đặc thù
- Chăn nuôi:
- Thuỷ sản
- Trang trại kinh doanh tổng hợp
II- Cơ sở thực tiễn:
1. Kinh nghiệm phát triển trang trại của các nƣớc trên thế giới:
Tại nước Mỹ và các nước Tây Âu kinh tế trang trại đã xuất hiện từ
những năm 1950, tuy nhiên ngày càng số lượng trang trại ngày càng ít đi, tại
Mỹ năm 1950 có 5.648.000 trang trại đến năm 1992 còn 1.920.000 trang trại,
diện tích trang trại bình quân của các trang trại ngày càng tăng, tại Mỹ diện
tích bình quân năm 1950 là 86 ha, đến năm 1992 là 198,7 ha 6. Tại Anh năm
1950 diện tích bình quân trang trại là 36 ha, đến năm 1987 là 71 ha 7. Tại các
nước Châu á kinh tế trang trại chịu sự chi phối của điều kiện tự nhiên, dân số
nên có những đặc điểm khác với trang trại ở các nước Châu Âu về quy mô và
số lượng trang trại. Tại các nước Châu á do đất canh tác trên đầu người vào
loại thấp trên thế giới như Đài Loan: 0,47 ha; Malaixia: 0,25 ha; Hàn Quốc:
6
7
A.A Connugin: Kinh tế nông trại M ỹ, Tr ường Đại Học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
Nguyễn Điền. Kinh tế trang trại trại t rên thế giới và ở Châu Á
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
33
0,53ha…, trong khi đó ở các quốc gia Châu á đều có dân số đông nên có ảnh
hưởng đến quy mô trang trại.
Chính vì vậy ở các nước Châu Á nói chung, hiện tượng tích tụ ruộng đất
diễn ra chậm nên tình trạng manh mún, phân tán ruộng đất cũng là một trong
trở ngại trong vấn đề phát triển kinh tế trang trại.
Đối với các nước Châu Âu, nước Mỹ thì trang trại bao gồm: Trang trại
gia đình; trang trại liên doanh, trang trại liên doanh cổ phần và trang trại uỷ
thác cho người nhà, bạn bè quản lý, sản xuất. Trong đó trang trại gia đình là
loại hình trang trại mà mỗi gia đình có tư cách pháp nhân riêng do người chủ
hộ hay một người có năng lực và uy tín trong gia đình đứng ra quản lý, ở
nhiều nước phát triển, những chủ trang trại muốn được nhà nước công nhận
thì trình độ quản lý và tư cách pháp nhân phải tốt nghiệp các trường kỹ thuật
và quản lý nông nghiệp, đồng thời có kinh nghiệm qua thực tập lao động sản
xuất kinh doanh một năm ở các trang trại khác. Các chủ trang trại họ đều là
những chuyên gia trong lĩnh vực nông nghiệp, có trình độ học vấn, họ thường
xuyên liên hệ đối với các cơ quan khoa học để thu thập thông tin kinh tế kỹ
thuật, tham gia hội thảo khoa học. Đây là loại hình trang trại phổ biến còn các
loại hình trang trại liên doanh, trang trại liên doanh cổ phần thì đây là loại
hình trang trại có quy mô lớn, được chuyên môn hoá sản xuất, sử dụng lao
động làm thuê là chủ yếu. Ở Mỹ và các nước Châu Âu thì nguồn vốn và lao
động của họ có những thuận lợi hơn so với các nước Châu Á, các trang trại
được mua chịu tư liệu sản xuất, được hỗ trợ vay vốn với lãi xuất thấp để mua
tư liệu sản xuất. Về lao động và kỹ thuật, các trang trại ở Châu Âu và các
nước phát triển tăng cường sử dụng máy móc hiện đại và mức độ cơ giới ngày
càng từng bước tiến tới tự động hoá, tin học hoá, hoá học hoá trong sản xuất,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
34
trong các trang trại số lượng lao động trong nông nghiệp của gia đình cũng
như lao động làm thuê ngày càng giảm dần.
2. Kinh nghiệm phát triển kinh tế trang trại ở trong nƣớc:
Ở nước ta các hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung với tên gọi khác
nhau (Trại, ấp, thái ấp, đồn điền, điền trang…) đã xuất hiện ở Việt Nam từ
những năm đầu công nguyên và phát triển khá mạnh mẽ trong thời kỳ phong
kiến đặc biệt là thời kỳ Lý-Trần và thời kỳ nhà Nguyễn. Bắt đầu từ những
năm 1990 đến nay Đảng và Nhà nước ta đã và đang thực hiện những chủ
trương, biện pháp nhất quán theo hướng tạo điều kiện cho kinh tế trang trại ra
đời và phát triển. Qua các kỳ đại hội Đảng lần thứ VI, VII, VIII, Đảng ta đã
thừa nhận sự tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, khảng định chính sách
khuyến khích tiểu thủ và kinh tế tư bản tư nhân. Điều đó đã tạo nên bối cảnh
ra đời và phát triển của kinh tế trang trại. Bằng các chủ trương, biện pháp
thích hợp chúng ta đã khuyến khích kinh tế trang trại phát triển như: Trước
hết là sự thay đổi về các mối quan hệ kinh tế liên quan đến quyền sử dụng đất
đai, b 8ởi vì đất đai là yếu tố đầu vào quan trọng nhất trong sản xuất nông
nghiệp. Đảng ta đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận
động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, đất đai thuộc quyền sử hữu của ngừơi dân, không mua bán,
đồng thời chủ trương giao quyền sử dụng đất lâu dài cho hộ nông dân là bước
đột phá đầu tiên thúc đẩy hộ và kinh tế trang trại phát triển. Bước đi đầu tiên
là việc khoán sản phẩm theo nhóm và người lao động trong các hợp tác xã
nông nghiệp theo tinh thần Chỉ thị 100/CT-TW của Ban bí thư Trung ương
ngày 31-1-1981 đã từng bước khôi phục lại quyền tự chủ đối với sản xuất cho
hộ gia đình trong việc sử dụng đất và lao động của bản thân họ. Bước tiếp
8 Phát triển kinh tế hợp tác và kinh tế trang trại gia đ ình ở Việt Nam
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
35
theo, thừa nhận hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ ở nông thôn đồng thời có
chính sách khuyến khích kinh tế gia đình, kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân trong
nông, lâm, ngư nghiệp theo tinh thần Nghị quyết 10 của Bộ chính trị và Nghị
quyết Hội nghị lần 6 Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VI tháng 3/1989.
Đến năm 1988 đã thể chế chủ trương của Đảng về khuyến khích các hộ, cá
thể, tư nhân trong ngành nông, lâm ngư nghiệp đã tạo tiền đề cho sự phát triển
kinh tế trang trại phát triển: Nhà nước thừa nhận sự tồn tại và phát triển của
kinh tế hộ, cá thể, tư nhân; Nhà nước tạo điều kiện về môi trường thuận lợi
cho kinh tế cá thể, tư nhân, thừa nhận tư cách pháp nhân; Nhà nước bảo hộ về
quyền tài sản và thu nhập hợp pháp; vốn….việc liên tục hoàn thiện cơ chế,
chính sách của nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế trang trại phát
triển. Hiện nay chưa có số liệu công bố chính thức nhưng theo báo cáo của Bộ
Nông nghiệp và PTNT thì cả nước có khoảng 113.000 trang trại, chủ yếu là
các trang trại gia đình.
Qua khảo sát tình hình phát triển kinh tế trang trại của các tỉnh phía Bắc,
có những đặc điểm tự nhiên và kinh tế xã hội gần gũi với nước ta, chúng ta có
thể rút ra những nhận xét, kinh nghiệm thực tế, bổ ích để tham khảo và vận
dụng có chọn lọc vào điều kiện cụ thể của huyện Đại Từ tỉnhThái Nguyên.
Từ khi bắt đầu công nghiệp hoá, kinh tế trang trại ở các tỉnh phía Bắc đã
hình thành và phát triển và đến khi đạt trình độ công nghiệp hoá cao, kinh tế
trang trại vẫn tồn tại và đóng vai trò của lực lượng trong nền công nghiệp sản
xuất nông sản hàng hoá. Thực tế đã chứng minh kinh tế trang trại là loại hình
tổ chức sản xuất nông nghiệp phù hợp với yêu cầu công nghiệp hoá, là lực
lượng xung kích sản xuất nông sản hàng hoá.
3. Kinh nghiệm phát triển kinh tế trang trại ở Thái Nguyên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
36
Tỉnh Thái Nguyên là tỉnh có nhiều đất đai rộng lớn với nhiều loại địa
hình và vùng khí hậu khác nhau: Đồng bằng, Trung du, miền núi, vùng cao.
Thực tế cho thấy mô hình kinh tế trang trại ở Thái Nguyên trong những năm
qua sản xuất có hiệu quả. Các trang trại của tỉnh Thái Nguyên có quy mô nhỏ,
phổ biến quy mô bình quân trên dưới 1ha. Nhưng các trang trại của tỉnh Thái
Nguyên vẫn còn những tính chất cơ bản của kinh tế, như đảm bảo tỷ suất
hàng hoá cao, khối lượng nông sản nhiều (khi các trang trại sản xuất chuyên
môn hoá từng mặt hàng ở vùng tập trung), vẫn thường xuyên được nâng cao
trình độ khoa học công nghệ nông nghiệp. Kinh tế trang trại ở Thái Nguyên
chủ yếu vẫn sản xuất theo phương thức gia đình. Trong những năm kinh tế
trang trại ở tỉnh Thái Nguyên phát triển ở tất cả các vùng kinh tế: Đồi núi,
đồng bằng, hàng năm tỉnh Thái Nguyên đã dành một nguồn kinh phí không
nhỏ để phát triển kinh tế trang trại, tạo cơ chế, chính sách về vốn, đất đai và
các điều kiện khác để thúc đẩy trang trại phát triển, đến nay toàn tỉnh Thái
Nguyên có 381 trang trại, chủ yếu là các trang trại gia đình. Để phát triển
trang trại trong năm qua tỉnh Thái Nguyên đã thực hiện một số giải pháp như:
Quy hoạch xác định các khu vực phát triển kinh tế trang trại tập trung nhằm
hình thành vùng sản xuất tập trung, đáp ứng nhu cầu thị trường. Định hướng
phát triển cây trồng, vật nuôi chính , phát huy thế mạnh của từng vùng, đầu tư
vốn, khoa học kỹ thuật… phù hợp với điều kiện của từng huyện. Giải quyết
các vấn đề chuyển dịch đất đai tạo điều kiện cho các gia đình có quy mô đất
đai lớn để tập trung sản xuất. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phù hợp với kế
hoạch phát triển kinh tế – xã hội của địa phương, tạo mối liên doanh, liên kết
với kinh tế hợp tác xã và kinh tế nhà nước 9.
4. Bài học kinh nghiệm cho phát triển kinh tế trang trại ở huyện Đại Từ.
9
Kết quả thực hiện Đề án phát triển kinh tế trang trại ở Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
37
- Trước hết cần xoá bỏ ngay quan niệm về kinh tế trang trại là phải sản
xuất trên những diện tích đất đai rộng lớn nhất. Chúng ta nên nhận định trang
trại từ tính chất sản xuất hàng hoá của nó.
- Phải nhanh chóng nâng cao trình độ cơ giới hoá trong các trang trại để
sản xuất không bị lạc hậu.
- Trong giai đoạn đầu, cơ cấu sản xuất của các trang trại còn hỗn tạp để
tận dụng mọi năng lực sản xuất hiện có, nhưng sau dần chuyển sang cơ cấu
mang tính chuyên canh và một loại nông, lâm, đặc sản nhất định.
- Mô hình trang trại gia đình đang và sẽ là loại hình trang trại phổ biến
và thích hợp. Nó bao gồm trang trại gia đình tiểu chủ vừa sử dụng lao động
gia đình vừa thuê thêm lao động thời vụ và thường xuyên với số lượng khác
nhau, được Nhà nước chủ trương khuyến khích. Chính loại lao động tiểu chủ
là lực lượng lao động có nhiều tiềm năng sản xuất nông sản hàng hoá hiện
nay. Mô hình này có nhiều ưu điểm nổi bật:
+ Có khả năng dung nạp những trình độ sản xuất nông nghiệp khác nhau
+ Có khả năng dung nạp các quy mô sản xuất khác nhau
+ Có khả năng dung nạp các cấp độ công nghệ khác nhau
+ Có khả năng liên kết các loại hình kinh tế khác nhau: Kinh tế gia đình,
kinh tế cá thể, kinh tế hợp tác, kinh tế Nhà nước.
Các chính sách phát triển kinh tế trang trại của Nhà nước sẽ phải tạo điều
kiện thuận lợi để các hộ gia đình nông dân có thể sản xuất theo mô hình này.
- Xuất phát từ đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện, từ yêu cầu
đặt ra của công nghiệp hoá, chúng ta có thể vận dụng một cách sáng tạo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
38
những bài học của các tỉnh bạn, phát triển trang trại chăn nuôi lợn, gia cầm,
cây lâu năm... ở những nơi có điều kiện xuất khẩu, trang trại trồng cây con
cần ít đất, trồng hoa, cây cảnh, làm nấm, nuôi cá cảnh, rắn, ba ba, nhím... có
thể đạt hiệu quả kinh tế cao.
- Về vấn đề phân hoá thu nhập: Có nhiều ý kiến cho rằng kinh tế trang
trại là "Lối làm ăn của người giàu", bởi những nông dân nghèo thì khó mà có
đủ vốn để làm trang trại, đồng thời cho rằng không nên khuyến khích loại
hình trang trại tư bản tư nhân vì nó có thể dẫn đến sự tư bản hoá sản xuất
nông nghiệp. Đúng là nhờ kinh tế trang trại, một bộ phận dân cư đã có mức
thu nhập cao hơn hẳn và cũng làm phân hoá giàu nghèo, nhưng thực tế là nó
không làm cho những người nghèo nghèo đi và cũng không làm tăng số người
nghèo, trái lại còn giải quyết việc làm cho một phần đáng kể lực lượng lao
động nữa. Hơn thế, nông nghiệp huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên nói riêng và
nước Việt Nam nói chung còn quá lạc hậu, thu nhập của người nông dân Việt
Nam thấp so với thu nhập của nông dân các nước trong khu vực và trên thế
giới, vì thế để đuổi kịp họ về trình độ sản xuất, về mức sống dân cư, về khả
năng cạnh tranh của nông sản, thì kinh tế trang trại là sự lựa chọn số một, sự
lựa chọn đúng đắn và hiệu quả.
B. Phƣơng pháp nghiên cứu:
I. Các vấn đề mà đề tài cần giải quyết:
Để phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Đại Từ theo đúng định
hướng, phát huy hết tiềm năng, thế mạnh của trang trại trong nền kinh tế thị
trường thì các vấn đề mà đề tài cần tập trung giải quyết đó là:
- Trong những năm qua kinh tế trang trại ở Đại Từ đã phát triển như thế nào?
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
39
- Yếu tố nào ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế trang trại của huyện Đại
Từ.
- Hiệu quả kinh tế của các trang trại như thế nào?
- Giải pháp nào thúc đẩy sự phát triển kinh tế trang trại ở Đại Từ?
II. Các phƣơng pháp nghiên cứu:
1. Phương pháp thu thập số liệu:
- Thu thập số liệu thứ cấp: Số liệu thống kê qua Niên giám thống kê
hàng năm của huyện.
+ Các thông tin, tài liệu có liên quan đến các vấn đề trang trại, kinh tế
trang trại, hiệu quả kinh tế trang trại trên thế giới và Việt Nam thu thập qua
báo chí, tạp chí, mạng Internet.
+ Các báo cáo Nghị Quyết, số liệu cơ bản tình hình kinh tế xã hội của
tỉnh, huyện, xã nghiên cứu thu thập tại Phòng Nông nghiệp và PTNT, Phòng
Thống kê huyện Đại Từ.
+ Các đề án, báo cáo tổng kết hàng năm về hoạt động của trang trại trên
địa bàn huyện Đại Từ.
- Thu thập tài liệu sơ cấp: Bằng cách điều tra qua bảng được soạn sẵn
đính kèm với báo cáo.
2. Công cụ xử lý số liệu:
Thông tin và số liệu sau khi thu thập sẽ được tính toán theo mục đích của
đề tài trên chương trình tính toán Exel.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
40
3. Phương pháp phân tích số liệu:
- Phương pháp thống kê mô tả: Được dùng tính, đánh giá các kết quả
nghiên cứu.
- Phương pháp phân tổ, thống kê, phân thành các tổ để đánh giá.
- Phương pháp so sánh: Xử lý số liệu tính toán ra các chỉ tiêu số tương
đối, chỉ rõ nguyên nhân biến động của hiện tượng.
- Phương pháp dự báo.
III. Hệ thống chỉ tiêu phân tích:
* Hệ thống chỉ tiêu đánh giá kết quả sản xuất của trang trại:
- Tổng khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong năm.
- Tổng giá trị sản xuất.
- Tổng chi phí sản xuất.
- Thu nhập bình quân 1 năm của trang trại.
- Tỷ suất sản phẩm hàng hoá bằng giá trị sản phẩm hàng hoá/ tổng giá trị sản
xuất.
* Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế trang trại:
- Tổng giá trị sản xuất/1 đơn vị diện tích:
- Tổng giá trị sản xuất/1 lao động.
- Tổng thu nhập/1 đơn vị diện tích:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
41
- Tổng thu nhập/1 lao động.
- Giá trị sản xuất/ 1 trang trại bình quân.
- Số lượng lao động thuê ngoài/lao động.
Trong đó:
+ Giá trị sản xuất là giá trị toàn bộ sản phẩm thu được trong một đơn vị,
trong một năm hay một chu kỳ.
+ Thu nhập của các trang trại là phần thu nhập thuần tuý của người sản
xuất, gồm cả công lao động trang trại và lợi nhuận mà trang trại có thể nhận
được trong một năm hoặc một chu kỳ sản xuất kinh doanh.
+ Tổng giá trị sản xuất/1 đơn vị diện tích, tổng giá trị sản xuất/1 lao động
là giá trị sản xuất được tạo ra bởi một công lao động, một đơn vị diện tích.
+ Tổng thu nhập/1 đơn vị diện tích, tổng thu nhập/1 lao động là thu nhập
tính trên một công lao động, một đơn vị diện tích.
* Hiệu quả môi trường:
- Diện tích rừng đã trồng/ trang trại.
- Số trang trại có hệ thống xử lý phân thải.
- Diện tích cây ăn quả trồng mới/ trang trại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
42
CHƢƠNG II
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI
HUYỆN ĐẠI TỪ TỈNH THÁI NGUYÊN THỜI GIAN QUA
2.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu:
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên:
Đại Từ là một huyện miền núi của tỉnh Thái Nguyên. Có diện tích tự
nhiên là 57.790 ha, trong đó diện tích đất nông nghiệp: 14.689 ha (chiếm
25,42 %), đất lâm nghiệp: 27.814 ha (chiếm 48,13 %). Dân số toàn huyện trên
165 vạn người, có gần 37.000 hộ sản xuất nông nghiệp.
+ Vị trí địa lý:
Đại Từ là một huyện miền núi của tỉnh Thái Nguyên có tổng diện tích
đất tự nhiên: 57.790 ha. Với có toạ độ địa lý: 210 30’ đến 21050’ độ vĩ Bắc,
105032’ đến 105042’ độ Kinh đông.
Phía Tây giáp Tỉnh Tuyên Quang và tỉnh Phú Thọ
Phía Đông giáp huyện Phú Lương và thành phố Thái Nguyên.
Phía Bắc giáp huyện Định Hoá.
Phía Nam giáp huyện Phổ Yên.
+ Địa hình: Đại Từ là huyện có địa hình tương đối phức tạp thể hiện
đặc trưng của vùng trung du miền núi Đông Bắc, địa hình có thể chia làm 3
vùng khác nhau:
+ Vùng I: là vùng địa hình của dãy Tam Đảo.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
43
+ Vùng II: là vùng của dãy núi thấp có độ cao: 150 - 300m
+ Vùng III: là vùng thung lung hẹp song song với dãy Tam Đảo
Tổng diện tích của huyện theo cấp độ cao tuyệt đối và độ dốc được thể
hiện ở biểu 01.
Biểu 01: Diện tích của huyện theo cấp độ cao tuyệt đối và độ dốc
Độ cao
STT
tuyệt đối
(m)
Diện
Tỷ lệ
Độ dốc
Diện tích
Tỷ lệ
tích (ha)
(%)
(o)
(ha)
(%)
1
< 100
25 123
43.45
<8
15 500
26,82
2
100 – 300
22 087
38.21
8 – 15
6 343
10,97
3
300 – 700
7 179
12.42
15 – 25
13 528
23,40
4
> 700
3 401
5.90
> 25
22 419
38,81
Nguồn: Báo cáo diện tích của huyện trong báo cáo kinh tế xã hội huyện Đại Từ
+ Khí hậu chia hai mùa rõ rệt: mùa mua từ tháng 4 đến tháng 10, mùa khô
từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau.
- Khí hậu nhiệt độ trung bình năm: 22.90C
- Nhiệt độ cao nhất trung bình năm: 27.20C
- Nhiệt độ thấp nhất trung bình năm: 20.00C
- Luợng mưa trung bình năm: 1 872 mm/nam
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
44
- Độ ẩm không khí trung bình: 78 - 86 (%)
- Lượng bốc hơi trung bình: 985,5mm/năm
- Thổ nhưỡng: Trên địa bàn huyện đều được hình thành bởi 8 nhóm,
trong dó có 4 nhóm đất chính là:
- Đất xám mùn trên núi có: 16.400 ha chiếm tỷ lệ 28,37%
- Đất Feralit phát triển trên đất đỏ biến chất: 15.107 ha chiếm tỷ lệ
26,14 %
- Đất Feralit phát triển trên phù sa cổ: 1.3036 ha chiếm tỷ lệ 22,55 %
- Đất phù sa Gley phát triển trên đất phù sa cổ: 13.247 ha chiếm tỷ lệ
22,94 %
Biểu 2: Tình hình sử dụng đất đai của huyện Đại Từ
Đơn vị tính: Ha
STT
Mục đích sử dụng đất
Diện tích
Tổng diện tích đất tự nhiên
57.705,47
1
Đất nông nghiệp
45.311,45
1.1
Đất sản xuất nông nghiệp
16.375,98
1.1.1
Đất trồng cây hàng năm
8.109,64
1.1.1.1 Đất trồng lúa
1.1.1.2 Đất cỏ dùng vào chăn nuôi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7.123,84
29,93
http://www.lrc-tnu.edu.vn
45
1.1.1.3 Đất trồng cây hàng năm khác
955,87
1.1.2
Đất trồng cây lâu năm
1.2
Đất lâm nghiệp
28.020,98
1.2.1
Đất rừng sản xuất
14.238,02
1.2.2
Đất rừng phòng hộ
2.187,13
1.2.3
Đất rừng đặc dụng
11.595,83
1.3
Đất nuôi trồng thuỷ sản
2
Đất phi nông nghiệp
2.1
Đất ở
2.1.1
Đất ở tại nông thôn
2.1.2
Đất ở tại đô thị
2.2
Đất chuyên dùng
2.2.1
Đất trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp
2.2.2
Đất quốc phòng
2.2.3
Đất an ninh
2.2.4
Đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp
2.2.5
Đất có mục đích công cộng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8.266,34
914,49
8.910,86
2.747,7
2.679,10
68,6
2.731,28
38,7
377,06
0,85
520,93
1.793,74
http://www.lrc-tnu.edu.vn
46
2.3
Đất tôn giáo, tín ngưỡng
7,58
2.4
Đất nghĩa trang, nghĩa địa
158,8
2.5
Đất sông suối, mặt nước chuyên dùng
2.6
Đất phi nông nghiệp khác
3
Đất chƣa sử dụng
3.1
Đất bằng chưa sử dụng
3.2
Đất đồi núi chưa sử dụng
3.3
Núi đá không có rừng cây
3.248,83
16,67
3.483,16
529,94
2922,48
30,74
Nguồn: Thống kê, kiểm kê đất đai ngày 1/1/2008 củaPhòngTài Nguyên-Môi Trường huyện.
+ Hệ thống thuỷ văn và hệ thống nước Huyện Đại Từ là huyện có
điều kiện thuỷ văn rất thuận lợi: Sông Công chảy qua huyện có chiều dài
24km, Hồ Núi Cốc có diện tích 25 km2. Ngoài ra trên dịa bàn huyện còn có
các con suối như: La Bằng, Quân Chu, Cát Nê, Phục Linh, Ký Phú, Văn Yên,
Mỹ Yên, Hoàng Nông là nguồn cung cấp nước quan trọng trong việc cung
cấp nước để tưới tiêu và nước sinh hoạt cho nhân dân.
2.1.2. Đặc điểm xã hội:
Đại Từ là huyện miền núi của tỉnh Thái Nguyên qua điều tra một số chỉ
tiêu cơ bản về điều kiện kinh tế xã hội kết quả ở bảng sau:
Biểu 03a. Một số chỉ tiêu cơ bản về kinh tế xã hội huyện Đại Từ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
47
TT
I
Chỉ tiêu
Tổng giá trị sản xuất (Theo
Đơn vị
Năm
Năm
Năm
tính
2005
2006
2007
Tr.đồng
714.930 824.623 1.024.870
giá cố định 1994)
1
Nông, lâm, ngư nghiệp
Tr.đồng
269.460 291.123
298.540
-
Nông nghiệp
Tr.đồng
246.260 263.167
272.870
+
Chia ra: Trồng trọt
Tr.đồng
198.760 213.667
209.190
+
Chăn nuôi
Tr.đồng
47.500
49.500
63.680
-
Lâm nghiệp
Tr.đồng
16.000
17.800
17.820
-
Thuỷ sản
Tr.đồng
7.200
7.300
7.850
2
Công nghiệp-Xây dựng
Tr.đồng
225.870 273.352
354.160
3
Dịch vụ thương mại
Tr.đồng
219.600 260.148
358.960
II
Chỉ tiêu xã hội
1
Dân số
Người
165.920 166.130
166.650
2
Lao động trong độ tuổi
Người
87.254
85.932
86.781
3
Tổng số hộ của toàn huyện
Hộ
39.548
40.120
40.370
4
Tỷ lệ hộ nghèo
Hộ
31,8
28,64
24,63
(Nguồn số liệu Báo cáo kinh tế phát triển kinh tế-xã hội huyện Đại Từ
năm 2005-2006-2007của UBND huyện Đại Từ)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
48
Biểu 3b. Tình hình sản xuất ngành nông nghiệp
Chỉ tiêu
STT
Đơn vị tính
Kết quả 2007
1
Diện tích trồng cây chính
Ha
1.1
Lúa xuân + lúa mùa
Ha
12.108
1.2
Ngô
Ha
1.424
1.3
Chè
Ha
5.098
2
Đàn gia súc
2.1
Đàn trâu
con
19.566
2.2
Đàn bò
con
3.063
2.3
Đàn lợn
con
59.457
2.4
Đàn gia cầm
Triệu con
73
Nguồn: Theo báo cáo kinh tế xã hội của huyện năm 2007
2.2.Tình hình phát triển kinh tế trang trại:
* Khái quát những thành tựu đã đạt đƣợc:
2.2.1. Kinh tế trang trại phát triển nhanh, đa ngành và đạt hiệu quả
kinh tế cao.
Do trước đây chưa có sự thống nhất về tiêu chí xác định kinh tế trang trại
nên huyện Đại Từ cũng như các địa phương khác thống kê số lượng các trang
trại theo hệ thống tiêu chí riêng, tính định lượng còn thấp, nên số liệu thống
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
49
kê trước và nay chênh lệch nhau đáng kể. Tuy nhiên, có thể đánh giá sự phát
triển của kinh tế trang trại bằng hiệu quả sản xuất kinh doanh của các trang trại.
Tính đến năm 2007 Huyện Đại Từ đã có 80 trang trại (theo tiêu chí mới)
(10)
, trong đó các xã có số lượng trang trại nhiều nhất là Hùng Sơn (11 trang
trại), Cát Nê TT Quân Chu (7 trang trại). Tổng diện tích đất nông nghiệp, lâm
nghiệp, mặt nước nuôi trồng thuỷ sản là 463,256 ha, chiếm 0,8% diện tích của
huyện và bằng 3,15% diện tích đất nông nghiệp. Bình quân mỗi trang trại
khoảng 5,79 ha. Số trang trại của huyện Đại Từ chỉ chiếm 12,1% tổng số
trang trại của tỉnh nhưng hiệu quả lại cao hơn.
Về cơ cấu sản xuất, phần lớn các trang trại mới ở mức độ kinh doanh
tổng hợp, tức là kinh doanh nhiều loại cây, con cùng một lúc. Các trang trại
chăn nuôi và trang trại trồng cây lâu năm phát triển mạnh mẽ là một thế mạnh
của vùng (chiếm tới 28,7% trong cơ cấu sản xuất trang trại năm 2007), trong
đó trồng cây lâu năm chiếm ưu thế vì điều kiện vùng núi phía Bắc thuận lợi
cho việc trồng cây lâu năm như Cây chè, cây ăn quả, ngoài ra trang trại chăn
nuôi gia súc nhỏ và gia cầm cũng phát triển vì các loại này không đòi hỏi đất
nhiều, thậm chí đã xuất hiện hình thức các hộ nông dân chăn nuôi theo hình
thức chăn nuôi công nghiệp và chăn nuôi gia công theo mô hình kinh tế trang
trại. Trang trại chăn nuôi đã hình thành ở tất cả các ngành sản xuất sản phẩm
chăn nuôi hàng hoá: Thịt lợn, thịt gia cầm, thịt trâu, bò... Một số mặt hàng đặc
sản... Trang trại chăn nuôi thường có quy mô vừa và nhỏ, chẳng hạn với gà:
1000 - 5000 con, lợn 300 - 500 con, các trang trại chăn nuôi đặc sản như nuôi
nhím, ba ba, ếch... sử dụng từ 500 - 1000m2 nhưng đầu tư nhiều vốn và chất
xám tạo thu nhập cao. Đây là một ngành chăn nuôi chú trọng đến thị trường
tiêu thụ sản phẩm và có rất nhiều tiềm năng phát triển.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
50
Ngoài ra còn có các trang trại trồng cây lâm nghiệp cung cấp nguyên liệu
cho các nhà máy chế biến lâm sản và các sản phẩm xuất khẩu khác.
Biểu 04: Tổng số các trang trại và phân loại trang trại theo loại
hình sản xuất
Đơn vị tính: Trang trại
Chia ra
Xã, Thị Trấn
Tổng số
trang trại
Cây lâu
Lâm
năm
nghiệp
Chăn
nuôi
TT Q Chu
7
5
Phúc Lương
5
Đức Lương
1
Phú Cường
3
Na Mao
4
Phú Lạc
4
Tân Linh
5
Phú Thịnh
1
Phú Xuyên
1
1
Bản Ngoại
1
1
Tiên Hội
5
Hùng Sơn
11
Cù Vân
1
La Bằng
2
2
Hoàng Nông
2
1
Khôi Kỳ
3
3
Tân Thái
7
2
Thuỷ
Tổng
sản
hợp
1
1
4
1
1
1
2
4
1
3
2
2
1
1
1
7
2
1
1
4
1
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
3
2
http://www.lrc-tnu.edu.vn
51
Bình Thuận
3
Mỹ Yên
1
Vạn Thọ
2
1
1
Văn Yên
2
1
1
Cát Nê
7
5
Quân Chu
2
1
Tổng cộng
80
3
1
17
2
1
19
23
5
16
Nguồn: Báo cáo của phòng Nông nghiệp và PTNT huyện Đại Từ
Biểu 5: Kết quả sản xuất kinh doanh năm 2007 của trang trại
Đơn vị tính: Triệu đồng
Giá trị
Giá trị hàng
Xã, Thị Trấn
Số trang trại
Tổng thu
hoá và dịch
vụ bán ra
hàng hoá
Thu nhập
và dịch vụ
bình quân
bình quân
1 trang
1 trang
trại
trại
TT Q Chu
7
555,00
518,00
74,00
37,70
Phúc Lương
5
262,50
214,00
42,80
26,30
Đức Lương
1
200,00
174,00
174,00
80,00
Phú Cường
3
145,00
120,00
40,00
19,30
Na Mao
4
727,20
692,00
173,00
72,80
Phú Lạc
4
282,40
246,00
61,50
28,30
Tân Linh
5
392,50
348,00
69,60
31,40
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
52
Phú Thịnh
1
187,50
137,00
137,00
75,00
Phú Xuyên
1
87,50
63,00
63,00
35,00
Bản Ngoại
1
65,00
40,20
40,20
26,00
Tiên Hội
5
396,50
363,00
72,60
35,00
Hùng Sơn
11
1702,80
1512,00
137,45
61,90
Cù Vân
1
112,50
83,00
83,00
45,00
La Bằng
2
162,60
141,00
70,50
32,50
Hoàng Nông
2
175,00
148,00
74,00
35,00
Khôi Kỳ
3
225,30
212,00
70,67
30,00
Tân Thái
7
847,60
775,00
110,71
46,70
Bình Thuận
3
600,00
519,00
173,00
80,00
Mỹ Yên
1
42,50
35,00
35,00
17,00
Vạn Thọ
2
150,10
133,00
66,50
30,00
Văn Yên
2
1000,00
946,00
473,00
200,00
Cát Nê
7
383,60
357,00
51,00
22,40
Quân Chu
2
110,10
78,00
39,00
22,00
Tổng cộng
80
8813,20
7854,20
2331,54
47,36
Nguồn: Kết quả điều tra của tác giả tháng 12/2007
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
53
2.2.2. Thu nhập của trang trại:
Tổng thu nhập của trang trại là phần thu nhập sau khi lấy tổng thu trừ chi
phí vật chất, trừ tiền công thuê lao động và trừ các chi phí khác. Như vậy,
phần thu nhập của trang trại bao hàm: Tiền công của chủ trang trại (tiền công
quản lý và tiền công lao động trực tiếp), tiền công của các thành viên và tiền
lãi ròng của các trang trại. Đây là một chỉ tiêu phù hợp, vừa phản ánh kết quả
sản xuất kinh doanh vừa là hiệu quả hoạt động kinh doanh của trang trại.
Xem biểu 5 có thể thấy rằng thu nhập bình quân 1 trang trại của huyện
Đại Từ là cao so với các huyện, thành trong tỉnh Thái Nguyên (47,1 triệu
đồng/trang trại/năm, cao hơn mức trung bình chung 1,49 lần và bỏ xa những
vùng khác (trừ Thành phố Thái Nguyên và Thị xã Sông Công) từ 60-75
triệu/trang trại10. Tổng thu của 80 trang trại năm 2007 là 8.813,2 triệu đồng,
diện tích trang trại của huyện bằng 11,7% diện tích trang trại cả tỉnh), trong
đó giá trị hàng hoá và dịch vụ bán ra là 7.854,2 triệu đồng, đạt mức tỷ suất giá
trị hàng hoá là 98,1%, cao hơn mức trung bình của cả nước. Nhờ thu nhập
trang trại tương đối cao nên chi tiêu cho đời sống vật chất và tinh thần của
trang trại tương đối cao so với nông dân trong huyện).
2.2.3. Tạo việc làm cho người lao động:
Tổng số lao động tham gia sản xuất trong các trang trại huyện Đại Từ là
394 lao động, chiếm 14% tổng số 2.815 lao động trang trại của cả tỉnh. So với
lượng lao động dư thừa ở nông thôn, thì tỉ lệ này vẫn còn nhỏ.
2.2.4. Đóng góp vào tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
10
Báo cáo đánh giá 3 năm (2002-2004) thực hiện chương trình phát triển kinh tế trang trại t ỉnh Thái Nguyên-
tháng 12/2004.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
54
Sự gia tăng giá trị sản xuất hàng hoá của kinh tế trang trại trực tiếp tác
động đến sự gia tăng của cả ngành sản xuất nông nghiệp và do đó đóng góp
vào tăng trưởng của cả nền kinh tế nói chung. Nhờ trang trại, giá trị sản xuất
hàng hoá của ngành nông nghiệp được cải thiện rõ rệt. Năm 2005 giá trị sản
xuất của ngành nông nghiệp tính theo giá cố định 1994 là 269.460 triệu đồng,
thì trong đó phần đóng góp của kinh tế trang trại là 1,8% 11.
Trong bối cảnh nông nghiệp nước ta đang tích cực chuyển đổi cơ cấu vật
nuôi cây trồng cho phù hợp với những nhu cầu của thị trường và cải thiện
cuộc sống dân cư, thì các sản phẩm của trang trại cũng là một nhân tố tích
cực, tuy sự đóng góp chưa nhiều lắm. Nhưng có thể nói rằng, nhờ tính chất
sản xuất hàng hoá, các trang trại đã tự chọn lọc hướng đi thích hợp, không kể
những trang trại tiến hành sản xuất kinh doanh theo đúng quy hoạch của Nhà
nước có gắn liền với mục tiêu chuyển dịch cơ cấu, nông nghiệp của huyện
Đại Từ trong những năm qua đã có những sự chuyển biến tích cực: Tỉ lệ trồng
trọt giảm xuống, chăn nuôi tăng dần, năng suất ngày càng cao. Các loại giống
có chất lượng cao ngày càng được đưa vào sản xuất đại trà (lúa, ngô, lợn nạc,
cây công nghiệp, rau xanh...) Tuy nhiên để có sự chuyển biến mạnh mẽ hơn
nữa thì bản thân hoạt động sản xuất tự phát của các chủ trang trại không làm
được, mà cần có quy hoạch lâu dài trên diện rộng, chủ trương và các phương
án khả thi của tỉnh, của huyện.
Có thể nói, kinh tế trang trại là bước phát triển mới của kinh tế hộ gắn
với mục tiêu sản xuất hàng hoá quy mô lớn, góp phần thúc đẩy quá trình
chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng tăng nhanh tỉ trọng hàng
hoá tạo ra các vùng sản xuất tập trung, làm tiền đề cho công nghiệp chế biến
11
Báo cáo đánh giá 3 năm (2002-2004) thực hiện chương trình phát triển kinh tế trang trại t ỉnh Thái Nguyên-
tháng 12/2004.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
55
nông lâm sản, đưa công nghiệp và các ngành nghề dịch vụ vào nông thôn,
tăng cường phủ xanh đất trống đồi trọc, cải thiện môi trường sinh thái.
2.3. Phân tích - Đánh giá tình hình sử dụng các yếu tố nguồn lực :
2.3.1. Các nhân tố ảnh hƣởng
2.3.1.1. Các yếu tố sản xuất của trang trại:
2.3.1.1.1. Đất đai
Đất đai là nguồn tư liệu sản xuất chủ yếu của trang trại nên kinh tế trang
trại trước hết được phát triển ở các vùng miền núi, những nơi mà quỹ đất có
khả năng khai phá còn lớn để phát triển kinh tế nông, lâm, thuỷ sản hàng hoá
lớn. Huyện Đại Từ là một huyện miền núi của tỉnh Thái Nguyên có diện tích
đất sản xuất nông nghiệp tương đối lớn (14.698 ha), song một số diện tích đất
việc sử dụng không hiệu quả, có diện tích còn bỏ hoang, do đó chưa đem lại
hiệu quả cao nhất.
Hiện nay trước nhu cầu phát triển công nghiệp, làm nhà ở ngày càng
tăng mạnh làm giảm ngày càng nhiều diện tích đất nông nghiệp.
Qua biểu 6 có thể thấy, phần lớn diện tích đất làm kinh tế trang trại của
huyện là đất lâm nghiệp (64,14%), trong đó xã có diện tích nhiều nhất là Phúc
Lương 64 ha (13%), xã Tân Linh 56 ha, xã Cát Nê 52,2 ha, các xã có quỹ đất lớn
trong việc phát triển trang trại là Phúc Lương, Tân Thái, Cát Nê, Tân Linh.
Trong số 80 trang trại điều tra, quỹ đất bình quân một trang trại là 5,79
ha. Quỹ đất bình quân của các trang trại giữa các xã có sự chênh lệch đáng kể,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
56
xã Tân Thái cao nhất 14,9ha, tiếp đó là xã Phúc Lương 12,9 ha, xã Tân Linh
11,87 ha, ngược lại ở Đức Lương chỉ có 1,04 ha, xã Bản Ngoại 0,436 ha,vv...
Tuy vậy trên địa bàn huyện Đại Từ vẫn còn một diện tích đáng kể đất
chưa được giao, chưa sử dụng. Cho đến năm 2004, cả nước vẫn còn khoảng
15% số hộ làm kinh tế trang trại chưa được giao đất12. Diện tích đất chưa sử
dụng còn lớn (12%), trong đó có cả phần đất dành cho các hoạt động phi nông
nghiệp như xây dựng Nhà máy, cơ sở hạ tầng, nhà ở... nhưng dù sao trong
điều kiện thiếu đất như hiện nay thì đó là một sự lãng phí đáng kể.
Qua biểu 06 trong số 80 trang trại điều tra ta thấy các trang trại của
huyện Đại Từ có hướng sản xuất kinh doanh chính chủ yếu là trồng trọt (cây
chè) và chăn nuôi (Theo hình thức công nghiệp và bán công nghiệp). Phân
loại theo quy mô các trang trại cho thấy có 51,25% số trang trại với quy mô
đất dưới 2 ha, 16,25% số trang trại với quy mô từ 2-3 ha, 5% số trang trại quy
mô từ 5-10 ha, 26,25% số trang trại có quy mô từ 10-30 ha và 1,25% số trang
trại có quy mô từ 30 ha trở lên. Như vậy số trang trại có hướng kinh doanh
trồng cây lâu năm và chăn nuôi chiếm 50%, trong đó một số xã quy mô này
chiếm tỷ lệ rất cao như xã Na Mao, xã Hùng Sơn có 100% số trang trại, Thị
trấn Quân Chu có 71% số trang trại...ngược lại ở một số xã có quy mô đất
bình quân trang trại còn bé như là xã Bản Ngoại: 0,436 ha, xã Cù Vân: 0,75
ha, xã Đức Lương: 1,04 ha.
Biểu 06: Hiện trạng sử dụng đất trang trại năm 2007
Đơn vị tính: Ha
12
Báo Kinh tế nông thôn-Mục Kinh tế trang trại với công nghiệp hoá-hiện đại hoá nông nghiệp-nông thôn
ngày 19/7/2007.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
57
Chia ra
Tổng
Xã, Thị Trấn
số
trang
trại
Tổng
diện tích
sử dụng
Đất thổ
cƣ
Diện
Đất
Đất
Đất
trồng
trồng
Đất
nuôi
cây
cây
Lâm
trồng
hàng
lâu
nghiệp
thuỷ
năm
năm
tích
sản
1
quân
(ha/TT)
TT Q Chu
7
21,45
0,28
0,57
Phúc Lương
5
64,73
0,2
0,53
Đức Lương
1
1,04
0,04
1
Phú Cường
3
14,32
0,12
0,5
Na Mao
4
3,16
0,16
2,8
Phú Lạc
4
11,26
0,16
0,2
7,5
Tân Linh
5
59,35
0,25
0,6
2,2
Phú Thịnh
1
3,35
0,05
0,3
3
3,35
Phú Xuyên
1
1,14
0,04
0,1
1
1,14
Bản Ngoại
1
0,436
0,036
0,3
0,1
0,436
Tiên Hội
5
26,885
0,285
0,4
5,2
Hùng Sơn
11
11,31
0,41
2,5
8
Cù Vân
1
0,75
0,05
0,7
La Bằng
2
2,49
0,09
0,5
1,9
Hoàng Nông
2
2,775
0,075
0,3
2,3
Khôi Kỳ
3
33,57
0,14
0,3
0,2
32,93
Tân Thái
7
106,68
0,28
2
0,4
35
Bình Thuận
3
0,9
0,2
0,5
Mỹ Yên
1
0,9
0,05
0,4
Vạn Thọ
2
8,18
0,08
Văn Yên
2
13,88
0,08
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19,6
bình
64
3,06
12,95
1,04
2,6
11
0,1
4,8
0,2
1,05
3
0,4
2,8
56
0,3
11,87
18
3
5,4
0,4
1,03
0,75
2,25
0,1
1,39
11,19
69
15,24
0,2
0,3
0,4
0,05
0,9
0,1
7
1
4,09
0,1
0,5
1,2
6,94
12
http://www.lrc-tnu.edu.vn
58
Cát Nê
7
57,41
0,31
0,5
1,3
52,2
Quân Chu
2
17,29
0,09
0,2
4
13
Tổng cộng
80
463,256
3,476
15,4
3,1
8,2
8,65
67,2 297,13 80,05
5,8
Nguồn: Báo cáo của phòng Nông nghiệp và PTNT huyện Đại Từ)
Biểu 7: Phân loại trang trại theo quy mô sử dụng đất
Đơn vị tính: Ha
Xã, Thị Trấn
Chia ra
Tổng số
trang trại
< 2 ha
2-5 ha
6
TT Q Chu
7
1
Phúc Lương
5
1
Đức Lương
1
1
Phú Cường
3
2
Na Mao
4
3
1
Phú Lạc
4
3
1
Tân Linh
5
3
Phú Thịnh
1
1
Phú Xuyên
1
1
Bản Ngoại
1
1
Tiên Hội
5
2
2
Hùng Sơn
11
10
1
Cù Vân
1
1
La Bằng
2
2
Hoàng Nông
2
2
Khôi Kỳ
3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5-10
10-30
ha
ha
> 30 ha
4
1
1
1
1
2
http://www.lrc-tnu.edu.vn
1
59
Tân Thái
7
1
Bình Thuận
3
3
Mỹ Yên
1
1
Vạn Thọ
2
1
Văn Yên
2
Cát Nê
7
Quân Chu
2
Tổng cộng
80
6
1
1
1
2
41
5
13
1
1
4
21
1
Nguồn: Theo báo cáo của Phòng Thống kế huyện Đại Từ
Cơ cấu đất đa dạng, bao gồm đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất nuôi
trồng thuỷ sản và đất thổ cư, trong đó đất lâm nghiệp chiếm 64,14%, đất nuôi
trồng thuỷ sản chiếm tới 17,3%, đất trồng cây lâu năm chiếm 14,5%. Nhìn
chung các trang trại của huyện Đại Từ thường có xu hướng sản xuất cây lâu
năm và chăn nuôi là chính.
Có thể nói, hiện trạng sử dụng đất của huyện Đại Từ đã gần ở mức tối đa
và hướng khai thác ngày càng hợp lý hơn. Chỉ có điều, sau một thời gian dài
khai thác, thâm canh không chú ý "bồi dưỡng" cho nguồn đất, mà ở nhiều nơi
đất có hiện tượng bạc màu, bất lợi cho trồng trọt. Hơn nữa, nhu cầu phát triển
công nghiệp và xây dựng các công trình công cộng, làm nhà ở... càng ngày
càng làm thu hẹp đi một phần lớn đất đai màu mỡ, làm hạn chế khả năng sản
xuất nông nghiệp. Cho nên khai thác theo chiều sâu sẽ là hướng chính trong
những năm tới đây.
2.3.1.1.2. Vốn:
Vốn là yếu tố hạn chế, để phát triển kinh tế trang trại đòi hỏi phải có vốn,
trong đó các chủ trang trại cần phải tích tụ một lượng vốn tự có nhất định. Đó
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
60
là một trong những điều kiện tiên quyết, bởi lẽ nếu có nhiều vốn thì có thể
thuê đất đai, sức lao động làm kinh tế trang trại. Thực vậy theo tài liệu điều
tra vốn bình quân một trang trại của huyện Đại Từ khá cao, chủ yếu là vốn tự
có. Lượng vốn đầu tư bình quân cho một trang trại năm 2007 là 112,06 triệu
đồng, bằng 1,24 lần mức trung bình chung của tỉnh, cao thứ ba chỉ sau Thành
phố Thái Nguyên và thị xã Sông Công. Lượng vốn hiện có của các trang trại
tại các xã có sự chênh lệch khá lớn, các xã có vốn trung bình một trang trại
cao là Hùng Sơn (259,1 triệu đồng),Văn Yên (231 triệu đồng), Đức Lương
(160 triệu đồng) và Cù Vân (210 triệu đồng) là những xã đi đầu trong việc
ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, ngược lại các xã trang
trại đầu tư thấp như Mỹ Yên (25 triệu đồng), Bản Ngoại (38 triệu đồng), Phú
Xuyên (45 triệu đồng).
Tổng vốn sản xuất các trang trại tính đến tháng 12/2007 là 8.965 triệu
đồng, trong đó 80,6% là vốn của chủ trang trại. Lượng vốn này còn nhỏ, bao
gồm vốn vay trực tiếp của ngân hàng (14,2%) và vay của bạn bè, người thân
hoặc vốn dự án, vốn đầu tư ứng trước (5,2%)...Nguồn vốn vay của trang trại
chủ yếu là vay tại Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT, chỉ có số ít trang trại
được vay vốn của Ngân hàng-Chính sách xã hội huyện, theo số liệu báo cáo
của Ngân hàng chính sách xã hội huyện Đại Từ trong 2 năm 2006-2007 chỉ có
4 trang trại/80 trang trại của huyện được vay vốn với tổng số lượng vay là 320
triệu đồng13.
Thực trạng này do các nguyên nhân:
- Thứ nhất người dân vẫn chưa quen với tư duy sản xuất mới, chỉ dựa
trên những gì mình có mà ít khi mạnh dạn vay vốn đầu tư mở rộng sản xuất.
13
Báo cáo tổng kết năm 2007 của Ngân hàng chính sách xã hội huyện Đại Từ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
61
- Thứ hai hầu hết các chủ trang trại không đủ để đáp ứng những điều kiện
vay vốn của ngân hàng do đó gặp nhiều khó khăn khi huy động vốn từ nguồn
này.
Tỉ lệ vốn vay còn nhỏ phản ánh sức huy động vốn đầu tư vào sản xuất
nông nghiệp còn yếu, đồng thời cũng cho thấy khả năng làm giàu còn hạn chế
của một bộ phận đông đảo nông dân. Nếu như làm kinh tế trang trại chỉ có thể
là những người có sẵn tiền trong tay thì sẽ có hai hậu quả: Một là gây nên tình
trạng ứ đọng vốn trong các ngân hàng nông nghiệp, hai là chưa có điều kiện
thuận lợi để nâng cao nhanh mức sống cho đại bộ phận nông dân nghèo.
Biểu 8: Vốn sản xuất của trang trại năm 2007
Đơn vị tính: Triệu đồng
Tổng
vốn
đầu tƣ
Xã, Thị Trấn
của
trang
trại
Tổng vốn
Vốn
Vốn
đầu tƣ
của
bình
Vốn vay
Bình
Chủ
quân của
Ngân
quân
trang
chủ
Hàng
1 trang
Trại
1 trang
trại
Vốn vay
Ngân hàng
Bình quân
1 trang
Vốn
khác
trại
trại
TT Q Chu
665
95
545
77,9
85
12,14
35
Phúc Lương
225
45
190
38
10
2,00
25
Đức Lương
160
160
120
120
20
20,00
20
Phú Cường
220
73,3
175
58,3
0,00
45
Na Mao
473
118,3
355
88,75
90
22,50
28
Phú Lạc
336
84
284
71
25
6,25
27
Tân Linh
585
117
490
98
55
11,00
40
Phú Thịnh
135
135
120
120
10
10,00
5
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
62
Phú Xuyên
45
45
40
40
0,00
5
Bản Ngoại
38
38
38
38
0,00
Tiên Hội
405
81
295
59
70
14,00
40
Hùng Sơn
2850
259,1
2168
197,1
600
54,55
82
Cù Vân
210
210
150
150
25
25,00
35
La Bằng
176
88
133
66,5
30
15,00
13
Hoàng
160
80
145
72,5
10
5,00
5
Khôi Kỳ
134
44,7
100
33,3
20
6,67
14
Tân Thái
610
87,1
525
75
80
11,43
5
Bình Thuận
421
140,3
370
123,3
30
10,00
21
Mỹ Yên
25
25
20
20
5
5,00
0
Vạn Thọ
185
92,5
158
79
27
13,50
0
Văn Yên
462
231
450
225
12
6,00
Cát Nê
315
45
250
50
59,14
8,45
5,86
Quân Chu
130
65
108
54
12
6,00
10
Tổng cộng
8965
102,58
7229 1954,65
1275,14
Nông
11,50 460,86
Nguồn: Điều tra của tác giả tháng 12/2007.
2.3.1.1.3. Lao động
Theo số liệu thống kê của phòng Thống kê huyện thì dân số của huyện
Đại Từ là trên 166 vạn người, chiếm 15,8% số dân cả tỉnh. Cả huyện có trên
80 nghìn lao động trong độ tuổi, trong đó tới 70% là lao động nông thôn.
Phần lớn các trang trại sử dụng lao động của gia đình là chính, một số có
thuê thêm lao động thời vụ và lao động thường xuyên, tiền công thoả thuận
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
63
giữa hai bên. Tiền công thời vụ thường giao động từ 40 - 50.000đ/ngày công,
còn đối với lao động thường xuyên, khoảng 1.200.000đ/tháng.
Bình quân mỗi trang trại có khoảng 5,1 lao động, trong đó của chủ trang
trại bình quân là 2,7 người/trang trại, lao động thuê mướn thường xuyên
chiếm 33%. Các xã có tỉ lệ này cao là Hùng Sơn (40,7%), TT Quân Chu
(80%), Tân Thái (79%)... lao động thuê mướn thời vụ chiếm 32,99% bình
quân mỗi trang trại khoảng 1,9 người.
Biểu 9: Tình hình sử dụng lao động của các trang trại
Đơn vị tính: Người
Trong đó
Tổng số lao
Xã, Thị Trấn
động tham
Thuê ngoài
gia sản xuất
Lao động
Lao động
của trang trại
thƣờng
thuê thời
xuyên
vụ
Lao động tự
Bình quân
có của chủ
lao động / 1
trang trại
trang trại
TT Q Chu
40
5
14
21
5,7
Phúc Lương
15
2
3
10
3
Đức Lương
3
1
2
3
Phú Cường
14
1
9
4,7
Na Mao
12
4
8
3
Phú Lạc
21
11
10
5,3
Tân Linh
20
6
2
12
4
Phú Thịnh
6
1
3
2
6
Phú Xuyên
5
1
1
3
5
Bản Ngoại
5
2
1
2
5
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
http://www.lrc-tnu.edu.vn
64
Tiên Hội
25
1
6
18
5
Hùng Sơn
81
15
33
33
7,4
Cù Vân
4
1
3
4
La Bằng
14
6
8
7
Hoàng Nông
10
4
6
5
Khôi Kỳ
17
5
1
11
5,7
Tân Thái
41
5
19
17
5,9
Bình Thuận
15
3
4
8
5
Mỹ Yên
3
3
3
Vạn Thọ
10
2
3
5
5
Văn Yên
13
2
3
8
6,5
Cát Nê
28
5
7
16
4
Quân Chu
9
3
2
4
4,5
Tổng cộng
411
65
127
219
5,1
Nguồn: Điều tra của tác giả tháng 12/2007
Trình độ của lao động trong các trang trại nhìn chung còn thấp. Lớp học
cao nhất cho 1 người ở huyện Đại Từ là 3,9 triệu, riêng khu vực nông thôn là
3,8 (cao nhất cả nước) 14. Tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất
kinh doanh hiện đại. Ngoài một số ít lao động chuyên môn làm các công việc
như vận hành máy móc, thiết bị, còn lại đại bộ phận là lao động phổ thông,
chưa đào tạo, chỉ có khả năng đảm nhận những công việc đơn giản như làm
đất, trồng cây, chăn gia súc, gia cầm...
14
Báo cáo đánh giá 3 năm (2002-2004) thực hiện chương trình phát triển kinh tế trang trại t ỉnh Thái Nguyên-
tháng 12/2004.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
65
Biểu 10: Thành phần xuất phát của các chủ trang trại
Đơn vị tính: Trang trại
Chia ra
Tổng số
Xã, Thị Trấn
Công chức
các
trang
Nông dân
trại
đƣơng
chức, cán
bộ xã
TT Q Chu
7
6
Phúc Lương
5
3
Đức Lương
1
Phú Cường
3
3
Na Mao
4
1
Phú Lạc
4
3
Tân Linh
5
4
Phú Thịnh
1
1
Phú Xuyên
1
1
Bản Ngoại
0
Tiên Hội
6
3
Hùng Sơn
10
9
Cù Vân
1
La Bằng
3
1
Hoàng Nông
1
1
Khôi Kỳ
3
1
Tân Thái
8
4
1
Bình Thuận
2
1
1
Mỹ Yên
2
1
Bộ đội,
Cán bộ,
công nhân
hƣu trí
công an trở
lại địa
Khác
phƣơng
1
1
1
1
2
1
1
1
1
1
1
1
1
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
1
1
1
1
1
1
http://www.lrc-tnu.edu.vn
1
66
Vạn Thọ
2
2
Văn Yên
2
2
Cát Nê
7
5
Quân Chu
2
2
Tổng cộng
80
54
1
8
8
1
7
Nguồn: Điều tra của tác giả tháng 12/2007
Qua biểu 10 ta thấy các chủ trang trại xuất phát 7 nguồn chính, bao gồm:
Nông dân 54 người, Công chức đương nhiệm, cán bộ xã 8 người, cán bộ,
công nhân hưu trí 8 người, bộ đội, công an địa phương trở lại địa phương 7
người, còn lại 3 người là các thành phần khác.
Như vậy đại bộ phận các chủ trang trại xuất phát từ tầng lớp nông dân,
mới thoát ra từ sự thụ động của cơ chế bao cấp trong các hợp tác xã kiểu cũ
và bước đầu làm chủ kinh tế nông hộ là một điều còn mới mẻ, nên còn nhiều
bỡ ngỡ, còn mang dấu ấn nặng nề của kinh tế tự nhiên tự cấp, tự túc, nghiệp
vụ và bản lĩnh kinh doanh còn rất bất cập trước yêu cầu phát triển sản xuất
hàng hoá, đặt mình trong cơ chế thị trường, trong nhiều trường hợp vẫn chưa
quen hẳn với phương thức sản xuất và quản lý hiện đại. Theo điều tra, chỉ có
32,5% số chủ trang trại được đào tạo từ sơ cấp trở lên, số có trình độ trung
cấp chỉ chiếm 4,6%. Qua số liệu điều tra cho thấy thành phần chủ trang trại
ảnh hưởng lớn đến kết quả sản xuất kinh doanh của trang trại, phần lớn các
trang trại có chủ trang trại là công chức nhà nước về hưu và cán bộ cấp xã thì
họ quản lý trang trại tốt hơn, các loại cây trồng, vật nuôi được lựa chọn vào
sản xuất phù hợp hơn với nhu cầu thị trường, tỷ lệ áp dụng khoa học kỹ thuật
mới nhiều hơn, vì vậy thu nhập của trang trại không ngừng tăng lên, trang trại
này càng được mở rộng hơn, quy mô hơn. Đối với các chủ trang trại là nông
dân thì đa số các trang trại có diện tích đất trang trại lớn, nhưng chủ yếu là sản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
3
67
xuất cầm chừng, đầu tư cho sản xuất thấp, trang trại hình thành chủ yếu là do
đạt chỉ tiêu về diện tích, không đạt chỉ tiêu về giá trị sản lượng. Chính vì vậy
có thể nói nguồn nhân lực ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất của trang trại, trình
độ nhân lực thấp không những hạn chế sự sáng tạo mà còn ảnh hưởng đến
việc ứng dụng công nghệ sản xuất tiên tiến, nâng cao hiệu quả sản xuất của
trang trại
2.3.1.1.4. Công nghệ kỹ thuật:
Cũng như tình trạng chung của toàn ngành nông nghiệp, trình độ khoa
học công nghệ của các trang trại còn thấp, thậm chí rất thấp so với các nước
trên thế giới và trong khu vực, vốn đã hoàn thành cơ khí hoá, điện khí hoá,
hoá học hoá... từ lâu. Cho đến nay, sản xuất các trang trại, dù là tiến bộ hơn
sản xuất của hộ gia đình phân tán, nhưng vẫn mang nặng tính thủ công lạc
hậu và bất hợp lý. Lao động chủ yếu bằng tay chân và còn phụ thuộc nhiều
vào thiên nhiên. Tỉ lệ bình quân trang trại trang bị máy móc cho một ha gieo
trồng còn rất thấp dưới 5cv/ha, tỉ lệ cơ giới hoá làm đất mới chỉ đạt 21%15,
mức độ cơ khí hoá nhiều khâu như gieo cấy, gặt đập... còn hạn chế. Công việc
bảo quản thu hoạch sản phẩm sau thu hoạch chủ yếu bằng năng lượng mặt
trời, thiếu những hệ thống sấy hiện đại, quy mô lớn.
Tuy vậy, cũng có những dấu hiệu đáng mừng cho thấy khoa học công
nghệ, từng bước đã và đang đóng vai trò quan trọng trong sản xuất của trang
trại. Các giống nông sản trong trang trại hầu hết đều là thành quả của các
công trình nghiên cứu khoa học, là sản phẩm của công nghệ sinh học... cho
năng suất cao, chất lượng tốt, đáp ứng yêu cầu của thị trường nên sản phẩm
bán ra thị trường chất lượng chưa cao, nhiều khi phải chịu thiệt thòi, bị ép giá.
15
Tạp chí công nghiệp Việt Nam tháng 5/2001.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
68
Tóm lại, kinh tế trang trại huyện Đại Từ trong những năm qua mới gây
ấn tượng mạnh ở tính quy mô của nó, còn tình hình sử dụng các yếu tố nguồn
lực (đất đai, vốn sản xuất, lao động, khoa học công nghệ) thì chưa thật hợp lý
và chắc chắn. Để có thể được coi là một nền nông nghiệp phát triển, sản phẩm
sản xuất ra đáp ứng nhu cầu thị trường thì trong thời gian tới các trang trại,
các yếu tố nguồn lực phải được sử dụng một cách hợp lý hơn, hiệu quả hơn.
2.3.1.2. Tổ chức hoạt động sản xuất của trang trại.
2.3.1.2.1. Loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh của trang trại:
Trên cơ sở đất đai được giao, vốn tự có kết hợp với sức lao động của gia
đình hoặc thuê thêm lao động, các chủ trang trại đã lựa chọn hướng kinh
doanh sản xuất hàng hoá trên cơ sở kết hợp chuyên môn hoá với phát triển
tổng hợp theo phương châm lấy ngắn nuôi dài, khai thác tổng hợp các tiềm
năng sẵn có để phát triển kinh tế sớm đưa các trang trại vào định hình sản
xuất. Trong các trang trại điều tra, hướng hoạt động chủ yếu là nông, lâm
nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản với các loại hình sản xuất cây ngắn ngày, cây
công nghiệp lâu năm, cây ăn quả. Các trang trại chăn nuôi chủ yếu là chăn
nuôi đại gia súc, chăn nuôi lợn, gia cầm, trong lâm nghiệp chủ yếu là trồng
rừng nguyên liệu, khoanh nuôi, thực hiện nông lâm kết hợp và trong thuỷ sản
chủ yếu là nuôi trồng thuỷ sản trong nội đồng.
Trong số 17 trang trại trồng cây lâu năm thì có 17 trang trại trồng cây
chè, cây chè được trồng nhiều nhất tại các trang trại xã Hùng Sơn với 7 trang
trại, Thị trấn Quân Chu 5 trang trại.
Nhóm các trang trại kinh doanh chăn nuôi đang dần được hình thành
ngày một nhiều hơn, trong số 23 trang trại chăn nuôi thì có đến 14 trang trại
chăn nuôi gia súc nhỏ, tập trung chủ yếu ở các xã Hùng Sơn, Văn Yên, Na
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
69
Mao.. nhiều trang trại có quy mô lớn như trang trại của ông Nguyễn Văn Thái
ở đội 4 xã Hùng Sơn có 100 con lợn nái ngoại và 700 con lợn thịt; hộ ông Lý
Văn Thiệp ở xóm Bậu xã Văn Yên có 65 con lợn nái ngoại, 500 con lợn thịt,
80 con bò, 70 con dê, 8 ha rừng, và 1 ha thuỷ sản.
Các trang trại có hướng kinh doanh chính là lâm nghiệp, tập trung chủ
yếu ở các xã Phúc Lương, Cát Nê, Khôi Kỳ...với tổng số 297,13 ha, có trang
trại quy mô lớn như hộ trang trại ông Vũ Văn Thảo ở xã Tân Linh có 56 ha
rừng.
Có 5 trang trại theo hướng kinh doanh thuỷ sản, chủ yếu họ đang chăn
nuôi theo hình thức quảng canh, bán thâm canh, tập trung chủ yếu ở xã ven
vùng Hồ Núi Cốc như: xã Tân Thái 3 trang trại với quy mô tương đối lớn
32,69 ha...
2.3.1.2.2. Đầu tư chi phí sản xuất của trang trại:
Biểu 11:
Chi phí sản xuất của các trang trại
Đơn vị tính: Triệu đồng
Xã, Thị Trấn
Tổng chi phí
Cây lâu
Chăn
Lâm
bình quân
năm
nuôi
nghiệp
Thuỷ sản
hợp
TT Q Chu
41,6
29,1
Phúc Lương
26,2
3
Đức Lương
120
0,26
119,74
Phú Cường
29
2,5
2,1
18,5
Na Mao
109
10,8
87,2
3,1
2,3
5,6
Phú Lạc
42,3
16,8
1,8
9,5
2,5
11,7
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
0,4
Tổng
20,4
6,3
5,8
0,66
2,14
5,9
http://www.lrc-tnu.edu.vn
70
Tân Linh
47,1
1,4
21,1
24,6
Phú Thịnh
112,5
105
5,5
Phú Xuyên
52,5
4,8
47,5
0,2
Bản Ngoại
39
3,5
35
0,5
Tiên Hội
47,5
9,7
6,2
Hùng Sơn
92,9
35,1
55,6
Cù Vân
67,5
17,1
50,4
La Bằng
48,8
41,3
2,1
5,4
Hoàng Nông
52,5
50,1
0,9
1,5
Khôi Kỳ
45,1
8,8
2,5
31,5
2,3
Tân Thái
70,1
8
8,6
27,5
26
Bình Thuận
120
Mỹ Yên
25,5
Vạn Thọ
2
0,6
31
2,2
110
8
15,1
8,2
2,2
45
30,5
4,9
4,1
5,5
Văn Yên
300
49,5
210
30,5
10
Cát Nê
32,2
5
24,5
2,7
Quân Chu
33
10
21
2
Tổng cộng
1599,3
457,36
215,8
112,56
TB/Tr.trại
69,53
779,74
2
33,84
Nguồn: Điều tra của tác giả tháng 12/2007
Theo kết quả điều tra của biểu 11 đầu tư chi phí sản xuất năm 2007 tính
bình quân chung cho một trang trại điều tra là 69,53 triệu đồng, trong đó chi
phí đầu tư cho trang trại cây lâu năm là 457,36 triệu đồng, chiếm khoảng
28,6%, đầu tư chi phí cho trang trại chăn nuôi là 779,74 triệu đồng, chiếm
48,76% và chi phí đầu tư cho sản xuất lâm nghiệp là 215,8 triệu đồng, chiếm
13,49%, chi phí đầu tư sản xuất của trang trại thuỷ sản là 112,56 triệu đồng,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
71
chiếm 7%, chi phí đầu tư sản xuất của trang trại tổng hợp là 33,84 triệu đồng,
chiếm 2,15%. Như vậy ta thấy quy mô tổng chi phí sản xuất bình quân của
các trang trại trên địa bàn huyện có sự chênh lệnh lớn. Trang trại ở Xã Văn
Yên là trang trại chăn nuôi lợn nái ngoại có quy mô lớn trên địa bàn huyện,
đây là trang trại sản xuất kinh doanh có tính chuyên môn hoá cao, trong năm
2007 trang trại tiếp tục mở rộng quy mô sản xuất và đầu tư xây dựng nhà
xưởng, con giống… nên trang trại có chi phí sản xuất cao nhất là 300 triệu
đồng, trang trại ở xã Mỹ Yên là trang trại có chi phí sản xuất thấp nhất 25,5
triệu đồng, đây là trang trại sản xuất kinh doanh tổng hợp, do năm 2007 trang
trại chưa tập trung sản xuất, sản phẩm của trang trại chủ yếu là để tự cung, tự
cấp, quy mô còn nhỏ lẻ, manh mún, chưa đáp ứng nhu cầu thị trường.
Chi phí bình quân cho trang trại sản xuất chăn nuôi cao nhất 779,74 triệu
đồng bằng 48,76%, tuy nhiên các xã có chi phí bình quân cho trang trại sản
xuất chăn nuôi có sự chênh lệnh lớn, xã có chi phí sản xuất chăn nuôi cao như
Văn Yên 210 triệu bằng 70%, Đức Lương 119,74 triệu đồng bằng 99,7%.
Ngược lại xã có chi phí sản xuất chăn nuôi thấp như Thị trấn Quân Chu (0,4
triệu), Tiên Hội (0,6 triệu) là do trang trại chăn nuôi của các xã Văn Yên, Đức
Lương… .là các trang trại chăn nuôi lợn nái ngoại có quy mô lớn, chăn nuôi
theo phương pháp công nghiệp, trong trang trại các khoa học kỹ thuật được
đầu tư, áp dụng, nguồn thức ăn chủ yếu sử dụng là cám chăn thẳng, thuê
nhiều nhân công lao động…mặt khác rrong năm 2007 do giá các loại thức ăn
chăn nuôi tăng mạnh (tăng 30%), giá nhân công tăng so với các năm trước
nên tổng chi phí đầu tư của trang trại tăng cao, còn các trang trại chăn nuôi tại
các xã Tiên Hội, Thị trấn Quân Chu thì chủ yếu là các trang trang trại chăn
nuôi lợn nái địa phương, hoặc chăn nuôi bò, hình thức chủ yếu là chăn nuôi
lợn theo phương pháp truyền thống, chăn nuôi bò theo phương pháp kết hợp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
72
nhốt và chăn thả, tận dụng các thức ăn của trồng trọt và lao động chủ yếu là
của chủ trang trại nên tổng chi phí đầu tư thấp hơn.
2.3.1.2.3. Cơ cấu sản xuất của trang trại:
Cơ cấu sản xuất của các trang trại là biểu hiện mối quan hệ tỷ lệ về
lượng của các ngành, các bộ phận cấu thành trong sản xuất. Có nhiều chi tiêu
phản ánh cơ cấu sản xuất của kinh tế trang trại. Do nguồn số liệu điều tra, ở
đây chúng tôi phân tích chủ yếu ở hai chỉ tiêu: Cơ cấu giá trị sản xuất (hoặc
doanh thu) và cơ cấu giá trị sản phẩm hàng hoá của trang trại.
Kinh tế trang trại ở huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên chủ yếu tập trung
vào sản xuất nông nghiệp (trồng trọt và chăn nuôi), lâm nghiệp (trồng rừng và
khoanh nuôi) và nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt trong nội đồng. Vì thế cơ cấu
sản xuất của các trang trại rất đa dạng, tuỳ thuộc vào hướng kinh doanh chính
được lựa chọn, vào điều kiện sản xuất cụ thể về đất đai, khí hậu, thời tiết, tiền
vốn, sức lao động và điều kiện thị trường của mỗi vùng. Trong số 80 trang trại
điều tra giá trị sản xuất bình quân 1 trang trại là 116,9 triệu đồng trong đó giá
trị sản xuất ngành trồng trọt là 26,99 triệu đồng, ngành chăn nuôi 65,08 triệu
đồng, ngành thuỷ sản 11,65 triệu đồng và lâm nghiệp 13,18 triệu đồng. Cơ
cấu giá trị sản xuất bình quân một trang trại điều tra cho thấy giá trị sản xuất
ngành chăn nuôi chiếm tỷ trọng lớn 55,67%, tỷ trọng giá trị sản xuất ngành
trồng trọt chiếm 23,09%, tỷ trọng giá trị sản xuất thuỷ sản chiếm 9,96% và
của lâm nghiệp 11,28%. Như vậy tỷ trọng giá trị sản xuất của nông nghiệp là
chủ yếu ở trong các trang trại điều tra, chiếm 85%, riêng lâm nghiệp tỷ trọng
sản xuất rất thấp, vì phần lớn rừng trồng đang trang thời kỳ phát triển (chăm
sóc và tu bổ rừng) chưa có nguồn thu đáng kể. (Xem biểu số 12).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
73
Phân tổ các trang trại theo xã kinh tế cho thấy cơ cấu sản xuất của từng
vùng có đặc trưng riêng. Xã phía Bắc và các xã ven chân núi Tam Đảo các
trang trại doanh thu từ cây lâu năm, chăn nuôi là chủ yếu và một phần đáng kể
từ lâm nghiệp. Các trang trại ở những xã trung tâm chủ yếu doanh thu từ chăn
nuôi lợn và gia cầm chiếm 55%. Các trang trại ở xã La Bằng, xã Phú Thịnh,
Hoàng Nông, Tiên Hội doanh thu chủ yếu từ cây lâu năm như cây ăn quả, cây
chè. Phần lớn doanh thu của các trang trại ở các xã phía Tây Nam như Cát
Nê, Vạn Thọ, Thị Trấn Quân Chu, xã Quân Chu là cây công nghiệp lâu năm
(cây chè), cây lâm nghiệp và một phần từ chăn nuôi. Các trang trại ở xã Tân
Thái doanh thu từ thuỷ sản chiếm 71% và một phần lớn nhờ lâm nghiệp.
Cơ cấu giá trị sản xuất giữa các nhóm trang trại phân theo hướng kinh
doanh chính cho thấy rất rõ hướng sản xuất chuyên môn hoá - tỷ trọng doanh
thu từ ngành chuyên môn hoá chiếm rất cao. Các trang trại có hướng kinh
doanh chăn nuôi lợn có quy mô doanh thu lớn nhất, trong đó riêng tỷ trọng
doanh thu chăn nuôi lợn chiếm 55%. Tương tự các trang trại chăn nuôi đại gia
súc, chăn nuôi gia cầm, tỷ trọng doanh thu từ chăn nuôi trâu bò và gia cầm rất
cao. Ngược lại các trang trại trồng trọt thì tỷ trọng doanh thu từ cây hàng năm,
cây công nghiệp lâu năm, cây ăn quả cũng rất cao. Xem xét cơ cấu doanh thu
của các nhóm chủ trang trại cho thấy họ đều quan tâm đến cây công nghiệp, cây
ăn quả, phát triển chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản nhưng với mức độ khác nhau.
Phân tích cơ cấu giá trị sản phẩm hàng hoá của các trang trại điều tra cho
thấy hơn 22% giá trị sản phẩm hàng hoá là của ngành trồng trọt, ngành chăn
nuôi chiếm 54% và ngành thuỷ sản chiếm 8%, ngành lâm nghiệp 16%.
Phân tổ các trang trại theo các xã lớn, cơ cấu giá trị sản phẩm hàng hoá
của các trang trại ở Đại Từ xếp theo thứ tự: Chăn nuôi - Trồng trọt - lâm
nghiệp và thuỷ sản. Sự chênh lệch giữa các ngành đó không lớn. Song cơ cấu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
74
giá trị sản phẩm hàng hoá của các trang trại ở các xã trong huyện có sự chênh
lệch giữa ngành sản xuất hàng hoá chủ yếu - Chăn nuôi (chiếm 55,67%) với
ngành sản xuất hàng hoá thứ hai là trồng trọt là tương đối lớn 2,4 lần, ngành
lâm nghiệp chiếm 16% và ngành thuỷ sản chiếm 8%. Chúng ta có thể thấy
được xu hướng khá rõ về cơ cấu giá trị sản phẩm hàng hoá của các trang trại ở
các xã trong huyện Đại Từ là phân theo vùng và phân theo hướng kinh doanh.
Nhìn chung các trang trại đã lựa chọn sản phẩm hàng hoá mũi nhọn, thực hiện
sản xuất chuyên môn hoá kết hợp với phát triển tổng hợp, song cũng có một
số tỉnh như Yên Bái, Vĩnh Phúc… các trang trại hướng chuyên sâu vào một
loại cây như cây chè. Một số hướng kinh doanh như chăn nuôi lợn, gia cầm,
thuỷ sản đạt trình độ chuyên môn hoá cao, tỷ trọng giá trị sản phẩm hàng hoá
của sản phẩm chính rất cao.
Từ phân tích thực trạng cơ cấu sản xuất của các trang trại điều tra cho
thấy khá rõ hướng kinh doanh chính của các trang trại được phản ánh ở cơ
cấu giá trị sản xuất và cơ cấu giá trị sản phẩm hàng hoá. Nhìn chung các trang
trại có tỷ trọng giá trị sản xuất của các ngành, các bộ phận cao hoặc thấp thì
tương tự cũng có tỷ trọng giá trị sản phẩm hàng hoá cao hoặc thấp. Giữa hai
chỉ tiêu này có sự chênh lệch nhưng đều thể hiện được xu hướng chung đó.
2.3.1.3. Kết quả và hiệu suất sản xuất của các trang trại trên địa bàn
huyện Đại Từ.
Kinh tế trang trại ở huyện Đại Từ mới phát triển tương đối mạnh trong
những năm gần đây, phần lớn các trang trại đang trong thời kỳ kiến thiết cơ
bản đối với vườn cây công nghiệp lâu năm, cây ăn quả, rừng trồng, nhất là các
trang trại ở phía Bắc. Mặc dù thế kinh tế trang trại bước đầu đã thu được một
số kết quả đáng khích lệ. Để phân tích kết quả và hiệu quả của kinh tế trang
trại, chúng tôi tiến hành phân tích và xem xét trên các khía cạnh: tổng thu,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
75
quy mô giá trị sản phẩm hàng hoá, thu nhập và đời sống, tạo việc làm và thu
nhập cho người lao động nông thôn. Vì hạn chế về nguồn thông tin số liệu, đề
tài chủ yếu xem xét số liệu thu thập năm 2007 của các trang trại điều tra.
2.3.1.3.1. Tổng thu của các trang trại:
Như trên đã phân tích kinh tế trang trại điều tra chủ yếu tập trung vào
sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản, vì thế nguồn thu của các trang
trại tập trung vào các lĩnh vực trên. Tổng giá trị sản xuất bình quân một trang
trại điều tra là 116,9 triệu đồng. Xã có giá trị sản xuất bình quân một trang trại
cao nhất là ở Văn Yên 500 triệu đồng trong đó giá trị sản xuất của ngành chăn
nuôi là 300 triệu đồng, chiếm 60% tổng thu của các trang trại. Ở xã Hùng Sơn
bình quân một trang trại thu 154,8 triệu đồng, trong đó thu từ chăn nuôi là
81,36 triệu đồng, chiếm 52,6%. Ở xã Bình Thuận tổng thu bình quân một
trang trại là 200 triệu đồng, trong đó thu từ chăn nuôi (chủ yếu là chăn nuôi
lợn nái ngoại) là 191,5 triệu đồng, chiếm 95,75%. Ngược lại tổng thu của
trang trại ở một số xã còn thấp, đáng chú ý là các trang trại ở xã Mỹ Yên đạt 42,5
triệu đồng, ở xã Phú Cường 48,3 triệu đồng. Điều đó có thể thấy ở biểu số 12.
Biểu số 12. Tổng thu bình quân của một trang trại năm 2007 huyện Đại Từ
Đơn vị tính: Ha
Tổng thu
Xã, Thị
Trấn
Trong đó
Tổng
thu
nhập
%
Trồng
trọt
%
Chăn
nuôi
%
Thuỷ
sản
%
Lâm
nghiệp
%
BQ
Bình quân
chung
116,90
100,00
26,99
23,09
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
65,08
55,67
11,65
9,96
13,18
http://www.lrc-tnu.edu.vn
11,28
76
Trong đó:
TT Q Chu
79,3
100,00
10,7
13,49
62,18
78,41
6,42
8,10
0,00
52,5
100,00
4,01
7,64
6,5
12,38
0,1
0,19
Đức Lương
200
100,00
13
6,50
187
93,50
Phú Cường
48,3
100,00
19,11
39,57
14,9
30,85
0,17
0,35
Na Mao
181,8
100,00
3,21
1,77
173,5
95,43
5,09
2,80
Phú Lạc
70,6
100,00
42,6
60,34
24,38
34,53
0,14
0,20
3,48
4,93
Tân Linh
78,5
100,00
7,01
8,93
30,99
39,48
0,5
0,64
40
50,96
Phú Thịnh
187,5
100,00
181
96,53
5,1
2,72
1,4
0,75
0,00
Phú Xuyên
87,5
100,00
6,4
7,31
81,1
92,69
0,00
0,00
Bản Ngoại
65
100,00
2,58
3,97
61,1
94,00
1,32
2,03
0,00
Tiên Hội
82,5
100,00
15,93
19,31
33,81
40,98
23,4
28,36
9,36
11,35
Hùng Sơn
154,8
100,00
69,6
44,96
81,36
52,56
3,64
2,35
0,2
0,13
Cù Vân
112,5
100,00
9,1
8,09
101,2
89,96
2,2
1,96
La Bằng
81,3
100,00
77,1
94,83
0,5
0,62
0,6
0,74
87,5
100,00
70,2
80,23
2,2
2,51
15,1
17,26
Khôi Kỳ
75,1
100,00
1,48
1,97
1,16
1,54
0,16
0,21
72,3
96,27
Tân Thái
116,8
100,00
7,1
6,08
7,14
6,11
82,44
70,58
20,12
17,23
200
100,00
8,4
4,20
191,5
95,75
0,1
0,05
0,00
Mỹ Yên
42,5
100,00
17,5
41,18
20,9
49,18
4,1
9,65
0,00
Vạn Thọ
75
100,00
29,99
39,99
31,28
41,71
13,73
18,31
0,00
Văn Yên
500
100,00
9,5
1,90
350
70,00
100
20,00
40,5
8,10
Cát Nê
54,6
100,00
0,31
0,57
12,76
23,37
7,11
13,02
34,42
63,04
Phúc
Lương
41,89
0,00
79,79
0,00
14,12
29,23
0,00
0,00
3,1
3,81
Hoàng
Nông
0,00
Bình
Thuận
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
77
Quân Chu
55
100,00
14,88
27,05
16,25
29,55
0,12
0,22
23,75
43,18
Nguồn: Theo kết quả điều tra của tác giả tháng 12/2007
2.3.1.3.2. Tổng thu nhập và đời sống của các trang trại:
Tổng thu nhập trang trại là phần thu nhập sau khi lấy tổng thu trừ chi phí
vật chất, trừ tiền công thuê ngoài và trừ chi phí khác. Như vậy trong phần thu
nhập trang trại bao hàm tiền công lao động của chủ trang trại (tiền công lao
động quả lý và lao động trực tiếp), tiền công lao động của các thành viên và
lãi thuần của trang trại. Trên cơ sở đó, kết quả tính toán cho thấy thu nhập
trang trại bình quân là 47,36 triệu đồng chiếm 40,5% tổng thu, trong đó nhóm
các trang trại thuộc các xã có mức thu nhập thấp: Mỹ Yên chỉ bằng 35,89%
mức thu nhập bình quân chung của các trang trại, các xã Cát Nê, Quân Chu có
cao hơn, đạt mức từ 22 - 25 triệu. Tuy quy mô thu nhập trang trại của các xã
này còn nhỏ, nhưng tỷ suất thu nhập trang trại đạt khá cao, Cát Nê đạt 93,1%
tổng thu, Quân Chu 70,9%. Nhóm các trang trại thuộc các xã có quy mô thu
nhập trang trại cao với mức từ 80 triệu đồng, gồm có Đức Lương, Bình
Thuận, Văn Yên, phần lớn các trang trại này là trang trại chăn nuôi lợn nái
ngoại. Các trang trại ở các xã này cũng có tỷ suất thu nhập trang trại cao
chiếm từ 80 - 90% tổng thu. Số trang trại thuộc các xã còn lại có quy mô thu
nhập trang trại trung bình, có thể thấy ở biểu số 14.
Quy mô thu nhập trang trại giữa các vùng chênh lệch không lớn, vùng
núi phía Nam có mức thấp nhất và 01 trang trại ở vùng phía Nam có mức thu
nhập cho một trang trại cao nhất, chênh lệch giữa hai trang trại là 11,7 lần. Cơ
cấu thu nhập bình quân chung một trang trại chủ yếu là chăn nuôi, chiếm
55,7%, trồng trọt, thuỷ sản và lâm nghiệp chiếm từ 8 - 23%. Xem xét cơ cấu
thu nhập trang trại của các xã cho thấy rất đa dạng. Vùng phía Bắc các trang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
78
trại dựa vào cây công nghiệp lây năm là chính, chiếm 85% tổng thu nhập, các
ngành khác chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Còn ở các vùng khác, các trang trại đều
dựa vào hai ngành, trong đó một ngành chiếm tỷ trọng thu nhập tương đối cao
và ngành kia thấp hơn. Các xã miền núi phía Bắc thu nhập là dựa vào cây công
nghiệp lâu năm (chè là chủ yếu) và chăn nuôi.
Biểu 13. Thu nhập từ sản xuất Nông - Lâm - Ngƣ nghiệp bình quân
trang trại điều tra năm 2007.
Đơn vị tính: Triệu đồng
Xã, Thị Trấn
Tổng thu
Trồng trọt
Trong đó
Chăn
Thuỷ sản
nuôi
Lâm
nghiệp
Bình quân
chung
47,36
10,93
26,37
4,72
5,34
Trong đó:
TT Q Chu
Phúc Lương
Đức Lương
Phú Cường
Na Mao
Phú Lạc
Tân Linh
Phú Thịnh
Phú Xuyên
Bản Ngoại
Tiên Hội
Hùng Sơn
Cù Vân
La Bằng
Hoàng Nông
Khôi Kỳ
Tân Thái
Bình Thuận
37,7
26,3
80
19,3
72,8
28,3
31,4
75
35
26
35
61,9
45
32,5
35
30
46,7
80
5,09
2,01
29,56
3,26
3,05
0,05
0,00
20,98
5,20
74,80
0,00
0,00
7,64
1,29
5,95
69,48
0,07
2,04
5,64
0,00
17,08
9,77
0,06
1,39
2,80
72,40
12,40
2,04
0,20
0,56
16,00
0,00
2,56
32,44
0,00
0,00
1,03
6,76
24,44
14,34
0,53
9,93
0,00
3,97
27,83
32,53
1,46
0,08
3,64
30,82
40,48
0,20
0,88
0,24
0,00
1,24
28,08
0,88
6,04
0,00
0,59
2,84
0,46
2,85
0,06
32,96
28,88
8,04
3,36
76,60
0,04
0,00
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
79
Mỹ Yên
Vạn Thọ
Văn Yên
Cát Nê
Quân Chu
17
30
200
22,4
22
7,00
8,36
1,64
0,00
12,00
3,80
12,51
140,00
5,49
40,00
0,00
16,20
0,13
5,23
2,92
14,12
5,95
6,50
0,05
9,50
Nguồn: Phòng Thống kê huyện Đại Từ
Cơ cấu thu nhập trang trại phân theo hướng kinh doanh cho thấy tỷ trọng
thu nhập cao của các ngành chuyên môn hoá đối với cây chè… đối với cây
công nghiệp lâu năm; lợn, gia cầm đối với chăn nuôi… Quy mô thu nhập của
các trang trại nông dân cao hơn bình quân chung, các trang trại khác đều thấp
hơn mức bình quân chung. Đáng chú ý là nhóm chủ trang trại công chức,
công nhân đương chức, mức thu nhập của nhóm trang trại này cao hơn nhóm
chủ trang trại nông dân.
Các trang trại thuỷ sản có quy mô thu nhập khá cao 58,25 triệu đồng
bình quân một trang trại, tuy nhiên chênh lệch về thu nhập cũng khá lớn. Sở
dĩ trang trại của các xã đạt mức thu nhập khác nhau là do trình độ thâm canh
nuôi trồng thuỷ sản khác nhau.
Thu nhập của trang trại là chỉ tiêu phù hợp nhất vừa phản ánh kết quả
sản xuất vừa là hiệu quả hoạt động kinh doanh của kinh tế trang trại. Thu
nhập trang trại là chỉ tiêu tính toán cuối cùng của trang trại vừa bao hàm phần
tiền công của chủ trang trại và những người lao động trong trang trại vừa cả
phần lãi do kinh doanh của trang trại đem lại. Trên cơ sở mức thu nhập của
các trang trại, có thể tính mức thu nhập bình quân của một lao động và một
nhân khẩu của trang trại. Kết quả tính toán cho thấy mức thu nhập bình quân
một lao động trong độ tuổi của các trang trại điều tra là 1,25 triệu đồng. Mức
thu nhập lao động của các trang trại ở Na Mao đạt 27 triệu đồng và bằng gần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
80
1,8 lần mức thu nhập của các trang trại trên địa bàn toàn huyện. Có 7 xã có
mức thu nhập bình quân lao động cao hơn mức trung bình chung và 16 xã còn
lại đạt mức dưới trung bình, đáng chú ý là có 3 xã đạt mức tương đối thấp,
nhất là Vạn Thọ, Mỹ Yên và Hoàng Nông. Mức thu nhập bình quân hàng
tháng một lao động đạt 1,25 triệu đồng. Phân bổ trang trại ở các xã có mức
thu nhập bình quân một trang trại từ 1 triệu đồng trở xuống có 8 xã, đó là các
trang trại ở Thị Trấn Quân Chu, xã Phú Lạc, xã La Bằng, xã Hoàng Nông, xã
Mỹ Yên, xã Vạn Thọ, xã Quân Chu, từ 1 -2 triệu đồng có 12 xã, từ 2 – 2,5
triệu đồng có 3 xã. Mặc dù mức thu nhập của một lao động hàng tháng của
các trang trại điều tra còn thấp, nhất là nhóm trang trại phía Tây Nam với mức
bình quân 650 ngàn đồng, mức thu nhập này bằng 1,4 lần so với mức tiền
công lao động làm thuê thường xuyên của xã này. Mức thu nhập tính bình
quân một nhân khẩu các trang trại điều tra là 8,05 triệu đồng tính cho cả năm
và 670 ngàn đồng tính cho một tháng. Mức chênh lệch giữa thu nhập một
nhân khẩu ở xã cao nhất và thấp nhất thu hẹp xuống 2,7 lần. Nhìn chung thu
nhập bình quân nhân khẩu của trang trại các hộ chăn nuôi lợn nái ngoại là cao
nhất, tiếp đó là các trang trại cây lâu năm, thấp nhất là các trang trại lâm
nghiệp (Do đang ở thời kỳ kiến thiết). Với mức thu nhập này của các trang
trại là cao và vượt trội so với kinh tế hộ nông dân (xem biểu số 14).
Biểu 14 Mức thu nhập bình quân lao động trong tuổi và nhân khẩu
của các trang trại năm 2007
Đơn vị tính: Triệu đồng
TN của một lao động
BQ 1 năm
Bình quân chung
15,03
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
TN của một nhân khẩu
BQ 1 tháng
1,25
BQ 1 năm
BQ 1 tháng
8,05
http://www.lrc-tnu.edu.vn
0,67
81
TT Q Chu
11,28
0,94
6,26
0,52
Phúc Lương
13,44
1,12
7,07
0,59
Đức Lương
25,20
2,10
12,60
1,05
Phú Cường
16,80
1,40
9,24
0,77
Na Mao
27,00
2,25
13,50
1,13
Phú Lạc
9,84
0,82
5,17
0,43
Tân Linh
13,68
1,14
7,60
0,63
Phú Thịnh
10,80
0,90
6,35
0,53
Phú Xuyên
14,40
1,20
7,58
0,63
Bản Ngoại
25,20
2,10
12,36
1,03
Tiên Hội
16,68
1,39
9,26
0,77
Hùng Sơn
14,52
1,21
8,06
0,67
Cù Vân
12,00
1,00
6,67
0,56
La Bằng
10,92
0,91
6,06
0,51
Hoàng Nông
10,20
0,85
5,66
0,47
Khôi Kỳ
13,20
1,10
6,94
0,58
Tân Thái
14,64
1,22
8,12
0,68
Bình Thuận
22,80
1,90
11,40
0,95
Mỹ Yên
9,60
0,80
5,05
0,42
Vạn Thọ
7,80
0,65
5,57
0,46
Văn Yên
21,60
1,80
11,36
0,95
Cát Nê
12,60
1,05
7,00
0,58
Quân Chu
11,40
0,95
6,34
0,53
(Nguồn: Số liệu điều tra của tác giả tháng 12/2007)
2.4. Đánh gía chung và những vấn đề cần đặt ra trong phát triển
kinh tế trang trại của huyện Đại Từ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
82
2.4.1. Những nhận xét và đánh gía:
Từ khảo sát thực tế và phân tích thực trạng phát triển của 80 trang trại ở
huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên, có thể rút ra một số kết luận sau đây:
- Trong những năm gần đây kinh tế trang trại đã phát triển mạnh ở huyện
Đại Từ. Mặc dù đang trong quá trình phát triển, nhưng kinh tế trang trại đã
thực sự là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá ngày càng lớn, một mặt đã tạo
ra lượng giá trị lớn về nông, lâm thuỷ sản hàng hoá mà quy mô của nó vượt
trội nhiều lần so với kinh tế hộ nông dân, mặt khác là mô hình lấy sản xuất
hàng hoá làm mục tiêu chính. Số liệu điều tra cho thấy ở 80 trang trại thì giá
trị sản phẩm hàng hoá bình quân một trang trại năm 2007 là 47,36 triệu đồng.
- Kinh tế trang trại là nhân tố mới trong nông thôn. Phát triển kinh tế
trang trại là động lực mới nối tiếp và phát huy động lực của kinh tế hộ, là
điểm đột phá trong bước chuyển sang sản xuất nông nông nghiệp hàng hoá
lớn. Các trang trại đã tạo ra khối lượng nông lâm, thuỷ sản hàng hoá lớn đáp
ứng tiêu dùng trong huyện và một phần bán ra tỉnh ngoài. Phát triển kinh tế
trang trại đã góp phần tích cực trong quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng,
vật nuôi và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Phát triển
kinh tế trang trại là con đường tất yếu, là bước đi thích hợp để chuyển nền
nông nghiệp từ tự cung, tự cấp sang sản xuất hàng hoá lớn.
- Chủ trang trại với cơ cấu xuất thân rất đa dạng, trong đó các chủ trang
trại có nguồn gốc từ hộ nông dân làm ăn giỏi là lực lượng chủ yếu để xây
dựng và phát triển kinh tế trang trại. Với tỷ lệ 67,5% số chủ trang trại là nông
dân. Điều đó có thể khẳng định để phát triển kinh tế trang trại ở huyện Đại Từ
trước hết và chủ yếu phải dựa vào lực lượng những hộ nông dân làm ăn giỏi
và các trang trại gia đình là hình thức tổ chức chiếm tuyệt đại bộ phận trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
83
kinh tế trang trại ở huyện Đại Từ. Bên cạnh đó có khoảng 3% là các chủ trang
trại sản xuất với quy mô lớn, đây là những trang trại có điều kiện để áp dụng
công nghệ khoa học vào sản xuất kinh doanh và là trang trại tạo thêm được
nhiều việc làm và thu nhập cho các địa phương. Vì lẽ đó theo tôi ngoài việc
thúc đẩy phát triển mạnh các trang trại gia đình thì các trang trại khác cũng
cần được khuyến khích.
- Để khởi sự phát triển kinh tế trang trại, các ông chủ trang trại cần phải
tích tụ vốn ban đầu nhất định, trong đó chủ yếu bằng vốn tự có. Tuỳ thuộc
vào điều kiện cụ thể của từng vùng, việc lựa chọn hướng sản xuất kinh doanh
của các trang trại mà lượng vốn của từng ông chủ có sự khác nhau. Các trang
trại ở huyện Đại Từ lượng vốn tích luỹ ban đầu nhỏ, chủ yếu đi lên từ đất thực
hiện phương châm lấy ngắn nuôi dài, chuyên môn hoá kết hợp phát triển tổng
hợp, tăng cường sự tích góp thành quả lao động để phát triển kinh tế trang
trại. Quy mô các trang trại này còn nhỏ bé.
- Một số đáng kể trang trại đã lựa chọn hướng kinh doanh chính phù hợp
với các vùng chuyên canh theo quy hoạch của tỉnh và huyện, góp phần sớm
định hình các vùng sản xuất chuyên môn hoá lớn gắn với chế biến, tiêu thụ
sản phẩm, các trang trại chè ở La Bằng, Hùng Sơn, Phú Thịnh, Hoàng
Nông…Các trang trại qua điều tra đã thể hiện được các loại hình trang trại
chuyên môn hoán theo từng loại cây trồng, vật nuôi, tỷ trọng giá trị sản phẩm
hàng hoá này trong các trang trại có hướng kinh doanh chính chiếm rất cao.
- Phát triển kinh tế trang trại đã góp phần khai thác và sử dụng quỹ đất
tốt hơn, đưa đất đai hoang hoá vào sản xuất nhất là những xã vùng núi trọc,
bãi bồi ven sông, ven biển đã được đưa vào sản xuất, tạo ra khối lượng sản
phẩm hàng hoá đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên quá trình chuyển
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
84
nhượng đất chủ yếu diễn ra ở vùng đất mới khai phá, quỹ đất chuyển nhượng
chưa lớn.
- Các trang trại đã tạo thêm việc làm và thu nhập đáng kể cho bộ phận
lao động ở nông thôn. Số liệu điều tra 80 trang trại cho thấy ngoài số lao động
của bản thân các trang trại, hàng năm đã tạo thêm nhiều việc làm cho hàng
ngàn lao động, bao gồm cả lao động làm thuê thường xuyên theo thời vụ.
Mức tiền công hàng tháng của lao động thường xuyên đạt trên 1 triệu
đồng/tháng. Từ thực tiễn đó có thể khảng định: Một mặt kinh tế trang trại đã
tạo thêm nhiều việc làm và tăng thu nhập cho những người lao động ở nông
thôn. Mặt khác kinh tế trang trại có thể sử dụng lao động gia đình hoặc có thể
thêm lao động thường xuyên và lao động thời vụ khi cần thiết, chứ không
nhất thiết phải thuê lao động mới là kinh tế trang trại.
2.4.2. Những vấn đề đặt ra cần nghiên cứu và giải quýêt.
Bên cạnh những kết luận và khẳng định nêu trên, kinh tế trang trại ở
huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên đang đặt ra một loạt các vấn đề cần được
nghiên cứu và giải quyết, đáng chú ý là những vấn đề sau:
- Nhà nước chưa có những chính sách đồng bộ cụ thể nhằm khuyến
khích kinh tế trang trại phát triển tương xứng với tiềm năng: Trong những
năm gần đây kinh tế trang trại đã phát triển khá mạnh theo đường lối đổi mới
của Đảng, nhưng chưa được hướng dẫn và chủ yếu còn mang tính chất manh
mún, chưa gắn chặt với quy hoạch các vùng sản xuất và công nghiệp chế biến
nông, lâm, thuỷ sản. Vấn đề đang đặt ra cho UBND huyện và các cơ quan
chức năng của huyện là từng bước hướng dẫn kinh tế trang trại phát triển phù
hợp với mục tiêu, quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội của đất nước và từng
địa phương.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
85
- Nhận thức và tiêu chí nhận dạng trang trại mới được thống nhất: Còn
nhiều bàn cãi về vai trò của kinh tế trang trại, thậm chí cho đến nay một số
cán bộ, chuyên gia còn băn khoăn có nên phát triển kinh tế trang trại ở nước
ta hay không? Liệu có chệch hướng sang phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa
hay không? Về tiêu chí nhận dạng kinh tế trang trại của tỉnh chưa rõ nét, do
vậy việc xác định số lượng các tang trại đang khác nhau. Cần khẳng định việc
phát triển kinh tế trang trại là hình thức thích hợp và có hiệu quả đối với sản
xuất nông, lâm, thuỷ sản của huyện .
- Quỹ đất của các trang trại rất đa dạng: nhất là phần đất chưa được giao,
phần này chiếm trên 20% đó là đất nhận thầu của hợp tác xã, chính quyền địa
phương, dự án…đang làm cho các chủ trang trại chưa thật yên tâm bỏ vốn
đầu tư để khai thác có hiệu quả quy đất này.
- Sản phẩm hàng hoá của các trang trại có quy mô thương đối lớn, song
vấn đề chế biến và thị trường tiêu thụ sản phẩm còn mang tính cục bộ. Vài ba
năm tới các trang trại đưa diện tích cây công nghiệp lâu năm, cây ăn quả, rừng
nguyên liệu vào kinh doanh sản xuất thì vấn đề chế biến nông, lâm, thuỷ sản
và tiêu thụ sản phẩm sẽ đặt ra hết sức gay gắt, nếu không chú ý giải quyết từ
bây giờ thì chắc chắn sẽ gây ra tổn thất lớn cho các trang trại và nền kinh tế
quốc dân.
- Trình độ của các chủ trang trại về chuyên môn, nghiệp vụ còn thấp. Tỷ
lệ các chủ trang trại được đào tạo có bằng từ sơ cấp trở lên mới đạt 32,5% số
chủ trang trại, còn lại chủ yếu là do họ học tập qua báo chí, đài…và các tổ
chức xã hội khác. Vấn đề đào tạo những kiến thức cần thiết về kỹ thuật và
quản lý cho chủ trang trại đã và đang đặt ra một cách bức bách. Huyện cần
nghiên cứu chính sách đào tạo và bồi dưỡng phù hợp với các chủ trang trại,
họ là một lực lượng chủ yếu của nông nghiệp huyện trong tương lai.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
86
- Để phát triển kinh tế trang trại trước hết người chủ phải dựa vào vốn tự
có là chủ yếu, do vậy mà nhiều người có kiến thức, ý chí làm giàu nhưng chưa
đủ điều kiện để phát triển kinh tế trang trại. Nếu đáp ứng được nguồn vốn vay
trong đó cơ cấu vay trung và dài hạn hợp lý chắc chắn xu thế phát triển kinh
tế trang trại sẽ mạnh hơn, rộng rãi hơn, sẽ góp phần sử dụng hợp lý quỹ đất
còn hoang hoá, nhất là ở các xã miền núi. Vấn đề đặt ra cần có chính sách tín
dụng phát triển kinh tế trang trại thích hợp với từng vùng, từng địa phương
trong giai đoạn hiện nay.
- Thị trường tiêu thụ sản phẩm chưa mở rộng: Giá cả thiếu ổn định, rủi ro cao,
mặc dù vấn đề được đề cập nhiều nhưng còn mang tính cục bộ. Nguyên nhân
nhì có nhiều: Chất lượng nông sản thấp, trình độ chế biến, bảo quản yếu kém,
chủ trang trại thiếu nghiệp vụ thị trường, sản xuất không theo quy hoạch các
vùng chuyên môn hoá gắn với các cơ sở chế biến rau quả, thuỷ sản... vài ba
năm tới, hầu hết các trang trại đưa diện tích cây lâu năm, cây công nghiệp,
rừng nguyên liệu vào khai thác cho sản phẩm đồng loạt thì vấn đề chế biến
nông, lâm, thuỷ sản và thị trường tiêu thụ, giá cả sản phẩm sẽ đặt ra hết sức
gay gắt, không chú ý giải quyết ngày từ bây giờ chắc chắn sẽ gây ra tổn thất
lớn cho các trang trại và cho nền kinh tế quốc dân.
- Hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn còn yếu, nhất là những vùng kinh
tế trang trại phát triển, đáng chú ý là mạng lưới giao thông, thuỷ lợi, điện
nông thôn, chế biến nông sản rất yếu kém. Các trang trại đang mong muốn
được ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, nhất là cây, con giống tốt, công
nghệ sau thu hoạch….vấn đề đặt ra cần được nhà nước hỗ trợ các trang trại về
xây dựng các yếu tố cần thiết của hệ thống kết cấu hạ tầng, từng bước đưa
tiến bộ khoa học- công nghệ vào sản xuất và chế biến của các trang trại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
87
CHƢƠNG III
CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI
HUYỆN ĐẠI TỪ ĐẾN NĂM 2010
3.1. Quan điểm-Phƣơng hƣớng - Mục tiêu:
3.1.1. Quan điểm phát triển
* Phát triển kinh tế trang trại nhằm khai thác, sử dụng có hiệu quả đất
đai, vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý góp phần phát triển nông nghiệp bền
vững, tạo việc làm tăng thu nhập, khuyến khích làm giàu đi đôi với xoá đói
giảm nghèo; phân bố lại lao động, dân cư, xây dựng nông thôn mới... Tiếp tục
phát triển trên diện rộng không chỉ ở những vùng có nhiều đất, nhất là đất
trống, đồi núi trọc, đất còn hoang hoá mà còn ở ngay trên những vùng đất ít
(là phần lớn) bằng thâm dụng lao động, tăng cường đầu tư vốn và thâm dụng
kỹ thuật, gắng với chế biến và thương mại, dịch vụ, làm ra nông sản có giá trị
kinh tế lớn.
* Coi trọng hiệu quả kinh tế của các trang trại, khuyến khích làm giàu
hợp pháp. Bên cạnh đó cũng cần nhìn nhận một thực tế là, đại bộ phận nông
dân rất kém linh hoạt thiếu nhạy bén trong cơ chế thị trường, vì thế thu nhập
và đời sống nông thôn chậm được cải thiện. Do vậy trước mắt những người
có vốn, có kinh nghiệm và có năng lực, bất kể thuộc thành phần xã hội nào,
thành phần kinh tế nào, nếu có mong muốn làm giàu từ sản phẩm nông
nghiệp, đều được khuyến khích làm kinh tế trang trại, chấp nhận giải quyết
một lượng lao động thấp hơn nhưng đem lại hiệu quả cao, chấp nhận có một
bộ phận nông dân giàu hơn hẳn để làm đầu tầu, tạo ra động lực kích thích sản
xuất, kích thích động cơ làm giàu của bộ phận nông dân còn lại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
88
* Tôn trọng nguyên tắc phát triển nông nghiệp bền bững, quá trình canh
tác, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản của trang trại không vì lợi nhuận trước mắt
mà khai thác một cách bừa bãi các tài nguyên, sử dụng tài nguyên đất, tài
nguyên nước... không chú trọng cải tạo hay chú ý đến lợi ích lâu dài, để chục
năm sau, đất đai bạc màu, ô nhiễm hoá học khiến co đất không thể tái sản
xuất được nữa. Không những thế, trang trại cũng phải được chú ý để tạo nên
một vùng sinh thái hợp lý góp phần cần bằng môi trường sống của dân cư.
yếu tố an toàn lương thực phải được coi trọng.
3.1.2. Định hƣớng:
- Trong những năm tới việc phát triển kinh tế trang trại phải được coi là
một giải pháp lớn, quan trọng trong phát triển kinh tế nông lâm nghiệp của
huyện, phát triển kinh tế trang trại nhằm đẩy nhanh qúa trình CNH - HĐH
nông nghiệp, nông thôn, phát triển mạnh các loại hình kinh tế trang trại cả về
quy mô, số lượng và hiệu quả kinh doanh để kinh tế trang traị phát huy vai trò
đầu tầu dẫn dắt cho kinh tế hộ phát triển. 16
- Phát triển theo hướng hàng hoá chuyên canh
- Quy hoạch các vùng phát triển phù hợp với điều kiện của huyện.
- Phát triển kinh tế trang trại phải có sự quản lý của Nhà nước.
3.1.3. Mục tiêu:
- Phát triển bền vững.
- Phấn đấu năm 2010 đạt 100 trang trại.
16
Nghị quyết đại hội Đảng bộ huyện Đại Từ lần thứ 21
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
89
- Hình thành rõ nét các loại hình trang trại như sau:
+ Chăn nuôi gia súc, gia cầm quy mô vừa, tiến tới quy mô lớn.
+ Chuyên sản xuất giống.
+ Chuyên sản xuất chè chất lượng cao.
+ Sản xuất, kinh doanh cây trồng, vật nuôi đặc sản
- Giá trị sản xuất của loại hình kinh tế trang trại đạt từ 2 - 3% tổng giá trị sản
xuất nông nghiệp, tạo nên nguồn sản phẩm hàng hoá chính hướng tới xuất khẩu.
- Thu nhập bình quân 100 triệu đồng/năm/trang trại, thu nhập người lao
động đạt 1 triệu đồng/tháng.
- Tạo điển hình tiên tiến về thâm canh, chuyên môn hoá, ứng dụng khoa
học công nghệ mới trong sản xuất nông nghiệp.
- Phấn đấu 100% các chủ trang trại nâng cao tay nghề. 17
3.2. CÁC GIẢI PHÁP CỤ THỂ
3.2.1. Các giải pháp về phía Nhà nƣớc
Nhà nước đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong việc tạo ra một môi
trường thuận lợi cho trang trại cả trong khâu hỗ trợ đầu vào và tiêu thụ sản
phẩm đầu ra. Những sự hỗ trợ ấy sẽ tác động thông qua các giải pháp về các
vấn đề sau đây:
17
Đề án phát triển kinh tế trang trại huyện Đại Từ giai đoạn 2006-2010.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
90
3.2.1.1. Các giải pháp về đất đai: Đất đai là mối quan tâm hàng đầu đối
với các hộ nông dân nói chung, các trang trại nói riêng. Trên thực tế, những
năm qua Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều đổi mới về chủ trương chính sách
ruộng đất, tạo điều kiện cho quá trình tập trung ruộng đất diễn ra trên nhiều
địa phương. Tuy nhiên quá trình tập trung còn chậm. Đất khai hoang và
chuyển nhượng chiếm tỷ trọng nhỏ. Trong bối cảnh trên, giải pháp đất đai đối
với phát triển kinh tế trang trại phải đạt được các mục đích sau:
- Tạo điều kiện tập trung đất đai để hình thành trang trại cũng như quy
mô hợp lý của các trang trại cũ.
- Đưa đất đai còn hoang hoá vào phát triển kinh tế trang trại
- Hợp pháp hoá về mặt pháp lý để các chủ trang trại yên tâm bỏ vốn đầu
tư phát triển sản xuất.
- Khuyến khích các trang trại khai thác sử dụng đất đai đầy đủ hợp lý,
gắn khai thác với bảo vệ và nâng cao chất lượng ruộng đất
- Tăng cường công tác quản lý nhà nước về đất đai
Để đạt được các mục đích trên, trong tình hình hiện nay cũng như trong
sự biến chuyển kinh tế- xã hội trong năm tới, cần tập trung giải quyết các vấn
đề sau:
* Cần sớm có quy hoạch phát triển tổng thể kinh tế - xã hội, quy hoạch
đất đai ở cấp huyện.
Huyện là cấp hành chính trực tiếp giải quyết các vấn đề có liên quan đến
phát triển kinh tế trang trại. Trên cơ sở các định hướng phát triển đã được xác
định, đất đai của huyện được chia thành các tiểu vùng kinh tế - sinh thái - xã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
91
hội. Từ đó bố trí sản xuất trên toàn bộ địa bàn của huyện và tính toán tốc độ
phát triển của từng ngành. Các tiểu vùng dự định phát triển kinh tế trang trại
cần được quy định rõ trong quy hoạch của huyện theo từng bước phát triển, từ
đó đi sâu vào quy hoạch cụ thể và thiết kế các tiểu vùng kinh tế trang trại trên
địa bàn huyện trên cơ sở định hình quy mô các vùng chuyên môn hoá tập
trung đã có, thực hiện quy hoạch các vùng chuyên môn hoá mới, đặc biệt là
vùng cây ăn quả, cây công nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản...như quy hoạch vùng
phát triển cây chè tại các xã Tân Linh, Phú Lạc, Phú Thịnh, Phú Cường,
Hoàng Nông, La Bằng, Hùng Sơn, Quân Chu; Vùng phát triển chăn nuôi thuỷ
sản tại các xã như Tân Thái, Cù Vân, Vạn Thọ, Lục Ba…; Phát triển trang trại
sản xuất rau, hoa, cây cảnh…tại các xã Hùng Sơn, Bình Thuận, Tiên Hội, Bản
Ngoại; Phát triển vùng sản xuất cây lâm nghiệp tại Phúc Lương, Đức Lương,
Minh Tiến, Mỹ Yên…
* Khuyến khích tập trung đất đai và những người có nguyện vọng nhận
đất ở các vùng đất trống, đồi núi trọc, vùng đất hoang hoá để hình thành các
trang trại có quy mô hợp lý.
Để trở thành trang trại các nông hộ phải tập trung ruộng đất đến quy mô
nhất định. Trên thực tế, quá trình tập trung ruộng đất diễn ra chậm, cần tiếp
tục khuyến khích quá trình tập trung ruộng đất theo hướng hình thành trang
trại. Đó là yêu cầu đòi hỏi thực tế (80% lãnh đạo các cấp và 75% các chủ
trang trại thống nhất với ý kiến này) và là yêu cầu khách quan của phát triển
kinh tế trang trại. Tuy nhiên, việc tập trung ruộng đất phải được tiến hành một
cách thận trọng. Đặc biệt, ở các vùng đồng bằng nơi diện tích đất nông nghiệp
bình quân thấp, khả năng để lao động nông nghiệp chuyển sang phi nông
nghiệp rất hạn chế nên việc tập trung đất đai có thể làm cho một bộ phận nhỏ
nông dân vì hoàn cảnh khó khăn quẫn bách buộc phải mất đất để chỗ thất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
92
nghiệp, bần cùng hoá. Do vậy, việc tập trung đất đai không thể diễn ra tự phát
mà phải có sự quản lý, kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước, nhất là các chính
quyền địa phương. Trong bối cảnh hiện nay theo tôi khuyến khích tập trung
ruộng đất phát triển kinh tế trang trại cần tập trung sử lý một số vấn đề như:
- Nhà nước cần nhanh chóng giao quyền sử dụng đất lâu dài: Đối với
những diện tích đất trang trại đã được giao và sử dụng hợp pháp: có thể cho
phép chuyển nhượng quyền sử dụng. Khuyến khích bằng cách giảm thuế, gia
hạn hợp đồng thuê đất, sử dụng đất... cho những chủ trang trại biết đầu tư
khoa học, kỹ thuật và tái đầu tư mở rộng vào khai thác hiệu quả cao nhất diện
tích đang được giao quản lý sử dụng.
- Đối với những diện tích đất chưa được giao: Đẩy mạnh việc giao đất,
cho thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho những trang trại
sử dụng hợp pháp để các chủ trang trại yên tâm đầu tư phát triển sản xuất. Các
địa phương rà soát lại các trang trại hiện có, xúc tiến nhanh việc cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất theo chính sách đất đai như trong Nghị quyết
của Chính phủ và hướng dẫn của Bộ Tài Nguyên-MT. Những hộ gia đình cá
nhân đã sử dụng đất phát triển trang trại mà chưa được giao, chưa được thuê
hoặc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chưa được cấp giấy chứng nhận
trước khi ban hành Nghị quyết 03/2000/NQ-CP, sử dụng đúng mục đích và
không tranh chấp thì dược xét giao, cho thuê, được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho trang trại.
- Đối với những phần đất đai vượt mức hạn điền: Mức hạn điền quy định
cần phải phù hợp với đặc trưng của cơ cấu sản xuất của từng loại trang trại và
phù hợp với hiện trạng đất đai chật hẹp của vùng, đảm bảo người sản xuất có
đất, đồng thời khuyến khích tích tụ đất theo hướng quy mô lớn ở những nơi
có điều kiện.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
93
- Đối với đất trồng cây dài ngày hay để chăn nuôi đại gia súc, ở những
nơi có nhiều ruộng đất cần nghiên cứu quy định cho thuê lâu dài phần diện
tích vượt mức hạn điền trên nguyên tắc khuyến khích sử dụng đất có hiệu quả,
đồng thời có biện pháp ngăn ngừa việc kiếm lời bằng mua bán đất đai.
- Đối với gia đình, cá nhân đã được Nhà nước giao đất hoặc đã được
chuyển nhượng quyền sử dụng đất vượt mức hạn điền trước ngày 02/2/2000
thì tiếp tục sử dụng và chuyển sang cho thuê đất với thời gian sử dụng bằng
thời gian đất được giao.
- Hộ nông dân không có đất sản xuất ở địa phương phải được ưu tiên
giao đất. Cho phép các hộ gia đình phi nông nghiệp có nguyện vọng lập trang
trại được thuê đất; hộ gia đình, cá nhân ở địa phương khác nếu có nguyện
vọng lập trang trại lâu dài, có vốn đầu tư được thuê đất để lập trang trại.
- Tiếp tục khai hoang: Tiếp tục khai thác những vùng đất hoang hoá ở
các vùng đồi núi trọc rải rác trong vùng, các bãi bồi ven sông Công, mặt nước
nuôi trồng thuỷ sản còn chưa sử dụng, ít người muốn nhận làm, những cá
nhân có nguyện vọng thiết tha muốn làm trang trại sản xuất nông nghiệp, có
khả năng về vốn, kinh nghiệm sản xuất và quản lý thì cho họ nhận không thu
tiền, với diện tích có thể cao hơn hạn điền. Những vùng có nhiều khó khăn
trong khai thác và sản xuất thì có thể cho giao với mức thuế thấp, hoặc miễn
hẳn. Cho thuê hoặc khoán theo luật định.
- Đối với đất đai của các dự án xin kiến nghị xử lý theo hướng: Những
trang trại hoạt động theo hình thức dự án do các cấp có thẩm quyền duyệt với
quy mô diện tích lớn trên 100 ha, đền nghị UBND huyện, Công ty lâm nghiệp
cho chuyển hình thức hoạt động sang công ty tư nhân hay công ty trách nhiệm
hữu hạn theo luật công ty; Đối với các chủ dự án khai thác trồng mới cây lâu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
94
năm, rồi giao khoán lại cho các hộ thuộc địa phương chăm sóc, phân phối
theo sản phẩm đề nghị Nhà nước cho họ thuê đất sản xuất nông lâm nghiệp,
ổn định và lâu dài theo thời gian mà Luật đất đai quy định18.
* Khắc phục tình trạng ruộng đất manh mún: Việc khắc phục tình
trạng đất manh mún của các nông hộ là sẽ tạo điều kiện đi vào sản xuất tập
trung, đồng thời là tiền đề để chuyển từ nông hộ lên trang trại một cách thuận
lợi. Tuy nhiên giải quyết tình trạng đất đai manh mún là vấn đề phức tạp liên
quan đến lợi ích và tâm lý, tập quán sản xuất của hàng triệu hộ, hàng ngàn
trang trại. Vì vậy, không thể dựa vào mệnh lệnh áp đặt từ trên xuống, mà phải
thuyết phục nông dân tự nguyện, đồng thời phải có phương pháp đúng đắn và
thích hợp.
Trước hết, phải có quy hoạch lâu dài đất đai của huyện, xã phù hợp với
điều kiện tự nhiên kinh tế, xã hội ở từng nơi. Dựa vào quy hoạch, các địa
phương cần có kế hoạch chuyển đổi đất đai thích hợp khắc phục tình trạng
manh mún.
Sau đó, cần khuyến khích các hộ nông dân chuyển đổi ruộng đất trước
khi đo đạc để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Có chính sách dồn điền để lập các trang trại lớn: Để thuận lợi cho tích
tụ đất đai hình thành và phát triển kinh tế trang trại một cách nhanh chóng,
thuận lợi, đúng quy luật, có hiệu quả nhất, tuân theo quy hoạch của Nhà nước
và tránh những hậu quả khác ở nông thôn thì nhà nước cần có chính sách cụ
thể hơn nữa như đã thực hiện tại các địa phương như Hà Nội, huyện Phổ Yên
…cho phép nông dâ, các trang trại có thể nhận, chuyển nhượng quyền sử
dụng hoặc có thuê đất đai, để tích tụ đất ở những nơi có điều kiện.
18
Luật đất đai năm 1993
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
95
- Có chính sách ưu đãi về thuế sử dụng đất, thuế phụ thu để khuyến
khích các chủ trang trại mạnh dạn mở rộng quy mô của mình.
* Thừa nhận về pháp lý đất đai là một hàng hoá đặc biệt để quản lý và
sử dụng đất đai có hiệu quả.
Thị trường đất đai ở nước ta đang trong quá trình hình thành. Trong năm
qua thị trường này đã và đang bộc lộ những yếu kém, những hiện tượng tiêu
cực nảy sinh trong quá trình quản lý và sử dụng đất đai cần thiết phải được
khắc phục. Nhà nước cần thừa nhận đất đai là một hàng hoá đặc biệt và có
chính sách phù hợp để đảm bảo hàng hoá này vận động trong cơ chế thị
trường. Từ đó nông dân có thể yên tâm khai thác và sử dụng đất đai có hiệu
quả, tạo điều kiện thuận lợi cho Nhà nước quản lý tốt đất đai.
* Nhanh chóng xây dựng kết cấu hạ tầng cho các tiểu vùng kinh tế trang trại
Trước hết cần tiếp tục cải thiện hệ thống đường sá, giao thông đi lại cho
thuận tiện. Nâng cấp những tuyến đường đã hư hỏng làm cản trở giao thông
trong vùng.
Tìm nguồn nước, xây dựng các hồ chứa nước, hoàn tiện hệ thốg thuỷ lợi
phục vụ sản xuất, hệ thống cung cấp nước sinh hoạt cho dân cư trong vùng và
phục vụ nhu cầu tưới tiêu, nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của trang trại.
3.2.1.2. Các chính sách về vốn
Trong các nguồn lực phát triển kinh tế-xã hội nông thôn nói chung, kinh
tế trang trại nói riêng, vốn là nguồn lực quan trọng. Kết quả điều tra cho thấy
vốn đầu tư cho các chủ trang trại thấp (bình quân 102,58 triệu đồng/trang trại)
và có sự chênh lệnh lớn giữa các vùng. Nguồn vốn chủ yếu là vốn tự có. Việc
hình thành và phát triển kinh tế trang trại đòi hỏi vốn lớn hơn so với kinh tế
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
96
hộ vì quy mô sản xuất lớn hơn, phải tiến hành khai hoang, kiến thiết đồng
ruộng, mặt nước, trồng rừng, trồng cây dài ngày, làm thuỷ lợi, mua sắm máy
móc…Vốn ít, các trang trại chưa có tư cách pháp nhân nên các trang trại chỉ
phát triển dần quy mô sản xuất theo phương châm “ Lấy ngắn nuôi dài”,
nhiều cơ sở hạ tầng không xây dựng, công cụ sản xuất còn thô sơ. Đây là
nguyên nhân làm cho kinh tế trang trại những năm qua phát triển chậm, hiệu
quả thấp, nhất là những trang trại có lượng vốn thấp, trong khi nhu cầu đầu tư
để mua sắm máy móc, xây dựng các cơ sở hạ tầng của trang trại rất lớn.
Nhưng hiện nay các trang trại không muốn vay vốn của ngân hàng vì sử dụng
vốn vay hiệu quả thấp, các thủ tục vay, thời điểm vay và thời hạn vay chưa
hợp lý. Để khắc phục mâu thuẫn trên cần giải quyết theo các vấn đề sau:
* Một là, cần có sự hỗ trợ nguồn vốn ngân sách cho việc phát triển kinh
tế trang trại. Vốn ngân sách hỗ trợ trang trại tập trung vào xây dựng các công
trình hạ tầng như thuỷ lợi, giao thông, điện….Các công trình được đầu tư xây
dựng ở bên ngoài trang trại nhưng là cơ sở quan trọng cho việc hình thành và
phát triển kinh tế trang trại. Nhà nước hỗ trợ đầu tư là chủ yếu, tuy nhiên
trong trường hợp nguồn ngân sách hạn hẹp, nhu cầu xây dựng lớn thì cần tính
toán đầu tư có trọng điểm và kết hợp nguồn lực của các trang trại với phương
trâm “ Nhà nước và nhân dân cùng làm”.
*Hai là, Nhà nước cần thực hiện cơ chế cho các chủ trang trại vay theo
dự án đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
- Nhà nước nên có chính sách tín dụng ưu đãi cho các trang trại theo hai
hướng: Tăng vốn cao hơn cho kinh tế hộ, đồng thời tăng lượng vốn vay trung
hạn và dài hạn; không phân biệt vốn vay giữa các khu vực kinh tế quốc doanh
và ngoài quốc doanh, đơn giản hoá thủ tục, giảm lãi suất... coi như đó là một
phần gián tiếp Nhà nước đầu tư cho doanh nghiệp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
97
Ngày 22/9/2000 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành
quyết định số 423/2000/NĐ-NHNN về chính sách tín dụng ngân hàng đối với
kinh tế trang trại. Theo đó quy định thời gian cho vay phù hợp với thời gian
sinh trưởng, thu hoạch, tiêu thụ sản phẩm của cây trồng, vật nuôi, thời gian
khấu hao tài sản cố định, thời gian thuê và khả năng của chủ trang trại. Mức
ngắn hạn là 12 tháng, trung hạn là 12 - 16 tháng và dài hạn theo dự án đầu tư
là trên 60 tháng. Nếu vay từ 20 đến dưới 15 triệu thì không phải thế chấp tài
sản, nhưng phải có phương án kinh doanh hiệu quả và phải nộp giấy chứg
nhận quyền sử dụng đất hoặc giấy xác nhận của UBND xã, phường là đất
đang sử dụng không có tranh chấp.
- Đa dạng hoá các hình thức cho vay và huy động vốn. Các ngân hàng
huy động vốn từ tiết kiệm, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu...; vay vốn của các
tổ chức tài chính quốc tế và cả vốn ODA, vốn vay thương mại, ngoài ra hàng
năm cũng nên dành một phần ngân sách để chuyển sang các tổ chức tín dụng
cho vay theo chương trình, dự án19.
- Ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, đảm bảo một môi trường tài chính,
tiền tệ lành mạnh, trong đó giữ vững ổn định tương đối giá trị đồng tiền Việt
Nam để tạo điều kiện khuyến khích việc huy động vốn dài hạn phục vụ cho
mục tiêu đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn. Cần tiến tới việc xoá bỏ
quy định về lãi suất trần để tạo cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức tín
dụng, thúc đẩy dòng luân chuyển được nhanh hơn.
- Cần đổi mới mạnh mẽ phương thức cho vay, thu nợ phù hợp với đặc
điểm của từng loại hình kinh tế trang trại. Đổi mới thủ tục cho vay, thu lãi sao
19
Quyết định 67/QĐ-TT ng ày 30/3/1999 về m ột số chính sách ngân hàng phục vụ phát t riển nông thôn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
98
cho đơn giản, thuận tiện hơn, có cơ chế cho vay, thu lãi theo thời vụ của cây
trồng, vật nuôi.
- Cần có cơ chế cho phép Ngân hàng thương mại thực hiện cho vay theo
dự án đầu tư trọn gói (bao gồm cả chi phí trả lãi ngân hàng) đối với kinh tế
trang trại.
3.2.1.3. Giải pháp về thị trường cho kinh tế trang trại để đẩy mạnh tiêu
thụ sản phẩm:
Đây là vấn đề sống còn không chỉ riêng với kinh tế trang trại mà còn đối
với cả nền nông nghiệp nước ta. Cần tập trung vào các mặt sau đây:
- Về thông tin thị trường:
Việc người sản xuất nắm bắt thông tin thị trường là vô cùng quan trọng
trong nền kinh tế hàng hoá. Nhà nước cần lầm tốt công tác thông tin kinh tế,
đưa những thông tin này đến người sản xuất thông qua nhiều hệ thống kênh
trong đó có thông qua hệ thống khuyến nông để tăng khả năng tiếp thị của
người sản xuất, để chủ trang trại có điều kiện phân tích cung cầu trên thị
trường. Chẳng hạn, hình thành các kênh thông tin để doanh ngiệp và các chủ
trang trại tiếp cận thị trường như: tạo điều kiện thuận lợi cho thương nhân
nước ngoài vào Việt Nam đặt hàng, thương nhân Việt Nam ra nước ngoài
chào hàng; triển khai các hội chợ hàng nông sản, hội thảo hàng nông sản, dần
dần tổ chức thành các thị trường mua bán kỳ hạn như ở các nước.
UBND huyện và UBND các xã, TT tổ chức tốt việc cung cấp thông tin,
khuyến cáo khoa học giúp trang trại định hướng kinh doanh phù hợp nhu cầu
thị trường trong nước và quốc tế. Các cơ quan xúc tiến thương mại của Nhà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
99
nước cần làm tốt công tác dự báo thị trường tiêu thụ nông sản trong và ngoài
nước để giúp các trang trại có hướng sản xuất thích hợp.
- Về lưu thông hàng hoá.
Đa dạng hoá các hình thức liên kết giữa thương nghiệp Nhà nước với các
thành phần kinh tế, giữa các viện nghiên cứu với các cơ sở sản xuất và các địa
phương, gắn việc ký kết hợp đồng cung ứng vật tư với bao tiêu sản phẩm
nhằm bảo đảm hiệu quả kinh tế. Hình thành và phát triển kinh tế hợp tác trên
cơ sở tự nguyện và nguyên tắc các bên cùng có lợi giữa các trang trại và dân
cư nông thôn gắn vói thị trường tiêu thụ nông sản hàng hoá và nơi cung cấp
các mặt hàng công nghiệp thực phẩm thiết yếu cho sản xuất và đời sống của
nông dân và nông thôn. Khuyến khích phát triển hệ thống chợ nông thôn và
các trung tâm giao dịch mua bán nông sản, vật tư nông nghiệp ở các thị trấn,
thị tứ nhất là các địa bàn tập trung phát triển kinh tế trang trại.
Khắc phục tình trạng thả nổi thị trường nông thôn tạo điều kiện cho các
chủ trang trại không chỉ xuất khẩu trực tiếp sản phẩm của mình mà nếu có
điều kiện còn có thể thu gom của các chủ trang trại khác, hay khuyến khích
làm đại lý vật tư nông nghiệp.
Bên cạnh đó cần củng cố hệ thống các doanh nhiệp thương mại làm
nhiệm vụ xuất khẩu cho các trang trại ở các vùng chuyên canh. Qua hệ thống
này có thể vừa không ngừng mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm cho các
trang trại, vừa có thể kiểm soát các quan hệ kinh tế theo hướng bảo đảm lợi
ích hợp lý cho cả phía trang trại lẫn doanh nghiệp thương mại phi Nhà nước.
Đồng thời phải thắt chặt sự kiểm soát đối với hàng hoá nông sản giá rẻ, chất
lượng kém của nước ngoài xâm nhập vào thị trường trong nước thông qua con
đường phi mậu dịch ở các vùng biên giới.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
100
- Về xuất khẩu nông sản: Một mặt nhà nước, các doanh nghiệp tiếp tục
duy trì quan hệ với các thị trường truyền thống như Đông Âu, Trung Quốc,
Cu Ba, ... mặt khác tích cực tìm kiếm các thị trường mới. Đẩy mạnh việc
khuyến khích các chủ trang trại có điều kiện về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật và
có thị trường tham gia xuất khẩu trực tiếp những nông sản hàng hoá đã qua
chế biến.
Khắc phục tình trạng quá nhiều đầu mối xuất khẩu không có tổ chức dẫn
đến tranh chấp, ép giá. Hoàn chỉnh chính sách tiêu thụ ổn định lâu dài và trực
tiếp cho những mặt hàng nông sản quan trọng như gạo, thịt, rau quả cao cấp,
nông sản đặc sản... Thoát dần tình trạng xuất khẩu nhỏ từng chuyển qua các
khâu trung gian, khuyến khích các đơn vị trực tiếp giao dịch với các đối tác
nước ngoài, tăng cường và mở rộng hợp tác kinh tế đối ngoại trong sản xuất
kinh doanh nông nghiệp.
3.2.1.4. Giải pháp về khoa học công nghệ ở các trang trại:
- Nhà nước cần đổi mới, hoàn thiện tổ chức hoạt động khoa học công
nghệ từ nghiên cứu đến triển khai. Cần huy động các tiềm năng của các thành
phần kinh tế tập trung đầu tư vào khoa học và công nghệ nông nghiệp, coi đây
là mặt trận hàng đầu.
- Ngoài chính sách chung về khoa học và công nghệ nông nghiệp, cần có
chính sách cụ thể hướng dẫn khuyến khích, hỗ trợ khoa học và công nghệ đối
với kinh tế trang trại là lực lượng, là loại hình tổ chức sản xuất có nhiều nhu
cầu và khả năng nhất trong việc ứng dung khoa học và công nghệ nông
nghiệp vào sản xuất. Đó chính là công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến
ngư.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
101
Nâng cao, hướng dẫn cho các trang trại áp dụng các mô hình canh tác
tổng hợp có hiệu quả, ứng dụng các biện pháp kỹ thuật, quy trình kỹ thuật
canh tác tiến bộ nhất là sử dụng các loại giống mới, có năng suất và chất
lượng cao vào sản xuất, khuyến khích hỗ trợ các trang trại có điều kiện về đất
đai, vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật tham gia sản xuất và cung ứng giống.
Tiếp tục phát huy sức mạnh tổng hợp trong hoạt động khuyến nông của
mọi tổ chức, mọi thành phần kinh tế và phương châm tất cả mọi hoạt động
khuyến nông đều tác động đến người lao động, đem lại hiệu quả cao nhất.
Cần có chính sách mạnh mẽ để tập hợp được nhiều cán bộ khuyến nông,
chuyên môn giỏi, nhiều cán bộ quản lý kỹ thuật, kinh tế và xã hội, những
nông dân giỏi trong sản xuất và có kinh nghiệm làm giàu. Đảm bảo công tác
khuyến nông đạt chất lượng cao nhưng phù hợp với ngân sách của địa
phương. Tiếp tục sử dụng những cán bộ khuyến nông có năng lực chuyên
môn và giỏi thực hành biết làm công tác tuyên truyền và vận động quần
chúng ở từng xã, trả lương ngân sách. Nhiệm vụ của số cán bộ này là tuyên
truyền và phổ biến, hướng dẫn tập huấn các chủ trang trại và người lao động
có đủ khả năng ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật về công nghệ sau thu hoạch,
bảo quản sản phẩm, công nghệ chế biến nông, lâm, thuỷ sản theo quy mô vừa
và nhỏ sử dụng các trang trại thiết bị cơ giới phù hợp trong khâu làm đất, vận
chuyển, bơm nước... Bên cạnh ngân sách của Nhà nước đầu tư cho khuyến
nông, cần xây dựng các chính sách thu hút vốn của các ngành hàng, các cơ sở
sản xuất kinh daonh nông sản, và nguồn tài trợ quốc tế tham gia công tác này.
Hiện nay ngành nông nghiệp chỉ hoạt động khuyến nông chung cho cả nông
dân giàu lẫn nghèo. Đã đến lúc cần tập trung công tác khuyến nông riêng đối
với các hộ nông dân, trang trại sản xuất hàng hoá. Hình thành và mở rộng các
câu lạc bộ khuyến nông cho các chủ trang trại theo các ngành sản xuất, đi về
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
102
những chuyên đề thiết thực. Mục tiêu của công tác là hướng dẫn các trang trại
sử dụng các giống cây, con mới; áp dụng các tiến bộ kỹ thuật về bảo quản sản
phẩm, nhất là bảo quản rau quả nhằm kéo dài thời gian tiêu thụ; áp dụng công
nghệ chế biến nông, lâm, hải sản tiên tiến; phân loại và đóng gói sản phẩm
tiêu thụ, sử dụng máy móc phù hợp để làm đất, vận chuyển và bơm nước tưới
tiêu...
- Chính sách khoa học công nghệ của Nhà nước phải kết hợp những kinh
nghiệm, tinh hoa cổ truyền với hiện đại hoá theo hướng cơ giới hoá, tin học
hoá, thuỷ lợi hoá, đặc biệt là ứng dụng những thành tựu mới nhất của công
nghệ sinh học trong nước và quốc tế.
- Nhà nước cũng nên tiếp tục tăng cường quản lý và kiểm tra chặt chẽ
chất lượng giống cây trồng, vật nuôi, vật tư nông nghiệp theo pháp lệnh giống
cây trồng, vật nuôi, tăng cường kiểm tra, đặc biệt là giống nhập từ các nước,
xử lý kịp thời những trường hợp buôn bán hàng giả, giống chất lượng kém
thậm chí có nguy cơ gây hại cho cả ngành sản xuất chung để hạn chế rủi ro
cho các trang trại và cho toàn ngành nông nghiệp.
- Phát huy vai trò của các phòng ban, trạm, trại của địa phương. Các cơ
quan này cần theo dõi sát sao nhu cầu của các trang trại, liên kết với các trang
trại để xác định các mô hình chuyển giao kỹ thuật mới cho nông dân trong
vùng. Đầu tư xây dựng các vườn ươm nhân giống cây trồng, vật nuôi trên địa
bàn phát triển trang trại, thậm chí khuyến khích loại hình trang trại kinh doanh
hình thức này để đảm bảo cung cấp đủ giống tốt tại chỗ cho các trang trại.
- Tổ chức đào tạo nâng cao đội ngũ cán bộ khoa học phục vụ nông
nghiệp bằng nhiều hình thức đa dạng. Khuyến khích cá nhân, tập thể mở rộng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
103
trao đổi, hợp tác với nước ngoài, có chính sách đãi ngộ thoả đáng với những
sáng tạo công nghệ và ứng dụng có hiệu quả vào sản xuất.
- Đối với công nghiệp chế biến, trên cơ sở quy hoạch các vùng nguyên
liệu tập trung, các nguồn vốn đầu tư của nước ngoài, nguồn vốn 135, sắp xếp
lại hệ thống các cơ sở chế biến công nghiệp, đồng thời phát triển công nghiệp
chế biến với các trình độ sản xuất khác nhau để tăng lượng nông sản qua chế
biến, phục vụ nhu cầu đa dạng không chỉ của trong vùng mà còn của các vùng
khác. Đối với các loại nông sản xuất khẩu thì phải đầu tư đổi mới công nghệ
để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm.
3.2.1.5. Giải pháp phát triển cơ sở hạ tầng:
- Trước hết cần hoàn thiện và nâng cấp hệ thống đường giao thông trong
vùng, nhất là đường giao thông nông thôn. Hệ thống đường bộ quốc gia đã có
thể đảm bảo lưu thông hàng hoá, vật tư và nông sản trong phạm vi toàn vùng.
Vấn đề là nâng cấp chất lượng đường giao thông liên huyện, liên xã phù hợp
với yêu cầu phát triển của nông nghiệp hàng hoá và kinh tế nông thôn cũng
như kinh tế trang trại. Giải pháp nâng cấp đường giao thông hiện nay phải coi
trọng chất lượng hơn số lượng.
- Hoàn thiện hệ thống điện nông thôn. Hiện nay điện nông thôn ở huyện
Đại Từ đã về 100% số xã nên giải pháp hoàn thiện hệ thống điện là ổn định
nguồn điện bằng các biện pháp kỹ thuật và quản lý. Nên chăng giảm giá điện sản
xuất cho các trang trại nhỏ. Giảm giá bán điện cho nông nghiệp nói chung.
- Nâng cấp các công trình thuỷ lợi trong vùng. Hệ thống thuỷ lợi hiện
nay chưa đáp ứng được yêu cầu thâm canh cao hơn và đối phó với những biến
động thất thường của thời tiết. Yêu cầu tưới tiêu chủ động, tiến tới tưới tiêu
theo yêu cầu của sinh trưởng và phát triển của cây trồng đang đặt ra hàn loạt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
104
vấn đề kinh tế và kỹ thuật đối với các công trình thuỷ lợi trong vùng, do đó
cần phải nâng cấp các công trình hiện có để tăng công suất tưới tiêu và cải
tiến phương pháp tưới tiêu. Sắp tới vốn đầu tư xây dựng cơ bản nhấn mạnh
vào việc kiên cố hoá kênh mương, gắn kết việc xây dựng kênh mương với hệ
thống giao thông nội đồng.
- Đầu tư nâng cao, chuyển giao và ứng dụng kỹ thuật mới trong nông
nghiệp: Danh mục đầu tư cần được ưu tiên đầu tư vốn, khoa học công nghệ.
- Tổ chức các hệ thống dịch vụ, sản xuất, kinh doanh đồng bộ liên hoàn
từ các khâu đầu vào cho đến các khâu đầu ra của sản xuất. Hình thành hệ
thống cung ứng vật tư, kỹ thuật, dịch vụ tư vấn, thông tin...
3.2.2. Các giải pháp hỗ trợ khác cho sự phát triển kinh tế trang trại:
UBND các huyện, các phòng ban chuyên môn và UBND các xã thực
hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với kinh tế trang trại, chỉ đạo xây dựng quy
hoạch, kế hoạch, phối hợp các biện pháp hỗ trợ kinh tế trang trại phát triển.
Nhanh chóng ổn định việc quy hoạch phát triển các vùng cây trồng, vật
nuôi với khối lượng và chất lượng nông sản hàng hoá lớn. Tại những vùng
này, Nhà nước cùng các chủ trang trại đầu tư các hệ thống bảo vệ thực vật,
thu mua và chế biến, kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm cuối cùng, đồng thời có
chiến lược dự trữ các mặt hàng nông sản chủ yếu để sẵn sàng can thiệp và
điều tiết giá cả thị trường khi cần thiết.
Bộ Nông nghiệp và PTNT phối hợp với Tổng cục Thống kê và các cơ
quan có liên quan hướng dẫn tiêu chí về xác định trang trại để phân biệt với
các loại hình tổ chức sản xuất khác. Tiêu chí cơ bản là giá trị sản xuất hàng
hoá. Các tiêu chí phụ khác được sử dụng để phản ánh quy mô, trình độ, hiệu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
105
quả sản xuất hàng hoá của trang trại phù hợp với điều kiện cụ thể của từng
vùng, gồm: Quy mô diện tích đất đai, diện tích cây trồng chính, số đầu con
gia súc, tỷ trọng hàng hoá, tỷ suất lợi nhuận, số lượng nhân công làm thuê...
Việc xác định trang trại để cấp giấy chứng nhận trang trại là điều kiện để các
trang trại nhận được sự ưu đãi về vốn và tiêu thụ sản phẩm của nhà nước.
Các địa phương tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra, đảm bảo các chủ
trang trại thực hiện đầy đủ quy trình kỹ thuật canh tác và làm giàu đất, bảo vệ
môi trường thống kê trang trại hàng năm.
Tổ chức tổng kết đúc rút kinh nghiệm các mô hình trang trại tiên tiến, để
tuyên truyền phổ biến, tham quan học tập lẫn nhau. Khen thưởng kịp thời các
trang trại sản xuất kinh doanh giỏi, tao được nhiều việc làm, hỗ trợ nhiều hộ
nghèo đói khó khăn vươn lên sản xuất, ổn định cuộc sống.
Trong bối cảnh nước ta đã tham gia vào ASEAN, APEC và gia nhập
AFTA, WTO thì sự cạnh tranh trên thị trường lại càng khốc liệt. Theo đó vai
trò của các doanh nghiệp Nhà nước trong nông thôn và các chủ trang trại là
hết sức quan trọng, doanh nghiệp Nhà nước, đặc biệt là các doanh nghiệp
thương mại phải định hướng cho các chủ trang trại bảo đảm lợi ích lâu dài và
ổn định.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
106
K ÕT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Trong bối cảnh nền nông nghiệp nước ta đang đòi hỏi gay gắt phải có sự
chuyển biến mạnh mẽ cho thích hợp với lối sản xuất hàng hoá và đem lại thu
nhập cao cho người nông dân, kinh tế trang trị kịp xuất hiện như một tất yếu
khách quan và nhanh chóng chứng tỏ là một trong những loại hình tổ chức
sản xuất quan trọng, có vai trò và vị trí tiên phong trong tiến trình thực hiện
các mục tiêu kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước.
Kinh tế trang trại là một bộ phận của nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá
được vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, nên nó cung được hưởng tất cả các chính sách đổi
mới của Đảng và Nhà nước đối với nông nghiệp, đồng thời kinh tế trang trại
cũng phải làm tất cả các nghĩa vụ mà các thành phần kinh tế khác trong nông
nghiệp phải làm tất cả các nghĩa vụ mà các thành phần kinh tế khác trong
nông nghiệp phải làm. Ngoài ra, kinh tế trang trại mang nhiều yếu tố sản xuất
nông, lâm, ngư nghiệp chế biến thực phẩm, mở mang ngành nghề dịch vụ ở
nông thôn theo một cơ cấu hợp lý, góp phần đẩy nhanh tiến trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.
Song thực tế những năm qua đã cho thấy kinh tế trang trại thực sự là đầu
tàu trong việc đổi mới nền nông nghiệp của vùng, là cách tốt nhất để phát
triển nền nông nghiệp hàng hoá và trong tương lai nó còn có nhiều triển vọng,
hứa hẹn đem lại một khối lượng lớn giá trị hàng hoá, nâng cao trình độ sản
xuất nông nghiệp của vùng lên một bước mới.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
107
Với hệ thống các biện pháp đã đưa ra, để kinh tế trang trại phát triển
đúng với tiềm năng, đem lại nguồn thu lớn cho sản xuất nông nghiệp, xin có
một số kiến nghị như sau:
- Sau khi có quy hoạch đất, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội
và quy hoạch các vùng chuyên canh của vùng UBND huyện chỉ đạo các cơ
quan của huyện dựa vào đó và căn cứ những thế mạnh của địa phương để
hướng dẫn các hộ gia đình có điều kiện kinh doanh trang trại, lựa chọn một cơ
cấu sản xuất thích hợp.
- Không chỉ khuyến khích các trang trại đưa tiến độ khoa học kỹ thuật
vào sản xuất mà với các hộ gia đình sản xuất nhỏ cũng nên có biện pháp hỗ
trợ tương tự để họ mở rộng dần quy mô, bước đầu tạo tiền để đi lên làm kinh
tế trang trại.
- Cho đến nay các trang trại vẫn hoạt động độc lập, thiếu sự phối kết hợp
với nhau và với các chủ thể kinh tế khác của nền kinh tế. Có lẽ nên nghiên
cứu xem xét việc thành lập Hiệp hội các trang trại của huyện để trang trại có
điều kiện thuận lợi hơn trong việc chia sẻ kinh nghiệm, hợp tác sản xuất, chế
biến, tiêu thụ sản phẩm, đồng thời cũng tốt cho chủ trương hình thành các
vùng chuyên canh lớn của Nhà nước nhờ sự thoả thuận phân công giữa các
trang trại trong hiệp hội với nhau.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
108
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Báo cáo chuyên đề: "Chính sách phát triển kinh tế trang trại và tác
động của nó đến việc và thu nhập của lao động nông thôn" - Viện Quy
hoạch và thiết kế nông nghiệp- năm 2002
2- Nghị quyết số 03/NQ-CP ngày 22/2/2000 của chính phủ về việc kinh tế
trang trại.
3- Thực trạng và các giải pháp phát triển kinh tế trang trại trong thời kỳ
đổi mới công nghiệp hoá-hiện đại hoá ở Việt Nam.
4-Kmarx. Toàn tập, tập 25, phần 2
5- Thông tƣ số 74/TT-BNN về việc sửa đổi bổ sung mục III của thông tƣ
liên tịch số 69/2000/TTLT/BNN-TCTK ngày 23/6/2000
6-A Connugin: Kinh tế nông trại Mỹ, Trƣờng Đại Học Kinh tế Thành
phố Hồ Chí Minh
7-Nguyễn Điền. Kinh tế trang trại trên thế giới và ở Châu Á
8-Phát triển kinh tế hợp tác và kinh tế trang trại gia đình ở Việt Nam
9- Kết quả thực hiện Đề án phát triển kinh tế trang trại ở Thái Nguyên
10+11+14- Báo cáo đánh giá 3 năm (2002-2004) thực hiện chƣơng trình
phát triển kinh tế trang trại tỉnh Thái Nguyên- tháng 12/2004.
12-Báo Kinh tế nông thôn-Mục Kinh tế trang trại với công nghiệp hoáhiện đại hoá nông nghiệp-nông thôn ngày 19/7/2007.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
109
13-Báo cáo tổng kết năm 2007 của Ngân hàng chính sách xã hội huyện
Đại Từ
15-Tạp chí công nghiệp Việt Nam tháng 5/2001.
16- Nghị quyết đại hội Đảng bộ huyện Đại Từ lần thứ 21
17- Đề án phát triển kinh tế trang trại huyện Đại Từ giai đoạn 2006-2010.
18- Luật đất đai năm 1993
19- Quyết định 67/QĐ-TT ng ày 30/3/1999 về một số chính sách ngân
hàng phục vụ phát triển nông thôn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn