MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đại hội lần thứ VIII (6-1996) xác định: “mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại
uế
hoá là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện
đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của
tế
H
lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc,
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”, ra sức phấn đấu đến năm 2020
“đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp” [18]. Để đạt được mục tiêu
CNH, HĐH đất nước, chúng ta phải coi trọng việc phát triển các KKT. Trải qua hơn
h
25 năm đổi mới đất nước, các KKT ngày càng chứng tỏ được vai trò quan trọng của
in
mình trong việc thúc đẩy sự phát triển về mọi mặt kinh tế - xã hội.
cK
Theo đại diện Bộ kế hoạch Đầu tư về Thực trạng phát triển và định hướng hoàn
thiện cơ chế, chính sách phát triển khu kinh tế ven biển Việt Nam (tại Hội thảo về cơ
chế, chính sách phát triển KKT ven biển Việt Nam được tổ chức tại Quảng Nam vào
họ
cuối năm 2011) thì hiện nay cả nước hiện có 18 KKT ven biển với tổng diện tích mặt
đất, mặt nước hơn 730.000 ha, tương đương với khoảng 2,2% tổng diện tích của cả
Đ
ại
nước. Đến hết năm 2010, tổng vốn đầu tư hạ tầng của các KKT lên đến gần 170.000 tỷ
đồng (trong đó vốn đầu tư nước ngoài chiếm 130.000 tỷ, trong nuớc 40.000 tỷ đồng);
nhiều KKT đã cơ bản hoàn thành công tác quy hoạch, thu hút khoảng 130 dự án FDI,
ng
với tổng vốn đầu tư hơn 25 tỷ USD và 650 dự án đầu tư trong nước... Ngoài ra, theo
báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tính đến hết năm 2011, nước ta có 28 KKT cửa
ườ
khẩu, kim ngạch xuất nhập khẩu của các KKT này tăng khá qua các năm, thu hút được
khoảng gần 70 dự án FDI với tổng vốn đầu tư lê tới 700 triệu USD và khoảng 500 dự
Tr
án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư gần 40 tỷ đồng, tổng thu ngân sách nhà nước
đạt 4800 tỷ đồng…[17]
Huyện Kỳ Anh là vùng đất giàu tiềm năng, có vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên khá
đặc biệt. Hiện nay, huyện Kỳ Anh được xác định là một trọng điểm trong chiến lược
phát triển kinh tế -xã hội của tỉnh Hà Tĩnh. Phương hướng phát triển kinh tế của huyện
trong giai đoạn hiện nay là xây dựng cơ cấu kinh tế nông - lâm - ngư - công nghiệp - xây
1
dựng và dịch vụ theo hướng tăng dần tỷ trọng trong lĩnh vực kinh tế - công nghiệp, xây
dựng và dịch vụ, đồng thời giảm tỷ trọng nông - lâm nghiệp. Chính vì vậy, việc đầu tư
và phát triển KKT chính là một nhiệm vụ cấp bách và hết sức quan trọng.
KKT Vũng Áng là một bộ phận của khu đô thị Vũng Áng và vùng kinh tế Bắc
uế
Quảng Bình - Nam Hà Tĩnh. Ngoài việc khai thác được lợi thế vị trí địa lý tự nhiên để
thúc đẩy sự phát triển của kinh tế -xã hội, góp phần đẩy mạnh phát triển công nghiệp,
tế
H
chuyển dịch cơ cấu theo hướng CNH, HĐH của địa phương thì KKT Vũng Áng còn
tạo điểm bứt phá về kinh tế -xã hội trong khu vực Bắc Trung Bộ, tạo sự liên kết phát
triển giữa các tỉnh Bắc Trung Bộ, thu hẹp khoảng cách trong phát triển kinh tế -xã hội,
hội nhập với cả nước và quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó, KKT Vũng
in
h
Áng vẫn còn tồn tại một số hạn chế như : cơ chế quản lý chưa chặt chẽ, thiếu đồng bộ;
khả năng thu hút đầu tư còn kém, nguồn nhân lực chưa đáp ứng được nhu cầu phát
cK
triển của KKT, chưa tạo được động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội…
Vì vậy, việc xác định được những hạn chế đang tồn tại cũng như đưa ra những
đánh giá về thực trạng của KKT Vũng Áng trong quá trình phát triển là vấn đề có ý
họ
nghĩa quan trọng. Với ý nghĩa đó tôi chọn đề tài: “Phát triển Khu kinh tế Vũng Áng tại
huyện Kỳ Anh, tĩnh Hà Tĩnh”, để từ đó có thể tìm kiếm những giải pháp nhằm đẩy
Đ
ại
mạnh sự phát triển của KKT Vũng Áng trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về phát triển các khu kinh tế, các khu công nghiệp, khu chế xuất
ng
nói chung đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu và đã có những đánh giá sâu sắc,
nêu bật đặc trưng, tồn tại cơ bản của các KKT, KCN, CCN:
ườ
- Kinh nghiệm thế giới về phát triển KCN, KCX và đặc khu kinh tế, Viện Kinh
Tr
tế học, 1994.
- Đặc khu kinh tế Thâm Quyến -Hai tiến trình phát triển kinh tế từ cải cách mở
cửa đến nay - Th.S Nguyễn Thị Thanh Hà, 2010.
- Thực tiễn phát triển các khu kinh tế tự do ở một số nước Châu Á và gợi ý cho
Việt Nam - TS. Đặng Thị Phương Hoa, 2011.
- Đặc khu kinh tế Trung Quốc và các kinh nghiệm đối với Việt Nam - Quan Thị
Lệ Anh, 2003.
2
Nhìn chung các công trình đã phản ánh rõ nét thực trạng, tính cấp thiết cũng
như các giải pháp nhằm phát triển các KKT, KCN, CCN, KCX. Tuy nhiên cho đến
nay, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu tổng thể về phát triển KKT Vũng Áng.
Vì vậy, tôi chọn và nghiên cứu đề tài: “Phát triển Khu kinh tế Vũng Áng tại huyện Kỳ
uế
Anh, tỉnh Hà Tĩnh” để tiếp cận một vấn đề chưa được đề cập hoàn chỉnh, với mong
phát triển kinh tế - xã hội huyện Kỳ Anh nói chung.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài nghiên cứu
3.1. Mục đích của đề tài
tế
H
muốn có một đóng góp nhất định vào sự phát triển của KKT Vũng Áng nói riêng và sự
h
Nghiên cứu các vấn đề lý luận về phát triển KKT trong quá trình CNH, HĐH;
in
phân tích thực trạng KKT Vũng Áng hiện nay. Trên cơ sở đó đề tài đưa ra những
phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển KKT Vũng Áng tại huyện Kỳ
3.2. Nhiệm vụ của đề tài
cK
Anh, tỉnh Hà Tĩnh trong thời gian tới.
+ Hệ thống cơ sở lý luận và tực tiễn về phát triển KKT làm cơ sở khoa học cho
họ
việc phân tích thực trạng của việc phát triển KKT Vũng Áng tại huyện Kỳ Anh, tỉnh
Hà Tĩnh.
Đ
ại
+ Khảo sát thực trạng phát triển KKT Vũng Áng tại huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh.
+ Đề xuất được các giải pháp phát triển KKT Vũng Áng tại huyện Kỳ Anh, tỉnh
Hà Tĩnh.
ng
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
ườ
Đề tài tập trung nghiên cứu sự phát triển kinh tế - xã hội ở KKT Vũng Áng tại
Tr
huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
4.2.1. Về không gian
Nghiên cứu KKT Vũng Áng trên địa bàn huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh
4.2.2. Về thời gian
Giai đoạn từ khi huyện Kỳ Anh bắt đầu xây dựng KKT Vũng Áng từ năm 2006
-2011 và đề xuất giải pháp cho những năm tiếp theo.
3
4.2.3. Về nội dung
Nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về KKT; nghiên cứu thực trạng
phát triển KKT Vũng Áng tại huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh trong thời gian qua từ đó
đánh giá những thành tựu, tiềm năng và hạn chế trong quá trình phát triển KKT Vũng
uế
Áng; đề xuất các giải pháp, kiến nghị cơ bản để thúc đẩy phát triển KKT vũng Áng tại
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài đã sử dụng một số phương pháp chủ yếu sau:
tế
H
huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh.
+ Phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử để nghiên cứu,
h
phân tích vấn đề một cách khoa học, khách quan.
in
+ Phương pháp thu thập thông tin
+ Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp: Thu thập số liệu báo cáo của UBND
tin từ sách báo, tạp chí, internet,…
cK
huyện; Phòng Thống kê huyện Kỳ Anh; BQL KKT huyện Kỳ Anh; tra cứu các thông
+ Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp:
họ
* Chọn điểm điều tra: KKT Vũng Áng
* Chọn mẫu điều tra: phát phiếu điều tra cho các cá nhân, đơn vị sản xuất kinh
Đ
ại
doanh tại KKT Vũng Áng
+ Phương pháp tổng hợp và xử lý số liệu:
- Thiết lập các bảng biểu phản ánh một cách khoa học các số liệu đã thu thập
ng
được để thuận tiện cho việc phân tích, đánh giá, so sánh.
-Sử dụng phương tiện máy tính để tính toán, so sánh, thể hiện số liệu.
ườ
+ Phương pháp chuyên gia: trao đổi, tham khảo ý kiến của các chuyên gia, các
Tr
nhà quản lý và lãnh đạo của địa phương.
6. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài hoàn thành có ý nghĩa quan trọng:
- Làm sâu sắc thêm các vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển KKT.
- Tìm ra những hạn chế, vướng mắc trong quá trình phát triển KKT Vũng Áng
tại huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh.
4
- Góp phần làm cơ sở để xác định phương hướng, chính sách và đưa ra các giải
pháp phù hợp để thúc đẩy phát triển KKT Vũng Áng tại huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh.
- Làm tài liệu tham khảo cho học tập và nghiên cứu.
7. Kết câú của đề tài
của đề tài được chia làm ba chương chính:
tế
H
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển KKT.
uế
Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục, nội dung
Chương 2: Thực trạng phát triển KKT Vũng Áng trong giai đoạn hiện nay.
Chương 3: Những giải pháp nhằm phát triển KKT Vũng Áng tại huyện Kỳ Anh,
Tr
ườ
ng
Đ
ại
họ
cK
in
h
tỉnh Hà Tĩnh.
5
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Những vấn đề lý luận về phát triển Khu kinh tế.
tế
H
1.1.1. Quan niệm Khu kinh tế
uế
VỀ PHÁT TRIỂN KHU KINH TẾ
1.1.1.1. Khái niệm Khu kinh tế
Lịch sử phát triển của các khu kinh tế khởi đầu từ các khu thương mại tự do cổ
đại đã từng tồn tại cách đây 2500 năm ở một số nước thịnh vượng như: La Mã, Hy Lạp,
h
Trung Quốc… Đến cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, các KKT tự do phát triển không
in
ngừng, ngày càng đa dạng, phong phú, chuyển dần từ hoạt động thương mại thuần túy
cK
sang sản xuất mang tính công nghiệp như KCN, KCX, KCN cao và mang tính tổng
hợp sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, nghiên cứu khoa học - kỹ thuật, có cả khu đô thị…
Những khu kinh tế tự do mang tính tổng hợp này thường có mục tiêu phát triển bao
họ
quát cả về kinh tế lẫn xã hội, tạo thành nơi giao lưu kinh tế của đất nước với bên ngoài.
Vị trí của các KKT thông thường được các nước thành lập chọn ở các vùng ven biển,
Đ
ại
các cửa khẩu biên giới, hải đảo… nơi có điều kiện thuận lợi về giao thông, hàng hải,
hàng không, đường bộ; một số quốc gia còn chọn những nơi mà họ có thể có lợi thế so
sánh nhiều so với trong vùng, khu vực, nơi có những trung tâm phát triển kinh tế quốc
tế hoặc có ảnh hưởng thuận lợi đến những vùng xung quanh.
ng
Thuật ngữ “ Khu kinh tế” (economic zones) xuất hiện từ cuối thập niên 70 của
ườ
thế kỷ trước từ Trung Quốc. Cho đến nay, có nhiều quan niệm khác nhau về KKT.
Theo nghĩa rộng: KKT là những khu vực địa lý được áp dụng những chính sách kinh
tế đặc biệt. Theo nghĩa hẹp: KKT là một loại hình riêng của KKT tự do, đầy đủ như
Tr
một xã hội thu nhỏ. Đó là một khu vực địa lý riêng biệt, được áp dụng những chính
sách kinh tế đặc biệt nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài, công nghệ, kiến thức về
quản lý để phát triển kinh tế với một cơ cấu ngành nghề đầy đủ, trong đó ưu tiên phát
triển công nghiệp hướng về xuất khẩu, nhưng cũng không bỏ qua thị trường nội địa[6].
6
Các KKT của nước ta ra đời và phát triển là do kết quả của đường lối đổi mới
do Đảng khởi xướng tại Đại hội Đảng lần thứ VI (1986). Từ đó đến nay, cùng với quá
trình phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, các KKT ngày càng
tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng như một tất yếu khách quan. Tính từ năm
uế
1991 đến nay, Việt Nam đã hình thành và phát triển mô hình KKT ven biển được 8
năm và KKT cửa khẩu được 15 năm.
tế
H
Ở Việt Nam, KKT được hiểu là khu vực có ranh giới địa lý xác định thuộc lãnh
thổ và chủ quyền của quốc gia, có không gian kinh tế riêng biệt, với môi trường đầu tư,
kinh doanh thuận lợi và bình đẳng bao gồm: các khu chức năng, các công trình hạ tầng
kỹ thuật - xã hội, các công trình dịch vụ và tiện ích công cộng với các chính sách ưu đãi,
in
h
khuyến khích, ổn định lâu dài và cơ chế quản lý thông thoáng, tạo điều kiện thuận lợi
cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài yên tâm đầu tư phát triển sản xuất kinh
cK
doanh hàng hóa, dịch vụ trong khung pháp lý hiện hành và ngày càng hoàn thiện [31].
Về định nghĩa KKT, trong bài “ Hoa Kỳ - một đặc khu kinh tế tự do?”, tác giả
Ngô Tự Lập có viết: Có hai các quan niệm chủ yếu. Quan niệm thứ nhất cho rằng, đó là
họ
những lãnh địa công nghiệp chuyên môn hoá sản xuất hàng xuất khẩu, tách rời khỏi chế
độ thương mại và thuế quan của một nước và áp dụng chế độ thương mại tự do. Quan
Đ
ại
niệm thứ hai cho rằng, khu kinh tế tự do không chỉ bao gồm khu vực chuyên môn hoá
sản xuất hàng xuất khẩu mà còn bao gồm cả những khu vực được chính phủ cho phép
như khu cảng tự do, khu tự do thuế quan, khu mậu dịch tự do, kho quá cảnh... [24]
ng
Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì khái niệm KKT được hiểu là: Khu
vực có không gian kinh tế riêng biệt với môi trường đầu tư và kinh doanh, đặc biệt
ườ
thuận lợi cho các nhà đầu tư, có ranh giới địa lý xác định, được xác định theo quy
định của chính phủ ( Khoản 23, Điều 3, Luật đầu tư 2005).
Tr
Theo Nghị định 08 của Chính phủ số 29/2008/NĐ -CP về KCN, KCX và KKT
nêu rõ: KKT là khu vực có không gian kinh tế riêng biệt với môi trường đầu tư và kinh
doanh đặc biệt thuận lợi cho các nhà đầu tư, có ranh giới địa lý xác định[11].
Khu kinh tế được tổ chức thành các khu chức năng gồm: khu phi thuế quan, khu
bảo thuế, khu chế xuất, khu công nghiệp, khu giải trí, khu du lịch khu đô thị, khu dân cư,
khu hành chính và các khu chức năng khác phù hợp với đặc điểm của từng khu kinh tế.
7
Tuy có nhiều quan niệm khác nhau về KKT nhưng có thể hiểu: KKT là nơi
được thành lập nhằm thu hút đầu tư trong và ngoài nước, bằng các biện pháp khuyến
khích đặc biệt như miễn giảm thuế, ưu đãi cơ sở hạ tầng, nằm tại các vị trí địa lý đặc
biệt như cảng biển và mục tiêu là kích thích phát triển kinh tế - xã hội tại một số địa
uế
phương kém phát triển hơn của một quốc gia.
1.1.1.2. Phân biệt Khu kinh tế, Khu công nghiệp, Cụm công nghiệp
tế
H
Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì khái niệm KCN được hiểu là: khu
chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp,
có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định của Chính phủ. (Khoản 20,
Điều 3, Luật Đầu tư 2005)
h
Cụm công nghiệp là khu vực tập trung các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất công
in
nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, cơ sở dịch vụ phục vụ sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công
cK
nghiệp; có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; được đầu tư xây dựng chủ
yếu nhằm di dời, sắp xếp, thu hút các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các cá
nhân, hộ gia đình ở địa phương vào đầu tư sản xuất, kinh doanh… [11]
họ
- Về không gian
+ KCN, CCN là khu vực có ranh giới xác định,phân biệt với các vùng, lãnh thổ
Đ
ại
khác và không có dân cư sinh sống, được thành lập trên cơ sở có sự giải phóng mặt
bằng, thiết kế và xây dựng mới theo quy hoạch.
CCN có quy mô diện tích không quá 50ha, trường hợp cần thiết phải mở rộng
CCN hiện có thì tổng diện tích sau khi mở rộng cũng không được vượt quá 75ha.[11]
ng
+ KKT được thành lập trên cơ sở đất tự nhiên rộng lớn, đã tồn tại sẵn các điều
kiện nhất định về địa lý, dân cư.
ườ
- Về chức năng hoạt động,
+ KCN, CCN là khu vực chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện dịch
Tr
vụ cho sản xuất công nghiệp. Trong KCN không thể có các hoạt động sản xuất nông lâm - ngư nghiệp và các dịch vụ phục vụ trực tiếp cho các loại hình sản xuất này.
+ KKT có phạm vi đầu tư rộng, đầu tư đa ngành, đa lĩnh vực nhưng có mục tiêu
trọng tâm phù hợp với từng KKT thành lập ở mỗi địa phương khác nhau.
8
- Về các vấn đề liên quan
+ Nhằm mục đích bảo vệ môi trường và sức khỏe cộng đồng, nhiều quốc gia
trong đó có Việt Nam quy định không được phép xây dựng các khu dân cư trong các
KCN, CCN được thành lập theo quy hoạch.
uế
+ KKT có thể xem là một mô hình đặc biệt, với quy mô lớn (không chỉ tập trung
phát triển công nghiệp hay chế biến xuất khẩu) và có ranh giới địa lý xác định nhưng lại
tế
H
không tách biệt với khu dân cư. Góp phần giải quyết những vấn đề của xã hội như y tế,
giáo dục, môi trường… và thúc đẩy quy hoạch đô thị, quy hoạch cụm dân cư…
Như vậy, khi nói KCN, CCN thì chỉ nhấn mạnh đến thuần túy kinh tế, còn khi
nói KKT thì còn bao hàm cả vấn đề xã hội (dân cư, y tế, giáo dục, môi trường sống…).
h
Cho nên, phát triển KKT có ý nghĩa đột phá rộng lớn, vừa mới mẻ, vừa mang tính vệ
in
tinh lan tỏa trong quá trình CNH, HĐH nhất là những vùng có điều kiện kinh tế - xã hội
còn khó khăn.
cK
1.1.2. Quan niệm phát triển Khu kinh tế
1.1.2.1. Quan niệm phát triển
Trong thời đại ngày nay, “phát triển” đang là một thuật ngữ khá thông dụng
họ
trong tất cả các ngành nghề, các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chính vì vậy có rất
nhiều định nghĩa về “phát triển”. Tuy nhiên xét một cách khái quát, có hai quan điểm:
Đ
ại
+ Quan điểm siêu hình xem xét sự phát triển chỉ là sự tăng lên hay giảm đi đơn
thuần về mặt lượng, không có sự thay đổi về chất của sự vật. Những người theo quan
điểm siêu hình coi tất cả chất của sự vật không có sự thay đổi gì trong quá trình tồn tại
của chúng. Sự vật ra đời với những chất như thế nào thì toàn bộ quá trình tồn tại của
ng
nó vẫn được giữ nguyên, hoặc nếu có sự thay đổi nhất định về chất thì sự thay đổi ấy
cũng chỉ diễn ra trong một vòng khép kín. Họ cũng coi sự phát triển chỉ là sự thay đổi
ườ
về mặt lượng của từng loại mà sự vật đang có chứ không có sự sinh thành ra cái mới
với những chất mới. Những người theo quan điểm siêu hình còn xem sự phát triển là
Tr
một quá trình tiến lên liên tục không có những bước quanh co, thăng trầm, phức tạp.
+ Quan điểm biện chứng xem xét sự phát triển là một quá trình tiến lên từ thấp
đến cao. Quá trình đó diễn ra vừa dần dần vừa nhảy vọt, đưa tới sự ra đời của cái mới
thay thế cái cũ. Dù trong hiện thực khách quan hay trong tư duy, sự phát triển diễn ra
không phải lúc nào cũng theo đường thẳng mà rất quanh co, phức tạp, thậm chí có thể
có những bước lùi tạm thời.
9
Theo quan điểm biện chứng, sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi dần
dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất, là quá trình diễn ra theo đường xoáy ốc.
Điều đó có nghĩa là quá trình phát triển dường như sự vật ấy quay trở về điểm khởi
đầu song trên cơ sở mới cao hơn.
uế
Trên cơ sở khái quát sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng tồn tại trong hiện
thực, quan điểm duy vật biện chứng khẳng định sự phát triển là một phạm trù triết học
tế
H
dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ
kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật [7].
Từ đây có thể rút ra nhận xét: phát triển là khuynh hướng vận động đã xác định
thiện đến hoàn thiện hơn…
in
1.1.2.2. Quan niệm về Phát triển Khu kinh tế
h
hướng của sự vật: hướng đi lên từ thấp đến cao, từ chưa tốt đến tốt hơn, từ kém hoàn
cK
Hiện nay hầu hết các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam đi theo chiến
lược phát triển kinh tế gắn liền với việc tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững.
Phát triển kinh tế là quá trình lớn lên, tăng tiến mọi mặt của nền kinh tế. Nó bao
họ
gồm tăng trưởng kinh tế cùng với những thay đổi về chất của nền kinh tế (như phúc lợi
xã hội, tuổi thọ…) và những thay đổi về cơ cấu kinh tế (giảm tỷ trọng của khu vực
Đ
ại
nông nghiệp, tăng tỷ trọng của khu vực công nghiệp và dịch vụ). Phát triển kinh tế là
một quá trình hoàn thiện về mọi mặt của nền kinh tế bao gồm kinh tế, xã hội, môi
trường, thể chế trong một thời gian nhất định nhằm đảm bảo rằng GDP cao hơn đồng
ng
nghĩa với mức độ hạnh phúc hơn.
Muốn đánh giá một quốc gia có nền kinh tế phát triển hay không chúng ta phải
ườ
dựa vào các tiêu chí: Tổng sản phẩm quốc nội (GDP), thu nhập bình quân (GDP/
người), chỉ số phát triển con người (HDI), cơ cấu kinh tế (% GDP)… Muốn có một
Tr
nền kinh tế phát triển đòi hỏi các quốc gia phải có các chỉ tiêu GDP, GDP/ người, chỉ
số HDI cao và ngày càng tăng, theo đó cơ cấu kinh tế cũng phải chiếm tỷ trọng cao về
công - thương nghiệp - dịch vụ…
Quan niệm phát triển bền vững xuất hiện vào những năm đầu thập kỷ 80 của thế
kỷ 20, được phổ biến rộng rãi vào năm 1987, với hàm ý tổng quát là sự phát triển đáp
ứng được những yêu cầu của hiện tại nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu
10
cầu của các thế hệ mai sau. (Báo cáo Brundtland của Ủy ban Môi trường và Phát triển
thế giới _ WCED). Đây là quá trình phải bảo đảm có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài
hòa giữa ba mặt của sự phát triển: phát triển kinh tế, phát triển xã hội, bảo vệ môi trường.
Quan điểm phát triển nhanh và bền vững đã sớm được Đảng và Nhà nước ta đặt
uế
ra với nội dung ngày càng hoàn thiện và đã trở thành một chủ trương nhất quán trong
lãnh đạo, quản lý, điều hành tiến trình phát triển của đất nước trong nhiều thập kỷ qua.
tế
H
Trong dự thảo Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 xác định “Phát triển
nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt
trong Chiến lược”, với các nội dung chủ yếu là “Phải phát triển bền vững về kinh tế,
giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh kinh tế. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ
in
h
cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, coi chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức
cạnh tranh là ưu tiên hàng đầu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế
cK
tri thức. Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hoà với thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội; nâng cao không ngừng chất lượng cuộc sống của nhân dân. Phát triển kinh tế xã hội phải luôn đi cùng với bảo vệ và cải thiện môi trường. Nước ta có điều kiện phát
họ
triển nhanh và yêu cầu phát triển nhanh cũng đang đặt ra hết sức cấp thiết; phát triển
bền vững là cơ sở để phát triển nhanh, phát triển nhanh để tạo nguồn lực cho phát
Đ
ại
triển bền vững. Phát triển nhanh và bền vững phải luôn gắn chặt với nhau trong quy
hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Phải đặc biệt quan tâm giữ
vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc
ng
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ để bảo đảm cho đất nước phát
triển nhanh và bền vững” [16].
ườ
Đối với các quốc gia đang phát triển, kém phát triển, hình thành và phát triển
các KKT đã và đang được xem là mô hình ưu việt để phát triển và phát triển bền vững
Tr
KT - XH trong quá trình đẩy nhanh CNH, HĐH đất nước.
Được hình thành và phát triển xuất phát từ chủ trương của Đảng và Chính phủ
trong việc quy hoạch các vùng tập trung phát triển công nghiệp, vùng lãnh thổ kinh tế,
gắn với các cơ chế chính sách đặc thù nhằm tạo đột phá trong phát triển công nghiệp,
phát triển vùng phục vụ mục tiêu đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, các KKT đang thể
hiện rõ tính chất, hiệu quả của một mô hình mang tính đột phá trong thu hút đầu tư,
11
tăng trưởng công nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế tích cực nhằm đưa nền kinh tế
nước ta phát triển theo hướng bền vững.
1.1.3. Đặc điểm và xu hướng phát triển của các Khu kinh tế
1.1.3.1. Đặc điểm của các Khu kinh tế
uế
Trong điều kiện môi trường kinh tế quốc tế đang có những biến đổi sâu sắc, ở
mỗi nước, trong từng giai đoạn đã tổ chức từng loại mô hình KKT thích hợp mang sắc
tế
H
thái riêng. Song về bản chất, KKT vẫn mang những nét đặc trưng sau:
- KKT là một bộ phận không thể tách rời của một quốc gia, tuy chúng có giới
hạn trong một khu vực địa lý riêng biệt, có hàng rào giới hạn đối với các vùng lãnh thổ
còn lại của nước sở tại.
in
h
- KKT là nơi có môi trường kinh doanh đặc biệt tự do, được hưởng những quy
chế riêng, ưu đãi hơn những vùng khác của đất nước.
cK
- Về cơ cấu kinh tế: KKT có một cơ cấu đa ngành, hướng ngoại với sự tổng hợp
của các ngành công - nông - lâm nghiệp, thương mại, tài chính, du lịch, dịch vụ…
- Hoạt động trong KKT chủ yếu là hướng ngoại để thu hút vốn, khoa học kỹ
họ
thuật, phương thức quản lý… của nước ngoài phục vụ cho phát triển kinh tế đất nước
hướng ra thị trường thế giới. Là cầu nối, là nơi giao lưu giữa thị trường quốc gia và thị
Đ
ại
trường thế giới.
KKT được thành lập không chỉ vì lợi ích của bản thân nó mà còn vì lợi ích của
cả vùng và cả đất nước. Kết quả hoạt động của KKT sẽ tác động đến các vùng xung
ng
quanh và cả đất nước.
1.1.3.2. Xu hướng vận động của các Khu kinh tế
ườ
Ở mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ các KKT có những quá trình, mức độ phát
triển khác nhau, tuy nhiên có thể thấy xu hướng vận động chung của các KKT là:
Tr
- Trong quá trình phát triển, các KKT ngày càng phong phú về hình thức, đa
dạng về sở hữu, phức tạp về nội dung và chuyển dần từ các hoạt động thương mại
thuần túy sang kinh doanh công nghiệp, dịch vụ tổng hợp. Hình thức KKT với quy chế
quản lý đặc thù và không gian mở, trong đó mở rộng và đề cao yếu tố liên kết kinh tế
giữa các xí nghiệp trong và ngoài KKT, liên kết đa ngành, đa lĩnh vực, thu hút đồng
thời cả vốn nước ngoài và vốn trong nước, khuyến khích xuất khẩu đồng thời phục vụ
12
cả thị trường nội địa, các dịch vụ được phát triển đa dạng với quy mô và chất lượng
ngày càng được nâng cao. Nói cách khác các KKT ngày càng được coi trọng do đáp ứng
được cả nhu cầu thị trường trong nước và bối cảnh quốc tế, nên tỏ ra thành công và có
nhiều triển vọng hơn. Các nước có nền kinh tế chuyển đổi từ kế hoạch hóa tập trung
uế
sang kinh tế thị trường đang ngày càng tìm thấy một phương tiện đắc lực phục vụ công
cuộc chuyển đổi và phát triển kinh tế đất nước khi xây dựng và phát triển các KKT.
tế
H
- Các ưu đãi về quyền độc lập tự chủ của KKT ngày càng được mở rộng và
nâng cao theo xu hướng tăng tự do hóa, mức cạnh tranh và sự phát triển của quan hệ
kinh tế thị trường ngày càng cao ở cấp quốc gia, khu vực và quốc tế.
- Sự phát triển của các KKT diễn ra đồng thời theo hai chiều hướng là “giãn
in
h
nở” và “co tụ”. Một mặt, chúng giãn nở, lan tỏa về phạm vi phổ biến, quy mô và loại
hình tổ chức được áp dụng; nâng cao và xóa nhòa dần ranh giới địa lý lẫn mức phân
cK
biệt ưu đãi giữa bên trong và bên ngoài KKT; chuyển từ kinh doanh đơn ngành sang
kinh doanh đa ngành, tổng hợp. Mặt khác chúng sẵn sàng biến đổi và co tụ các mục
tiêu ban đầu của mình một khi đã mất các lợi thế cạnh tranh hoặc giá trị hoặc có thể
họ
lựa chọn một số mũi nhọn kinh tế - xã hội đặc thù nhằm tận dụng lợi thế tuyệt đối và
lợi thế so sánh, đem lại hiệu quả cao trong hệ thống mục tiêu đã xác định.
Đ
ại
- Vị trí địa lý của các KKT có xu hướng chuyển ra các vùng biên giới, hải đảo;
tính khu vực và quốc tế của KKT ngày càng tăng do tiếp giáp phần lãnh thổ đồng thời
của nhiều nước lân bang theo phương thức “chợ biên giới”, “tam giác - tứ giác phát
ng
triển” hay “đặc khu kinh tế vùng duyên hải”…[1]
1.1.4. Vai trò của phát triển Khu kinh tế
ườ
Từ kinh nghiệm của một số quốc gia và nhiều địa phương cho thấy các KKT
ngày càng chứng tỏ được vai trò quan trọng của mình trong phát triển kinh tế cũng như
Tr
giải quyết các vấn đề xã hội. Cụ thể:
- Thứ nhất, các KKT có điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư trong và ngoài
nước, giúp giải quyết khó khăn về vốn; khai thác và sử dụng tối ưu nguồn vốn còn
chưa được huy động; tạo nên sự thông thương, liên kết giữa các doanh nghiệp trong và
ngoài nước; từng bước thúc đẩy doanh nghiệp trong nước phát triển năng động hơn, có
khả năng cạnh tranh sản phẩm cao hơn trên thị trường quốc tế.
13
Trong năm 2010, các KKT ven biển thu hút được hơn 30 dự án đầu tư nước
ngoài, kể cả các dự án tăng vốn, mở rộng sản xuất với tổng vốn đăng ký tăng thêm gần
2 tỷ USD; hơn 80 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư gần 20 tỷ đồng. Các
KKT cả nước thu hút được gần 700 dự án trong nước và nước ngoài với tổng vốn đầu
uế
tư gần 33 tỷ USD và 330.000 tỷ đồng. Trong đó, có một số dự án lớn và quan trọng tại
KKT Nghi Sơn, KKT Vũng Áng, KKT Dung Quất gồm nhà máy lọc dầu số 1 và số 2,
tế
H
nhà máy đóng tàu Dung Quất, nhà máy thép Quảng Liên, Khu liên hợp gang thép và
cảng nước sâu Sơn Dương, nhà máy cơ khí nặng Doosan, các nhà máy nhiệt điện Nghi
Sơn, Vũng Áng, cảng trung chuyển quốc tế Vân Phong...
- Thứ hai, các KKT tiếp nhận kỹ thuật, công nghệ tiên tiến và phương pháp
in
h
quản lý hiện đại.
Với ưu thế đặc biệt các KKT đã cơ bản đáp ứng được những yêu cầu về cơ sở
cK
hạ tầng tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp nhận chuyển giao công nghệ và trình độ
quản lý tiên tiến của nước ngoài. Các doanh nghiệp trong KKT và đặc biệt là các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài luôn quan tâm đến việc đào tạo NNL về tay
họ
nghề, kỹ năng nghề nghiệp cũng như trình độ quản lý doanh nghiệp. Một bộ phận lớn
người lao động Việt Nam được đảm nhận những vị trí quan trọng tại doanh nghiệp,
Đ
ại
được tiếp xúc với các phương pháp quản trị doanh nghiệp tiên tiến và các kỹ năng cần
thiết trong công việc. Bên cạnh đó, các dự án đầu tư nước ngoài vào các KKT còn đưa
các dây chuyền, công nghệ sản xuất hiện đại theo chuẩn mực quốc tế vào Việt Nam,
ng
điển hình như: Nhà máy lọc dầu Dung Quất, Công ty SamSung Hàn Quốc, Toyota
Motor, Honda Motor….
ườ
- Thứ ba, các KKT góp phần khai thác hiệu quả các lợi thế và nguồn lực của
quốc gia, các khu vực.
Tr
Ở những khu vực có điều kiện phát triển kinh tế - xã hội thuận lợi, với sự xuất
hiện của các KKT đã làm cho việc khai thác và sử dụng các nguồn lực trở nên hiệu quả
hơn, nền kinh tế phát triển sôi động hơn, cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh theo hướng
CNH, HĐH. Ở những khu vực có đất đai cằn cỗi, hoang hóa, không thuận lợi cho sản
xuất nông nghiệp, ít có khả năng sinh lợi, khi KKT được xây dựng và đưa vào hoạt động
với sự thu hút đầu tư cả trong và ngoài nước đã làm cho bộ mặt kinh tế - xã hội thay đổi
14
hẳn: các vùng thuần nông trở thành các vùng kinh tế đa ngành, trong đó các ngành công
nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ trọng ngày càng lớn, còn nông nghiệp chuyển sang nền nông
nghiệp sản xuất hàng hóa; chất lượng cuộc sống của người dân được nâng lên rõ rệt.
Tại KKT Dung Quất, BQL KKT đã tận dụng những lợi thế sẵn có của mình để
uế
phát triển lâu dài vai trò của một khu kinh tế tổng hợp, đa ngành, đa lĩnh vực, trong đó
trọng tâm là phát triển Công nghiệp lọc dầu-hóa dầu-hóa chất và công nghiệp nặng.
tế
H
- Thứ tư, các KKT tạo thêm việc làm và nâng cao trình độ cho NLĐ.
Sự hoạt động đa ngành nghề của các KKT đã tạo thêm nhiều việc làm cho lao
động, đặc biệt là lao động địa phương với chính sách ưu tiên giải quyết việc làm cho
lao động tại chỗ. Cùng với yêu cầu ngày càng cao của phát triển kinh tế, trình độ lao
in
h
động trong các KKT cũng phải được nâng lên xứng tầm. Do đó, khi đi vào hoạt động,
các KKT một mặt thu hút lao động có chất lượng, mặt khác có hỗ trợ bồi dưỡng để
cK
nâng cao tay nghề lao động. Đồng thời, với quy chế hoạt động sản xuất kinh doanh
chặt chẽ, các KKT còn rèn luyện tác phong lao động mới và nâng cao tính kỷ luật
trong lao động. Bởi vậy, các KKT còn được xem là đầu tàu cho sự phát triển KT - XH
họ
của địa phương và cả nước.
Chỉ tính trong năm 2011, các KKT trên cả nước đã góp phần giải quyết khoảng
Đ
ại
30.000 lao động cho địa phương. Ngoài ra, các địa phương cũng tích cực đầu tư vào
hoạt động giáo dục nhằm nâng cao tay nghề cho người lao động để đảm bảo được yêu
cầu của các doanh nghiệp đầu tư. Tại KKT mở Chu Lai, BQL KKT hướng các doanh
ng
nghiệp đầu tư tại KKT đưa lao động đi đào tạo nghề ở nước ngoài (như Nhà máy sản
xuất tấm thu năng lượng mặt trời đã triển khai). Bên cạnh đó, sẽ thực hiện đào tạo nghề
ườ
khép kín, liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp bằng hình thức đào tạo theo địa chỉ
và đơn đặt hàng của doanh nghiệp, lấy doanh nghiệp làm nơi thực hành của học viên.
Tr
- Thứ năm, góp phần thúc đẩy quá trình đô thị hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng CNH, HĐH; tăng năng lực xuất khẩu.
Sự phát triển của các KKT với việc ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp và
dịch vụ sẽ thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ khu vực 1 sang khu
vực 2 và 3, kéo theo chuyển dịch lao động tương ứng. Nơi đây có sự tập trung và ưu
tiên về vốn, khoa học - công nghệ, do đó sản phẩm có khả năng cạnh tranh trên thị
15
trương trong nước cũng như quốc tế. Điều này làm tăng cơ hội xuất khẩu cho hàng hóa
được sản xuất trong các KKT. Việc phát triển KKT còn góp phần tác động tích cực
đến các lĩnh vực khác của nền kinh tế như: phát triển khu dân cư và khu đô thị mới,
phát triển kết cấu hạ tầng; góp phần phát triển các hoạt động dịch vụ và lĩnh vực khác
uế
như: tài chính ngân hàng, dịch vụ bảo hiểm, vui chơi giải trí… Trong năm 2011, các
KKT trên cả nước đạt doanh thu xuất khẩu gần 800 triệu USD, đóng góp vào ngân
tế
H
sách nhà nước gần 20.000 tỷ đồng.
- Thứ sáu, góp phần đổi mới cơ chế quản lý, cải thiện môi trường đầu tư và mở
rộng quan hệ kinh tế thương mại với các nước trên thế giới.
Rút kinh nghiệm từ việc xây dựng và phát triển các KKT ở những quốc gia đi
in
h
trước, các KKT đi sau cũng ứng dụng những cơ chế quản lý thông thoáng, từ đó cải
thiện được rất nhiều môi trường đầu tư. Việc hấp dẫn đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước
cK
ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước làm quen, ký
kết hợp đồng kinh tế với nhau… góp phần quan trọng trong việc thực hiện quan điểm
phát triển giai đoạn 2001 - 2002 mà Đảng ta đã đề ra trong Đại hội đại biểu toàn quốc
họ
lần thứ IX là: “Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế”. Ngoài đảm bảo mục tiêu phát triển kinh tế thương mại, việc
đất liền [3].
Đ
ại
phát triển các KKT còn gắn với đảm bảo an ninh quốc phòng trên biển, biên giới và
1.1.5. Những hạn chế của việc phát triển KKT
ng
Trong quá trình phát triển KKT, bên cạnh những mặt tích cực, những đóng góp
thì việc phát triển KKT thường chứa đựng những hạn chế sau:
ườ
- Thứ nhất, công tác quy hoạch thiếu đồng bộ có thể gây ra tình trạng kém hiệu
Tr
quả trong việc khai thác các nguồn lực, ảnh hưởng đến sự tăng trưởng kinh tế.
Quy hoạch thành lập ở một số KKT chưa đáp ứng được nhu cầu của quá trình
phát triển, còn mang nhiều tính cục bộ, chưa được xem xét một cách tổng thể hài hòa
lợi ích của quốc gia. Nguyên nhân là do việc đề xuất bổ sung quy hoạch, thành lập
KKT của một số địa phương chưa thực sự phù hợp với điều kiện, tiềm năng phát triển
của địa phương, của vùng mà mang nhiều tính cục bộ, vì lợi ích ngắn hạn của địa
phương. Vấn đề quy hoạch tại các vùng kinh tế ở các tỉnh còn thiếu tính khoa học, tính
16
thực tế và tính liên kết. Thiếu sự quan tâm chú ý giữa quy hoạch trong và ngoài KKT.
Chính sách thu hút đầu tư chưa đủ hấp dẫn nên tỷ lệ lấp đầy tại các KKT còn thấp, các
địa phương bỏ ra các nguồn vốn lớn nhưng không thu hút được các nhà đầu tư thuê đất
sản xuất kinh doanh gây lãng phí nguồn lực, một số KKT chưa tận dụng được hết tiềm
uế
năng, lợi thế rất lớn có được [41].
Một số KKT dựa vào phát triển công nghiệp, dịch vụ thường có cảng biển, giao
tế
H
thông đường bộ thuận tiện tới các vùng kinh tế trọng điểm, song chưa kết nối được lợi
thế này với việc đầu tư phát triển, chưa tạo được sức thuyết phục đối với các nhà đầu
tư, chưa thu hút được những dự án quy mô lớn, hiệu quả cao. Một số KKT dựa vào
phát triển du lịch biển đảo, hình thành trên các bán đảo hoặc đảo ngoài khơi, cũng
in
h
chưa tận dụng được tiềm năng này để thu hút đầu tư lớn. Lũy kế đến nay, các KKT
ven biển ở Việt Nam chỉ mới thu hút được hơn 31 tỷ USD vốn FDI và gần 564 nghìn
cK
tỷ đồng vốn đầu tư trong nước vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Thực chất đây chỉ
mới là vốn đăng ký và không nói lên được tình hình đầu tư thật sự của các nhà đầu tư.
Công tác đền bù, giải phóng mặt bằng và các chính sách sau thu hồi đất không phù hợp
họ
gây nên tác động tiêu cực đối với đời sống người dân. Bên cạnh đó việc chuyển đổi
mục đích sử dụng đất ồ ạt gây nên tình trạng đất canh tác nông nghiệp dần bị thu hẹp
Đ
ại
lại, gây ảnh hưởng tới tình hình an ninh lương thực.
Thực tế cho thấy, hiện nay các KKT chưa được định hướng thu hút các ngành,
lĩnh vực có lợi thế so sánh, chưa tạo được sự liên kết, tương hỗ trong quá trình hoạt
ng
động. Các KKT ven biển đều có chung định hướng đầu tư, bao gồm xây dựng cảng
biển nước sâu, sân bay và thu hút đầu tư vào các lĩnh vực như đóng tàu, dịch vụ cảng
ườ
biển, du lịch biển, chế biến hải sản, nhiệt điện… dẫn tới sự cạnh tranh trong thu hút
đầu tư, điều này làm ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng tăng trưởng kinh tế.
Tr
Tính hợp tác liên kết giữa các tỉnh trong một vùng kinh tế để phát triển các
KKT còn yếu, nhiều tỉnh xé rào để xây dựng cơ chế ưu đãi, nhằm tạo ra các điều kiện
cạnh tranh không lành mạnh trong thu hút các nhà đầu tư vào KKT của tỉnh mình tạo
ra sự không nhất quán, thiếu ổn định của môi trường đầu tư chung.
17
- Thứ hai, có thể gây tình trạng quá tải đối với hệ thống hạ tầng
Việc tập trung quá nhiều doanh nghiệp trên địa bàn, cùng với đó là việc lao
động từ các nơi đổ về KKT một cách nhanh chóng sẽ gây nên tình trạng khó khăn
trong việc cung cấp dịch vụ hạ tầng xã hội (y tế, xã hội…), các vấn đề xã hội trong các
uế
KKT chưa có biện pháp hiệu quả để giải quyết tốt như vấn đề đền bù giải tỏa đất đai,
vấn đề tái định cư, ổn định cuộc sống của nhân dân vùng giải tỏa… dẫn đến đời sống
tế
H
của nhân dân không được đảm bảo, làm tăng nguy cơ mất an ninh kinh tế, trật tự xã
hội… từ đó dễ gây nên các tệ nạn xã hội.
- Thứ ba, việc phát triển các KKT gây ra tác động xấu đối với môi trường và tài nguyên.
Hiện nay, vấn đề ô nhiễm môi trường đang là một tình trạng hết sức báo động ở
h
các KKT. Bởi vấn đề quản lý và xử lý môi trường vẫn là điểm yếu trong hoạt động của
in
tại các KKT: nhiều khu chưa có, hoặc nếu có thì chưa đầy đủ, hệ thống xử lý chậm đi
cK
vào vận hành, đã làm môi trường sống ở nhiều vùng bị ô nhiễm, tác động xấu đến đời
sống của người dân, làm giảm chất lượng sống, tỷ lệ người dân mặc bệnh hiểm nghèo
có nguyên nhân ô nhiễm từ các KKT gia tăng.
họ
Theo kết quả thanh tra của Bộ Tài nguyên và Môi trường cho thấy, nhiều cơ sở
sản xuất tại một số KKT chưa thực hiện nghiêm các cam kết bảo vệ môi trường, xả
Đ
ại
nước thải chưa quả xử lý vượt tiêu chuẩn cho phép ra môi trường, có nơi còn cao đến
vài chục lần. Thậm chí, ở một số cơ sở, hệ thống xử lý nước thải chỉ hoạt động khi có
đoàn thanh tra, kiểm tra tới. Nguyên nhân của tình trạng này là do rất ít KKT có khu
xử lý nước thải tập trung. Sau 9 năm kể từ khi thành lập, KKT mở Chu Lai cũng chỉ
ng
mới bắt đầu triển khai xây dựng 2 nhà máy xử lý nước thải tập trung, KKT Đình Vũ Cát Hải, KKT Chân Mây - Lăng Cô (Thừa Thiên Huế) và KKT Nhơn Hội (Bình Định)
ườ
tuy đã có khu xử lý nước thải tập trung nhưng hiệu quả hoạt động còn hạn chế. Ngoài
ra, một số KKT cũng đã bắt đầu có dấu hiệu ô nhiễm không khí, ô nhiễm tiếng ồn, ảnh
Tr
hưởng đến các vùng lân cận.
Sự lãng phí đất đai trong phát triển KKT ở nhiều vùng còn lớn: đất bị bỏ không
hoặc tỷ lệ lấp đầy thấp, trong khi đó diện tích trồng lương thực bị thu hẹp, đe dọa đến
an ninh lương thực quốc gia.
- Thứ tư, trong quá trình hoạt động và phát triển, các KKT vẫn thiếu vốn
nghiêm trọng, nhất là trong vài năm trở lại đây Nhà nước đầu tư nhỏ giọt, khoán trắng
18
cho địa phương - nhưng địa phương lại quá nghèo, không có khả năng kêu gọi được
đầu tư (nhất là các tỉnh nghèo ở miền Trung - nơi có các KKT ven biển), điều này dẫn
đến việc các KKT hoạt động không hiệu quả và đôi khi còn trở thành gánh nặng của
địa phương. Trong bài nghiên cứu của TS. Võ Đại Lược, có viện dẫn Nghị định số
uế
16/2005/NĐ-CP của Chính phủ cho phép các ngành và địa phương tự xét duyệt các dự
án. Trong đó chỉ có một số rất ít các dự án do Thủ tướng phê duyệt. Tác giả nhận
tế
H
xét: ”Các cơ quan trung ương dường như giám sát, kiểm tra chiếu lệ, mang tính hình
thức, không có chế tài kỷ luật nghiêm ngặt. Hệ quả là Việt Nam đang có tới 63 nền
kinh tế tỉnh thành và một nền kinh tế toàn quốc, tỉnh thành nào cũng phấn đấu trở
thành một nền kinh tế công nghiệp – có các khu cụm công nghiệp, có sân bay, bến
in
h
cảng, trường đại học, cao đẳng, đài truyền hình và phát thanh riêng”...[20]
- Thứ năm, công tác quản lý Nhà nước chưa bắt kịp với yêu cầu phát triển, thậm
cK
chí còn buông lỏng, khoán trắng cho các KKT, nhiều hạng mục trọng điểm bị ngưng
trệ hoặc đóng cửa. Cơ chế chính sách quản lý cồng kềnh, kém hiệu quả, ảnh hưởng tới
công tác đầu tư của các doanh nghiệp. Ở 18 KKT ven biển mới đã được phê duyệt
họ
thành lập, hầu hết tỷ lệ hoạt động của các dự án sản xuất kinh doanh mới đạt từ 20 –
30%, thậm chí có nơi chỉ đạt 10 – 20% như các KKT Nhơn Hội, Vân Phong, Nam Phú
Đ
ại
Yên, Nghi Sơn... Trong khi đó, tình trạng tham nhũng vẫn còn tồn tại là một thách
thức rất lớn trong quá trình xây dựng và phát triển các KKT.
1.2. Các nhân tố tác động tới phát triển Khu kinh tế
ng
1.2.1. Nhóm các nhân tố vĩ mô
+ Công tác quản lý của Nhà nước đối với KKT
ườ
Nhà nước ta hiện nay đang tiến hành việc đơn giản hóa thủ tục hành chính, bộ
máy tổ chức và cơ chế quản lý gọn nhẹ, linh hoạt: chuyển từ công tác quản lý hành
Tr
chính sang công tác dịch vụ theo cơ chế một cửa thông qua cơ chế ủy quyền của các
Bộ, ngành và UBND cấp tỉnh; niêm yết công khai các quy định về thời gian giải quyết
các thủ tục… Kiểm soát và quản lý chặt chẽ nguồn vốn đầu tư, quỹ đất, tình hình môi
trường… trong quá trình phát triển KKT.
19
+ Các chính sách khuyến khích phát triển KKT
Thực tế cho thấy hiện nay, các chính sách được áp dụng cho các KKT là khá
cởi mở và thông thoáng, tạo điều kiện cho các KKT phát huy hiệu quả một cách tốt
nhất như: chính sách ưu đãi đầu tư đối với các tổ chức, cá nhân trực tiếp đầu tư vào
uế
KKT: ưu đãi, miễn giảm các loại thuế thu nhập DN, thuế thu nhập cá nhân, thuế nhập
khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt…; hỗ trợ tiền thuê đất, tiền sử dụng đất; hỗ trợ vốn bằng
tế
H
các loại hình tín dụng của Nhà nước… nhằm thu hút các nguồn vốn đầu tư. Ngoài ra,
còn có các chính sách để phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển các công trình xã hội
nhằm phục vụ cho sự phát triển của KKT. Chính sách quảng bá, tiếp thị hình ảnh cho
KKT.Chính sách phát triển NNL như: đầu tư vào giáo dục, liên kết với các trung tâm
với thực tế.
cK
+ Công tác quy hoạch phát triển KKT.
in
h
đào tạo việc làm, các trường nghề… để trực tiếp định hướng và đào tạo ngành nghề sát
Cách thức thực hiện công tác quy hoạch ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của
KKT. Để đạt được hiệu quả tốt nhất thì cần có sự đồng bộ giữa công tác quy hoạch
họ
KKT với quy hoạch phát triển ngành và quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội; giữa quy
hoạch chung và quy hoạch cụ thể.
Đ
ại
Việc lựa chọn địa điểm xây dựng KKT để nhằm khai thác hết các tiềm năng, lợi
thế, đặc thù của mỗi vùng miền; sự liên kết giữa các KKT theo vùng lãnh thổ; thời
gian đầu tư và tiến độ xây dựng KKT; quy mô và diện tích đất KKT phải đảm bảo
ng
được sự lấp đầy, thuận lợi cho việc đầu tư cơ sở hạ tầng và các dịch vụ đi kèm; sự gắn
kết, đồng bộ giữa các công trình hạ tầng kỹ thuật ngoài KKT với các khu dịch vụ, các
ườ
khu dân cư; việc kiểm soát môi trường nước, không khí và chất thải công nghiệp trong
công tác quy hoạch KKT,… cũng có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của KKT.
Tr
1.2.2. Nhóm các nhân tố vi mô
+ Nguồn vốn và lĩnh vực đầu tư của các đơn vị sản xuất, kinh doanh.
Nguồn vốn đầu tư luôn là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu trong
quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp bởi nguồn vốn sẽ quyết định quy
mô và năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Ngoài ra, để nguồn vốn phát huy được
hiệu quả thì đòi hỏi các nhà đầu tư phải lựa chọn thật chính xác những lĩnh vực đầu tư
20
- Xem thêm -