§¹i häc th¸i nguyªn
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
-------------------------------
NguyÔn §×nh V¨n
Thùc tr¹ng vµ mét sè gi¶i ph¸p
ph¸t triÓn kinh tÕ trang tr¹i
ë tØnh B¾c K¹n
Chuyªn ngµnh: Kinh tÕ n«ng nghiÖp
M· sè: 60 - 31 - 10
LuËn v¨n th¹c sÜ kinh tÕ
Người hướng dẫn khoa học: T.S §ç Quang Quý
Th¸i Nguyªn - 2008
ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu và kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố
trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu trích dẫn trong quá trình nghiên
cứu đều được chỉ rõ nguồn gốc.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Đình Văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
iii
LỜI CẢM ƠN!
Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của
các cơ quan, các cấp lãnh đạo và các cá nhân. Tôi xin chân thành cảm ơn sâu
sắc và kính trọng tới tất cả các tập thể, các cá nhân đã tạo điều kiện giúp đỡ
tôi trong qúa trình học tập và nghiên cứu.
Trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Tiến sỹ Đỗ Quang Quý
là thầy đã trực tiếp hướng dẫn tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và
hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu trường đại học Kinh tế và
QTKD, Ban chủ nhiệm Khoa Đào tạo sau đại học trường Đại học Kinh tế và
QTKD Thái Nguyên đã tạo điều kiện cho tôi có cơ hội được tiếp cận và khẳng
định bước đầu trong công việc nghiên cứu khoa học của mình.
Tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ của các giáo sư, tiến sỹ và cán bộ
Khoa Sau đại học Trường Đại học Kinh tế và QTKD những người đã trang bị
cho tôi những kiến thức quý báu và tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong
quá trình học tập và nghiên cứu luận văn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu đã
để lại những tài liệu nghiên cứu có giá trị, liên quan đến lĩnh vực mà luận văn
của tôi đề cập và sử dụng làm tiền đề nghiên cứu luận văn này.
Tôi xin chân thành cám ơn sự giúp đỡ của lãnh đạo, các chuyên gia của Sở
Nông nghiệp và PTNT Bắc Kạn, Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bắc Kạn, Cục
Thống kê tỉnh Bắc Kạn và các đồng nghiệp, lãnh đạo chính quyền các địa
phuơng và các chủ trang trại đã giúp đỡ nhiệt tình trong quá trình làm luận văn.
Tôi xin cảm ơn những người thân trong gia định đã giúp tôi lúc khó khăn,
vất vả để hoàn thành luận văn. Tôi xin cảm ơn các bạn bè đồng nghiệp gần xa
đã đóng góp nhiều ý kiến quý báu để giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2008
Nguyễn Đình Văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
iv
DANH MỤC TÀI LIỆU VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
STT
Nguyên nghĩa
1
TBCN
Tư bản chủ nghĩa
2
PGS-TS
Phó Giáo sư - Tiến sỹ
3
TT
Trang trại
4
KTTT
Kinh tế trang trại
5
CNH
Công nghiệp hoá
6
HĐH
Hiện đại hoá
7
CSDL
Cơ sở dữ liệu
8
SPSS
Statiscal Package for Social Sciences
9
GTSX
Giá trị sản xuất
10
SXKD
Sản xuất kinh doanh
11
UBND
Uỷ ban nhân dân
12
KH &CN
Khoa học và công nghệ
13
PTNT
Phát triển nông thôn
14
HTX
Hợp tác xã
15
DĐĐT
Dồn điền đổi thửa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
v
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài.............................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu.............................................................................. . ..2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu....................................................... ......3
4. Ý nghĩa khoa học của luận văn và đóng góp của luận văn.............. . ........4
5. Bố cục của luận văn......................................................................... . ........4
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU........................................ 5
1.1. Tổng quan tài liệu nghiên cứu............................................................. .. 5
1.1.1. Cơ sở lý luận về kinh tế trang trại........................... ..................... .5
1.1.2. Kinh nghiệm trên thế giới và Việt nam về phát triển KTTT. ....... 23
1.1.3. Lịch sử hình thành và tồn tại trang trại ở Việt Nam và Bắc Kạn . 26
1.1.4. Quá trình phát triển kinh tế trang trại ở nước ta từ khi đổi mới
theo nền kinh tế thị trường ...................................................... 31
1.1.5. Một số kết luận rút ra từ nghiên cứu lý luận và thực tiễn ............ 37
1.2. Phương pháp nghiên cứu............................................................... .......38
1.2.1. Các câu hỏi đặt ra mà đề tài cần giải quyết .................................38
1.2.2. Phuơng pháp nghiên cứu .......................................................... 38
1.2.3. Các chỉ tiêu nghiên cứu .............................................................42
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI
TỈNH BẮC KẠN.. .... ................................. 43
2.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu .......................................................... 43
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên..... ................................................................43
2.1.2. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Kạn giai đoạn
2001-2007 .............................................................................. 54
1.1.3. Phân tích SWOT về chiến lược phát triển của Bắc Kạn ............. 68
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
vi
2.2. Thực trạng phát triển kinh tế trang trại Bắc Kạn những năm gần đây ...... 70
2.2.1. Tình hình phát triển kinh tế trang trại thời gian qua ................... 70
2.3. Phân tích, đánh giá........................................................................... ... 73
2.3.1. Đặc điểm và phương hướng sản xuất của các trang trại tỉnh Bắc Kạn....73
2.3.2. Tổ chức quản lý sản xuất, kinh doanh của các trang trại. ............ 74
2.3.3. Vấn đề trong phát triển của các trang trại hiện có... .................... 85
2.3.4. Nguyên nhân kìm hãm sự phát triển kinh tế trang trại ở Bắc Kạn .... 86
Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ
TRANG TRẠI TỈNH BẮC KẠN THỜI GIAN TỚI. .............. 89
3.1. Quan điểm phát triển kinh tế trang trại.............................................. .. 89
3.1.1. Quan điểm phát triển kinh tế trang trại trong thời kỳ Công nghiệp
hóa - Hiện đại hoá ở Việt nam.................................... ..................89
3.1.2. Quan điểm riêng đối với tỉnh Bắc Kạn..... ...................................94
3.2. Những định hướng phát triển kinh tế trang trại tỉnh Bắc Kạn........... ...96
3.2.1. Căn cứ để định hướng........ ........................................................96
3.2.2. Phương hướng phát triển kinh tế trang trại tỉnh Bắc Kạn.. .......... 96
3.3. Mục tiêu phát triển kinh tế trang trại............................................. .. .....99
3.3.1. Mục tiêu tổng quát.......... ...........................................................99
3.3.2. Mục tiêu cụ thể................. .........................................................99
3.4. Giải pháp thực hiện......................................................................... ...100
3.4.1. Giải pháp chung cho toàn bộ các trang trại.. .............................100
3.4.2. Giải pháp cho nhóm trang trại......... .........................................109
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................111
Kết luận ...........................................................................................111
Kiến nghị.............................................................................................. .112
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................113
PHỤ LỤC ..............................................................................................116
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
1
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Trang trại là một loại hình sản xuất nông nghiệp được hình thành tương
đối sớm trên thế giới, tuỳ từng thời kỳ mà có những hình thức, tên gọi khác
nhau nhưng đều có đặc điểm chung là sản xuất hàng hoá tự chủ với quy mô
lớn. Phát triển kinh tế trang trại là xu hướng tất yếu trong sản xuất nông
nghiệp, nông thôn hiện nay. Ngày nay, trang trại là loại hình tổ chức sản xuất
phổ biến trong nền nông nghiệp của hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Ở nước ta, trang trại đã hình thành và trải qua các giai đoạn lịch sử khác
nhau của sự phát triển. Tuy nhiên, trang trại gia đình chỉ phát triển từ đầu thập
niên 1990 sau khi có Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị và Luật đất đai ra đời
năm 1993, giao quyền sử dụng đất sản xuất ổn định và lâu dài cho hộ gia đình
nông dân.
Từ khi có chủ trương đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của Đảng, kinh tế
hộ nông dân đã phát huy tác dụng to lớn, tạo sức mạnh mới trong sự nghiệp
phát triển nông nghiệp và nông thôn. Trên nền tảng kinh tế tự chủ của các hộ
nông dân đã hình thành các trang trại được đầu tư vốn, lao động với trình độ
chuyên môn cao đóng góp ngày càng nhiều của cải vật chất cho xã hội. Mới
hình thành và phát triển nhưng kinh tế trang trại đã khơi dậy tiềm năng đất
đai, lao động, vốn trong dân cư để đầu tư phát triển sản xuất, cải thiện bộ mặt
nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế trang trại đã nảy sinh nhiều vấn
đề lý luận và thực tiễn đòi hỏi phải giải quyết kịp thời liên quan đến nhận thức,
cơ chế chính sách của Nhà nước: về đất đai, lao động, vốn đầu tư, tư cách pháp
nhân, quyền lợi và nghĩa vụ của chủ trang trại trước pháp luật.v.v... nhằm củng
cố và phát triển loại hình này một cách tích cực, ổn định và bền vững.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
2
Đã có nhiều công trình nghiên cứu trên các cấp độ khác nhau về kinh tế
trang trại ở khắp các vùng, miền trong cả nước. Nhìn chung, các công trình
nghiên cứu đã nêu ra và đều mong muốn làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực
tiễn của kinh tế trang trại để tìm ra hướng đi, đề xuất những giải pháp nhằm
tháo gỡ những khó khăn vướng mắc để phát huy vai trò của kinh tế trang trại
trong nền nông nghiệp của nước ta hiện nay.
Tuy vậy, vì sản xuất nông nghiệp được diễn ra trên không gian rộng lớn,
mỗi vùng, thậm chí mỗi tiểu vùng cũng có sự khác biệt về điều kiện tự nhiên
và kinh tế - xã hội, nên các trang trại ở mỗi vùng cũng có những đặc điểm
khác nhau. Bắc Kạn là một tỉnh miền núi thuộc vùng Đông Bắc Bắc bộ, có
tiềm năng thế mạnh về đất đai đồi rừng, nhưng kinh tế trang trại Bắc Kạn còn
rất nhỏ bé cả về số lượng và chất lượng, chưa có đóng góp nhiều cho kinh tế
của tỉnh mà loại hình này có nhiều cơ hội phát triển.
Để xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa, phát triển kinh tế
trang trại là hướng đi đúng đắn, cần được quan tâm giúp đỡ bằng những chính
sách hợp lý, góp phần khai thác một cách có hiệu quả và bền vững tiềm năng
về đất đai ở Bắc Kạn. Việc nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn về kinh tế
trang trại trong tỉnh, từ đó đề ra một số giải pháp cơ bản để phát triển kinh tế
trang trại trên địa bàn tỉnh có một ý nghĩa rất quan trọng.
Xuất phát từ thực tế địa phương, với kinh nghiệm công tác trong ngành
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn của tác giả thời gian qua, đề tài: “Thực
trạng và một số giải pháp phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Bắc Kạn” đã
được chọn để nghiên cứu.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu chung
Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Bắc Kạn, từ đó tìm
giải pháp thúc đẩy kinh tế trang trại phát triển, góp phần xây dựng một nền
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
3
sản xuất nông nghiệp sản xuất hàng hoá có khả năng cạnh tranh cao, hiệu quả
và bền vững trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn thời gian tới.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế trang trại.
- Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế trang trại nhằm phát hiện ra các yếu
tố trở ngại và những tiềm năng để phát triển kinh tế trang trại tỉnh Bắc Kạn.
- Phân tích hoạt động kinh tế trong trang trại ở tỉnh Bắc Kạn, từ đó tìm ra
được những nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp ảnh hưởng đến kết quả sản
xuất và hiệu quả kinh tế của trang trại.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu thúc đẩy phát triển kinh tế trang trại
trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn thời gian tới.
3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
- Hoạt động kinh tế của các trang trại cũng như ảnh hưởng của nó đến sự
phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn.
- Đối tượng khảo sát: 100% số lượng trang trại hiện có tại thời điểm điều
tra ở tỉnh Bắc Kạn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
3.3.1. Nội dung
- Số lượng, cơ cấu, loại hình, phương hướng sản xuất của các trang trại ở
tỉnh Bắc Kạn.
- Tình hình sử dụng đất đai, lao động, vốn, thu nhập, bố trí sản xuất, bố
trí cây trồng của các trang trại.
- Phân tích một số chỉ tiêu đánh gía kết quả, hiệu quả kinh tế của các
trang trại.
3.3.2. Phạm vi về không gian: Toàn bộ tỉnh Bắc Kạn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
4
3.3.3. Phạm vi thời gian
- Số liệu lịch sử: 7 năm từ 2001-2007.
- Số liệu hiện trạng năm 2006 (tiến hành điều tra năm 2007).
4. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- Tổng hợp và phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức cho
phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Bắc Kạn.
- Tìm ra và đánh giá tác động của những yếu tố nội hàm và ngoại hàm
ảnh hưởng đến kết qủa sản xuất kinh doanh và hiệu quả kinh tế các trang trại
ở vùng nghiên cứu.
- Đề xuất hệ thống quan điểm, phương hướng và mục tiêu để phát triển
kinh tế trang trại thời gian tới.
- Khuyến nghị những giải pháp chủ yếu để tiếp tục thúc đẩy kinh tế trang
trại phát triển.
5. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Chương 1: Tổng quan tài liệu nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
Chương 2: Thực trạng phát triển kinh tế trang trại tỉnh Bắc Kạn
Chương 3: Một số giải pháp nhằm phát triển kinh tế trang trại thời gian tới
Nội dung cụ thể các chƣơng nhƣ sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
5
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
1.1.1. Cơ sở lý luận về kinh tế trang trại
1.1.1.1. Sự hình thành và phát triển trang trại
a) Quan niệm về trang trại
Lịch sử phát triển của nền nông nghiệp thế giới luôn tồn tại hai hình thức
tổ chức sản xuất nông nghiệp tập trung và sản xuất phân tán [26].
Hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp tập trung trên quy mô diện tích
đất đủ lớn mang tính độc lập đã có từ rất lâu đời. Ngay từ thời đế quốc La mã
đã tồn tại hình thức sản xuất tập trung trên diện tích lớn, lực lượng của yếu là
tù binh và nô lệ. Thời phong kiến ở một số nước châu Âu có hình thức lãnh
địa phong kiến và các trang viên. Ở Trung quốc thời nhà Hán đã có các hoàng
trang, điền trang, đồn điền. Ở Việt nam hình thức sản xuất tập trung đã có từ
thời phong kiến phương Bắc đô hộ.
Về mặt sở hữu thì trang trại hội tụ đủ mọi hình thức sở hữu.
Để biểu đạt loại hình kinh tế này, các nước đều có ngôn từ dùng để chỉ
các hình thức tổ chức sản xuất tập trung (Farm, Farm stedd, Farm house
(Anh); Ferme (Pháp); Fepma (Nga)…) khi chuyển sang tiếng Việt dịch là
trang trại hay nông trại [25]; [19].
- Theo quan điểm của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp
quốc (FAO) và Ngân hàng thế giới (WB):
“Nông trại (Farm) của các nước châu Á gió mùa dùng để chỉ một khu đất
canh tác nông nghiệp”.
- Theo PGS -TS Lê Trọng: “Trang trại là cơ sở, là doanh nghiệp kinh
doanh nông nghiệp của một hoặc một số nhóm nhà kinh doanh” [17].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
6
Qua đó “Trang trại” là thuật ngữ dùng để mô tả, chỉ và gắn liền với
hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung trên một diện tích đủ lớn, với quy
mô hộ gia đình là chủ yếu, trong điều kiện sản xuất hàng hoá của nền kinh
tế thị trường.
b) Phân loại trang trại
* Phân loại theo nguồn gốc hình thành: Có 3 con đường chính hình
thành trang trại
- Trang trại được hình thành từ khu đất từ thời phong kiến: Đây là các
trang trại hình thành từ các khu đất thuộc sở hữu tư nhân của tầng lớp quý tộc,
địa chủ.
- Trang trại phát triển từ kinh tế hộ gia đình: Quá trình sản xuất đã diễn
ra sự phân hoá giữa các hộ. Các hộ sản xuất thuận lợi sẽ phát triển cao hơn về
quy mô và kết quả sản xuất mà hình thành các trang trại [22].
- Trang trại hình thành theo kiểu xí nghiệp TBCN: Các nhà tư bản đầu tư
vốn vào sản xuất nông lâm nghiệp, họ bỏ tiền mua máy móc thiết bị, thuê đất
đai và thuê lao động kinh doanh theo kiểu tư bản chủ nghĩa hình thành các
trang trại.
Hiện nay trang trại gia đình là loại hình trang trại phổ biến ở hầu hết các
nước trên thế giới. Trang trại theo kiểu xí nghiệp tư bản còn tồn tại nhưng
giới hạn trong một số ngành có giá trị cao như chăn nuôi gia súc, đại gia súc
theo huớng xuất khẩu.
* Phân loại trang trại theo hình thức quản lý:
- Trang trại gia đình: Là loại trang trại độc lập tự sản xuất kinh doanh. Mỗi
gia đình có tư cách pháp nhân do một người trong gia đình làm chủ điều hành.
- Trang trại liên doanh: Do vài trang trại hợp nhất để tăng nguồn lực tạo
sức cạnh tranh và sự ưu đãi của nhà nước (ở Mỹ số lượng trang trại này chiếm
10% số lượng và 16% diện tích).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
7
- Trang trại hợp doanh theo cổ phần: Trang trại loại này được tổ chức
theo nguyên tắc công ty cổ phần (ở Mỹ trang trại loại này chiếm 2,7% và
13,7% diện tích đất đai [7].
- Trang trại uỷ thác: Trang trại mà người chủ uỷ quyền cho người nhà, bạn
bè quản lý điều hành sản xuất (Đài loan thường có loại trang trại này) [15].
* Phân loại trang trại theo phương hướng sản xuất:
- Trang trại kinh doanh tổng hợp: Trang trại này thường kết hợp sản xuất
kinh doanh nông, lâm, ngư nghiệp kết hợp ngành nghề và dịch vụ.
- Trang trại chuyên môn hoá: Phương hướng sản xuất chỉ phát triển một
ngành hoặc một sản phẩm như sản xuất ngũ cốc, chăn nuôi gia súc.
* Phân loại theo nguồn thu nhập:
- Nguồn thu nhập chủ yếu từ nông nghiệp: Xu thế trang trại loại này đang
giảm dần (năm 1985 Nhật Bản có 15% số trang trại thuộc loại này).
- Trang trại có thu nhập thêm từ bên ngoài trang trại, loại này thường
kinh doanh tổng hợp và xu thế ngày càng tăng.
* Các phương thức điều hành sản xuất:
- Chủ trang trại vừa điều hành vừa trực tiếp tham gia sản xuất: Loại trang
trại này chủ hộ thường là nông dân, hiện nay hình thức này là phổ biến.
- Chủ trang trại và gia đình không ở trang trại nhưng vẫn điều hành sản
xuất: Hình thức này không nhiều nhưng đang có xu hướng phát triển ở các
nước công nghiệp phát triển.
- Chủ trang trại nhỏ có ít ruộng đất, không điều hành sản xuất mà uỷ quyền
cho người thân quản lý trang trại của mình theo từng vụ hay nhiều năm.
* Phân loại theo tiến trình hình thành và phát triển:
Sự phát triển của các hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp đi từ bậc
thấp lên bậc cao, từ nền sản xuất tự túc, tự cấp chuyển sang sản xuất hàng hoá
mà hình thành các trang trại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
8
- Hộ nông dân nhỏ: Quy mô sản xuất nhỏ, ruộng đất ít, sản xuất bằng
công cụ thô sơ, mục đích đảm bảo thức ăn cho cuộc sống gia đình.
- Trang trại truyền thống: Đất đai được khai khẩn thêm về diện tích, bắt
đầu có sự tích tụ đất đai, lao động chủ yếu là lao động của gia đình. Sản phẩm
sản xuất ra phần lớn dùng để tiêu dùng.
- Trang trại sản xuất trồng trọt hoặc chăn nuôi nhỏ: Quy mô diện tích
được tích tụ lớn hơn, sản xuất được phân định ra với vài loại cây trồng, vật
nuôi chủ yếu, sản xuất phần lớn là thủ công, một phần máy móc.
- Trang trại sản xuất đa dạng hoá: Sản xuất thâm canh có tưới nước, lao
động kết hợp thủ công và máy móc, sản phẩm đa dạng hoá nhằm đảm bảo thu
nhập bền vững, chủ yếu là sản xuất sản phẩm hàng hóa.
- Trang trại chuyên môn hoá: Sử dụng lao động gia đình và thuê ngoài,
sản xuất thâm canh đạt hiệu quả cao chủ yếu là sản xuất sản phẩm hàng hoá.
- Trang trại tự động hoá: Đang phát triển ở các nước phát triển trên thế
giới trong ngành chăn nuôi, sản phẩm chủ yếu xuất khẩu.
1.1.1.2. Khái niệm về kinh tế trang trại
Hệ thống lại lý luận và thực tiễn về kinh tế trang trại, nhiều nhà nghiên cứu
kinh tế Việt nam và thế giới đã đưa ra khái niệm về kinh tế trang trại như sau:
- Theo một số học giả phương Tây:
“Hình thức kinh tế trang trại ở các nước này dùng để chỉ một lĩnh vực tổ
chức sản xuất kinh doanh nông sản hàng hoá lớn ở nông nghiệp nông thôn để
phân biệt với hình thức tiểu nông tự túc, tự cấp”.
- Theo PGS - TS Lê Trọng: “Kinh tế trang trại (hay kinh tế nông lâm
ngư trại…) là một hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của nền sản xuất xã hội,
dựa trên cơ sở hợp tác và phân công lao động xã hội. Bao gồm một số người
lao động nhất định được chủ trang trại tổ chức, trang bị những tư liệu sản xuất
nhất định để tiến hành sản xuất kinh doanh, phù hợp với yêu cầu của nền kinh
tế thị trường và được nhà nước bảo hộ” [17].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
9
- Theo ông Trần Tác, Phó Vụ trưởng - Vụ Kinh tế Trung ương Đảng:
“Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá lớn trong
nông, lâm, ngư nghiệp của các thành phần kinh tế khác nhau ở nông thôn. Có
sức đầu tư lớn, có năng lực quản lý trực tiếp quá trình sản xuất kinh doanh, có
phương pháp tạo ra tỷ suất sinh lời cao hơn bình thường trên đồng vốn bỏ ra,
có trình độ đưa các thành tựu khoa học, công nghệ mới kết tinh trong hàng
hoá, tạo ra sức cạnh tranh cao hơn trên thị trường, mang lại hiệu quả kinh tế
xã hội cao”.
- Theo Phó Giáo sư Đào Công Tiên - trường Đại học Kinh tế thuộc Đại
học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh: “Kinh tế trang trại là một loại hình tổ
chức sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp, phổ biến được hình thành và phát
triển trên nền tảng kinh tế hộ và về cơ bản giữ bản chất kinh tế hộ. Quá trình
hình thành và phát triển kinh tế trang trại là quá trình nâng cao năng lực sản
xuất dựa trên cơ sở tích tụ tập trung vốn và các yếu tố sản xuất khác, nhờ đó tạo
ra nhiều sản phẩm hàng hoá với năng suất, chất lượng và hiệu quả cao”.
Tóm lại: Theo Nghị quyết số 03/2000/NQ-CP ngày 02/02/2000 về Kinh
tế trang trại của Chính phủ, kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất
hàng hoá trong nông nghiệp, nông thôn, chủ yếu dựa vào hộ gia đình nhằm
mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt,
chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, trồng rừng, gắn sản xuất với chế biến và tiêu
thụ nông, lâm, thủy sản. Mặt khác, theo quy định tại Thông tư liên tịch số
69/2000/TTLT/BNN-TCTK ngày 23.6.2000 của Bộ Nông nghiệp & Phát
triển nông thôn có hai nhóm đối tượng có thể tham gia đầu tư sản xuất theo
mô hình trang trại, đó là hộ nông dân, hộ công nhân viên Nhà nước và lực
lượng vũ trang đã nghỉ hưu, các loại hộ thành thị (gọi chung là hộ gia đình) và
cá nhân. Từ đó, hình thành nên hai loại hình kinh doanh là trang trại gia đình
và trang trại cá nhân.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
10
Trong phạm vi luận văn này tác giả có giới hạn việc nghiên cứu, chỉ tập
trung vào loại hình trang trại gia đình trong hệ thống các loại hình trang trại
đang hoạt động trong cơ chế thị trường ở nước ta. Để làm được điều đó, một
trong những việc quan trọng đầu tiên phải làm là “nhận dạng” một cách đầy
đủ, rõ ràng về loại hình kinh doanh mới này để từ đó có những biện pháp
quản lý phát triển phù hợp.
1.1.1.3. Tính tất yếu khách quan của kinh tế trang trại
Quan điểm của các nhà kinh điển về tính tất yếu tồn tại kinh tế hộ gia
đình nông dân và kinh tế trang trại.
* Tính tất yếu khách quan của tồn tại và phát triển kinh tế hộ nông dân
Không phải bây giờ các nhà kinh tế mới bàn đến vai trò của kinh tế hộ
nông dân đối với sự phát triển nông nghiệp mà ngay từ cuối thế kỷ XIX Mác,
Ăng-ghen đã có nhiều công trình nghiên cứu về kinh tế hộ nông dân. Lúc đầu
nghiên cứu con đường công nghiệp hoá đặc thù của nước Anh, Mác đã tiên
đoán với quá trình tách người nông dân khỏi ruộng đất một cách ồ ạt thì giai
cấp nông dân bị thủ tiêu và nông nghiệp sẽ được tổ chức lại thành nền đại sản
xuất như trong công nghiệp. Nghĩa là trong nông nghiệp sẽ hình thành các
“Đại điền trang” Tư bản chủ nghĩa sử dụng lao động làm thuê. Quá trình đó
sẽ tách người nông dân ra khỏi tư liệu sản xuất, mà trước hết là ruộng đất.
Sau này kinh nghiệm lịch sử của những nước công nghiệp phát triển đã
làm chuyển biến nhận thức của Mác và ông phải công nhận là những tiên
đoán khái quát ban đầu của mình trước kia về thực tiễn đã không được, không
thiết lập ngay cả ở nước Anh siêu công nghiệp. Bất chấp xu hướng ban đầu
theo kiểu “dọn sạch mặt đất”. Ở nước Anh công nghiệp phát triển, song nông
trại gia đình trên thực tế không sử dụng lao động làm thuê vẫn ngày càng phát
triển và càng tỏ rõ sức sống cũng như hiệu quả của nó.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
11
Chính vì thế khi viết quyển III của bộ Tư bản chủ nghĩa, Mác đã kết
luận: “Ngay ở nước Anh với nền công nghiệp phát triển hình thức sản xuất
nông nghiệp có lợi nhất không phải là các xí nghiệp nông nghiệp quy mô lớn
mà là các trang trại gia đình không có lao động làm thuê”.
Ở những nước còn giữ hình thức chia đất thành khoảnh nhỏ giá lúa mì rẻ
hơn ở những nước có phương thức sản xuất Tư bản” [2]. Mác đã khẳng định
do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp nên “hệ thống Tư bản chủ nghĩa mâu
thuẫn với nghề nông hợp lý hay là nghề nông hợp lý không phù hợp (trái
ngược) với hệ thống Tư bản chủ nghĩa (mặc dù hệ thống này có hỗ trợ cho sự
phát triển kỹ thuật của nông nghiệp) và đòi hỏi phải có hoặc là bàn tay của
người tiểu nông sống bằng lao động của mình, hoặc là sự kiểm soát của
những người sản xuất có liên kết với nhau” [24].
Sau Mác, Ăng-ghen, C. Cauxlay là người kế tục và có những cấu hiến
lớn trong việc truyền bá và phát triển Chủ nghĩa Mác. Trong đó cống hiến
xuất sắc của C. Cauxlay là những công trình nghiên cứu của ông về vấn đề
nông nghiệp. Theo C. Cauxlay nông nghiệp phát triển không cùng một kiểu
với công nghiệp mà theo những đặc thù của nó. C. Cauxlay cho rằng sự khác
nhau quan trọng nhất giữa công nghiệp và nông nghiệp là ở chỗ, trong nông
nghiệp sản xuất thường gắn liền với kinh tế gia đình, lao động trong nông
nghiệp khác với lao động trong công nghiệp. Sản xuất lớn trong nông nghiệp
không phải luôn luôn có ưu thế tuyệt đối so với sản xuất nhỏ trong mọi điều
kiện. Ông đã rất đúng khi cho rằng một doanh nghiệp lớn của nông dân nếu
đem so sánh với một doanh nghiệp nhỏ của nông dân khác trong cùng một khu
vực, cùng một loại cây trồng thì rõ ràng một doanh nghiệp lớn “ưu việt hơn,
nếu không phải về mặt kỹ thuật, thì ít ra cũng về mặt kinh tế”. Cauxlay đã đi
sâu vào nghiên cứu những nguyên nhân dẫn đến sức cạnh tranh đủ mạnh của
sản xuất nhỏ để chống lại ưu thế của sản xuất lớn trong nông nghiệp. Đó là “sự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
12
chuyên cần hơn và sự chăm chỉ cần mẫn hơn của người lao động khi anh làm
cho chính bản thân anh ta (đây là điểm khác căn bản với lao động làm thuê)
thấp hơn cả nhu cầu của chính bản thân công nhân nông nghiệp nữa”.
A.V. Trai-a-nốp nhà nông học nổi tiếng của thế giới trong nhiều năm
nghiên cứu phong trào hợp tác xã ở nhiều nước: Italia, Bỉ, Anh, Đức và cả ở
Mỹ la-tinh) để tìm cách vận dụng vào nước Nga Xô-viết đã khẳng định “Hợp
tác xã nông nghiệp là sự bổ sung cho kinh tế nông dân, sau đó phục vụ cho
nó, và vì thế mà thiếu kinh tế hộ nông dân thì hợp tác xã sẽ không có ý nghĩa
gì cả? Ông còn cho rằng: HTX chỉ xã hội hoá một phần sản xuất và quá trình
này có thể thực hiện không phá vỡ kinh tế hộ nông dân, nghĩa là các hộ nông
dân chỉ hợp tác với nhau phần sản phẩm sản xuất mà làm ăn tập thể có ưu thế
hơn làm ăn của từng hộ riêng lẻ.
V.I. Lê-nin đã kế thừa và phát triển về kinh tế hộ nông dân của C. Mác,
Ăng-ghen và tiếp thu những hạt nhân hợp lý của C. Cauxlay và A.V. Trai-a-nốp.
Lê-nin cho rằng nhân vật chính trong sản xuất nông nghiệp phải là “một chủ
trại tự do trên mảnh đất tự do”, nghĩa là mảnh đất đã dọn sạch khỏi những tàn
tích trung cổ. Đó là kiểu Mỹ” [13].
* Quá trình chuyển từ kinh tế hộ nông dân thành kinh tế trang trại
Các trang trại gia đình được hình thành từ cơ sở của các hộ tiểu nông,
sau khi phá vỡ cái vỏ bọc tự túc, tự cấp vươn lên sản xuất hàng hoá. Về bản
chất kinh tế trang trại là kinh tế sản xuất hàng hoá khác với nền kinh tế tự cấp
tự túc, Mác đã phân biệt người chủ trang trại với người tiểu nông: “Người chủ
trang trại bán ra thị trường toàn bộ sản phẩm làm ra, còn người t iểu nông thì
dùng đại bộ phận sản phẩm làm ra và mua bán càng ít càng tốt”.
Trong quá trình phát triển kinh tế hộ sẽ vận động theo quy luật là mở
rộng sản xuất hàng hoá, tất yếu sẽ diễn ra quá trình phân hoá giữa các hộ gia
đình. Các hộ sản xuất thành công sẽ trở lên giàu có, những hộ sản xuất không
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
13
thành công hoặc rủi ro trong kinh doanh sẽ trở lên nghèo. Quá trình này
thường xuyên lặp đi lặp lại sẽ tạo nên sự ngăn cách ngày càng sâu về thu nhập
giữa các tầng lớp dân cư [20].
Trong nền kinh tế thị trường các hộ nông dân chịu sự chi phối của các
quy luật của nền kinh tế thị trường. Những hộ nông dân làm ăn có lãi sẽ mở
rộng quy mô sản xuất, mua thêm đất đai, máy móc, tư liệu sản xuất nên quy
mô càng lớn hơn và thành các hộ giàu trong nông thôn [20].
Ngoài ra dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật nên
lao động thủ công dần dần được thay thế bằng lao động cơ giới, hộ nông dân
thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ chuyển thành hộ sản xuất hàng hoá.
Sự điều tiết của nền kinh tế thị trường, sự tác động của khoa học kỹ
thuật, sự phát triển của lực lượng sản xuất làm quá trình phân hoá diễn ra
ngày càng nhanh hơn, các hộ giàu sẽ phát triển thành kinh tế trang trại.
Quá trình biến đổi từ hộ nông dân thành kinh tế trang trại là quá trình tự
phát hợp quy luật phát triển của xã hội.
* Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về kinh tế hộ và kinh tế trang trại
Ở Việt Nam, từ năm 1986 đến nay nhờ đường lối đổi mới của Đảng và
chính sách khuyến khích của Nhà nước, hộ nông dân được thừa nhận là đơn
vị kinh tế tự chủ đã tạo ra động lực mới khơi dậy tiềm năng đất đai, lao động,
tiền vốn và kinh nghiệm sản xuất, quản lý của hàng chục triệu hộ nông dân.
Nhờ đó kinh tế nông nghiệp nông thôn nước ta đã có một bước chuyển biến
tương đối toàn diện, mô hình trang trại ra đời và phát triển khá phổ biến ở tất
cả các vùng của đất nước.
Từ kinh nghiệm của các nước và thực tế phát triển của mô hình trang trại
trong thời gian qua cho thấy, ở nước ta hiện nay và trong tương lai loại hình
phổ biến và chủ yếu nhất vẫn là trang trại gia đình của hộ nông dân. Về vấn
đề này, Nghị quyết 06 NQ/TƯ ngày 10.11.1998 của Bộ Chính trị Trung ương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
14
Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “ở nông thôn hiện nay đang phát triển mô
hình trang trại nông nghiệp, phổ biến là các trang trại gia đình, thực chất là
kinh tế hộ sản xuất hàng hoá với quy mô lớn hơn, sử dụng lao động, tiền vốn
của gia đình là chủ yếu để sản xuất kinh doanh có hiệu quả...”. Đảng và Nhà
nước cũng đã có những chủ trương, chính sách và bước đầu cũng đã tạo dựng
được những cơ sở pháp lý cần thiết tạo điều kiện để các trang trại gia đình
hình thành và phát triển. Tuy nhiên, khung pháp luật về loại hình này còn ở
mức độ rất ban đầu, cần phải được tiếp tục xây dựng và hoàn thiện. Bên cạnh
đó, dưới góc độ pháp lý, còn có nhiều vấn đề lý luận đặt ra, cần được nghiên
cứu, lý giải để tạo cơ sở lý luận vững chắc cho các quyết tâm chính trị và
pháp lý.
1.1.1.4. Đặc trưng của kinh tế trang trại
Căn cứ vào các quy định tại Nghị quyết 03/2000/NQ-CP ngày 02.02.2000
của Chính phủ và các văn bản hướng dẫn thi hành, cũng như thực trạng hình
thành và phát triển của trang trại gia đình thời gian vừa qua, có thể thấy trang
trại gia đình ở Việt Nam có một số đặc điểm cơ bản sau [16]:
Thứ nhất: Trang trại gia đình là một đơn vị kinh tế trong lĩnh vực nông,
lâm, ngư nghiệp.
- Trang trại gia đình là đơn vị trực tiếp sản xuất ra những sản phẩm vật
chất cần thiết cho xã hội, bao gồm nông, lâm, thủy sản, đồng thời quá trình
kinh tế trong trang trại gia đình là quá trình khép kín với các khâu của quá
trình tái sản xuất luôn kế tiếp nhau, bao gồm: sản xuất, phân phối, trao đổi,
tiêu dùng.
- Trang trại gia đình là một đơn vị kinh tế có một cơ cấu thống nhất, đó
là dựa trên cơ sở hộ gia đình bao gồm chủ hộ và các thành viên khác trong gia
đình. Chủ trang trại (thường là chủ hộ) là người đại diện cho trang trại gia
đình trong các quan hệ liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của trang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
15
trại. Chủ trang trại là người có kiến thức, có kinh nghiệm kinh doanh, am hiểu
thị trường và trực tiếp điều hành sản xuất kinh doanh tại trang trại. Đây là
những tố chất rất cần thiết cho một nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị
trường và về cơ bản chúng không có ở người chủ hộ nông dân sản xuất tự
cung tự cấp.
- Tài sản và vốn sản xuất kinh doanh của trang trại gia đình thuộc quyền
sở hữu hoặc sử dụng (đối với đất đai) chung của các thành viên trong hộ gia
đình. Bằng công sức, tài sản và vốn chung các thành viên của hộ gia đình tiến
hành các hoạt động sản xuất kinh doanh nông, lâm, ngư nghiệp dưới hình
thức trang trại gia đình. Đồng thời chịu trách nhiệm về các hoạt động sản xuất
kinh doanh bằng những tài sản chung đó.
- Xuất phát từ bản chất kinh tế của trang trại, nên hoạt động sản xuất
kinh doanh của trang trại gia đình luôn gắn liền với một vị trí diện tích đất đai
nhất định. Thực tế cho thấy, đây vừa là địa điểm sản xuất kinh doanh đồng
thời cũng là trụ sở giao dịch của trang trại gia đình trong các quan hệ nhằm
phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, để thuận lợi hơn trong
việc tiếp cận thị trường, không ít trang trại gia đình đã mở thêm các địa điểm
giao dịch gần các trung tâm thương mại lớn nhằm tiếp thị và tiêu thụ sản
phẩm hàng hoá của mình.
- Theo pháp luật hiện nay, trang trại gia đình bước đầu cũng đã được quy
định cho một số quyền và nghĩa vụ trong sản xuất kinh doanh ở một số lĩnh
vực như: đất đai, thuế, đầu tư, tín dụng, lao động, khoa học, công nghệ và môi
trường, bảo hộ, v.v... Trên cơ sở những quyền và nghĩa vụ này, trang trại gia
đình hoàn toàn tự chủ trong các hoạt động sản xuất kinh doanh, từ lựa chọn
phương hướng sản xuất, quyết định kỹ thuật và công nghệ sản xuất, tổ chức
sản xuất, đến tiếp cận thị trường, tiêu thụ sản phẩm,...
- Hiện nay, theo Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 3.2.2000 về đăng ký
kinh doanh, trang trại gia đình đang phải đăng ký kinh doanh dưới danh nghĩa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
16
hộ kinh doanh cá thể. Vấn đề đăng ký kinh doanh cho trang trại gia đình hiện
vẫn chưa được đề cập đến trong các văn bản pháp luật. Tuy nhiên, đây là một
việc làm hết sức cần thiết để thể hiện sự chính thức thừa nhận và bảo hộ của
Nhà nước đối với trang trại gia đình, đây còn là cơ sở để một hộ là trang trại
gia đình được hưởng các chính sách ưu tiên và làm nghĩa vụ đối với Nhà
nước. Nghị quyết 03/2000/NQ-CP, ngày 02/02/2000 của Chính phủ về kinh tế
trang trại đã xác định đây là một trong những vấn đề bất cập, cần phải được
giải quyết kịp thời.
Thứ hai: Mục đích chủ yếu của trang trại gia đình là kinh doanh nông
sản phẩm hàng hoá theo nhu cầu thị trường.
Đây là đặc điểm quan trọng nhất của trang trại gia đình. Mục tiêu của
trang trại gia đình là sản xuất nông, lâm, thủy sản để bán, khác hẳn với kinh tế
hộ tự cấp tực túc là chính. Trang trại gia đình là một hình thức tổ chức sản
xuất nông lâm ngư nghiệp được hình thành trên cơ sở kinh tế hộ tự chủ trong
cơ chế thị trường mang tính chất sản xuất hàng hoá rõ rệt. Vì vậy, đặc trưng
cơ bản của trang trại gia đình là sản xuất nông, lâm, thuỷ sản hàng hoá. Kinh
nghiệm các nước trên thế giới cho thấy tiêu chí giá trị nông sản hàng hoá và
tỷ suất hàng hoá bán ra trong năm luôn luôn được sử dụng làm thước đo chủ
yếu của trang trại. Ở Việt Nam, thực tiễn sản xuất của các trang trại gia đình
trong những năm vừa qua cho thấy, trang trại nào cũng lấy sản xuất hàng hoá
là hướng chính và tỷ suất hàng hoá của các trang trại trại phổ biến từ 70 80% đối với những trang trại đã đi vào sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực
nông lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Theo một kết quả điều tra năm 2001
cho thấy: ở nước ta trong năm 2000, giá trị hàng hoá của các trang trại trong
cả nước đạt 4.965,9 tỷ đồng, bình quân một trang trại đạt 81,7 triệu đồng, tỷ
suất hàng hoá là 92,6%. Đặc trưng sản xuất hàng hoá cho phép phân biệt rõ
ràng ranh giới giữa trang trại gia đình với kinh tế hộ nông dân, sản xuất tự cấp
tự túc và với hộ phi nông nghiệp ở khu vực nông thôn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
17
Thứ ba: Trong trang trại gia đình, các yếu tố sản xuất trước hết là ruộng
đất và tiền vốn được tập trung tới quy mô nhất định theo yêu cầu phát triển
sản xuất hàng hoá.
Trong nông nghiệp cũng như trong các ngành sản xuất vật chất khác, sản
xuất hàng hoá chỉ có thể được tiến hành khi các yếu tố sản xuất được tập
trung với quy mô nào đó. Do đó, ở các trang trại gia đình sản xuất hàng hoá
chỉ có thể được thực hiện khi ruộng đất, tiền vốn, tư liệu sản xuất,... được tập
trung tới quy mô đủ lớn. Đặc điểm này được quy định bởi chính đặc điểm về
mục đích sản xuất của trang trại. Theo quy định tại Thông tư liên tịch số
69/2000/TTLT/BNN-TCTK, ngày 23/6/2000 của Bộ Nông nghiệp & Phát
triển Nông thôn và Tổng cục thống kê, sự tập trung các yếu tố sản xuất của
trang trại gia đình được biểu thị về mặt lượng bằng những chỉ tiêu chủ yếu, đó
là: Quy mô diện tích ruộng đất của trang trại (nếu là trang trại chăn nuôi thì là
số lượng gia súc, gia cầm,...) và quy mô vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh
của trang trại.
Thực tế cho thấy, các trang trại gia đình có quy mô lớn hơn rất nhiều so
với kinh tế hộ gia đình nông dân. Theo số liệu điều tra năm 1999 của Trường
Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội cho thấy: bình quân một trang trại gia đình
có số vốn là 291,43 triệu đồng, trong đó 91,03% là vốn tự có, quy mô đất đai
bình quân của một trang trại gia đình là 6,338 ha, trong khi đó bình quân đất
đai sản xuất nông nghiệp của một hộ gia đình chỉ là 0,68 ha.
Thứ tư: Lao động trong các trang trại gia đình chủ yếu là dựa trên các
thành viên trong hộ, ngoài ra có thuê mướn lao động.
Lực lượng lao động trong trang trại chủ yếu là chủ trang trại và các thành
viên trong gia đình, đây là những người có quan hệ huyết thống, gần gũi như:
Cha mẹ, vợ chồng, anh em. Lao động được tổ chức gọn nhẹ, đơn giản, quản
lý điều hành linh hoạt, dễ dàng, hiệu quả lao động cao. Ngoài ra, để phục vụ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
18
cho nhu cầu sản xuất kinh doanh, trang trại gia đình còn phải thuê mướn lao
động bên ngoài nhất là vào thời vụ gieo trồng, thu hoạch. Quy mô thuê muớn
lao động trong trang trại tuỳ thuộc vào quy mô sản xuất kinh doanh của trang
trại. Có hai hình thức thuê mướn lao động trong các trang trại gia đình, đó là :
thuê lao động thường xuyên và thuê lao động theo thời vụ. Theo thống kê của
Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn, bình quân 1 trang trại sử dụng 6 lao
động (quy ra thường xuyên), lao động trong gia đình chiếm 45%; hầu hết
trang trại đều có sử dụng lao động thuê ngoài, số lượng lao động thuê ngoài
trong các trang trại chiếm khoảng 55% tổng số lao động trong các trang trại,
trong đó chủ yếu là lao động thời vụ (khoảng 70%). Trang trại chăn nuôi,
nuôi trồng thủy sản do tính chất sản xuất khá ổn định nên sử dụng lao động
thời vụ ít hơn (từ 10 - 20%).
Thứ năm: Cách thức tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh trong trang
trại gia đình ngày càng mang tính khoa học, chuyên nghiệp.
Trong kinh tế hộ gia đình nông dân do tính chất sản xuất đơn giản và
quy mô sản xuất nhỏ với mục đích tự cung tự cấp là chính do vậy việc điều
hành sản xuất của chủ hộ vẫn còn mang nặng tính gia trưởng, người chủ hộ
chỉ cần có kinh nghiệm sản xuất và cần cù lao động theo kinh nghiệm cha
truyền con nối. Nhưng đối với trang trại gia đình, với mục đích chính là sản
xuất hàng hoá và bị các yếu tố lợi nhuận, giá cả, cạnh tranh chi phối ngày
càng nhiều thì cách quản lý theo kiểu gia trưởng không còn phù hợp nữa. Sản
xuất đòi hỏi phải có phương án hợp lý lựa chọn cây trồng, vật nuôi, quy hoạch
ruộng đất, xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật sản xuất, áp dụng các công nghệ
và quy trình sản xuất thâm canh, kế hoạch tài chính, hạch toán giá thành, lợi
nhuận, phân tích kinh doanh... Do vậy việc quản lý, điều hành hoạt động sản
xuất kinh doanh của trang trại đòi hỏi phải dựa trên cơ sở những kiến thức
khoa học và ngày càng mang tính chuyên nghiệp, đi vào chiều sâu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
19
Như vậy, mặc dù cũng dựa trên cơ sở hộ gia đình, nhưng trang trại gia
đình có sự khác biệt rất lớn so với hộ gia đình thể hiện ở mục đích, quy mô và
trình độ sản xuất. Trang trại gia đình đã và đang ngày càng thể hiện rõ tính
chất của một loại hình doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp
nông thôn ở nước ta. Từ những đặc điểm nêu trên, theo chúng tôi, dưới góc
độ pháp lý khái niệm về trang trại gia đình với tư cách là một chủ thể kinh
doanh độc lập trong nền kinh tế thị trường có thể hiểu như sau: “Trang trại
gia đình là một đơn vị kinh tế hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm, ngư
nghiệp, dựa trên cơ sở hộ gia đình, có mục đích chủ yếu là kinh doanh nông
sản hàng hoá, trên quy mô ruộng đất và các yếu tố sản xuất được tập trung
đủ lớn với cách thức tổ chức quản lý tiến bộ, tự chủ trong các hoạt động sản
xuất kinh doanh”.
Khái niệm này vừa thể hiện được bản chất về mặt kinh tế của trang trại
nhưng đồng thời cũng thể hiện được những đặc trưng của loại hình trang trại
gia đình, là cở sở để phân biệt trang trại gia đình với các loại hình kinh doanh
khác đang tồn tại trong nền kinh tế thị trường ở Việt nam hiện nay.
1.1.1.5. Tiêu chí nhận dạng
Một hộ sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản được xác định là trang trại
theo qui định tại Thông tư số 69/2000/TTLT/BNN-TCTK ngày 23/6/2000
liên Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Tổng cục Thống kê; Thông
tư số 74/2003/TT - BNN ngày 4/7/2003 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn (sửa đổi, bổ sung Mục III của Thông tư liên tịch số 69/2000/ TTLT/BNNTCTK) phải đạt một trong hai tiêu chí về giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ
bình quân 1 năm, hoặc về quy mô sản xuất của trang trại sau đây:
1. Giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ bình quân 1 năm:
- Đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền Trung từ 40 triệu đồng
trở lên;
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
20
2. Qui mô sản xuất phải tương đối lớn và vượt trội so với kinh tế nông hộ
tương ứng với từng ngành sản xuất và vùng kinh tế:
a. Đối với trang trại trồng trọt:
(1) Trang trại trồng cây hàng năm:
- Từ 2 ha trở lên đối với phía Bắc và Duyên hải miền Trung;
(2) Trang trại trồng cây lâu năm:
- Từ 3 ha trở lên đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền Trung;
(3) Trang trại lâm nghiệp: Từ 10 ha trở lên đối với các vùng trong cả nước.
b. Đối với trang trại chăn nuôi:
(1) Chăn nuôi đại gia súc: trâu, bò,v.v...
- Chăn nuôi sinh sản, lấy sữa có thường xuyên từ 10 con trở lên;
- Chăn nuôi lấy thịt có thường xuyên từ 50 con trở lên.
(2) Chăn nuôi gia súc: lợn, dê, v.v...
- Chăn nuôi sinh sản có thường xuyên đối với lợn từ 20 con trở lên, đối
với dê, cừu từ 100 con trở lên;
- Chăn nuôi lợn thịt có thường xuyên từ 100 con trở lên (không kể lợn
sữa), dê thịt từ 200 con trở lên.
(3) Chăn nuôi gia cầm: gà, vịt, ngan, ngỗng, v.v... có thường xuyên từ
2000 con trở lên (không tính số đầu con dưới 7 ngày tuổi).
c. Trang trại nuôi trồng thuỷ sản:
- Diện tích nuôi trồng thuỷ sản có từ 2 ha trở lên (riêng đối với nuôi tôm
thịt theo kiểu công nghiệp từ 1 ha trở lên).
d. Trang trại sản xuất kinh doanh tổng hợp:
Là những trang trại có từ hai hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp và
nuôi trồng thuỷ sản khác nhau trở lên và mỗi hoạt động đều đạt về qui mô
hoặc mức giá trị hàng hoá và dịch vụ như quy định cho trang trại.
Việc công nhận và cấp giấy chứng nhận trang trại gia đình là việc làm
cần thiết tạo điều kiện cho loại hình KTTT phát triển. Tuy nhiên để làm được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
21
điều đó, một trong những việc quan trọng đầu tiên phải làm là xác định một
cách đầy đủ về phạm vi và số lượng của loại hình KTTT để từ đó có những
biện pháp quản lý phù hợp.
1.1.1.6. Vai trò của kinh tế trang trại trong quá trình phát triển kinh tế
nông nghiệp và nông thôn
* Theo “ủy ban Quốc gia về Trang trại nhỏ” (NCFS) của Bộ Nông
nghiệp Hoa Kỳ (USDA) cũng đã công bố một bản báo cáo có tính bước ngoặt
vào năm 1998 với nhan đề “Thời gian hành động”. Trong đó USDA thừa
nhận “Những giá trị công cộng” của trang trại gia đình bao gồm [8]:
- Tính đa dạng: Các trang trại nhỏ chứa đựng tính đa dạng của quan hệ
sở hữu, của hệ thống canh tác, của cảnh quan môi trường, của sự đa dạng sinh
học, của văn hoá và các giá trị truyền thống. Sự phát triển của các trang trại
nhỏ góp phần làm tăng tính đa dạng sinh học, làm tăng sự hấp dẫn của phong
cảnh nông thôn và làm mở rộng không gian sống.
- Những lợi ích về môi trường: Trang trại gia đình có vai trò rất quan
trọng trong việc tạo ra những lợi ích môi trường cho xã hội. Việc đầu tư vào
các trang trại này sẽ cung cấp cho chính phủ một sự chia sẻ trong cương vị
quản lý hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên của quốc gia.
- Trao quyền hợp pháp và chịu trách nhiệm cộng đồng: Các trang trại
nhỏ đã mang lại cho người nông dân một ý nghĩa lớn hơn đối với trách nhiệm
cá nhân và cảm giác được kiểm soát cuộc sống của chính mình, đặc điểm này
không dễ có được đối với công nhân trong các nhà máy. Những chủ trang trại
hoạt động dựa vào những doanh nghiệp và các cơ sở cung cấp dịch vụ tại địa
phương để đáp ứng các nhu cầu của mình. Điều này có tác dụng rất lớn
trong việc tạo ra cơ hội để mang lại lợi ích lớn hơn đối với cộng đồng và
hạnh phúc của bản thân những người trong trang trại. Ngược lại, những chủ
trang trại nhỏ ở địa phương sẽ tự cảm thấy phải có trách nhiệm cao hơn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
22
trong việc kiểm soát bất cứ hoạt động tiêu cực nào mà nó có thể gây ra tác
hại đối với cộng đồng.
- Bổn phận của gia đình: Trang trại gia đình có bổn phận nuôi dưỡng
những đứa trẻ lớn lên và thu nhận những giá trị truyền thống. Những kỹ năng
canh tác đã trải qua từ thế hệ này đến thế hệ khác dưới cấu trúc sở hữu gia
đình. Khi những đứa trẻ không tiếp tục làm nông, những kiến thức, kỹ năng
và kinh nghiệm canh tác có thể sẽ bị mất.
Một hình mẫu tương tự ở các nước đang phát triển, trong những cộng
đồng canh tác truyền thống, trang trại gia đình là trung tâm để duy trì cộng
đồng và để tăng cường khả năng chịu đựng của nền sản xuất nông nghiệp.
Trong các trang trại gia đình, hoạt động sản xuất, động viên lao động, hình
thức tiêu thụ, kiến thức về sinh thái và những mối quan tâm chung trong việc
duy trì sự tồn tại lâu dài của trang trại được xem như là một thứ tài nguyên,
nó đóng góp cho sự ổn định và phát triển bền vững của toàn bộ nền kinh tế
cũng như với mỗi đơn vị kinh tế cơ sở là gia đình.
* Theo đánh giá của Chính phủ Việt nam tại Nghị quyết số 03/2000/NQCP ngày 02/02/2000 về Kinh tế trang trại:
Những năm gần đây, kinh tế trang trại đã đóng góp đáng kể vào sự tăng
trưởng kinh tế, đồng thời góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho lao
động của các hộ nông nghiệp và nông thôn. Sự phát triển của kinh tế trang trại
là động lực mới cho phát triển kinh tế hộ nông dân, bên cạnh đó đã tạo ra các
vùng sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hàng hoá tập trung, làm tăng khối lượng
và giá trị hàng hoá, tạo tiền đề cho công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản
và thực phẩm phát triển, mở rộng các ngành nghề dịch vụ ở nông thôn. Nói
cách khác: sự phát triển kinh tế trang trại góp phần thúc đẩy quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, thay đổi cơ cấu kinh tế nông thôn theo
hướng CNH, HĐH.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
23
1.1.2. Kinh nghiệm về phát triển kinh tế trang trại trên thế giới
Theo các nhà nghiên cứu, kinh tế trang trại được hình thành từ rất sớm,
từ khi phương thức sản xuất tư bản thay thế phương thức sản xuất phong kiến,
từ khi bắt đầu cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất ở châu Âu, nghĩa là
kinh tế trang trại ra đời gắn liền với quá trình công nghiệp hóa. Kinh tế trang
trại được xem là xuất hiện sớm nhất ở Pháp. Sau cuộc đại cách mạng tư sản
Pháp năm 1789, ở Pháp xuất hiện những chủ trại (ferrmier) trong nông
nghiệp. Từ đó kinh tế trang trại phát triển và lan rộng khắp thế giới.
Có thể nói, đến nay trang trại gia đình trở thành mô hình phổ biến nhất
của nông nghiệp thế giới, nó chiếm tỷ trọng lớn tuyệt đối về đất đai canh tác
và số lượng nông sản làm ra. Ví dụ hiện nay ở Mỹ với 2,2 triệu trang trại đã
sản xuất ra hơn 50% sản lượng đậu tương và ngô của toàn thế giới. ở
Malayxia năm 1992 các trang trại đã xuất ra 40 nước trên 6 triệu tấn [11].
Quá trình phát triển kinh tế trang trại gia dình có sự biến đổi về số lượng
cũng như quy mô. Thực tiễn ở nhiều nước cho thấy trong thời kỳ đầu CNH do
lao động nông nghiệp còn đông, khả năng phân công lao động xã hội còn hạn
chế thì số lượng trang trại gia đình tăng lên. Đến thời kỳ công nghiệp hoá phát
triển, khả năng thu hút lao động của công nghiệp, dịch vụ tăng lên nhanh
chóng thì số lượng trang trại nông nghiệp bắt đầu giảm đi. Cuối thế kỷ XX số
lượng ở các trang trại gia đình ở các nước đang phát triển ở châu Á tăng 2,5%
mỗi năm, trong khi dó ở các nước công nghiệp phát triển châu Âu giảm
2,35% mỗi năm.
- Quy mô trang trại gia đình lại biến động theo chiều hướng ngược lại
với số lượng trang trại của mỗi quốc gia. Tuỳ điều kiện các nước mà quy mô
trang trại có thể rất khác nhau. Trang trại của các nước châu Á có diện tích
nhỏ, quy mô trang trại chỉ trên dưới một ha như Nhật bản (1,2 ha). Trang trại
của các nước châu Âu lớn hơn, quy mô bình quân trang trại hàng chục ha như
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
24
Pháp (29,2 ha); Đan mạch 31,7 ha. Ở một số nước quy mô trang trại gia đình
lên tới hàng trăm ha như ở Mỹ trang trại bình quân 180 ha [4].
Biểu 1.1: Diện tích bình quân 1 TT ở một số nƣớc trên thế giới 1990
Nƣớc
Mỹ
Anh
Đan mạch
Pháp
Ấn Độ
Hà Lan
Diện tích (ha)
180
64
31,7
29,2
20
16,4
Nƣớc
Bỉ
Pakistan
Thái Lan
Italia
Inđônêxia
Nhật Bản
Diện tích (ha)
14
3,86
4,5
2
1,77
1,2
Nhìn chung các trang trại gia đình trên thế giới có những đặc trưng
chung là có trang bị kỹ thuật hiện đại, ứng dụng ngày càng nhiều khoa học kỹ
thuật và công nghệ sinh học... các trang trại gia đình chủ yếu sử dụng lao
động của hộ gia đình và một số ít lao động thuê ngoài (chủ yếu theo thời vụ).
- Việc cơ giới hoá, hiện đại hoá nông nghiệp trong các trang trại không
chỉ diễn ra ở các nước phát triển mà ngay cả đối với các trang trại tại các nước
đang phát triển: “Năm 1985, cơ cấu động lực nông nghiệp của các trang trại ở
các nước công nghiệp phát triển có 7% sức người, 10% sức súc vật và 82%
sức máy, cơ điện còn các trang trại của các nước đang phát triển có 25 đến
30% sức người, 50% sức súc vật và 20% sức máy…”. Ngoài ra, các trang trại
còn ứng dụng những tiến bộ kỹ thuật trong các lĩnh vực sinh học, tin học: “Ở
Mỹ, đến nay đã có 20% trang trại gia đình sử dụng máy tính phục vụ việc lập
trình sản xuất kinh doanh trên đồng ruộng và trong trang trại. Ở Đức 50% các
trang trại quy mô 50 ha trở lên đã sử dụng máy vi tính vào quá trình điều hành
sản xuất…”[5].
- Lao động sử dụng trong trang trại ở Tây Âu và Mỹ đang có xu hướng
giảm dần. Hiện nay ở Mỹ chỉ có từ 1 - 2 lao động/ trang trại; Nhật bản khoảng
3 lao động/ trang trại (1990); Đài loan mỗi trang trại chỉ có 1,3 lao động [7].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
25
Biểu 1.2: Lao động sử dụng trong 1 TT ở một số nƣớc trên thế giới 1990
Đơn vị tính: Người
Tên nƣớc
Lao động/ Tr.Trại (người)
Thái Lan
Hàn Quốc
Pháp
Đức
3,7
2,1
2,1
1,2
Số lao động của một trang trại của các nước trên thế giới là từ 2 đến 4 lao
động/ trang trại. Số lượng lao động trong các trang trại không phụ thuộc vào
quy mô sản xuất của trang trại mà phụ thuộc vào trình độ công nghệ sản xuất.
Thực tiễn phát triển nông nghiệp của các nước trên Thế giới đã khẳng
định điều kiện cần và đủ cho việc phát triển kinh tế trang trại gia đình là sự
hình thành nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường và đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hoá đất nước. Ngoài ra trang trại gia đình muốn hoạt động có
hiệu quả cần phải có sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của Nhà nước thông
qua các chính sách và các công cụ quản lý vĩ mô như: Chính sách thuế, chính
sách tài chính, tín dụng, chính sách bảo trợ nông nghiệp, bảo hộ lao động...
Kinh tế trang trại là những đơn vị kinh tế tự chủ sản xuất kinh doanh, nhưng
các trang trại gia đình có thể tham gia kinh tế hợp tác với nội dung và hình
thức khác nhau. Các hợp tác xã để bảo đảm đầu vào và đầu ra của quá trình
sản xuất với chi phí thấp, lợi nhuận cao để bảo vệ lợi ích lâu dài của trang trại.
* Những bài học kinh nghiệm rút ra từ quá trình phát triển kinh tế trang
trại của thế giới
- Trang trại có vai trò quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá của
các nước. Kinh tế trang trại gắn liền quá trình công nghiệp hoá của các nước
từ thấp đến cao, chính công nghiệp hoá đặt ra yêu cầu khách quan để phát
triển trang trại, cơ chế thị trường tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế trang trại phát
triển. Trong qúa trình công nghiệp hoá kinh tế trang trại đều giữ vị trí xung
kích cung cấp nông sản hàng hoá cho xuất khẩu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
26
- Kinh tế trang trại có nhiều loại hình khác nhau, nhưng phổ biến nhất là
trang trại gia đình, có nguồn gốc từ hộ gia đình vì thế nó phát huy thế mạnh
vốn có của hộ gia đình trong sản xuất nông nghiệp.
- Thực tế phát triển trang trại tại nhiều quốc gia trên thế giới lại cho
phép đi đến kết luận: chính các trang trại gia đình quy mô nhỏ mới thực sự là
chìa khóa để phát triển một nền nông nghiệp bền vững, lâu dài.
- Trong các giai đoạn ban đầu kinh tế trang trại phát triển theo hướng
kinh doanh tổng hợp bằng cách đa dạng hoá sản phẩm, cùng với sự phát triển
của nền kinh tế thị trường sẽ từng bước đi vào chuyên môn hoá.
- Hiệu quả sản xuất kinh doanh của trang trại không hoàn toàn phụ thuộc
vào quy mô đất đai. ở các nước châu Á như Nhật bản, Hàn quốc, Đài loan
diện tích các trang trại nhỏ nhưng hiệu quả sản xuất lại rất lớn.
1.1.3. Lịch sử hình thành và tồn tại trang trại ở Việt nam và Bắc Kạn
Nhìn lại lịch sử ta thấy trang trại ở nước ta đã hình thành từ thời nhà
Trần, thời đó gọi là điền trang - nhưng điền trang lúc này chủ yếu là trang trại
của quý tộc phong kiến [9], [10].
Trong sách “Lịch sử nông nghiệp Việt Nam” có ghi: “Năm 1266, triều
đình nhà Trần cho phép các vương hầu, công chúa, phò mã, cung phi… triệu
tập dân nghèo khổ không có đất làm nô tỳ đi khai hoang miền ven biển, đắp
đê ngăn mặn, khai phá đất bồi sông Hồng lập thành điền trang rộng lớn” [20].
Khác với thái ấp thời nhà Lý và điền trang thời nhà Lý, điền trang thời
nhà Trần thuộc sở hữu của quý tộc. Nô tỳ bị bóc lột như nông nô. Tức là như
những người nông dân bị phụ thuộc vào ruộng đất - điền trang rộng lớn của
bọn địa chủ quý tộc. Họ bị bóc lột bằng địa tô và lao dịch, có thể bị bán theo
ruộng đất dưới chế độ phong kiến.
Đến thời nhà hậu Lê, nhà nước phong kiến chủ trương mở rộng khai
hoang lập đồn điền (đồn điền cũng đồng nghĩa với trang trại). Lượng lao động
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
27
khai hoang lập đồn điền chủ yếu là phạm nhân, tù binh và một số binh lính
đóng đồn ở các địa phương. Đến năm 1481, cả nước có 43 sở đồn điền để cấp
cho họ hàng nhà vua và quan lại từ tứ phẩm trở lên (gọi là cấp lộc điền). Lực
lượng sản xuất trong các đồn điền - trang trại - vừa áp dụng chế độ nô tỳ, vừa
chủ yếu là bóc lột trực tiếp bởi phong kiến và phụ thuộc trực tiếp bởi nhà
nước vì luật pháp cấm nông dân bỏ làng ra đi để bắt nông dân không ruộng
phải cày ruộng, nộp thuế, lao dịch và binh dịch.
Đến đời nhà Nguyễn từ năm 1802 - 1855 triều đình đã ban hành 25 quyết
định về khai hoang với hình thức chủ yếu là chiêu mộ dân phiêu tán để khai
hoang lập ấp trại hoặc xã. Đồng thời, nhà nước dùng binh lính và tù nhân bị
lưu đày để khai hoang, hoặc giao cho tư nhân chiêu mộ dân khai phá đất
hoang để lập đồn điền - trang trại - phát canh - thu tô.
Đặc biệt thời kỳ thực dân Pháp đô hộ, họ đã thực hiện chính sách khai
thác thuộc địa làm giàu cho chính quốc. Họ thấy ngành nông nghiệp là ngành
đấu tư ít vốn mà dễ dàng thu được lợi nhuận cao vì vừa có thể bóc lột được độ
phì nhiêu của đất vừa bóc lột được sức lao động làm thuê đến cùng tận. Năm
1888, Toàn quyền Đông dương ra các Nghị định cho địa chủ thực dân được
quyền lập các đồn điền, Nghị định còn cho phép địa chủ thực dân được quyền
lập các đồn điền rộng lớn mà họ gọi là đất vô chủ. Chỉ sau 2 năm, năm 1890,
số đồn điền trại ấp khắp ba miền Bắc - Trung - Nam được họ thành lập đã lên
tới 108 cái, với diện tích 10.898 ha, quy mô bình quân 100 ha/ 1 đồn điền.
Đến giữa những năm 20, tổng diện tích mà họ chiếm đoạt dưới nhiều thủ đoạn
đã lên đến 270.000 ha (trong đó ở Nam kỳ 308.000; ở Trung kỳ 26.000 và ở
Bắc kỳ 136.000 ha). Tổng số trang trại (đồn điền) đã lên tới 2.350 cái chuyên
trồng cao su, chè, hồ tiêu, dừa, lúa, mía, bông… quy mô vừa, lớn, nhở khác
nhau. Có cái ở Bắc kỳ lên đến 8.515ha. Nhưng bình quân chung ước chừng
200 ha/cái [11], [36].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
28
Kết quả lợi nhuận siêu gạch họ vơ vét ngày càng nhiều, họ càng thi nhau
phát triển trang trại cả về số lượng và quy mô diện tích đất đai kinh doanh.
Tính đến năm 1930, thực dân Pháp đã chiếm đọat 1,2 triệu ha, bằng 1/7 trong
tổng diện tích đất canh tác của nước ta lúc bấy giờ để lập trên dưới 4.000 đồn
điền - trang trại với quy mô bình quân chừng 300 ha/cái.
Phương thức kinh doanh của các chủ đồn điền - trang trại như sau:
- Từ đầu đến giữa những năm 1920 là phát canh thu tô theo lối phong kiến.
- Từ sau những năm 1920 đến trước cách mạng tháng Tám 1945 họ
cưỡng mộ công nhân vào làm các đồn điền - trang trại và bóc lột người lao
động hết sức tàn nhẫn, vô nhân đạo, thậm chí họ còn dùng xác chết của công
nhân ở các đồn điền để bón cho cây cao su…
- Từ cách mạng tháng 8 năm 1945 đến năm 1975.
+ Ở miền Nam: các loại đồn điền tư bản, thực dân ở những vùng địch
tạm chiến vẫn tồn tại và phát triển.
+ Ở miền Bắc: Nhà nước tiến hành tịch thu các đồn điền của thực dân
Pháp và địa chủ phản động đem chia cho nông dân không ruộng và chuyển
một số thành cơ sở sản xuất nông nghiệp của nhà nước. Đến năm 1957, nhà
nước đã chính thức thành lập các nông, lâm trường quốc doanh. Từ những
năm 1958 đến năm 1960 các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp bậc thấp, quy
mô thôn đã được thành lập, rồi lên bậc cao, quy mô liên thôn, đến quy mô xã
có tính phổ biến trên toàn miền Bắc. Các hình thức đó đã có tác dụng lớn
trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cũng như xây dựng hệ thống
thủy lợi, cải tạo đồng ruộng… nên sau năm 1975 cũng được áp dụng ở miền
Nam đã được quốc hữu hóa như ở miền Bắc trước đây.
- Từ 1975 đến 1986:
Như trên đã nói, sau khi giải phóng miền nam những đồn điền - trang trại
kiểu Tư bản chủ nghĩa đã được Nhà nước tịch thu và chuyển thành những
nông trường quốc doanh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
29
Nói chung, thời kì hòa bình, khôi phục và phát triển nền kinh tế cả nước
theo hướng quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội và vẫn áp dụng mô hình cũ - xây
dựng nền kinh tế nông nghiệp mang nặng tính kế hoạch, tập trung. Chỉ có 2
hình thức kinh tế chủ yếu (trong thành phần kinh tế Xã hội chủ nghĩa) là nông
trường quốc doanh và hợp tác xã nông nghiệp đã bộc lộ nhiều khuyết tật cần
được đổi mới.
- Từ 1986 đến nay: Đảng và Chính phủ đã công nhận sự tồn tại tất yếu, vai
trò của kinh tế trang trại và đã ban hành một số chính sách hỗ trợ phát triển.
+ Nghị quyết 10 (tháng 4 năm 1987) của Bộ Chính trị về đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế nông nghiệp khẳng định: Hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ,
khuyến khích phát triển.
+ Luật đất đai năm 1993 khẳng định ruộng đất là của Nhà nước, Nhà
nước giao cho hộ nông dân và các tổ chức kinh tế sử dụng ổn định, lâu dài.
+ Nghị định 02/CP (1994) quy định giao đất lâm nghiệp cho các tổ chức
và cá nhân, hộ gia đình thời hạn 50 năm.
+ Nghị định 03/CP (1994) quy định giao khoán kinh doanh rừng và đất
rừng lâu dài cho các cá nhân, hộ gia đình.
+ Nghị định 64/CP (1999) quy định giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình
và các cá nhân ổn định lâu dài, thời hạn 20 năm.
+ Nghị quyết số: 03/2000/NQ-CP ngày 02 /02/2000 của Chính phủ về
kinh tế trang trại;
+ Thông tư số: 82/2000/TT-BTC ngày 14/8/2000 của Bộ Tài chính
hướng dẫn chính sách tài chính nhằm phát triển kinh tế trang trại;
+ Thông tư số: 23/2000/TT-BLĐTBXH ngày 28/9/2000 của Bộ Lao
động thương binh và xã hội hướng dẫn áp dụng một số chế độ đối với người
lao động làm việc trong các trang trại [1];
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
30
+ Các Thông tư Liên tịch số: 69/2000/TTLT/BNN-TCTK ngày 23/6/2000
và 62/TTLT/BNN-TCTK ngày 20/5/2003 của liên Bộ Nông nghiệp và PTNT,
Tổng cục Thống kê và hướng dẫn tiêu chí để xác định kinh tế trang trại [12];
Các chính sách trên đã đi vào cuộc sống làm chuyển biến nền nông
nghiệp nước ta. Trong quá trình phát triển này, một loại hình tổ chức sản xuất
mới trong nông nghiệp ra đời: Một số hộ nông dân, cá nhân đã tích luỹ kinh
nghiệm sản xuất, tích tụ đất đai, đầu tư thâm canh chuyển sang sản xuất hàng
hoá hình thành nên các trang trại đóng góp ngày càng lớn vào sự nghiệp phát
triển kinh tế nước ta.
* Tóm lược lịch sử hình thành kinh tế trang trại ở Bắc Kạn
- Thời kỳ phong kiến, pháp thuộc Bắc Kạn là một tỉnh có chế độ “Thổ
ty” của người Tày là tộc người đa số ở địa phương. Việc một số quan lại được
vua chúa ban thưởng nhiều đất đai trong thời kỳ phong kiến là một thực tế,
tuy nhiên với đặc điểm của nền kinh tế tự cấp tự túc nên có thể nói trang trại
chưa hình thành vào thời gian này.
- Thời kỳ thuộc pháp: Thực dân pháp thực hiện việc khai thác thuộc địa
rất mạnh ở Bắc Kạn, tuy nhiên chỉ đơn thuần là khai thác khoáng sản. Việc
lập đồn điền trồng cây hàng hoá tập trung tại địa phương là không có, họ chỉ
du nhập một số giống cây để trồng thử nghiệm ở địa phương.
- Trong thời kỳ kháng chiến chống pháp và xây dựng CNXH ở miền
Bắc: Các hợp tác xã nông nghiệp ra đời cũng là việc các hộ gia đình có nhiều
ruộng đất đã hiến hoặc góp hoa lợi vào hợp tác. Cùng với nó là việc vận động
định canh định cư đưa người Dao và Mông “hạ sơn” và vào hợp tác xã để
cùng có ruộng.
- Thời kỳ đổi mới kinh tế: Vấn đề đổ vỡ của các hợp tác xã nông nghiệp
cũng dẫn tới việc tự phát đòi lại ruộng đất ông cha. Rất nhiều hộ gia đình kinh
tế mới và định canh định cư vì không còn ruộng nước canh tác đã tiến hành
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
31
lập trại tại các vùng đầu nguồn sông, suối để làm kinh tế nông lâm kết hợp.
Chính sách hỗ trợ trồng rừng phủ xanh đất trống đồi núi trọc theo chương
trình 327 đã được chính quyền địa phương triển khai và nhân dân tích cực
tham gia. Bên cạnh đó, Nhà nước còn thực hiện chính sách hỗ trợ dãn dân
thực hiện chương trình 327 cho hàng nghìn hộ trên địa bàn tỉnh. Trong bối
cảnh như vậy đã hình thành nên một loại hình kinh tế mới, đó là các trang trại
tách biệt ra khỏi các khu dân cư làng bản lâu đời. Đại đa số các trang trại này
là của những gia đình nông dân bị sức ép do mất đất canh tác sau thời kỳ đòi
lại “ruộng đất ông cha” ở Bắc Kạn cuối những năm 1980, còn lại một số ít là
của công nhân viên chức, bộ đội phục viên và tiểu thương có điều kiện về
kinh tế.
1.1.4. Quá trình phát triển kinh tế trang trại ở nƣớc ta từ khi đổi mới
theo nền kinh tế thị trƣờng
* Giai đoạn 1989-1999:
Để “đổi mới” về kinh tế, ở Đại hội VI (12/1986) Đảng đã chỉ ra, trong
thời kỳ quá độ ở nước ta là “nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần” và tiếp
đến (4/1989) trong nông nghiệp có Nghị Quyết VI năm 1989, Đảng chỉ ra
rằng “gia đình xã viên trở thành những đơn vị kinh doanh tự chủ” đồng thời,
luật doanh nghiệp tư nhân cũng được công bố ngày 3/1/1991. Đó chính là
những cơ sở để hệ thống trang trại phát triển với tốc độ và quy mô càng cao
lớn hơn.
Trên thực tế từ năm 1989 đến 1999, từ Nam Bộ đến các tỉnh đồng bằng
Sông Cửu Long, miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên hoặc tới các tỉnh miền núi
phía Bắc đã hình thành từng loại trang trại. Các loại trang trại này chuyên
môn hóa sản xuất lúa, mía, cà phê, cao su, cây ăn quả, chè,… và chăn nuôi
các loại lợn, gia cầm, trâu bò. Hoặc chuyên môn hóa lúa kết hợp hợp lý các
ngành với quy mô từ nhỏ, vừa, lớn đến cực lớn. quy mô diện tích đất kinh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
32
doanh phổ biến là trên dưới 5 ha đến 10 - 20 - 30, thậm chí đến hàng trăm ha
(như ngư trại khai hoang lấn biển nuôi trồng thủy sản nông thôn của ông
Nguyễn Văn Khanh ở huyện An Hải - Hải Phòng có diện tích kinh doanh từ
246 - 300 ha).
Có trang trại rộng hàng nghìn hoặc hơn 200 ha đất canh tác hay làm trại
trồng rừng cũng có hơn 200 ha. Các chủ trang trại hầu hết đã sử dụng lực
lượng cơ khí, nhất là máy kéo và lao động làm thuê. Giá trị tổng sản phẩm
của các trang trại loại nhỏ phổ biến là trên dưới 100 đến 200 triệu, loại vừa
200 triệu đến 1 tỷ, loại lớn 1 tỷ đến 5 tỷ, loại cực lớn là trên 5 tỷ.
Nhìn chung, các trang trại đã xuất hiện và phát triển ở nhiều nơi kể cả
vùng đồng bằng sông Hồng là nơi đất hẹp người đông. Nhưng phát triển
nhanh nhất là ở các tỉnh huyện trung du, miền núi và nhiều tỉnh của Nam Bộ
hoặc ở vùng đất mới khai hoang, lấn biển.
Theo số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê, năm 1989 tổng số có
5.125 trang trại, đến năm 1992 đã tăng lên đến 13.246 trang trại, nhiều hơn
gấp 2,53 lần. Đến ngày 1/7/1999 cả nước có 90.167 trang trại, tăng gấp 6,8
lần so với năm 1989. Diện tích đất trong kinh doanh nông nghiệp trong cùng
thời gian từ năm 1989 đến năm 1992 đã tăng từ 22.946 ha lên 58.282 ha, gấp
2,54 lần, đến năm 1999 tăng lên 396.282 ha, gấp 6,81 lần so với năm 1992 và
gấp 17,29 lần so với năm 1989. Vốn đầu tư của các trang trại cả nước, nếu tính
từ khi mới thành lập ở năm 1989 của 5.125 trang trại có chừng 513.677 triệu
đồng thì đến năm 1999 của 90.167 trang trại đã đầu từ đến 18.030.000 triệu
đồng nhiều hơn gấp 35,1 lần. Điều đó phản ánh trình độ đầu tư thâm canh, áp
dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá của
các trang trại trong 10 năm qua đã dần dần tăng lên. Tổng giá trị sản phẩm
bình quân của các trang trại trong những năm 1997-1999 được chừng 9.575 tỷ
đồng/năm chiếm 7,89% giá trị tổng sản phẩm nông nghiệp. Đặc biệt là tỷ suất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
33
nông sản hàng hoá của các trang trại ở năm 1992 chiếm 78,6% thì năm 1999
đã tăng lên đến 86,74% [17].
Như vậy, trong 10 năm (1989-1999) kinh tế trang trại đã phát triển với
tốc độ ở những năm sau tăng nhanh hơn những năm trước. Thêm vào đó cần
lưu ý là ở những vùng có bình quân diện tích ruộng đất nông nghiệp cao và có
truyền thống sản xuất hàng hoá như đồng bằng sông Cửu Long và những
vùng trung du miền núi (có nhiều đất trống đồi trọc) hoặc ở các vùng khai
hoang lấn biển (như Cồn Ngạn, H. Giao Thuỷ, T. Nam Định) thì tốc độ và
quy mô phát triển trang trại rất nhanh.
* Giai đoạn 2000-2006:
Sau khi có Nghị quyết 03/2000/NQ-CP của Chính phủ về kinh tế trang
trại, kinh tế trang trại tiếp tục phát triển và ngày càng đóng vai trò quan
trọng trong sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản [21].
- Số lượng trang trại (1) tăng nhanh, loại hình sản xuất đa dạng đã góp
phần tích cực vào quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp.
Biểu 1.3: Số lƣợng trang trại phân theo vùng ở Việt nam 2000 - 2006
Đơn vị tính: Trang trại
Danh mục
2000
2001
2002
2003
Cả nƣớc
Đồng bằng sông Hồng
Đông Bắc
Tây Bắc
Bắc Trung Bộ
Duyên hải Nam Trung Bộ
Tây Nguyên
Đông Nam Bộ
Đồng bằng sông Cửu Long
57.069
61.017
61.787
1646
1834
2793
3201
282
135
4084
3013
3122
2904
3589
6035
9586 12705
31967 31190
1939
3210
163
3216
2943
6223
12126
31967
2004
2005
2006
86.141
110.832
114.362
113.730
5.031
4.859
367
4.842
6.509
6.650
14.938
42.945
8.131
4.984
400
5.882
6.936
9.450
18.921
56.128
9.637
5.473
395
6.706
7.138
9.623
18.808
56.582
13.863
4704
522
6.756
7.808
8.785
16.867
54.425
Nguồn: Tổng cục Thống kê
(1)
Theo tiêu chí trang trại được qui định trong Thông tư số 74/2003/TT-BNN ngày 4/7/2003 của
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
34
Kinh tế trang trại phát triển nhanh về số lượng ở tất cả các vùng trong
cả nước, đến thời điểm 01/7/2006, cả nước có 113.730 trang trại, so với
năm 2001 tăng 52.713 trang trại (-86,4%), so với năm 2004 tăng 2.898
trang trại (-2,5%). Đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ và Tây
Nguyên là những vùng có nhiều đất đai, mặt nước thuận lợi để mở rộng qui
mô trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thuỷ sản là những vùng tập trung số
lượng trang trại nhiều nhất. Ba vùng này có 80.077 trang trại, chiếm 70,4%.
Riêng Đồng bằng sông Cửu Long hiện có 54.425 trang trại chiếm gần 50%
số trang trại cả nước. Loại hình sản xuất của trang trại ngày càng đa dạng và
có sự chuyển dịch về cơ cấu theo hướng giảm tỷ trọng các trang trại trồng
cây hàng năm và cây lâu năm và tăng tỷ trọng các loại trang trại chăn nuôi,
nuôi trồng thuỷ sản và sản xuất kinh doanh tổng hợp. Tỷ trọng trang trại
trồng cây hàng năm giảm từ 35,6% (năm 2001), xuống còn 28,7% (năm
2006); trang trại trồng cây lâu năm từ 27,2% giảm xuống còn 20,2%; trang
trại chăn nuôi từ 2,9% tăng lên 14,7%; trang trại nuôi trồng thuỷ sản từ
27,9% tăng lên 30,1% trong thời gian tương ứng. Vùng Đồng bằng sông
Cửu Long có 54.425 trang trại; trong đó 24.425 trang trại trồng cây hàng
năm, chiếm 44,9% số lượng trang trại của vùng, 25.147 trang trại nuôi
trồng thuỷ sản, chiếm 46,2%. Đông Nam Bộ có 16.867 trang trại chiếm
14,8% của cả nước; trong đó 9537 trang trại trồng cây lâu năm, chiếm 56,5%
số lượng trang trại của vùng, 3.839 trang trại chăn nuôi, chiếm 22,8%. Tây
Nguyên có 8.785 trang trại, chiếm 7,7% của cả nước; trong đó 7.046 trang
trại trồng cây lâu năm, chiếm 80,2% số lượng trang trại của vùng. Đồng
bằng sông Hồng có 13.863 trang trại chiếm 12,2% của cả nước, trong đó
7.562 trang trại chăn nuôi, chiếm 54,5% của vùng.
- Trang trại sử dụng ngày càng nhiều ruộng đất, dấu hiệu tích tụ ruộng
đất - điều kiện tiên quyết cho nền sản xuất lớn nông nghiệp.
Tại thời điểm 01/7/2006, diện tích đất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản do
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
35
các trang trại đang sử dụng là 663,5 nghìn ha, tăng 290,3 nghìn ha so năm
2001 (bình quân 1 trang trại sử dụng 5,8 ha). Trong cơ cấu đất nông, lâm
nghiệp và thuỷ sản trang trại đang sử dụng năm 2006, đất trồng cây hàng
năm chiếm tỷ trọng lớn nhất với 286,4 nghìn ha (43,2%); đất trồng cây lâu
năm 148 nghìn ha (22,3%); đất lâm nghiệp 94,7 nghìn ha (14,3%) và đất
nuôi trồng thuỷ sản 134,4 nghìn ha (20,2%). Diện tích đất nông, lâm nghiệp
và thuỷ sản bình quân 1 trang trại cao nhất là ở vùng Tây Bắc 9,82 ha, Đông
Bắc 8,87 ha, Bắc Trung Bộ 7 ha, chủ yếu là do các vùng này có nhiều trang
trại lâm nghiệp (tiêu chí qui định từ 10 ha trở lên). Đặc điểm đất đai của các
trang trại là đất sản xuất liền bờ, liền khoảnh, qui mô lớn nên rất thuận lợi cho
việc tổ chức sản xuất, bảo vệ, vận chuyển sản phẩm và nhất là cơ giới hoá,
thủy lợi hoá, xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật.
- Kinh tế trang trại phát triển góp phần tạo việc làm và tăng thu nhập
cho lao động nông thôn.
Tại thời điểm 01/7/2006, các trang trại đã sử dụng 395,9 nghìn lao động
làm việc thường xuyên, gấp 1,7 lần so năm 2001; trong đó lao động của hộ
chủ trang trại là 291,6 nghìn người, chiếm 73,6% tổng số lao động, còn lại
là lao động thuê mướn. Do tính chất thời vụ của sản xuất nông, lâm nghiệp
và thủy sản nên ngoài lao động thuê mướn thường xuyên, các trang trại còn
thuê mướn lao động thời vụ. Những trang trại trồng cây hàng năm, trồng cây
lâu năm, nuôi trồng thuỷ sản sử dụng nhiều lao động thường xuyên nhất. Thu
nhập bình quân 1 lao động làm việc thường xuyên của trang trại là 17,5 triệu
đồng/năm cao gấp trên 2 lần so lao động khu vực nông thôn. Tuy nhiên, lao
động làm việc trong trang trại chủ yếu vẫn là lao động phổ thông, chưa qua
đào tạo chỉ có khả năng đảm nhiệm những công việc giản đơn như làm đất,
trồng cây, chăn dắt gia súc, gia cầm, chế biến thức ăn,… có rất ít lao động
đảm nhiệm các khâu yêu cầu trình độ kỹ thuật như điều khiển máy móc,
chọn giống cây, con, kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, mua vật tư, bán sản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
36
phẩm,... Điều đó đang đặt ra yêu cầu cấp bách đào tạo nguồn nhân lực có
trình độ chuyên môn kỹ thuật cho khu vực nông nghiệp, nông thôn.
- Qui mô vốn sản xuất, kinh doanh của trang trại tăng nhanh do các chủ
trang trại tăng vốn đầu tư mở rộng sản xuất, thâm canh cây trồng vật nuôi.
Tại thời điểm 01/7/2006, tổng vốn sản xuất, kinh doanh của các trang trại là
29320,1 tỷ đồng, bình quân một trang trại 257,8 triệu đồng, tăng 122,7 triệu
đồng so năm 2001 (-90,8%). Vốn sản xuất, kinh doanh bình quân 1 trang
trại cao nhất là vùng Đông Nam Bộ 575,5 triệu đồng (tăng 341,6 triệu đồng
so năm 2001) do chủ yếu trang trại trồng cao su, cà phê, hồ tiêu, điều, tiếp
đến là Tây Nguyên 279,6 triệu đồng (-100,7 triệu đồng); Đồng bằng sông
Cửu Long 206,6 triệu đồng (-135,2 triệu đồng); Đồng bằng sông Hồng 200,9
triệu đồng (-94,3 triệu đồng); Tây Bắc 200 triệu đồng (-90,5 triệu đồng);
Đông Bắc 192,1 triệu đồng (-107,2 triệu đồng); thấp nhất là Duyên hải
Nam Trung Bộ 144,4 triệu đồng do chủ yếu trang trại trồng cây hàng năm
cần ít vốn hơn. Những tỉnh có vốn sản xuất, kinh doanh bình quân 1 trang trại
từ 500 triệu đồng trở lên là: Lâm Đồng, Bình Phước, Tây Ninh, Bình Dương,
Bà Rịa - Vũng Tàu.
- Kinh tế trang trại phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá ngày
càng lớn, gắn với thị trường.
Tổng thu sản xuất, kinh doanh của các trang trại năm 2006 đạt 19.826 tỷ
đồng, gấp 3,6 lần năm 2001, bình quân 174,9 triệu đồng 1 trang trại, gấp 1,9
lần so năm 2001. Tổng thu sản xuất, kinh doanh bình quân 1 trang trại cao
nhất là vùng Đông Nam Bộ 221 triệu đồng; Đồng bằng sông Hồng 193 triệu
đồng; Đồng bằng sông Cửu Long 181 triệu đồng; Tây Nguyên 148,6 triệu
đồng; Đông Bắc 139 triệu đồng; Duyên hải Nam Trung Bộ 112 triệu đồng;
Tây Bắc 100 triệu đồng và thấp nhất là Bắc Trung Bộ 105 triệu đồng.
Giá trị sản phẩm và dịch vụ nông, lâm nghiệp và thuỷ sản bán ra năm 2006
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
37
là 18031 tỷ đồng, gấp 3,6 lần so năm 2001, bình quân 1 trang trại 159 triệu
đồng gấp 1,9 lần, tỷ suất hàng hoá là 95,2%. Các vùng có tỷ suất hàng hoá cao
là: Đông Nam Bộ 98,2%, Duyên hải Nam Trung Bộ 98,1%, Tây Nguyên
96,2%, Đồng bằng sông Hồng 95,6%, thấp nhất là Tây Bắc 89,8%.
Thu nhập trước thuế của các trang trại năm 2006 đạt 6.979 tỷ
đồng gấp 3,5 lần so năm 2001, tỷ lệ thu nhập trước thuế so tổng thu là
35,2% (giảm 0,2% so năm 2001). Thu nhập trước thuế bình quân 1 trang trại
61,4 triệu đồng gấp 1,9 lần so năm 2001. Mức chênh lệch giữa các vùng, các
địa phương về thu nhập bình quân 1 trang trại còn lớn: cao nhất là Đông Nam
Bộ 85,2 triệu đồng gấp hơn 2 lần vùng thấp nhất là Duyên hải Nam Trung Bộ
38,3 triệu đồng,
Đồng bằng sông Cửu Long 64 triệu đồng, Đông Bắc 52,3 triệu đồng,
Đồng bằng sông Hồng 47,6 triệu đồng. Tỷ lệ thu nhập trước thuế so tổng thu
sản xuất, kinh doanh của trang trại cũng có sự chênh lệch lớn giữa các vùng
do chịu ảnh hưởng của loại hình sản xuất và hiệu quả của sản xuất, kinh
doanh: cao nhất là Tây Bắc 47,1%, Tây Nguyên 43,4%, Đông Nam Bộ
38,6%, thấp nhất là Đồng bằng sông Hồng 24,6%.
1.1.5. Một số kết luận rút ra từ nghiên cứu lý luận và thực tiễn
- Kinh tế trang trại gắn liền quá trình công nghiệp hoá của các nước từ
thấp đến cao, chính công nghiệp hoá đặt ra yêu cầu khách quan để phát triển
trang trại, cơ chế thị trường tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế trang trại phát triển.
- Kinh tế trang trại có nhiều loại hình khác nhau, nhưng phổ biến nhất là
trang trại gia đình. Chính các trang trại gia đình quy mô nhỏ mới thực sự là
chìa khóa để phát triển một nền nông nghiệp bền vững, lâu dài.
- Điều kiện cần và đủ cho việc phát triển kinh tế trang trại gia đình là sự
hình thành nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường và đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hoá đất nước.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
38
- Trang trại gia đình muốn hoạt động có hiệu quả cần phải có sự tác
động trực tiếp hoặc gián tiếp của nhà nước thông qua các chính sách và các
công cụ quản lý vĩ mô như: Chính sách thuế, chính sách tài chính, tín dụng,
chính sách bảo trợ nông nghiệp, bảo hộ lao động...
- Hiệu quả sản xuất kinh doanh của trang trại không hoàn toàn phụ thuộc
vào quy mô đất đai.
- Số lượng lao động trong các trang trại không phụ thuộc vào quy mô
sản xuất của trang trại mà phụ thuộc vào trình độ công nghệ sản xuất.
- Các trang trại gia đình chủ yếu sử dụng lao động của hộ gia đình và
một số ít lao động thuê ngoài (chủ yếu theo thời vụ).
- Trang trại ngày nay được trang bị kỹ thuật hiện đại, ứng dụng ngày
càng nhiều khoa học kỹ thuật và công nghệ sinh học ...
1.2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.2.1. Các câu hỏi đặt ra mà đề tài cần giải quyết
- Trong những năm qua, kinh tế trang trại của tỉnh Bắc Kạn đã phát triển
thế nào?
- Yếu tố nào ảnh hưởng tới sự phát triển của kinh tế trang trại của tỉnh
Bắc Kạn?
- Hiệu quả kinh tế của các trang trại tỉnh Bắc Kạn thế nào?
- Giải pháp nào thúc đẩy phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Bắc Kạn?
1.2.2. Phuơng pháp nghiên cứu
1.2.2.1. Cơ sở phương pháp luận đề tài
* Phương pháp tiếp cận duy vật: Nghiên cứu trên quan điểm duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin. Đây được coi là phương
pháp chung, định hướng cho cả quá trình nghiên cứu luận văn này.
* Phương pháp tiếp cận dựa trên quan điểm kinh tế: Tiếp cận kinh tế trang
trại theo hướng nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội kết hợp phát triển bền vững.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
39
- Tiếp cận kinh tế trang trại theo hướng kinh tế thị trường: Mối quan hệ
giữa chủ trang trại với thị trường các yếu tố đầu vào, thị trường đầu ra; xem
xét, xác định thế mạnh là gì? Lợi thế so sánh cụ thể? So sánh về mức độ gắn
bó với thị trường, tìm ra điểm mạnh, điểm yếu để từ đó có hướng khắc phục;
định hướng đầu tư để phát triển kinh tế trang trại như thế nào, chọn hướng sản
xuất kinh doanh dịch vụ nào cho phù hợp với yêu cầu của thị trường; vấn đề
liên kết liên doanh, cạnh tranh trong sản xuất trang trại…
- Tiếp cận kinh tế trang trại theo hướng kinh tế hộ: Đây là phương pháp
tiếp cận cơ bản và xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu kinh tế trang trại.
Kinh tế trang trại chủ yếu được hình thành từ nền tảng kinh tế hộ. Do vậy tiếp
cận để nghiên cứu, phân tích nó phải vận dụng các lý thuyết liên quan đến
kinh tế hộ.
* Phương pháp tiếp cận hệ thống. Tiếp cận hệ thống có nghĩa là khi tiếp
cận một đối tượng nghiên cứu cụ thể phải xem xét, đặt nó trong một hệ thống
mối quan hệ nhất định.
- Tiếp cận hệ thống dọc: Tiếp cận theo hệ thống dọc ở đây chủ yếu là
theo quản lý xã hội gồm: Trung ương - tỉnh - huyện - xã - làng, bản, thôn,
xóm - hộ gia đình...; theo hệ thống chính sách có: hệ thống các chủ trương,
chính sách vĩ mô của nhà nước có liên quan đến phát triển nông nghiệp, nông
dân, trang trại; hệ thống các chính sách, quy định của các bộ ngành Trung
ương để triển khai các chủ trương chính sách vĩ mô nêu trên; hệ thống các chủ
trương, quy định của địa phương có liên quan...
- Tiếp cận hệ thống ngang: Chủ yếu là hệ thống các trang trại có cùng
một ngành nghề sản xuất; hệ thống các trang trại có trong cùng một thời điểm,
một giới hạn địa lý nhất định như một xã, một huyện, hay trong toàn tỉnh...
Trang trại là một bộ phận gắn bó hữu cơ trong hệ sinh thái miền núi, gắn với
môi trường, nguồn nước...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
40
1.2.2.2. Các phương pháp nghiên cứu khoa học
- Thu thập tài liệu thứ cấp: Những số liệu, thông tin liên quan trực tiếp và
gián tiếp đến quá trình nghiên cứu đã được công bố chính thức của cơ quan
thống kê các cấp, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các trường đại học,
các cơ quan nghiên cứu; thông tin trên internet, các báo cáo chuyên đề, các tài
liệu, xuất bản phẩm của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
- Thu thập các dữ liệu trực tiếp thông qua điều tra, khảo sát: Điều tra trực
tiếp qua phỏng vấn các chủ trang trại để lấy thông tin theo nội dung phiếu
điều tra đã được chuẩn bị. Tác giả là người trực tiếp thực hiện công việc này,
bởi số trang trại ở Bắc Kạn không lớn và hơn nữa là thông tin được đầy đủ và
tin cậy hơn. Bao gồm các công việc sau đây:
+ Xây dựng mục tiêu, lĩnh vực điều tra và đối tượng điều tra, từ đó lập
phiếu điều tra để tiến hành điều tra;
+ Tiến hành điều tra tổng thể các trang trại hiện có trong tỉnh tại thời
điểm điều tra;
+ Xây dựng cơ sở dữ liệu (CSDL) thông tin sơ cấp bằng hệ thống bảng
tính Excel phục vụ cho việc phân tích, đánh giá.
- Phương pháp đánh giá nhanh nông thôn - RRA (Rapid Rural Appraisal):
Dựa trên các thông tin được thu thập từ trước, quan sát trực tiếp và phỏng vấn
khi cần thiết các đối tượng khác ngoài chủ trang trại với câu hỏi không được
chuẩn bị trước. Phương pháp này chủ yếu để kiểm chứng lại thông tin điều tra
chủ trang trại.
- Phương pháp chuyên gia: Phỏng vấn bán cấu trúc để lấy thông tin từ
một cá nhân hoặc một nhóm nhỏ chuyên gia đại diện các ngành, địa phương
trong lĩnh vực nghiên cứu. Từ đó rút ra những nhận xét, đánh giá chung về
vấn đề đang nghiên cứu, giúp cho quá trình phân tích được chính xác hơn,
không mang tính chủ quan của người làm luận văn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
41
- Phương pháp thống kê, mô tả: Lập danh sách và sắp xếp theo trình tự
riêng biệt các yếu tố kinh tế, xã hội môi trường; đặc tính giống nhau, tiêu
biểu, chung, phổ biến của các trang trại tỉnh Bắc Kạn; cập nhật, hệ thống hoá
những thông tin, vấn đề phục vụ cho nội dung nghiên cứu của đề tài. Phương
pháp thống kê, mô tả được sử dụng chủ yếu trong phần phân tích tiềm năng
và đánh giá thực trạng.
- Phương pháp phân tích, đánh giá theo cách so sánh chuỗi: Trên cơ sở
chuỗi số liệu có được, tiến hành phân tích, rút ra các quy luật phát triển của
vấn đề nghiên cứu và trực tiếp đưa ra các phán đoán định tính dựa trên các số
liệu đã có: tăng hay giảm; mức và tốc độ tăng, giảm diễn ra như thế nào, so
sánh với khả năng của địa phương là thấp hay cao...
- Phương pháp phân tích, đánh giá thông qua so sánh chéo: So sánh chéo
với các địa phương khác để xác định một cách khách quan mục tiêu, kết quả
của vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp phân tổ thống kê đối tượng nghiên cứu: Phân tổ các trang
trại thành những nhóm loại hình sản xuất kinh doanh trên cơ sở tiêu chí trang
trại hiện hành và diễn tả bằng các biểu thống kê. Việc phân tổ theo tiêu chí
như vậy sẽ đảm bảo tính thống nhất từ quá trình nghiên cứu đến công tác
quản lý nhà nước về kinh tế trang trại.
- Phương pháp phân tích, tính toán những chỉ số thống kê, những đại
lượng trung bình và hệ số tương đối... tính hiệu quả, đánh giá các nhân tố ảnh
hưởng đến kết quả sản xuất của trang trại (vốn, đất đai, lao động), so sánh kết
quả các loại hình trang trại, dự báo xu hướng phát triển của trang trại.
- Kiểm định thống kê bằng phương pháp so sánh cặp đôi sử dụng phần
mềm SPSS (Statiscal Package for Social Sciences).
- Phương pháp phân tích SWOT (Strength Weakness Opportunity
Threat) để phát hiện vấn đề cơ bản phát triển kinh tế trang trại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
42
1.2.3. Các chỉ tiêu nghiên cứu
1.2.3.1. Chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất
- Giá trị sản xuất: GO (Gross output) là giá trị bằng tiền của các sản phẩm
được bán ra ở trang trại, bao gồm phần giá trị để lại để tiêu dùng và giá trị bán
ra thị trường sau một chu kỳ sản xuất, thường là một năm. Được tính bằng sản
lượng của từng loại sản phẩm nhân với đơn giá một đơn vị sản phẩm.
Cách tính: GO = ∑PiQi
Trong đó: GO: Giá trị sản xuất
Pi: Giá của sản phẩm hàng hoá thứ i
Qi: Lượng sản phẩm hàng hoá i
- Chi phí trung gian: (IC: Intermediate cost) là toàn bộ các khoản chi phí
vật chất bao gồm các khoản chi phí nguyên vật liệu, giống, phân bón, chi phí
dịch vụ và lao động thuê.
Cách tính: IC = ∑Cij Trong đó: IC: là chi phí trung gian
Cij: là chi phí nguyên vật liệu thứ i cho sản phẩm j
- Giá trị gia tăng: VA (Value Added) là giá trị sản phẩm vật chất và dịch
vụ cho các ngành sản xuất sáng tạo ra trong một năm hay một chu kỳ sản xuất
kinh doanh (ở đây tính là năm).
Cách tính: VA = GO - IC
1.2.3.2. Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất
- Hiệu quả sử dụng lao động: Giá trị gia tăng (VA)/ lao động;
- Hiệu quả sử dụng vốn: Giá trị gia tăng (VA)/ vốn;
- Hiệu quả sử dụng đất: Giá trị gia tăng (VA)/ ha đất trang trại;
- Tỷ suất hàng hoá.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
43
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI
TỈNH BẮC KẠN
2.1. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
Tỉnh Bắc Kạn được tái lập từ ngày 01/01/1997, đến nay tỉnh có 8 đơn vị
hành chính, gồm 7 huyện và 1 thị xã tỉnh lỵ với 122 xã, phường, thị trấn.
Tổng diện tích tự nhiên 4.857,21 km2, dân số trung bình năm 2006 trên
30 vạn người, với 7 dân tộc anh em gồm Tày, Nùng, Dao, Kinh, Mông, Hoa,
Sán Chay, trong đó dân tộc thiểu số chiếm trên 80%.
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên
2.1.1.1. Vị trí địa lý
Bắc Kạn là tỉnh miền núi thuộc vùng Đông Bắc Bắc Bộ, ở vị trí trung
tâm các tỉnh thuộc Việt Bắc cũ, có toạ độ địa lý 21o 48’ đến 22o44’ độ vĩ Bắc,
105o26’ đến 106o15’ độ kinh Đông. Phía Đông giáp tỉnh Lạng Sơn, phía Tây
giáp tỉnh Tuyên Quang, phía Nam giáp tỉnh Thái Nguyên và phía Bắc giáp
tỉnh Cao Bằng.
Thị xã tỉnh lỵ Bắc Kạn cách thủ đô Hà Nội 170 km về phía Bắc. Quốc lộ
3 qua tỉnh dài 123,5 km là tuyến giao thông quan trọng để giao lưu kinh tế, xã
hội của Bắc Kạn với Hà Nội và các tỉnh khác trong vùng.
Vị trí địa lý của Bắc Kạn ở vào thế khó khăn so với nhiều tỉnh khác
trong vùng, xa trung tâm phát triển kinh tế của vùng, lại không có cửa khẩu
biên giới nên việc giao lưu kinh tế, thu hút nguồn lực để đầu tư.
2.1.1.2. Đặc điểm địa hình
Bắc Kạn là tỉnh miền núi là nơi hội tụ của một hệ thống nếp núi có dạng
hình cánh cung như: cánh cung Sông Gâm; cánh cung Ngân Sơn - Yến Lạc
nên có địa hình tương đối phức tạp, đa dạng, độ chia cắt mạnh gồm nhiều
dạng địa hình như: thung lũng, núi cao, núi trung bình và núi đá vôi... núi đá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
44
xen lẫn núi đất dễ gây sạt lở.
- Phía Tây của tỉnh có độ cao thấp dần từ Đông Bắc xuống Đông Nam,
có nhiều đỉnh cao trên 1000 m, địa hình chia cắt mạnh, độ dốc bình quân 2630o, nhiều dãy núi đá đồ sộ nằm ở phía Bắc huyện Chợ Đồn và phía Nam
huyện Ba Bể xen kẽ núi đất tạo thành những thung lũng hẹp.
- Phía Đông địa hình hiểm trở nằm trong phần cuối của cánh cung Ngân
Sơn - Yến Lạc, có dãy núi đá vôi Kim Hỉ là khối đá đồ sộ, dân cư thưa thớt.
- Phía Tây Bắc là hồ Ba Bể có diện tích tự nhiên khoảng 500 ha, độ sâu
khoảng 20 - 30 m, thiên nhiên đã tạo ra nơi đây một phong cảnh đẹp, một khu
du lịch lý tưởng.
- Phía Nam của tỉnh là vùng đồi núi thấp như vùng chuyển tiếp từ trung
du lên miền núi, độ cao bình quân từ 300 - 400 m so với mặt nước biển, đây
là phần cuối cùng của cánh cung Sông Gâm, Ngân Sơn - Yến Lạc. Tuy độ cao
không lớn, độ dốc bình quân 26o nhưng địa hình bị chia cắt mạnh, tạo nên các
thung lũng nhiều hơn và rộng hơn điển hình là các thung lũng ven sông Cầu.
2.1.1.3. Điều kiện thời tiết - khí hậu, thuỷ văn
Thời tiết - khí hậu: Bắc Kạn nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa
vùng Đông Bắc Việt Nam, một năm có 2 mùa rõ rệt: Mùa đông lạnh và mùa
hè nóng ẩm. Nhiệt độ bình quân năm khoảng 22,50C, tháng 2 có nhiệt độ thấp
nhất khoảng 15,70C, tháng nóng nhất là tháng 6 có nhiệt độ khoảng 280C. Do
địa hình phức tạp nên đã hình thành các vùng tiểu khí hậu khác nhau, nhìn
chung khí hậu của Bắc Kạn tương đối thuận lợi cho việc phát triển một hệ
sinh thái đa dạng.
Bắc Kạn chịu ảnh hưởng của gió Đông Nam về mùa hè và gió mùa Đông
Bắc về mùa Đông. Tổng lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 1400-1900
mm, cao nhất vào tháng 7 và thấp nhất vào tháng 2, mùa mưa từ tháng 2 đến
tháng 9 chiểm khoảng 75-80% tổng lượng mưa trong năm. Độ ẩm không khí
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
45
trung bình 82-85%.
2.1.1.4. Tài nguyên đất
Diện tích đất tự nhiên của Bắc Kạn năm 2006 là 486.842 ha, trong đó
đất nông nghiệp (bao gồm cả đất lâm nghiệp) là 372.186 ha chiếm 76%, đất
phi nông nghiệp là 18.816 ha chiếm 4,0% và đất chưa sử dụng là 95.839 ha
chiếm 20%. Nhìn chung đất đai trong tỉnh Bắc Kạn tương đối màu mỡ, nhiều
nơi tầng đất dầy, có hàm lượng mùn cao, thích hợp cho sản xuất nông, lâm
nghiệp. Tuy nhiên ở một số nơi như Ngân Sơn, Bạch Thông do lớp thảm thực
vật bị mất trong nhiều năm nên đất bị sói mòn, thoái hoá làm cho tầng đất
mỏng, nghèo dinh dưỡng, khô cằn.
Những loại đất chính của tỉnh Bắc Kạn như sau:
- Đất phù sa sông: có diện tích khoảng 761 ha được phân bố ở ven sông
Cầu, sông Năng, sông Bắc Kạn và tại các huyện Chợ Mới, Na Rì, Ba Bể, thị
xã Bắc Kạn. Loại đất này giàu hàm lượng các chất dinh dưỡng, rất thuận lợi
trong phát triển nông nghiệp thâm canh.
- Đất phù sa ngòi suối: loại đất này có 10.067 ha phân bố dọc theo các
triền suối thuộc lưu vực sông Năng, sông Cầu và sông Bắc Kạn. Đất có thành
phần cơ giới nhẹ, cấp hạt lớn và tỷ lệ mùn trung bình, hàm lượng lân dễ tiêu
khá. Tuy nhiên loại đất này chua, tỷ lệ các nguyên tố vi lượng nghèo và sắt
nhôm di động cao.
- Đất dốc tụ trồng lúa nước: với diện tích 2.249 ha, phân bố xen kẽ với
các loại đất khác và có mặt ở hầu khắp các huyện. Loại đất này có địa hình
phức tạp do nằm xen kẽ và các lòng máng lớn nhỏ tạo thành. Đất lẫn nhiều
sỏi đá và thành phần dinh dưỡng nghèo, đất chua, thiếu lân.
- Đất Ferelit biến đổi: có diện tích khoảng 2.242 ha phân bố rải rác ở các
huyện thị nhưng tập trung ở huyện Bạch Thông. Đặc điểm do thường xuyên
bị ngập nước nên đất chua nhưng hàm lượng dinh dưỡng ở mức trung bì nh.
Tầng đất dày khoảng 50 cm và loại đất này khả năng giữ nước kém.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
46
- Đất Feralit nâu vàng phát triển trên phù sa cổ: với diện tích trên 400
ha phân bố ở huyện Chợ Mới, Bạch Thông và thị xã Bắc Kạn. Đất có tầng đất
dày trên 1 m và nằm trên dườn đồi có độ dốc nhỏ dưới 120. Đất chua, nghèo
lân và lượng nhôm di động cao.
- Đất Feralit phát triển trên đá phiến thạch sét: loại đất này có diện tích
lớn bằng 82.152 ha, phân bố ở tất cả các huyện thị trong tỉnh. Loại đất này có
thành phần cơ giới nặng, tầng đất dày tuy nhiên cũng hay bị sụt lở. Hàm
lượng dinh dưỡng phụ thuộc vào tình hình rừng ở phía trên.
- Đất Feralit vàng đỏ phát triển trên đá granit: với 48.977 ha loại đất
này phân bố ở Bạch Thông, Ba Bể, Chợ Mới và thị xã Bắc Kạn. Thành phần
cơ giới trung bình và tầng đất từ trung bình đến dày. Hàm lượng mùn cao, đất
có phản ứng trung tính.
- Đất Feralit đỏ vàng phát triển trên đá biến chất: loại đất này có diện
tích lớn nhất (162.255 ha), phân bố ở Ngân Sơn, Chợ Đồn, Ba Bể, Chợ Mới.
Tầng đất dày và kết cấu đất tơi xốp nên rất dễ bị sụt lở, rửa trôi. Đạm và mùn
có hàm lượng khá giàu nhưng lân dễ tiêu lịa nghèo, đất chua.
- Đất Feralit nâu đỏ phát triển trên đá vôi: có diện tích 59.728 ha, phân
bố ở hầu khắp các huyện song nhiều nhất là Na Rì, Ba Bể, Bạch Thông. Tầng
đất mỏng nhưng cấu tượng của đất tốt. Hàm lượng các nguyên tố vi lượng
trong loại đất này như Ca và Mg rất lớn.
- Đất Feralit vàng nhạt phát triển trên sa thạch: với diện tích 14.632 ha,
loại đất này phân bố chủ yếu ở Na Rì, Ba Bể, Ngân Sơn. Tầng đất trung bình,
thành phần cơ giới nhẹ, hàm lượng mùn và chất hữu cơ nghèo. Đất chua, rất
chua và dễ bị xói mòn, bị bạc màu.
- Đất Feralit mùn trên núi cao trên 700 m: loại đất này có diện tích
64.200 ha, phân bố ở các huyện Ngân Sơn, Ba Bể, Chợ Đồn, Bạch Thông và
Na Rì. Tầng đất mỏng nhưng hàm lượng mùn khá cao do chất hữu cơ phân
giải. Loại đất này rất thích nghi với một số loại cây trồng ôn đới.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
47
Hiện trạng sử dụng tài nguyên đất của Bắc Kạn cụ thể như sau:
Biểu 2.4: Tình hình sử dụng đất tỉnh Bắc Kạn 2001-2006
Đơn vị tính: ha
Năm
Năm
Năm
2001
2005
2006
485.721
486.842
486.842
332.232
371.767
372.186
1. Đất sản xuất nông nghiệp
30.024
37.798
37.710
2. Đất lâm nghiệp
301.718
333.058
333.564
486
861
877
4. Đất nông nghiệp khác
4
50
35
II. Đất phi nông nghiệp
15.622
18.582
18.816
1. Đất ở
2.124
2.345
2.346
2. Đất chuyên dùng
7.901
10.684
10.821
4
4
105
166
172
5.492
5.382
5.470
1
3
137.867
96.493
95.839
5.334
3.345
3.423
2. Đất đồi núi chưa sử dụng
122.480
88.516
87.837
3. Núi đá không có rừng cây
10.053
4.632
4.579
Loại đất
Tổng diện tích tự nhiên
I. Đất nông nghiệp
3. Đất nuôi trồng thuỷ sản
3. Đất tôn giáo, tín ngưỡng
3. Đất nghĩa trang, nghĩa địa
4. Đất sông, suối, mặt nước chuyên dụng
5. Đất phi nông nghiệp khác
III. Đất chƣa sử dụng
1. Đất bằng chưa sử dụng
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Bắc Kạn
- Đất nông nghiệp: đây là nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã
hội chiếm 76%, trong đó đất sản xuất nông nghiệp rất hạn chế chỉ có 37.710
ha chiếm 4,0% diện tích tự nhiên. Hiện tại hệ số sử dụng đất khoảng 1,91 lần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
48
và so với các tỉnh khác trong vùng tương đối thấp.
+ Đất trồng cây hàng năm có 32.142 ha chiếm 6,7% trong đó trồng lúa
là 18.736 ha . Đất trồng cây hàng năm còn lại có 13.965 ha chủ yếu gieo trồng
các loại rau, màu, đậu tương (2.558 ha), ngô (14.637 ha), lạc, bông, vùng v.v.
Đất trồng cây lâu năm có 5.567 ha chiếm 1,2% diện tích tự nhiên. Năng suất
cây trồng hàng năm và lâu năm ở Bắc Kạn không cao, bình quân mới chỉ
bằng 60 đến 70% so với năng suất có thể đạt được. Nguyên nhân cơ bản là
nông dân chưa thâm canh mà chủ yếu là quảng canh với nguồn giống chưa
bảo đảm.
+ Đất lâm nghiệp có 420.990,5 ha, chiếm 86,4% diện tích tự nhiên,
trong đó rừng tự nhiên là chủ yếu khoảng 224.151,4 ha (chiếm đến 53,2% đất
lâm nghiệp) nhưng chủ yếu là rừng nghèo, rừng mới phục hồi; rừng trồng
39.352,5 ha chiếm hơn 9,34% đất lâm nghiệp.
- Đất phi nông nghiệp: trong 5 năm vừa qua diện tích đất phi nông
nghiệp tăng chậm, năm 2000 có 15.622 ha (chiếm 3,22% diện tích tự nhiên)
đến năm 2005 tăng lên 18.582 ha (chiếm 3,82% diện tích tự nhiên) và năm
2007 là 18.816 ha (chiếm 3,9% diện tích tự nhiên).
- Đất chưa sử dụng: diện tích đất chưa sử dụng giảm xuống trong 5 năm
vừa qua khoảng 42 nghìn ha xấp xỉ 8,6% và hiện nay còn 95.839 ha, chiếm
khoảng 19,68%. Đất chưa sử dụng độ dốc thấp có diện tích rất hạn chế (ước
tính dưới 15%) mà chủ yếu là đất chưa sử dụng có độ dốc lớn với diện tích
chiếm trên 85% hiện nay, chủ yếu dùng vào phát triển lâm nghiệp (rừng
phòng hộ).
Từ kết quả trên cho thấy tiềm năng đất của tỉnh còn khá lớn, riêng đất
chưa sử dụng có khả năng sản xuất nông lâm nghiệp là trên 80 ngàn ha. Hiện
nay, hệ số sử dụng đất còn thấp, có thể nâng hệ số sử dụng đất lên. năng suất
cây trồng, vật nuôi cũng còn tiềm ẩn khá, nếu áp dụng đưa giống mới vào sản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
49
xuất, chế độ canh tác hợp lý thì sẽ đưa được năng suất lên ít nhất là 1,3 - 1,4
lần so với năng suất hiện nay.
2.1.1.5. Tài nguyên nước
Bắc Kạn là đầu nguồn của 5 con sông lớn, với tổng chiều dài là 313 km,
lưu lượng lớn 105,3 m3/s và có nước quanh năm. Các con sông Năng chảy
qua huyện Ba Bể là phụ lưu của Sông Gâm, Sông Phó Đáy bắt nguồn từ
huyện Chợ Đồn là phụ lưu của Sông Lô; Sông Bắc Giang bắt nguồn từ huyện
Na Rì, Sông Ngân Sơn bắt nguồn từ huyện Ngân Sơn là phụ lưu của sông Kỳ
Cùng; suối Nà Vài bắt nguồn từ huyện Ngân Sơn là phụ lưu của Sông Bằng
Giang chảy về tỉnh Cao Bằng và sông Cầu bắt nguồn từ huyện Chợ Đồn chảy
về tỉnh Thái Nguyên. Ngoài các con sông chính, trong tỉnh còn có các hệ
thống suối lớn, nhỏ khá nhiều, song đa phần nhỏ và ngắn, độ dốc lớn nên
nhiều thác ghềnh. Mùa khô các con suối thường cạn nước, nhưng mùa mưa
nước lại dồn về rất nhanh nên thường gây nên lũ quét ở miền núi. Nguồn
nước của tỉnh Bắc Kạn tương đối phong phú nhất là nước mặt (khoảng 3,7 tỷ
m3, hàng năm tiếp nhận 2-2,5 tỷ m3 nước mưa. Hiện nay việc khai thác tài
nguyên nước mới chỉ dừng lại ở mức tự nhiên là chính, chưa có giải pháp khai
thác tổng hợp nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao và bảo vệ môi trường. Trong
tương lai cần đẩy mạnh trồng và bảo vệ rừng đầu nguồn để hạn chế dòng chảy
chống lũ lụt, xói mòn, rửa trôi, xây dựng các phai, đập, hồ chứa nước cho sinh
hoạt và sản xuất nhằm khai thác hợp lý, khoa học và có hiệu quả nguồn tài
nguyên nước của tỉnh.
2.1.1.6. Tài nguyên khoáng sản
Do đặc điểm lãnh thổ tỉnh Bắc Kạn nằm trong hai kiểu kiến trúc địa chất
có chế độ địa động khác nhau đã tạo cho Bắc Kạn có tài nguyên khoáng sản
tương đối đa dạng, phong phú rất đặc trưng. Trong các khoáng sản đa dạng và
phong phú của Bắc Kạn thì vàng, chì, kẽm, quặng sắt là khoáng sản có tiềm
năng lớn nhất.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
50
Tóm lại, tài nguyên khoáng sản tại Bắc Kạn tương đối phong phú, đa
dạng và giầu tiềm năng, trong đó quặng chì-kẽm, quặng vàng, quặng sắt và
khoáng sản làm vật liệu xây dựng là có trữ lượng công nghiệp. Song để khai
thác và sử dụng có hiệu quả góp phần làm giầu cho tỉnh đòi hỏi phải có sự
đầu tư lớn về điều tra khảo sát, kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật...
2.1.1.7. Tài nguyên rừng
Đến năm 2006 Bắc Kạn có 333.564,37 ha đất lâm nghiệp, trong đó đất có
rừng là 263.503,9 ha, rừng tự nhiên 224.151,4 ha, rừng trồng là 39.352,5 ha
và đất chưa có rừng là 157.484,6 ha. Độ che phủ của rừng chiếm 55%.
Cơ cấu rừng so với tổng diện tích đất lâm nghiệp như sau: rừng sản xuất
276.557,3 ha, chiếm 65,69%; rừng phòng hộ 118.449,2 ha, chiếm 28,14%;
rừng đặc dụng 25.984 ha, chiếm 6,17%. Sản lượng gỗ khai thác hàng năm
trên 63.000 m3.
Nếu như năm 1997 diện tích rừng tự nhiên của Bắc Kạn chiếm tới 95%
thì đến năm 2005 diện tích rừng tự nhiên còn 85%. Trong diện tích rừng tự
nhiên, rừng giàu và trung bình chỉ chiếm có khoảng 9%, diện tích rừng phục
hồi và rừng nghèo chiếm khoảng 50% và rừng tre nứa hỗn giao khoảng 20%.
Rừng của Bắc Kạn có vị trí quan trọng, ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông
nghiệp, môi trường sinh thái và đời sống nhân dân. Diện tích rừng sản xuất của
Bắc Kạn chiếm khoảng 65 - 66%, Bắc Kạn có vị trí địa lý nằm ở vùng giao lưu
giữa 2 khu hệ động, thực vật của vùng núi Tây Bắc và Đông Bắc. Tuy núi
không cao nhưng rất đa dạng về địa hình, địa chất và dạng sinh cảnh. Rừng Bắc
Kạn có hệ động thực vật phong phú với nhiều nguồn gien quý hiếm, hiện có
khoảng 34 bộ, 110 họ và 336 loài chim, thú, bò sát, lưỡng cư đang sinh sống,
trong đó có 64 loài đã đưa vào sách đỏ Việt nam, đặc biệt có 10 loài đặc hữu
của Việt nam. Về thực vật có 148 họ, 537 chi và 826 loài đang sinh sống và
phát triển, trong đó có 52 loài được xếp vào sách đỏ Việt nam.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
51
Tóm lại, rừng Bắc Kạn là một tài nguyên quý, phong phú và đa dạng,
ngoài khả năng cung cấp gỗ và các loại lâm sản, đây còn là một trong những
trung tâm bảo tồn gien động, thực vật quý hiếm của các tỉnh vùng Đông Bắc
Việt nam.
2.1.1.8. Tài nguyên du lịch
Bắc Kạn là tỉnh giàu tiềm năng du lịch bởi sự phong phú của tài nguyên,
khoáng sản và nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc miền núi Đông Bắc Việt Nam.
- Hồ Ba Bể là danh thắng thiên nhiên được công nhận là di tích lịch sử
văn hoá Quốc gia năm 1996, hiện nay đang lập hồ sơ đề nghị UNESCO công
nhận là di sản thế giới. Hội xuân Ba Bể được tổ chức vào tháng giêng âm lịch
hàng năm.
- Căn cứ địa cách mạng - ATK Chợ Đồn: Đây là một trong những khu
căn cứ mà Bác Hồ và các cán bộ cấp cao của Đảng ta đã lãnh đạo dân tộc
trong suốt cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp.
- Ngoài ra phải kể đến những danh thắng nổi tiếng như: động Puông, động
Nà Poỏng, động Ba Cửa, hang Sơn Dương, khu bảo tồn thiên nhiên Kim Hỷ.
2.1.1.9. Về dân số và lao động
Năm 2007 dân số toàn tỉnh ước khoảng 305,8 nghìn người với 7 dân tộc
anh em đang sinh sống, trong đó dân tộc Tày chiếm 60,4%, dân tộc Kinh
chiếm 19,3%, dân tộc Dao chiếm 9,5% và dân tộc Nùng chiếm 7,4%; mật độ
dân số bình quân 62,8 người/km2, dân số nông thôn chiếm 85% và dân số
thành thị 15%. Số người trong độ tuổi lao động là: 200.460 người (chiếm
65,5% tổng dân số).
Số lao động tham gia hoạt động kinh tế thời điểm năm 2007 khoảng 169
nghìn người chiếm 85% so với số dân trong độ tuổi lao động, chủ yếu là lao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
52
động phổ thông chưa được qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật nghề nghiệp.
Lao động ở khu vực nông thôn chủ yếu là làm ruộng gắn với chăn nuôi, làm
vườn và dịch vụ ở tại hộ gia đình. Đến năm 2007, khu vực công nghiệp - xây
dựng mới thu hút được khoảng 6,3%, khu vực dịch vụ mới thu hút được
khoảng 15,4%; còn lại khu vực nông, lâm nghiệp - thuỷ sản chiếm 78,3%
trong tổng số lao động. Trình độ nguồn nhân lực của Bắc Kạn vào loại thấp so
với mức bình quân chung của cả nước, lao động qua đào tạo mới chỉ có gần
17% (mức bình quân chung của cả nước là 28%), trong đó qua đào tạo nghề
là 9,5%, lao động có trình độ cao đẳng, đại học chỉ chiếm 1,25%, trình độ
trung cấp 5,2%, công nhân kỹ thuật chỉ có 1,2%.
* Dự báo phát triển dân số
Phát triển dân số được dự báo với phương án mức sinh trung bình, dựa
theo khuôn khổ dự báo phát triển dân số của cả nước đến năm 2010 và 2020
theo xu thế giảm dần tỷ lệ tăng dân số tự nhiên phù hợp với quy luật phát triển
kinh tế xã hội và căn cứ vào thành tựu đạt được về dân số trong những thập
kỷ vừa qua.
Kết quả dự báo cho thấy trong giai đoạn từ năm 2006 2020 dân số
Bắc Kạn bước vào thời kỳ dân số “vàng”( 2) với cơ cấu dân số trong tuổi lao
động (nam 15 - 60, nữ từ 15 - 55 tuổi) chiếm tới 62,10% vào năm 2010 và
62,5% vào năm 2020. Thời kỳ thời kỳ dân số vàng sẽ tạo ra cho Bắc Kạn
một thách thức lớn về tạo công ăn việc làm cho dân số trong độ tuổi lao
động, tuy nhiên đây là một cơ hội tốt cho tỉnh về nguồn lao động mà nếu
phát huy tốt sẽ là một yếu tố phát triển cực kỳ quý báu đối với Bắc Kạn
trong thời kỳ quy hoạch mới.
2
Dân số “vàng” chỉ thời kỳ cơ cấu lao động trong tổng dân số đạt mức cao từ 55% trở lên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
53
Biểu 2.5: Dân số và dự báo phát triển dân số tỉnh Bắc Kạn đến năm 2020
Đơn vị tính: 1.000 người
Chỉ tiêu
2005
2010
2015
2020
Tổng dân số
Trong đó:
- Thành thị
% so tổng số
- Dân số trong tuổi lao động
% so tổng số
300,2
317,1
334,1
352,0
46,2
15,39
185,0
61,62
63,3
19,96
196,6
62,1
63,3
27,2
207,1
62,2
133,5
37,93
218,2
62,5
Nhịp độ tăng
bình quân
2006 - 2011- 2016 2010
2015
2020
1,10
1,05
1,05
6,5
7,5
8,0
1,22
1,05
1,05
Nguồn: Quy hoạch tổng quan kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Kạn 2006-2020.
2.1.1.10. Nguồn lực tài chính và khả năng huy động vốn cho đầu tư phát triển
- Nguồn vốn ngân sách nhà nước: Thu ngân sách nhà nước của tỉnh Bắc
Kạn trong những năm vừa qua tăng nhanh với tốc độ tăng bình quân giai đoạn
1997-2007 đạt 22,15%/ năm. Năm 1997 thu ngân sách nhà nước toàn tỉnh
mới chỉ đạt 16.761 triệu đồng thì đến năm 2007 thu ngân sách nhà nước trên
địa bàn đã đạt 123.316 triệu đồng. Tỷ lệ huy động GDP vào ngân sách bình
quân đạt 8%. Tính chung nguồn vốn ngân sách nhà nước dành cho đầu tư phát
triển trên địa bàn (bao gồm nguồn vốn ngân sách trung ương bổ sung cho
ngân sách địa phương) đều tăng dần qua các năm, bình quân giai đoạn 20012005 ngân sách nhà nước dành cho đầu tư phát triển tăng 31,64%/ năm, năm
2005 nguồn vốn ĐTPT thuộc ngân sách nhà nước chiếm tỷ lệ 71,41% trong
tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
- Các nguồn lực ngoài ngân sách: Các nguồn vốn ngoài ngân sách nhà
nước như nguồn vốn tín dụng, nguồn vốn từ khu vực dân cư và tư nhân,
nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài khá lớn song vẫn còn chiếm tỷ trọng
nhỏ trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội do chưa khơi dậy và thu hút được tiềm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
54
năng to lớn của các nguồn vốn này đầu tư cho phát triển sản xuất kinh doanh.
Theo kết quả chính thức tổng điều tra vốn đầu tư toàn xã hội năm 2005 của
Tổng cục Thống kê, nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước năm 2004 chiếm tỷ
trọng gần 30% trong cơ cấu tổng vốn đầu tư toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Bắc
Kạn. Trong 2 năm 2006 và 2007 nguồn vốn các doanh nghiệp trong và ngoài
nước đăng ký đầu tư vào địa bàn đã đạt trên 2000 tỷ đồng. Trong những năm
tới tỉnh Bắc Kạn cần có chính sách hợp lý nhằm khơi dậy được tiềm năng to
lớn từ nguồn vốn đầu tư ngoài ngân sách nhà nước thu hút vào các hoạt động
đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.
- Đối với nguồn vốn ODA: Đây là một trong những nguồn lực quan
trọng đối với phát triển kinh tế xã hội của Bắc Kạn. Trong những năm gần
đây nguồn ODA dành cho Bắc Kạn tăng nhanh đặc biệt là trong năm 2006 và
2007 nguồn vốn ODA dành cho lĩnh vực giao thông và thuỷ lợi của Bắc Kạn
tăng vọt so các năm trước.
Như vậy, tiềm năng về điều kiện tự nhiên, và con người của tỉnh Bắc
Kạn khá đa dạng, phong phú. Trong đó tiềm năng về khoáng sản và tài
nguyên rừng là một thế mạnh lớn. Bên cạnh đó nguồn lao động tuy không lớn
song cũng là một tiềm năng để phát triển. Ngoài ra Bắc Kạn còn có nguồn tài
nguyên về lịch sử, văn hoá xã hội khá đặc trưng cho vùng và có khả năng thu
hút được sự chú ý, quan tâm của du khách trong và ngoài nước. Vì vậy có thể
khẳng định tiềm năng của Bắc Kạn có thể tạo được tốc độ tăng trưởng cao
nếu phát huy hết khả năng sử dụng các nguồn lực sẵn có của tỉnh.
2.1.2. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 2001-2007
2.1.2.1. Đánh giá chung
* Về quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh Bắc Kạn tăng cao trong giai đoạn
2001-2005: tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 11,85%/năm. Trong 2
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
55
năm 2006 và năm 2007 tốc độ tăng trưởng GDP không đều do nền kinh tế gặp
nhiều bất lợi của ngoại cảnh. Năm 2006 tốc độ tăng trưởng kinh tế chỉ đạt
9,66% song đến năm 2007 tốc độ tăng trưởng đạt 12,55% với tổng GDP tính
theo giá hiện hành đạt trên 1.500 tỷ đồng, tăng đột biến so với năm 2006, cao
hơn rất nhiều so với mức bình quân chung của giai đoạn trước.
Biểu 2.6: Tốc độ tăng trƣởng kinh tế Bắc Kạn, vùng TDMN Bắc Bộ
và cả nƣớc thời kỳ 2001-2005
Đơn vị tính: %
Chỉ tiêu
tăng trƣởng kinh tế
Giai đoạn 2001 - 2005
Bắc Kạn
Vùng TDMN
Bắc Bộ
Cả nƣớc
11,85
10,2
7,50
- Công nghiệp - xây dựng
27,87
17,0
10,2
- Nông lâm thuỷ sản
5,89
5,9
3,8
- Dịch vụ
16,13
10,9
7,00
Trong đó:
* Về cơ cấu kinh tế:
- Giai đoạn 2001-2005: Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực,
tỷ trọng ngành nông lâm nghiệp giảm xuống còn 41,96% (giảm 16,28% so
với năm 2000); tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng và ngành dịch vụ đều
tăng: công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng 21,83% trong cơ cấu kinh tế,
dịch vụ chiếm tỷ trọng 36,21% (tăng 10,24% so với năm 2000).
- Giai đoạn 2006-2007: Trong 2 năm 2006 và năm 2007 nền kinh tế có
nhiều biến động lớn, sự giảm sút trong sản xuất công nghiệp và sự tăng
trưởng đột biến trong năm 2007 của ngành nông nghiệp làm cơ cấu kinh tế
của tỉnh thay đổi. Tỷ trọng của ngành nông lâm nghiệp lên đến 45%, ngành
công nghiệp-xây dựng giảm còn 18,56% và ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng
36,44% vào năm 2007.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
56
Biểu 2.7: Cơ cấu kinh tế tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 2001-2007
Chỉ tiêu
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
GDP theo giá hiện
561.026 652.225 718.996 901.840 1.060.400 1.235.458 1.514.334
hành (tỷ đồng)
- Nông lâm nghiệp
300.433 340.387 365.564 411.813
444.929
501.370
681.495
- Công nghiệp 106.879 129.602 150.893 179.223
Xây dựng
231.518
258.030
281.083
- Dịch vụ
383.953
476.058
551.756
Cơ cấu kinh tế (%)
153.714 182.236 202.539 310.804
100
100
100
100
100
100
100
- Nông lâm nghiệp
53,55
52,19
50,84
45,66
41,96
40,58
45,00
- Công nghiệp Xây dựng
19,05
19,87
20,99
19,87
21,83
20,89
18,56
- Dịch vụ
27,40
27,94
28,17
34,46
36,21
38,53
36,44
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh trong 10 năm qua đạt cao song chưa
bền vững, còn chịu ảnh hưởng lớn của các tác động ngoại sinh, tiềm lực kinh
tế còn khá nhỏ bé (GDP giá hiện hành năm 2007 bằng 0,15% GDP cả nước).
* Đầu tư xã hội và thu nhập bình quân đầu người:
- Tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng dần qua các năm, giai đoạn 1997 2005 tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng bình quân 27%/năm từ 122 tỷ đồng
năm 1997 lên trên 830 tỷ đồng năm 2005. Trong 2 năm 2006 - 2007 cùng với
các hoạt động xúc tiến, thu hút đầu tư, hợp tác phát triển với các tỉnh bạn,
tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng lên nhanh chóng, tính riêng trong năm 2007
tổng mức vốn đầu tư đăng ký thực hiện trên địa bàn ước đạt trên 2.000 tỷ
đồng. Tuy nhiên đến nay khối lượng vốn đầu tư đã đăng ký được giải ngân
không cao.
- Thu nhập bình quân đầu người của tỉnh Bắc Kạn từ năm 1997 đến nay
được tăng lên đáng kể, năm 1997 GDP bình quân đầu người của tỉnh Bắc Kạn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
57
mới chỉ là 1,35 triệu đồng/ người/ năm, đến năm 2007 GDP bình quân đầu người
đã đạt đến con số 4,95 triệu đồng/ người/ năm, (khoảng 310 USD). Tuy chỉ tiêu
này còn thấp so với cả nước (năm 2007 cả nước đạt 830 USD/người/năm) song
kết quả thực hiện trong 10 năm qua cũng là một thành tựu đáng khích lệ.
* Về hoạt động xuất nhập khẩu:
Kết quả hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá dịch vụ trên địa bàn tỉnh
trong những năm qua không lớn, giá trị hàng hoá xuất nhập khẩu không ổn
định qua các năm, kim ngạch xuất nhập khẩu lớn nhất trong 10 năm qua mới
chỉ đạt 6,357 triệu USD trong đó xuất khẩu đạt 6,3 triệu USD (mặt hàng xuất
khẩu chủ yếu là quặng và tinh quặng khoáng sản), giá trị nhập khẩu thấp so
tổng kim ngạch XNK hàng năm.
* Về thu ngân sách địa phương:
Thu ngân sách trong những năm vừa qua tốc độ đạt cao song mới đạt hơn
6% so với GDP. Năm 2007 thu ngân sách đạt 123,316 tỷ đồng gấp 4,2 lần so với
năm 2001. Bình quân 5 năm 2001-2005 tốc độ tăng trưởng thu ngân sách bình
quân đạt 22,52%/ năm, tính chung cả giai đoạn 2001-2007 đạt 22,25%/ năm.
Biểu 2.8: Thu ngân sách địa phƣơng qua các năm 2001 - 2007
Bình quân giai
Chỉ tiêu
Năm
Năm
Năm
Năm
2001
2005
2006
2007
đoạn (%)
2001-
2001-
2005
2007
Thu ngân sách
nhà nước (tỷ
29,036
70,411
107,821
123,316
22,52
25,25
đồng)
Tóm lại, tăng trưởng kinh tế Bắc Kạn trong những năm qua tuy đã đạt
được tốc độ cao song vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh. Tốc độ
cao hơn cả nước song quy mô còn nhỏ bé, thu nhập bình quân đầu người thấp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
58
hơn nhiều so với mức bình quân chung cuả cả nước, tỷ lệ hộ nghèo vẫn còn ở
mức cao (trên 30%), kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển.
Sản xuất kinh doanh vẫn còn nhỏ lẻ chưa tạo được tiềm lực kinh tế to lớn.
2.1.2.2. Thực trạng phát triển các ngành, lĩnh vực
a) Ngành công nghiệp - xây dựng
Sản xuất công nghiệp Bắc Kạn có bước tăng trưởng khá, tốc độ tăng
trưởng GTSX ngành công nghiệp giai đoạn 2001-2005 đạt 28,86%/ năm. Vào
năm 2005 giá trị sản xuất công nghiệp tăng 3,55 lần so với năm 2000 và năm
2006 đạt 185,9 tỷ đồng tăng 12,67% so với năm 2005, năm 2007 ước thực
hiện đạt 189,031 tỷ đồng, tăng 1,7% so năm 2006. Đến nay, Bắc Kạn đã hình
thành hầu hết các ngành công nghiệp tuy còn rất nhỏ bé, trong đó rõ rệt nhất
là nhóm ngành chủ yếu gồm: Công nghiệp khai thác chiếm 54,58%, công
nghiệp chế biến chiếm 41,08% và công nghiệp phân phối điện nước chiếm
4,34% trong cơ cấu công nghiệp của tỉnh.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu như: Quặng sắt khai thác năm
2006 đạt 207 nghìn tấn, quặng chì-kẽm 25 nghìn tấn, giấy đế 2.155 tấn, xi
măng 22,8 nghìn tấn, Clanhke đạt 18,4 nghìn tấn, gỗ xẻ xây dựng 7 nghìn m3,
lắp ráp ô tô 200 chiếc... Các ngành công nghiệp như khai thác và chế biến
khoáng sản, vật liệu xây dựng, chế biến nông lâm sản đang được các nhà đầu
tư quan tâm, đã có một số dự án được triển khai thực hiện. Một số cơ sở công
nghiệp trọng điểm có quy mô nhỏ và vừa đã được đầu tư xây dựng như : Liên
doanh may công nghiệp công suất 2,2 triệu sản phẩm/ năm ; nhà máy lắp ráp
và đóng mới ô-tô tải nhỏ công suất giai đoạn I là 500 xe/ năm; nhà máy sản
xuất giấy đế Trung Hoà - Chợ Đồn công suất 2.55 tấn/ năm. Tỷ trọng công
nghiệp trong GDP tăng nhanh từ 11% năm 2000 lên 21% năm 2005.
Đến năm 2005 toàn tỉnh có tới 1.423 cơ sở sản xuất công nghiệp gấp 1,6
lần năm 2000, thu hút 6533 lao động gấp 1,8 lần năm 2000, hầu hết các sản
phẩm công nghiệp trong 5 năm 2001 - 2005 đều tăng khá.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
59
Công nghiệp Bắc Kạn năm 2006 và 2007 tăng trưởng chậm lại so với thời
kỳ 2001 - 2005 là do một số doanh nghiệp có giá trị sản xuất lớn chưa tìm
được đầu ra như công nghiệp xi măng, lắp ráp ô-tô nên sản xuất cầm chừng,
một số dự án đưa vào sản xuất chậm...
Biểu 2.9: Giá trị tổng sản lƣợng công nghiệp trên địa bàn tỉnh 2001-2007
Đơn vị tính: tỷ đồng (giá cố định 1994)
Tăng trƣởng BQ
Chỉ tiêu
2001
2005
2006
2007
2001-2005 %
Tổng giá trị sản xuất
46,4
164,9
185,9
189,031
28,86
- Công nghiệp khai thác
10,7
71,3
72,4
73,2
46,2
- Công nghiệp chế biến
33
83,3
101,3
103
20,3
- CN phân phối điện nước
2,7
9,9
12,1
12,83
30,1
Nguồn: Số liệu thống kê tỉnh Bắc Kạn
Giá trị sản xuất ngành xây dựng trong những năm vừa qua tăng trưởng
đều đặn cùng các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội. Tốc độ tăng
trưởng giá trị sản xuất ngành xây dựng trong 10 năm qua bình quân đạt
26,47%/ năm. Giá trị sản xuất ngành xây dựng năm 2007 tính theo giá so sánh
1994 gấp 5,47 lần so với năm 2000.
Tóm lại, qua nghiên cứu các số liệu về tình hình phát triển sản xuất của
ngành công nghiệp và xây dựng cho thấy tính phát triển bền vững của công
nghiệp Bắc Kạn không ổn định, dễ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố ngoại sinh.
Giá trị sản xuất ngành công nghiệp khai thác và sơ chế khoáng sản vẫn chiếm
tỷ trọng lớn trong cơ cấu ngành vì vậy không tạo được tích luỹ và mở rộng
sản xuất. Công nghệ sản xuất của ngành là công nghệ trung bình thấp, chưa
tạo được giá trị tăng thêm cao, chủ yếu là sử dụng lao động phổ thông trong
dây chuyền sản xuất vì vậy giá trị sản xuất có thể cao song mức độ đóng góp
của ngành đối với tăng trưởng kinh tế còn hạn chế.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
60
b) Ngành nông - lâm - thuỷ sản
Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất ngành nông, lâm nghiệp giai đoạn
2001-2005 đạt bình quân 5,91%, năm 2006 GTSX của ngành tăng trưởng
chậm lại do gặp nhiều bất lợi cho sản xuất nông nghiệp, tốc độ tăng trưởng
GTSX toàn ngành chỉ đạt 4,6%. Năm 2007 sản xuất nông nghiệp được phục
hồi do đó tốc độ tăng GTSX cao hơn những năm trước, ước đạt trên 13%.
Nông nghiệp và nông thôn Bắc Kạn những năm qua đã có bước chuyển
biến tích cực, sản lượng lương thực tăng nhanh và cơ bản đảm bảo an ninh
lương thực tại chỗ. Cơ cấu kinh tế trồng trọt, chăn nuôi và khai thác, dịch vụ
nông lâm thuỷ sản đang từng bước chuyển đổi theo hướng tích cực và sản
xuất thêm nhiều hàng hoá, tạo thêm việc làm cho nhân dân.
Biểu 2.10: Giá trị sản xuất ngành nông nghiệp thời kỳ 2001-2007
Tăng
Chỉ tiêu
ĐVT
2001
2005
2006
2007
trƣởng
2001-2005
(%)
Tổng G TSX (Giá
Tỷ đồng
328,274 509,320 532,741 626,096
5,91
Nông nghiệp
Tỷ đồng
280,859 409,197 423,374 501,173
7,81
Lâm nghiệp
Tỷ đồng
99,031
Thuỷ sản
Tỷ đồng
2,384
CĐ 94)
96,509 104,937 119,503
3,614
4,430
5,420
-0,51
8,67
Nguồn: Niên giám thống kê Bắc Kạn
Tốc độ tăng trưởng GDP của toàn ngành nông nghiệp giai đoạn 20012005 đạt bình quân 5,89%/năm, là mức khá cao so với các tỉnh trong vùng núi
phía Bắc. Tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế của tỉnh giảm từ 58,24%
năm 2000 xuống còn 41,96% vào năm 2005.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
61
* Ngành nông nghiệp
- Trồng trọt: Sản lượng lương thực có hạt tăng từ 87.545 tấn năm 2000
lên 148.544 tấn (2007). Diện tích trồng lúa đạt khoảng 21.233 ha sản lượng đạt
92.939 tấn và ngô là trên 16.133 ha và sản lượng đạt 55.605 tấn (2007). Bước
đầu đã hình thành được vùng sản xuất chuyên canh trồng cây công nghiệp ngắn
ngày như đậu tương khoảng 2.126 ha (2007), thuốc lá khoảng 600 ha (2007),
lạc trên 500 ha và mía 232 ha, phân bố trên hầu hết các huyện, thị xã trong tỉnh.
Riêng cây chè có trên 100 ha (2006) và ước khoảng gần 300 ha (2007), chất
lượng cao tại các huyện Chợ Mới, Ba Bể và vùng chè tuyết shan, phân bố tại
một số xã của các huyện Chợ Đồn, Chợ Mới, Ba Bể và Bạch Thông.
Bắc Kạn thực hiện khá tốt các chính sách hỗ trợ của Nhà nước cho nông
nghiệp và nông thôn đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đặc biệt
là sử dụng giống lai vào sản xuất với tỷ lệ diện tích trồng giống mới là lúa:
30%, ngô: 90%, thuốc lá: 100%, tỷ lệ giống lợn mới: 40%. Năng năng suất,
sản lượng cây trồng vật nuôi không ngừng tăng lên, năng suất lúa đạt 43,77
tạ/ha (2007); ngô đạt 34,47 tạ/ha (2007).
Bắc Kạn còn phải kể đến diện tích trồng cây ăn quả đạt khoảng 4.000 ha
trong đó cam quýt cho thu hoạch trên 800 ha, vải 400 ha, nhãn 240 ha, mận,
mơ 1.300 ha. Tổng sản lượng quả các loại của Bắc Kạn khá lớn đến gần 5.000
tấn, trong đó cam quýt trên 1000 tấn, mơ mận trên 2000 tấn và còn lại là vải
nhãn v.v...
- Chăn nuôi: Mặc dù dịch bệnh có ảnh hưởng đến sự phát triển của gia
súc nhưng so với tốc độ hàng năm vẫn phát triển khá về cả đàn lợn, đàn bò.
Bên cạnh đó gia súc, gia cầm trong tỉnh cũng phát triển khá với chất lượng
rất tốt.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
62
Biểu 2.11: Thống kê gia súc gia cầm tỉnh Bắc Kạn 2001 - 2007
Đơn vị tính: 1000 con
TT
1
2
3
4
Hạng mục
Trâu
Bò
Lợn
Gia cầm
2001
87,0
32,5
157,2
1.527,5
Thời gian
2005
2006
84,0
83,86
40,0
40,19
175,2
144,2
1.513,0
1.128,87
2007
93,82
88,18
175
1335,1
- Về dịch vụ nông nghiệp: dịch vụ nông nghiệp đã có bước tiến bộ
(chiếm gần 5%), tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng yêu cầu phục vụ phát triển nông
nghiệp. Thực hiện tốt chính sách trợ giá, trợ cước vận chuyển đối với các mặt
hàng chính sách. Hiện tại đã đưa tỷ lệ lúa giống mới đạt khoảng 30% và ngô
lai đạt trên 70%.
* Ngành lâm nghiệp
Toàn tỉnh có 263.503 ha rừng, độ che phủ đạt 55,18% năm 2007 trong
đó rừng tự nhiên chiếm khoảng 224 nghìn ha và rừng trồng xấp xỉ 40 nghìn
ha. Tình hình phân chia 3 loại rừng của tỉnh như sau: rừng đặc dụng là 25.582
ha gồm vườn quốc gia Ba Bể, 2 khu bảo tồn thiên nhiên là Kim Hỷ và Nam
Xuân Lạc; rừng phòng hộ là 94.127,7 ha thuộc đầu nguồn của hệ thống sông
suối như sông Cầu, sông.v.v... Rừng sản xuất là 268.339 ha phân bố ở hầu
khắp các huyện trong tỉnh.
Tuy nhiên theo quy hoạch lâm nghiệp, tỉnh Bắc Kạn còn 124 nghìn ha là
đất chưa có rừng. Diện tích rừng tự nhiên nghèo kiệt và rừng trồng kém chất
lượng có thể xem xét cải tạo trồng rừng nguyên liệu khoảng 158 nghìn ha.
Đối với rừng sản xuất có thể trồng rừng nguyên liệu gắn với chế biến lâm sản.
Đối với diện tích rừng đặc dụng kết hợp bảo tồn nguyên trạng phục vụ nghiên
cứu khoa học gắn với phát triển du lịch sinh thái. Đối với rừng phòng hộ: bảo
đảm yêu cầu phòng hộ kết hợp với phát triển lâm sản ngoài gỗ để có nguồn
thu từ rừng gắn với phát triển du lịch sinh thái.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
63
Giá trị kinh tế lâm nghiệp: tốc độ tăng trưởng GTSX của ngành lâm
nghiệp ổn định trong những năm vừa qua. Tổng giá trị sản xuất ngành lâm
nghiệp giai đoạn 1997-2000 tăng trưởng bình quân 10,07% tuy nhiên trong
giai đoạn 2001-2005 tổng GTSX của ngành không tăng và giữ mức 96 đến 99
tỷ đồng (giá so sánh 1994). Năm 2006 giá trị sản xuất của ngành tăng thêm
hơn 8 tỷ đồng (giá 1994) so với năm 2005.
* Ngành thuỷ sản
Tổng giá trị sản xuất ngành thuỷ sản năm 2005 đạt 3,614 tỷ đồng (giá
1994), tăng 1,5 tỷ đồng so với năm 1997.
Tính đến năm 2006, diện tích nuôi trồng mặt nước đang khai thác và
nuôi trồng thuỷ sản đạt 789 ha. Bắc Kạn còn 967 ha đất có khả năng chuyển
đổi sang nuôi trồng thuỷ sản. Cơ cấu giống gồm cá trắm, cá mè trắng, cá trôi,
cá chép, cá rô phi và cá trê lai, cá quả, cá chim trắng. Cá chim trắng chiếm tỷ
lệ tới 36%, tiếp theo là cá trôi với tỷ lệ 29%, cá chép có tỷ lệ 22% và cá mè tỷ
lệ 10%.
Kết luận về ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản: Ngành nông nghiệp Bắc
Kạn có bước tăng trưởng khá ổn định, chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh
tế. Trong đó lĩnh vực nông nghiệp khá ổn định và liên tục tăng trưởng, ngành
lâm nghiệp còn khá yếu và chưa được quy hoạch đầu tư đúng với tiềm năng.
Thuỷ sản Bắc Kạn không có được các điều kiện phát triển thuận lợi song cũng
đã phát huy hết tiềm năng và đóng góp và tăng trưởng chung. Tuy nhiên nông
nghiệp của tỉnh vẫn phát triển nhỏ lẻ, phân tán và không được đầu tư và quy
hoạch tốt do vậy các kết quả đạt được mang tính tự phát và chịu nhiều tác
động của các điều kiện bên ngoài.
c) Thương mại và dịch vụ
Khu vực dịch vụ của tỉnh Bắc Kạn đã có những bước tiến khá vững chắc.
Năm 1997, khi bắt đầu tái lập tỉnh, GDP do khu vực dịch vụ tạo ra là 103 tỷ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
64
đồng theo giá hiện hành, chiếm 28,8% tổng GDP trên địa bàn thì đến năm
2007 khu vực dịch vụ đóng góp 551,746 tỷ đồng chiếm 36,44% GDP. Nếu
xét về mặt quy mô của khu vực dịch vụ thì giá trị tăng gấp 5,35 lần năm 1997
và nếu so với năm 2000 gấp 4,32 lần. Đây là những kết quả khả quan để Bắc
Kạn có thể phát triển các ngành dịch vụ trong những năm tới.
Năm 2007 ngành du lịch Bắc Kạn đón được 100.305 lượt khách, gấp
4,17 lần so với năm 2000 trong đó khách nội địa tăng từ 21.588 lượt khách
năm 2000 lên 94.342 lượt khách năm 2007. Doanh thu du lịch năm 2007 đạt
21,1 tỷ đồng gấp 5,56 lần năm 2000. Tuy nhiên, nếu đem so sánh với t iềm
năng và lợi thế thì sự phát triển của ngành du lịch của tỉnh chưa tương xứng
với tiềm năng.
Dịch vụ của tỉnh Bắc Kạn phát triển còn mang tính tự phát là chủ yếu,
chưa hình thành nên những ngành dịch vụ chủ chốt có tính chất quyết định
cho sự phát triển của tỉnh như: dịch vụ tài chính ngân hàng, bảo hiểm, dịch vụ
thương mại.. mà còn tập trung vào các ngành dịch vụ có chất lượng và trình
độ phục vụ thấp, sử dụng nhiều lao động chưa qua đào tạo như: thương
nghiệp (chủ yếu là bán buôn, bán lẻ, vận tải thô sơ).
Hệ thống mạng lưới chợ, siêu thị, trung tâm thương mại chưa phát triển
đồng bộ, hiện nay trên địa bàn toàn tỉnh mới có 63 chợ trong đó chủ yếu vẫn
là các chợ phiên, cả tỉnh có 01 siêu thị tại trung tâm thị xã mới đi vào hoạt
động kinh doanh trong năm 2007.
2.1.2.3. Hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật
* Mạng lưới đường bộ
Mạng lưới đường bộ gồm hệ thống quốc lộ, đường tỉnh, đường huyện,
đường đô thị, đường xã và đường thôn xóm với tổng chiều dài 1.166 km. Do
địa hình vùng núi phức tạp nên hệ thống đường giao thông của tỉnh rất nhiều
cầu cống với trên 1.000 km đường bộ đã có tới 195 cây cầu và 1.673 cống.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
65
Quốc lộ 3 chạy suốt theo chiều dài của tỉnh và các được tỉnh lộ đều bắt đầu từ
trục quốc lộ 3.
Trong thời kỳ 2001 - 2006 đã đầu tư nâng cấp, xây dựng mới trên 500
km đường huyện, trên 1.000 km đường liên xã, liên thôn đạt tỷ lệ 100% xã có
đường ô-tô đến trung tâm xã.
Đường liên xã tổng chiều dài trên 1.000 km, đạt tiêu chuẩn giao thông
nông thôn (GTNT) loại A, B, mặt đường là đất cấp phối tự nhiên. Ngoài r a hệ
thống đường GTNT thôn xóm có chiều dài khoảng 4.000 km đạt tiêu chuẩn
GTNT loại B, không tính vào mạng lưới giao thông đường bộ. Về chất lượng
nhìn chung tuy có được cải thiện song vẫn thấp so với nhu cầu, còn nhiều
tuyến chưa được nâng cấp trải nhựa, đặc biệt là những tuyến nằm ở miền núi
và các tuyến đường huyện xã.
* Hiện trạng hệ thống điện
Bắc Kạn là tỉnh có hệ thống lưới điện trên đà phát triển gắn với hệ thống
lưới điện toàn quốc. Nếu như năm 1997 còn gần 100 xã chưa có lưới điện quốc
gia, thì đến năm 2006 đã đạt 100% số phường, xã có lưới điện quốc gia, năm
2007 tỷ lệ số hộ được sử dụng điện đạt 83,1% tăng 24% so với năm 2000.
Lưới điện hạ thế của tỉnh phát triển rộng khắp trên các địa bàn các xã.
Tuy nhiên số lượng trạm biến áp của các xã ít, chỉ có 1 đến 2 trạm biến áp.
Bán kính cấp điện đến các hộ lớn có chiều dài từ trạm biến áp đến các hộ dân
từ 4 đến 5 km, sử dụng dây dẫn nhỏ không đảm bảo kỹ thuật nên tổn thất điện
áp lớn đối với vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu vùng xa.
* Về kết cấu hạ tầng thuỷ lợi
Tính đến nay được sự hỗ trợ của Bộ Nông nghiệp và PTNT và từ các
nguồn vốn khác, tỉnh đã chỉ đạo xây dựng, nâng cấp 2.019 công trình thuỷ lợi
phục vụ sản xuất trên địa bàn tỉnh.
Trong 5 năm xây dựng và nâng cấp 319 công trình, đưa diện tích tưới
chủ động lên 5.868 lúa 2 vụ, tăng 3.800 ha so với năm 2000.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
66
Chương trình kiên cố hoá kệnh mương qua 4 năm đã giải quyết nước
tưới cho những cánh đồng có diện tích nhỏ, phân tán. Nâng diện tích tưới chủ
động hiện nay lên 10.000 ha lúa vụ xuân và lúa vụ mùa, ngoài ra còn phục vụ
tưới mía, thuốc lá và các cây hoa màu khác.
2.1.2.4. Thực trang các lĩnh vực văn hoá - xã hội
* Giáo dục và Đào tạo
Tỉnh Bắc Kạn đã được công nhận hoàn thành xoá mù chữ và phổ cập
giáo dục tiểu học. Năm 2005 tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi đi học mẫu giáo là
79,2% tăng 23,2% so với năm 2000; tỷ lệ học sinh tiểu học đi học đúng tuổi
là 89,3%.
Tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn ở các bậc học được nâng lên,
toàn ngành năm 2005 đã có 40 thạc sỹ, 92,7% giáo viên mầm non, 98% giáo
viên tiểu học; 95,9% giáo viên THCS, 97% giáo viên THPT đạt chuẩn.
Đã thành lập trường dạy nghề, trường trung học Sư phạm đã được nâng
cấp thành trường cao đẳng Sư phạm.
Chất lượng giáo dục tiếp tục chuyển biến trên nhiều mặt. Trình độ hiểu
biết, năng lực tiếp cận tri thức mới của một bộ phận học sinh, sinh viên được
nâng cao, số học sinh thi đỗ vào các trường cao đẳng, đại học ngày càng tăng.
* Về y tế, dân số, gia đình và trẻ em
Hệ thống mạng lưới y tế, nhất là y tế cơ sở ngày càng được củng cố và
phát triển theo hướng nâng cao chất lượng và từng bước chuyên sâu. 100%
xã, phường, thị trấn đều có trạm y tế, 100% thôn bản có nhân viên y tế hoạt
động. Công tác y tế dự phòng: nhiều dịch bệnh nguy hiểm đã được khống chế
và đẩy lùi, tỷ lệ mắc và chết do các bệnh truyền nhiễm đã giảm rõ rệt, nhất là
các bệnh được phòng ngừa bằng vắc xin tiêm chủng.
Công tác dân số, kế hoạch hoá gia đình: Mô hình gia đình có từ 1 đến 2
con được chấp nhận rộng rãi, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên bình quân hàng năm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
67
là 1,16%; tuy nhiên chất lượng dân số ở Bắc Kạn ở mức độ thấp, trẻ em dưới
5 tuổi suy dinh dưỡng chiếm tới 34% (2005).
* Về văn hoá, thông tin, thể dục thể thao
Tính đến nay toàn tỉnh có 100% số làng bản có quy ước, hương ước được
cấp có thẩm quyền phê duyệt. Nhiều lễ hội, sinh hoạt văn hoá dân gian truyền
thống được khôi phục và phát triển. Năm 2007 toàn tỉnh có 39.916/ 60.505 hộ
được công nhận là gia đình văn hóa, đạt 61,01%; Số làng văn hóa được công
nhận năm 2007 là 133 làng, đạt 48,8%. Trang bị, cấp hòm sách cho các xã đặc
biệt khó khăn đạt 103/122 xã, phường, thị trấn.
Tỷ lệ hộ được nghe đài đạt 80% năm 2005, tăng gấp 2 lần so với năm
2000; tổng số sách, báo xuất bản 1,05 triệu bản, tăng 0,35 triệu bản so với
năm 2000.
Hoạt động sự nghiệp thể dục - thể thao của tỉnh đã có bước phát triển cả
về phong trào thể thao quần chúng và thể thao thành tích cao. Tỷ lệ số người
thường xuyên tập luyện thể dục thể thao tăng từ 6,58% năm 2001 lên 17,4%
năm 2005 và đến năm 2007 là 20,5% dân số thường xuyên tập luyện thể dục
thể thao.
* Đời sống nhân dân và công tác xoá đói giảm nghèo
Đời sống nhân dân đã được cải thiện rõ rệt, từng bước được nâng lên ổn
định. Bình quân hàng năm giải quyết việc làm cho 3,5 nghìn lao động, giảm
tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực đô thị xuống dưới 4,5% và thời gian sử dụng lao
động ở khu vực nông thôn tăng lên 80%.
Trong những năm qua công tác xóa đói giảm nghèo đã đạt được nhiều
kết quả bằng các chương trình phát triển kinh tế xã hội, chương trình 134,135,
186, chương trình giảm nghèo… tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 50,87% năm 2005
xuống còn 34,43% năm 2007 và dự kiến đến 2010 tỷ lệ hộ nghèo giảm còn
dưới 20%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
68
Chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn với số vốn lên
tới hàng ngàn tỷ đồng đã xây dựng được nhiều công trình cấp nước sinh hoạt
tự chảy, cấp nước từ bơm điện, bơm tay, bể chứa tại một số thị trấn, các xã
vùng cao, nâng tỷ lệ dân số được dùng nước sạch từ 23% năm 2000 lên 55%
vào năm 2005. Tỷ lệ các hộ có hố xí và xử dụng hố xí hợp vệ sinh còn thấp
nhất là ở vùng nông thôn.
2.1.3. Phân tích SWOT về chiến lƣợc phát triển của Bắc Kạn
Qua một số cuộc hội thảo về chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh gần đây mà tác giả được tham gia; bằng phương pháp tổng hợp và phân
tích, sau đây là những nhận định tổng quát làm căn cứ để xác định định hướng
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nói chung và ngành nông nghiệp nói riêng
trong giai đoạn tiếp theo.
* Những tiềm năng và lợi thế
- Bắc Kạn là tỉnh có tài nguyên rừng khá phong phú, đất lâm nghiệp
tương đối lớn vì vậy tài nguyên đất rừng và rừng là lợi thế lớn nhất mà tỉnh
Bắc Kạn có được cho phát triển kinh tế của tỉnh.
- Tiềm năng du lịch sinh thái gắn với du lịch văn hoá - lịch sử của Bắc
Kạn là rất lớn: Vườn quốc gia Ba Bể; thêm vào đó Bắc Kạn còn có nhiều di
tích lịch sử cấp tỉnh, cấp quốc gia đã được xếp hạng.
- Nhân dân vùng chiến khu xưa, có tinh thần cách mạng, trung thành
tuyệt đối chủ trương, đường lối của Đàng.
* Những hạn chế và khó khăn:
- Do địa hình chủ yếu là đồi núi có độ dốc cao lại bị chia cắt mạnh bởi
các lũng sâu; thời tiết khí hậu khắc nghiệt, đặc biệt đợt rét đậm, rét hại diễn ra
trên diện rộng và kéo dài.
- Kinh tế tự nhiên sản xuất nông nghiệp là chính, trình độ sản xuất thấp.
- Dân cư nông thôn ở phân tán, trình độ dân trí thấp bị đè nặng bởi phong
tục tập quán lạc hậu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
69
* Điểm mạnh
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn qua của Bắc Kạn cao
hơn so với bình quân vùng Đông Bắc và cả nước.
- Đảm bảo an ninh lương thực cho mọi người dân ở các địa bàn trong tỉnh.
- Hệ thống kết cấu hạ tầng được phát triển nhanh.
- Đời sống kinh tế, văn hoá - xã hội của nhân dân được cải thiện.
- An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn địa phương được
bảo đảm.
* Điểm yếu
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, chưa hình thành ngành kinh tế mũi
nhọn; nguồn lực cho đầu tư phát triển rất hạn chế.
- Nền nông nghiệp sản xuất nhỏ lạc hậu khả năng cạnh tranh thấp: giá
thành sản phẩm cao, chất lượng sản phẩm thấp.
- Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội còn nhiều yếu kém, hoặc chưa
được đầu tư đồng bộ
- Tỷ lệ đói nghèo còn cao, khoảng cách giàu nghèo gia tăng.
- An ninh, xã hội còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ bất ổn.
* Những cơ hội phát triển
- Sự tăng cường hỗ trợ của Chính phủ, của các địa phương, doanh nghiệp
trong nước, các nguồn tài trợ của quốc tế giúp Bắc Kạn phát triển thu hẹp
khoảng cách với các tỉnh khác trong giai đoạn tới.
- Hội nhập kinh tế tạo ra cơ hội tiếp cận về thị trường cho các sản phẩm
đặc trưng của tỉnh như rau quả sạch, sản phẩm nông nghiệp sạch, lâm sản,
- Các nguồn tài chính đầu tư cho phát triển đồng bộ và có hiệu quả hệ
thống kết cấu hạ tầng của tỉnh đã được ghi vào kế hoạch.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
70
- Các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội đều hướng vào mục
tiêu giảm nghèo một cách bền vững.
- Cơ hội tiếp cận việc làm cho mọi người dân và các hoạt động phát triển
bền vững khác sẽ giảm thiểu các nguy cơ bất ổn về xã hội.
* Những thách thức chủ yếu
- Phát triển công nghiệp thành ngành mũi nhọn trong điều kiện hạn chế.
- Xây dựng nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá có tính cạnh tranh cao, có
hiệu quả và bền vững.
- Xã hội hoá đầu tư, phân cấp quản lý khai thác, duy tu sửa chữa phát
huy hiệu quả của hệ thống kết cấu hạ tầng hiện có.
- Tư tưởng kinh tế bao cấp, trông chờ ỷ lại còn nặng trong lĩnh vực quản
lý nhà nước và đại bộ phận dân cư.
- Phát huy vai trò dân chủ thực sự trong mọi hoạt động kinh tế và xã hội.
Tóm lại: Như vậy một trong những vấn đề cơ bản nhất của Bắc Kạn để
phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn tới là phải xây dựng một nền nông
nghiệp sản xuất hàng hoá có tính cạnh tranh cao, có hiệu quả và bền vững
trong điều kiện kinh tế hộ hiện nay giữ vai trò độc tôn. Để giải bài toán này,
có một con đường là phát triển kinh tế trang trại từ kinh tế hộ để vừa phát huy
được tiềm năng về đất đai đồi rừng vừa hạn chế được mặt trái của kinh tế hộ
là sự phân tán, manh mún.
2.2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI BẮC KẠN THỜI
GIAN QUA
2.2.1. Tình hình phát triển kinh tế trang trại thời gian qua
Do là tỉnh mới được tái lập từ năm 1997, vì vậy số liệu thống kê về kinh tế
trang trại ở Bắc Kạn những năm trước đây không có đầy đủ và thống nhất.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
71
Biểu 2.12: Số lƣợng các trang trại của Bắc Kạn, vùng Đông Bắc và cả
nƣớc 2000 - 2006
Đơn vị tính: Trang trại
Danh mục
Cả nƣớc
Vùng Đông Bắc
Hà Giang
Cao Bằng
Bắc Kạn
Tuyên Quang
Lào Cai
Yên Bái
Thái Nguyên
Lạng Sơn
Quảng Ninh
Bắc Giang
Phú Thọ
2000
57.069
2.793
172
18
1
77
6
695
320
5
568
752
179
2001
61.017
3.201
181
12
12
68
201
839
379
77
863
377
192
2002
61.787
3.210
181
13
12
68
188
857
379
77
857
386
192
2003
2004
2005
2006
86.141 110.832 114.362 113.730
4.859
4.984
5.473
4.704
223
162
173
154
14
58
54
55
14
21
24
21
84
83
99
77
193
122
129
213
877
928
1030
319
429
661
662
588
158
127
126
27
1277
1219
1323
1379
1140
1146
1364
1401
450
457
489
470
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Là một tỉnh có tiềm năng về đất đai đồi rừng, một hộ lâm nghiệp có bình
quân 4 ha đất rừng và hộ nông nghiệp có gần 0,6 ha đất nông nghiệp. Tuy
nhiên số lượng trang trại của tỉnh rất ít. Năm 2001 tỉnh có 12 trang trại và đến
năm 2006 mới có 21 trang trại đạt tiêu chí. Như vậy Bắc Kạn là tỉnh có số
lượng trang trại ít nhất trong vùng Đông Bắc Bắc bộ.
Số lượng trang trại tăng không đều: Năm 2005 đã tăng lên đến 24 trang
trại, tuy nhiên đến 2006 lại giảm xuống 21 trang trại, điều này có thể rút ra
nhận xét là kết quả sản xuất kinh doanh của các trang trại chưa ổn định.
Danh sách các trang trại thường xuyên có sự biến động về chủ thể trong
khi số lượng trang trại là không đổi. Phân tích sau đây giúp chúng ta thấy
được điều này:
(Do điều tra thống kê về trang trại chỉ 2 năm mới tiến hành 1 lần, bởi
vậy chúng tôi chỉ có điều kiện phân tích số liệu giữa 2 kỳ gần đây nhất).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
72
Biểu 2.13: Tình hình biến động trong các trang trại giữa 2 kỳ điều tra
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm
Năm
tính
2004
2006
I. Số lƣợng trang trại
Tăng/
giảm
(+/-)
Cái
21
21
0
II. Lao động của trang trại
Ngƣời
157
79
-78
- Lao động của chủ hộ trang trại
Người
51
60
+9
- Lao động thuê ngoài thường xuyên
Người
11
19
+8
- Lao động thuê ngoài thời vụ
Người
95
36
-59
Ha
200,06
196,622
-3,438
1. Tổng số đất nông nghiệp
Ha
63,93
57,009
-6,921
Chia ra: - Đất trồng cây hàng năm
Ha
19,43
17,61
-1,82
- Đất trồng cây lâu năm
Ha
34,5
39,399
+4,899
- Đất trồng cỏ
Ha
10
Ha
114,15
136,832
+22,682
Ha
2,25
2,781
+0,531
Ha
19,73
III. Đất đang sử dụng của trang trại
(1+2+3+4)
2. Đất lâm nghiệp
3. Diện tích mặt nước nuôi trồng
thuỷ sản
4. Đất khác
-10
-19,73
IV. Số lƣợng gia súc, gia cầm và chăn
nuôi khác
1. Trâu
Con
42
87
+45
2. Bò
Con
227
259
+32
3. Lợn (không kể lợn sữa)
Con
129
328
+199
4. Gia cầm
Con
2.917
2.783
-134
5. Dê
Con
116
147
+31
Tổ
35
96
+61
6. Ong
V. Tổng số vốn sản xuất của trang trại
1.000đ
1.598.000 2.726.500
+1.128.500
VI. Thu nhập của trang trại
1.000đ
702.000 1.156.624
+454.624
1.000đ
1.036.000 1.736.763
+700.763
VII. Giá trị sản lƣợng hàng hoá và
dịch vụ
Nguồn: Cục Thống kê Bắc Kạn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
73
Số liệu ở biểu trên có thể cho ta rút ra một số nhận xét sau:
- Số lượng lao động trong các trang trại giảm, tuy nhiên lại tăng lao động
của chủ hộ trang trại;
- Đất lâm nghiệp và cây ăn quả tăng cho thấy xu thế phát triển trang trại
theo hướng lâm nghiệp và cây ăn quả;
- Quy mô sản xuất của các trang trại có xu hướng tăng qua số liệu về
tổng vốn sản xuất, thu nhập và giá trị sản lượng hàng hoá.
2.3. PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ
2.3.1. Phân tích đặc điểm và phƣơng hƣớng sản xuất của các trang trại
* Đặc trưng chủ yếu của trang trại Bắc Kạn là trang trại kinh doanh
tổng hợp gắn với kinh tế đồi rừng: Cây công nghiệp dài ngày (chè Shan, quế,
hồi), cây ăn quả (quýt, cam, mơ, hồng không hạt), cây lâm nghiệp (trúc, mỡ).
Chăn nuôi chủ yếu là chăn nuôi đại gia súc (trâu, bò).
Số liệu điều tra năm 2006. Tổng số có 21 trang trại thuộc địa bàn 6
huyện, thị trong tỉnh (trừ huyện Pác Nặm và thị xã Bắc Kạn). Với 6 loại hình
kinh doanh chính:
Biểu 2.14: Số lƣợng các trang trại phân theo loại hình sản xuất 2006
Đơn vị tính: Trang trại
Số
T
T
Số
lƣợng Tỷ lệ
(T.Tr) (%)
Loại hình
trang trại
Tổng số
1
2
3
4
5
6
Trang trại tổng hợp
Trang trại cây ăn quả
Trang trại chăn nuôi
Trang trại lâm nghiệp
Trang trại cây hàng năm
Trang trại cây lâu năm
< 2 ha
2 ha ≤
< 4 ha
SL
%
SL
4 ha ≤
< 10 ha
%
SL
%
≥ 10 ha
SL
%
21
100
3
14,29
4
19,05 9 42,86 5
23,81
10
3
3
2
2
1
47,62
14,29
14,29
9,52
9,52
4,76
1
4,76
14,29
9,52
9,52
4,76
4,76
4 19,05 3
2 9,52
2
2
1
1
1
2
1
4,76
1
4,76
4,76
9,52
Nguồn: Số liệu điều tra trực tiếp chủ trang trại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
74
- Trang trại kinh doanh tổng hợp chiếm đa số với 10 trang trại, chiếm tỷ
lệ 47,62%;
- Trang trại cây ăn quả 3 trang trại, chiếm tỷ lệ 14,29%;
- Trang trại chăn nuôi 3 trang trại, chiếm tỷ lệ 14,29%;
- Trang trại lâm nghiệp 2 trang trại, chiếm tỷ lệ 9,52%;
- Trang trại cây hàng năm 2 trang trại, chiếm tỷ lệ 9,52%;
- Trang trại cây lâu năm 1 trang trại, chiếm tỷ lệ 4,76%.
* Diện tích đất sản xuất của các trang trại không lớn và toàn bộ là trang
trại gia đình:
- Dưới 2 ha có 3 trang trại, chủ yếu là trang trại chăn nuôi, chiếm tỷ lệ
14,29%;
- Đa số là trang trại có diện tích từ 4 ha đến 10 ha, chiếm tỷ lệ 42,86%;
- Trang trại có diện tích trên 10 ha có 5 trang trại, chiếm tỷ lệ 23,81%.
Trang trại lớn nhất có diện tích 31 ha, tập trung chủ yếu ở trang trại lâm
nghiệp, cây ăn quả và tổng hợp.
2.3.2. Phân tích, đánh giá tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh trong các
trang trại tỉnh Bắc Kạn
2.3.2.1. Tình hình quản lý và sử dụng đất trong các trang trại
Tổng diện tích của các trang trại năm 2006 là 196,6 ha: đất nông nghiệp
56,9 ha chiếm 29%; đất lâm nghiệp là 136,8 ha chiếm 69,61%; đất nuôi trồng
thủy sản có diện tích không đáng kể 2,78 ha chiếm 1,41% tổng diện tích các
trang trại. Diện tích bình quân một trang trại là 9,36 ha; đất nông nghiệp là
2,71 ha/ trang trại; đất lâm nghiệp là 6,52 ha/ trang trại.
Phần đất tạm giao đấu thầu, thuê chỉ có 1 hộ với diện tích 1.400m2 trong
loại hình trang trại cây lâu năm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
75
Biểu 2.15: Tình hình sử dụng đất theo các loại hình trang trại năm 2006
Đơn vị tính: ha
Diện tích
B Q chu ng
Chỉ t iêu
(ha /1
B Q p hân th eo lo ại hình tran g t rại
Tổ ng
Câ y ă n
Chă n
Lâ m
Câ y h àng
Câ y lâu
h ợp
quả
nuô i
ngh iệp
nă m
nă m
T.T r)
SL
%
SL
9.3 6
10 0 9,6 7
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
DT đấ t t rang t rạ i sử
dụng
10 0 7,0 4 10 0 2,5 6 10 0 20,08
10 0 7,7 8
10 0 15,4 10 0
1. Đ ất n ô ng ng hiệ p
2,7 1
1.1 . Đ ất c ây h àn g nă m
0,8 4
8,9 6 0,8 3
8,6 0,3 2
Tr .đ ó: Đ ất lú a n ư ớ c
0,4 5
4,7 9 0,4 4
4,5 0,2 3
1.2 . Đ ất c ây l âu n ă m
1,8 8 20, 04 1,8 4 19, 1 4,6 7 66, 3 0,2 1
- Đ ất C C N lâ u nă m
0,3 1
- Đ ất câ y ăn q u ả
1,5 7 16, 77 1,5 6 16, 2 4,6 7 66, 3 0,2 1
2. Đ ất lâ m n ghi ệp
6,5 2 69, 61 6,8 7 71, 1 2,0 0 28, 4 1,9 0 74, 2 18, 50 92, 1 4,7 0 60, 4 10, 0 64, 9
- Tr. đ ó: Đ ất r ừ ng tr ồn g
2,3 7 25, 27 3,3 0 34, 1 0,5 0
7,1 0,1 9
7,4
5,4 0 26, 9 0,4 0
5,1
3,0 19, 5
3. Đ ất n u ôi thu ỷ s ản
0,1 3
0,8 0,0 3
1,0
0,1 2
5,1
0,3
29 2,6 8 27, 7 4,9 8 70, 8 0,6 4 24, 9
3,2 7 0,2 8
1,4 1 0,1 2
1,4 7
7,3 2,6 8 34, 4
5,1 33, 1
4,5 0,4 2 16, 5
0,8 5
4,2 2,1 3 27, 4
1,1
7,1
3,3 0,3 0 11, 8
0,4 0
2,0 0,8 3 10, 7 0,9 6
6,2
0,6 2
3,1 0,5 5
0,3 2
1,6
0,3 0
1,5 0,5 5
8,3
2,9
1,2 0,0 6
8,3
0,6 0,4 0
7,1
4,0 26, 0
3,0 19, 5
7,1
1,0
6,5
1,9
Nguồn: Số liệu điều tra trực tiếp chủ trang trại
Diện tích đất của trang trại lâm nghiệp là lớn nhất với 20,08 ha/ 1 trang
trại. Diện tích trang trại chăn nuôi là nhỏ nhất với 2,56 ha/ trang trại. Trang
trại cây hàng năm thường nằm ở ven đô cho nên không có lợi thế về đất đai,
thường kết hợp với chăn thả cá nên có diện tích đất thuỷ sản lớn: bình quân
0,4 ha/ trang trại.
2.3.2.2. Nguồn nhân lực trong các trang trại
Lao động của trang trại: Các trang trại năm 2006 đã sử dụng 79 lao động.
Gồm 60 lao động của chủ hộ trang trại; 19 lao động thuê mướn thường xuyên
và 36 lao động mướn thời vụ quy đổi là 45,48%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
76
Biểu 2.16: Tình hình sử dụng lao động theo các loại hình trang trại
năm 2006
Đơn vị tính: ha
BQ phân theo loại hình trang trại
Bình
quân
Chỉ tiêu
chung
SL
1. Lao động BQ 1 trang
trại
1.1. Lao động của hộ
chủ BQ 1 trang trại
1.2. Lao động thuê
mướn BQ 1 trang trại
Tổng hợp
Cây ăn
Chăn
Lâm
quả
nuôi
nghiệp
% SL
% SL
Cây HN
%
Cây lâu
năm
%
SL
%
SL
3,8 100
3,0
100
2,0 100 6,3 100 5,0 100 3,5 100 7,0 100
2,9 76,06 2,4 80,0
3,0 47,4 5,0 100 3,5 100 4,0 57,1
0,9 23,94 0,6 20,0 1,0 50,0 3,3 52,6
SL % SL
%
3,0 42,9
2. Trình độ chuyên môn
kỹ thuật của LĐ trong
T.T
2.1. Chưa qua đào tạo
3,4 89,89 2,7 90,0 1,0 50,0 6,3 100 4,5 90,0 3,5 100 6,0 85,7
2.2. Sơ cấp, CNKT
0,1 1,33
2.3. Trung cấp
0,2 6,38 0,3 10,0 0,3 16,5
1,0 14,3
0,5 10,0
2.4. Cao đẳng
2.5. Đại học
0,1 1,33
3. Lao động thuê mướn
lúc thời vụ cao nhất
0,3 16,5
1,7 45,48 3,1 103,3
1,0 15,8 1,0 20,0
Nguồn: Số liệu điều tra trực tiếp chủ trang trại
Các trang trại đã thu hút một lực lượng lao động ở nông thôn, góp phần
giải quyết được công ăn việc làm mang lại thu nhập cho hộ. Trang trại chăn
nuôi là trang trại thuê mướn nhiều lao động nhất (3,3 lao động/ TT) và sau đó
là trang trại cây lâu năm (khoảng 3 lao động/ TT).
Bình quân một trang trại có gần 4 lao động, trong đó lao động thuê mướn
ngoài không cao vì phụ thuộc vào tính chất thời vụ nông - lâm nghiệp. Trình
độ lao động của trang trại chủ yếu là lao động phổ thông chưa qua đào tạo
chiếm tới 89,89% và thực hiện các công việc thuần tuý giản đơn do chủ trang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
77
trại điều khiển. Lao động có trình độ đại học quá thấp, chiếm tỷ lệ khiêm tốn
với 1,33%.
2.3.2.3. Trình độ trang bị cơ sở vật chất, kỹ thuật trong các trang trại Bắc Kạn
Các trang trại thường trang bị phổ biến ở một vài loại máy chủ yếu là máy
kéo đa năng công suất nhỏ (loại cầm tay dưới 15 mã lực); máy vận tải nông
dụng, máy bơm nuớc, máy xay xát, máy tuốt, đập có động cơ công suất nhỏ.
Biểu 2.17: Tình hình trang bị cơ sở vật chất, kỹ thuật theo các loại hình
trang trại năm 2006
Đơn vị tính: cái
Tổng số
Chia theo loại hình trang trại
Cây
Cây Cây
Danh mục máy móc, thiết bị
Số Tỷ lệ Tổng
Chăn Lâm
ăn
hàng lâu
lƣợng (%) hợp
nuôi nghiệp
quả
năm năm
1. Máy kéo trung (trên 12CV
1
4,8
1
đến dưới 35CV)
2. Máy kéo nhỏ (từ 12CV trở
5
23,8
1
1
1
1
1
xuống)
3. Ô tô (tổng số)
1
4,8
1
Trong đó: Ô tô vận tải hành
khách và hàng hoá
4. Máy phát điện
1
4,8
1
5. Máy tuốt có động cơ
5
23,8
3
1
1
6. Lò, máy sấy sản phẩm nông,
1
4,8
1
lâm, thuỷ sản
7. Máy chế biến lương thực
(xay xát, đánh bóng, phân loại
7
33,3
2
1
2
1
1
…)
8. Máy chế biến gỗ (cưa, xẻ,
4
19,0
3
1
phay, bào…) có động cơ
9. Bình phun thuốc trừ sâu có
4
19,0
3
1
động cơ
10. Máy bơm nước dùng cho
11
52,4
4
2
1
2
1
1
sản xuất nông, lâm thuỷ sản
11. Máy chế biến thức ăn gia
6
28,6
2
3
1
súc (nghiền, trộn, phân loại …)
12. Máy chế biến thức ăn thuỷ
3
14,3
2
1
sản (nghiền, trộn, ép đùn…)
Nguồn: Số liệu điều tra trực tiếp chủ trang trại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
78
Cơ sở vật chất nhà xưởng: Hầu như là rất đơn giản dựa trên cơ sở cơ
ngơi sinh hoạt và chuồng trại gia đình. Trang trại chăn nuôi gia súc lớn vẫn
còn tồn tại hình thức chăn nuôi bán nhốt, chăn nuôi gia cầm chủ yếu theo hình
thức thả vườn.
Mức độ cơ giới hoá: 1 phần khâu làm đất với 6 trang trại chiếm tỷ lệ
28,6% trang trại có máy cày kéo (cày trụ, bánh lồng); gieo cấy hoàn toàn thủ
công; khâu chăm sóc mới giải quyết được nước tưới (11 trang trại có máy
bơm chiếm tỷ lệ 52,4%); phun thuốc trừ sâu có động cơ có ở 4 trang trại; hỗ
trợ một phần thu hoạch lúa; chế biến mới có máy xay xát lương thực (7 trang
trại) và cưa, xẻ gỗ (4 trang trại). Trong tổng số 21 trang trại mới chỉ có 1 trang
trại có 1 xe ô-tô tải nhẹ.
Nhìn qua biểu trên đây, chúng ta có thể thấy bức tranh tổng thể của các
trang trại đang trong thời kỳ ban đầu của sản xuất hàng hoá: Đó là máy kéo
nhỏ làm đất - giải quyết nước tưới lúc thiếu mưa - đỡ gánh nặng khâu thu
hoạch - chế biến lương thực để bán và làm dịch vụ.
2.3.2.4. Yếu tố vốn sản xuất của trang trại
Tổng vốn đầu tư của các chủ trang trại năm 2006 là 2,73 tỷ đồng đồng,
chủ yếu là vốn đầu tư của chủ trang trại với 2,3 tỷ đồng chiếm 84%, trong khi
đó vốn vay ngân hàng chỉ có 290 triệu đồng chiếm 18,8%. Bình quân vốn đầu
tư sản xuất của một trang trại là 129,8 triệu đồng.
Vốn lưu động của các trang trại tập trung vào các lĩnh vực kinh tế như sau:
Nông nghiệp 55,6%; Công nghiệp - xây dựng 21,8%; còn lại là các ngành lâm
nghiệp, thuỷ sản và dịch vụ khác là 21,6%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
79
Biểu 2.18: Tình hình vốn sản xuất theo các loại hình trang trại năm 2006
Đơn vị tính: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Bình quân
chung
Tổng hợp
SL
%
SL
I. TỔNG VỐN
141,
129,8 100
SXKD
1
115,
1. Vốn chủ trang trại 109,3 84
3
2. Vốn vay
13,9 11 18,8
Tr. đó: Vay NH, tổ
10,1
8 13,2
chức TD
3. Vốn khác
6,7
5
7
II. VỐN LƢU
66,7 100 74,7
ĐỘNG)
A. Phân theo
nguồn vốn
1. Vốn chủ trang trại 54,9 82,3 58,1
2. Vốn vay
8,5 12,7 16,6
Tr. đó: Vay NH, tổ
5,2 7,8 11
chức TD
3. Vốn khác
3,3 5,0
B. Phân theo ngành
kinh tế
1. Nông nghiệp
37,1 39,7 47,5
2. Lâm nghiệp
4,5 4,8 8,9
3. Thuỷ sản
6,1 6,5 9,4
4. Công nghiệp - xây
14,5 15,5 2,0
dựng
5. Thương nghiệp
6. Dịch vụ khác
3,8 4,1 7,0
%
Chia theo loại hình trang trại
Cây ăn
Lâm Cây hàng Cây lâu
Chăn nuôi
quả
nghiệp
năm
năm
SL % SL % SL % SL % SL %
100
91 100 170,3 100 44,8 100
21 100 400 100
81,7
81 89,0 153,7 90,2 38,3 85,5
16 76,2 330 82,5
13,3
10 11,0 16,7 9,8 6,5 14,5
9,4
5 23,8
10 11,0 16,7 9,8
5,0
70 17,5
100 45,9 100 38,4 100 31,5 100 19,3 100 300 100
77,8 45,9 100 37,7 98,3 31,5 100 14,3 74,0 230 76,7
22,2
0,7 1,7
5 26,0
14,7
70 23,3
63,5 45,9 100 33,5 87,2 19,5 61,9 13,8 71,4 15,0
11,9
1,4 3,7 0,5 1,6
12,6
0,2 0,4 11,5 36,5 5,5 28,6
2,7
9,4
5,0
285, 95,0
3,3 8,7
Nguồn: Số liệu điều tra trực tiếp chủ trang trại
2.3.2.5. Quy mô sản xuất của các trang trại
Quy mô sản xuất các trang trại còn nhỏ, sản lượng hàng hoá thấp và chủ
yếu là tiêu thụ tại thị trường địa phương. Trồng trọt: Năm 2006 diện tích gieo
trồng lúa 15,5 ha; ngô 6,4 ha, chè hái búp 5,4 ha, cam quýt 10,3 ha, nhãn 1,9,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
80
vải 2,3 ha. Chăn nuôi: trâu 87 con, bò 258 con, lợn 328 con, gà 2.380 con...
Diện tích chăn thả cá 5,4 ha.
Biểu 2.19: Quy mô sản xuất theo các loại hình trang trại năm 2006
Chia theo loại hình trang trại
BQ
Chỉ tiêu
Đơn vị
chung/
tính
1trang
Tổng
trại
hợp
Cây
ăn
quả
Chăn
Lâm
nuôi
nghiệp
Cây
Cây
hàng
lâu
năm
năm
1. Cây hàng năm
- Cây lúa
ha g.tr
0,74
0,83
0,2
0,5
0,8
0,8
1,92
- Cây ngô
ha g.tr
0,30
0,23
0,05
0,44
0,53
0,75
0,1
- Cây chè
ha
0,26
0,29
0,23
0,03
2,0
- Cam, quýt
ha
0,49
0,01
3,4
- Nhãn
ha
0,09
0,13
0,17
- Vải
ha
0,11
0,11
0,17
- Đàn bò
con
12,33
8,1
- Đàn trâu
con
4,14
4,6
- Đàn lợn
con
15,62
Tr. đó: Lợn nái SS
con
- Đàn Gà
Tr. đó: Đẻ trứng
2. Cây lâu năm
0,04
0,05
0,03
0,11
0,05
0,15
0,03
36,67
7,5
1,5
50
0,33
6,67
3,5
6,5
0
13,9
2,67
43,33
18
7
1
1,76
1,4
1
4
3
0,5
1
con
113,33
162
83,33
33,33
90
65
100
con
7,62
2,9
13,67
6,67
15
- Diện tích chăn thả cá
ha
0,26
0,31
0,06
0,03
0,12
Tr. đó: Thâm canh
ha
0,03
0,07
- Gỗ
m3
2,8
2,8
- Củi
tấn
1,1
1,4
tr.đồng
9,43
14,16
3. Chăn nuôi
40
4. Thuỷ sản
0,45
0,9
0,03
5. Lâm nghiệp
6. Dịch vụ phi nông,
lâm, thuỷ sản
1
1
11,5
5
2
7,23
2,35
30
Nguồn: Số liệu điều tra trực tiếp chủ trang trại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
81
- Cam, quýt bình quân 3,4 ha/ trang trại cây ăn quả. Cây ăn quả khác
diện tích không đáng kể.
- Đàn trâu, bò của trang trại chăn nuôi bình quân vào khoảng 40 - 45 con/
trang trại. Lợn nái sinh sản chưa đáp ứng được nhu cầu về con giống của
chính các trang trại.
- Chăn nuôi gia cầm chủ yếu là thả vườn, chưa chăn nuôi công nghiệp,
tập trung ở loại hình trang trại kinh doanh tổng hợp.
- Thuỷ sản còn quá nhỏ bé: 0,9 ha chăn thả/ trang trại trong loại hình
trang trại cây lâu năm.
- Lâm nghiệp cho sản phẩm còn quá khiêm tốn.
- Ngành nghề, dịch vụ trong các trang trại chưa phát triển. Thu nhập đều
nhất là trang trại tổng hợp với bình quân 14,16 triệu đồng/ trang trại.
2.3.2.6. Kết quả sản xuất kinh doanh trong các trang trại
Giá trị sản phẩm sản xuất của 21 trang trại đã tạo ra được một số lượng
sản phẩm đáng kể. Năm 2006, tổng thu của các trang trại là 2.155 triệu đồng,
bình quân một trang trại 102,6 triệu đồng. Tổng giá trị hàng hoá và dịch vụ
bán ra của các trang trại đạt 1.737 triệu đồng.
GO bình quân của trang trại cây ăn quả và trang trại lâm nghiệp đạt cao
hơn so với các loại hình trang trại khác. Thu từ hoạt động phi nông, lâm, thuỷ
chiếm tỷ trọng không đáng kể, bình quân 9,4 triệu đồng/ trang trại (chiếm
9,19%) tập trung chủ yếu ở loại hình kinh doanh tổng hợp.
Thu nhập trước thuế bình quân 1 trang trại mới đạt có 55,1 triệu đồng.
Giá trị sản phẩm và dịch vụ bình quân bán ra của 1 trang trại là 82,2 triệu
đồng. Nhìn chung thu nhập bình quân của các trang trại chưa cao vì một số
trang trại chưa đến điểm hoàn vốn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
82
Biểu 2.20: Giá trị sản xuất theo các loại hình trang trại năm 2006
Đơn vị tính: Triệu đồng
Chia theo loại hình trang trại
Tổng
Chỉ tiêu
số
SL
%
Tổng hợp
Cây ăn quả
Chăn nuôi Lâm nghiệp
SL
SL
SL
%
%
%
SL
%
Cây hàng
Cây lâu
năm
năm
SL
%
SL
%
A. Giá trị tổng
sản phẩm
I. Thu từ nông,
102,6
100 106,9
100 124,4
100 97,3
100 123,6
93,2 90,81
92,7 86,75 124,4
100 44,4
95,0 50,2
62,6
1. Nông nghiệp
81,7 79,65
77,3 72,30 121,5 97,71 84,8 87,15 109,0 88,20 33,2
70,9 40,2
50,1
1.1. Trồng trọt
33,6 32,78
24,0 22,45
41,7 39,8
49,6
lâm, thuỷ sản
100 90,1 92,57 123,6
100 46,8 100,0 80,2 100,0
99,3 79,83
9,7
9,97
30,3 24,50 19,5
- Cây lúa
8,8
8,59
9,4
8,81
2,8
2,23
4,8
4,97
9,6
7,73
11
23,5
27
33,7
- Cây ngô
2,8
2,71
3,0
2,78
0,24
0,19
2,2
2,22
3,2
2,63
6,8
14,6
1,2
1,5
- Cây chè
0,8
0,74
0,4
0,33
2,3
1,82
0,2
0,3
7,5
9,4
- Cam, quýt
8,7
8,50
2
2,5
- Nhãn
0,7
0,68
0,6
0,54
2
1,61
0,5
0,6
- Vải
0,8
0,78
0,5
0,46
2,3
1,88
60,4 48,56
1.2. Chăn nuôi
48,1 46,87
53,3 49,85
- Trâu
10,3 10,09
18,4 17,17
- Bò
- Lợn
7,3
7,08
22,5 21,97
8,1
0,19
22,2 17,88 75,1 77,19
2,6
7,59
21,6 20,17
0,2
2,67
1,2
0,97
0,4
0,32
1,5
3,2
0,6
0,7
78,7 63,71 13,7
29,2
0,4
0,5
10,5
8,50
13,8 14,21
15 12,14
8,1
6,52 50,6 51,95
34,2 27,67
2,5
5,3
6,8
14,4
1,9
4,0
- Gà
3,0
2,91
2,9
2,75
3,8
3,08
1,2
1,28
7,2
5,85
2. Lâm nghiệp
3,7
3,60
4,4
4,11
0,1
0,08
4,4
4,55
8,0
6,49
4
5,0
2.1. Gỗ
2,1
2,05
3,1
2,87
0,5
0,51
4,0
3,26
4
5,0
2.2. Củi
0,8
0,80
1,3
1,23
0,1
0,08
1,3
1,30
3. Thuỷ sản
7,8
7,56
11,1 10,35
2,8
2,21
0,8
0,86
6,6
5,30 11,3
24,1
6
7,5
3.1. Cá
4,2
4,13
2,8
2,21
0,5
0,51
6,6
5,30 11,3
24,1
6
7,5
9,4
9,19
7,2
7,43
2,4
5,0
30
37,4
1. Công nghiệp
2,3
2,26
3,5
3,60
2,4
5,0
2. Thương nghiệp
1,4
1,39
30
37,4
3. Vận tải
5,1
5,01
4. Dịch vụ khác
0,5
0,52
3,8
3,51
II. Hoạt động phi
nông, lâm, thuỷ
14,2 13,25
3,4
3,14
10,8 10,11
3,7
3,83
Nguồn: Số liệu điều tra trực tiếp chủ trang trại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
83
2.3.2.7. Hiệu quả sản xuất kinh doanh trong các trang trại
Biểu 2.21: Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh theo các loại hình
trang trại năm 2006
Chỉ tiêu
Giá trị gia tăng (VA)
VA/lao động
VA/vốn
VA/ diện tích
Tỷ suất hàng hoá
Loại hình trang trại
TT cây
TT
TT
TT cây
hàng
chăn
Lâm
lâu năm
năm
nuôi
nghiệp
(n=1)
(n=2)
(n=3)
(n=2)
27.300
48.510
47.875
68.779
1000đ
TT
Cây
ăn quả
(n=3)
81.007
1000đ/lđ
40.503
8.400
6.930
13.096
15.609
19.157
Lần
0,88
1,60
0,12
0,49
1,791
0,44
1000đ/ha
12.115
3.466
3.122
24.466
4.774
9.300
%
93,94
68,62
46,13
78,94
88,32
76,28
ĐVT
TT
Tổng
hợp
(n=10)
52.931
Nguồn: Số liệu điều tra trực tiếp chủ trang trại
Căn cứ vào số liệu phân tích ở bảng trên, chúng tôi dùng phương pháp
kiểm định thống kê so sánh cặp đôi bằng phần mềm xử lý số liệu thống kê
SPSS (Statiscal Package for Social Sciences) để kiểm định độ tin cậy, lý do là
kích thước các nhóm có độ lệch lớn, nhất là đối với nhóm trang trại cây lâu
năm chỉ có 1 trang trại (cụ thể xin xem phụ lục12 - 16 luận văn).
Kết quả qua phân tích, đánh giá rút ra như sau:
* Giá trị gia tăng của trang trại:
Giá trị gia tăng của trang trại cây ăn quả là 81 triệu đồng/ trang trại, VA
của nó cao hơn trang trại chăn nuôi (gấp 1,69 lần) và trang trại tổng hợp (1,53
lần). Như vậy, loại hình cây ăn quả đã phát huy tiềm năng của địa phương và
đem lại hiệu quả kinh tế cao.
* Hiệu quả sử dụng lao động (VA/ lao động)
Trang trại cây ăn quả có giá trị gia tăng/ 1 lao động cao hơn 2 lần so với
trang trại kinh doanh tổng hợp. Đây thể hiện một đặc điểm của là các ngành
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
84
nghề phi nông, lâm, thủy sản ở vùng nông thôn giá trị dịch vụ thường không
cao. Đồng thời cũng khẳng định thêm rằng cây ăn quả là thế mạnh và góp
phần giải quyết việc làm cho nhân dân địa phương.
* Hiệu quả sử dụng vốn của trang trại (VA/ vốn)
Trang trại lâm nghiệp có VA thu được là 1,791 đồng/ 1đồng vốn bỏ ra
cao nhất so với các loại hình trang trại khác: Tổng hợp (gấp khoảng 4 lần);
chăn nuôi (gấp gần 4 lần); cây ăn quả (gấp khoảng 2 lần) và cây hàng năm
(gấp khoảng 1,1 lần).
Sở dĩ trang trại lâm nghiệp có VA/ vốn cao là vì suất đầu tư trên một
đơn vị diện tích trong các trang trại trồng rừng thường không lớn. Bên cạnh
đó đất đai lâm nghiệp ở Bắc Kạn cơ bản là tốt cho nên góp phần giảm chi phí
cho nhà đầu tư.
* Hiệu quả sử dụng đất (VA/ diện tích)
Trang trại chăn nuôi có VA thu được là 24,446 triệu đồng/ 1 ha đất trang
trại, gấp 2 lần so với VA thu được từ 1 ha đất ở trang trại cây ăn quả. Tuy
nhiên số liệu này cũng cho thấy các trang trại chăn nuôi ở tỉnh thường không
có đồng cỏ chăn thả khép kín và chi phí chuồng trại là không lớn (hình thức
chăn nuôi quảng canh).
* Tỷ suất hàng hoá
Trang trại cây ăn quả có tỷ suất hàng hoá lớn nhất so với các trang trại
cây hàng năm, chăn nuôi, lâm nghiệp và tổng hợp. Các trang trại trồng cam,
quýt hiện nay có tới 70% diện tích cho thu hoạch và sản phẩm này có giá trị
hàng hoá hiện tại cao.
Tỷ suất hàng hoá thấp nhất là trang trại cây hàng năm với 68,62%, cho
thấy là với các loại cây lương thực ngắn ngày như lúa, ngô có giá trị hàng hoá
không cao và sản phẩm chủ yếu là tiêu dùng nội bộ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
85
2.3.3. Phân tích SWOT tìm vấn đề cơ bản phát triển kinh tế trang trại
Qua các ý kiến các nhà chuyên môn, nhà quản lý các cấp tỉnh, huyện và
xã; thông tin điều tra trực tiếp từ các chủ trang trại, chúng tôi xây dựng bảng
phân tích SWOT để tìm ra vấn đề cơ bản để phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh
Bắc Kạn như sau:
Bảng 2.22: Ma trận SWOT về kinh tế trang trại tỉnh Bắc Kạn năm 2007
Điểm mạnh (Strength):
- Vốn tự có là chủ yếu;
- Dịch bệnh ít xảy ra và không gây
hậu quả lớn;
- Chưa gây hậu quả vê môi trường;
- Sản phẩm đặc thù, đảm bảo an toàn
thực phẩm;
- Không có khó khăn trong tiêu thụ
sản phẩm;
- Thu nhập không cao nhưng ổn định.
Điểm yếu (Weakness):
- Số lượng trang trại phát triển chậm;
- Quy mô nhỏ, cơ sở vật chất kỹ
thuật, công nghệ ở mức độ thấp;
- Lao động chưa qua đào tạo là chủ
yếu;
- Năng suất cây trồng, vật nuôi thấp;
- Sản phẩm hầu như tiêu thụ sản
phẩm tại địa phương;
- Thu nhập bình quân/ trang trại thấp.
Cơ hội (Opportunity):
- Được ưu tiên thuê đất ở những vùng
quy hoạch tập trung làm KTTT;
- Sự hỗ trợ về kỹ thuật của địa
phương thông qua thực hiện các
chương trình, dự án;
- Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội được
đầu tư tập trung và đồng bộ ở các
vùng quy hoạch;
- Tham gia các khoá đào tạo nâng cao
kiến thức quản lý, kỹ thuật, tay nghề;
- Có điều kiện tiếp cận với các nhiều
nguồn tín dụng với lãi suất ưu đãi;
- Hội nhập sâu tạo điểu kiên tiếp cận
thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Thách thức (Threat):
- Tích tụ đất đai khó khăn;
- Địa vị pháp lý và đăng ký kinh
doanh của chủ trang trại;
- Khả năng tiếp nhận, ứng dụng khoa
học công nghệ hiện đại trong sản
xuất kinh doanh;
- Chất lượng nông sản phẩm hàng
hoá và vệ sinh an toàn thực phẩm.
- Hệ thống phân phối, liên kết tiêu
thụ sản phẩm;
- Phòng trừ dịch bệnh nguy hiểm gắn
với bảo vệ môi trường sống.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
86
Tóm lại: Các trang trại trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn tại thời điểm nghiên
cứu về quy mô còn nhỏ. Việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn
yếu, hiệu quả kinh tế chưa cao. Mặt khác do trình độ quản lý, trình độ lao
động hầu hết là phổ thông, sản phẩm hàng hoá các trang trại không lớn và
thiếu sức cạnh tranh. Thu nhập bình quân một lao động trong các trang trại
còn thấp.
2.3.4. Nguyên nhân kìm hãm sự phát triển kinh tế trang trại ở Bắc Kạn
* Thiếu quy hoạch định hướng phát triển: Tỉnh chưa thực hiện được việc
phân vùng kinh tế, quy hoạch đất đai để dành cho phát triển kinh tế trang trại.
Diện tích rừng và đất rừng tuy nhiều nhưng manh mún không có diện
tích tập trung nên hiện nay để có một khu đất liền khoảnh khoảng 30 - 50 ha
mà không vướng vào quy hoạch khác là rất hiếm.
* Quản lý đất đai bất cập, tích tụ tập trung đất khó khăn:
- Hiện nay ở nông thôn Bắc Kạn phổ biến có tình trạng một hộ có tới vài
chục mảnh ruộng, như vậy tương ứng là vài chục sổ đỏ. Các hộ nhận đất,
nhận rừng chủ yếu căn cứ vào đất nương rẫy cũ của gia đình từ trước, mang
tính tự phát là chính. Để đảm bảo tính công bằng khi phân chia đất ruộng cho
các hộ phải có các loại đất khác nhau, nên đến nay tình trạng manh mún, nhỏ
lẻ là khó khắc phục.
- Do đặc điểm xã hội và tâm lý của người dân miền núi đó là các vấn đề
về ruộng đất ông cha, bao chiếm đất đai do tập quán nương rẫy... trong khi
các nhà nước chưa có quy định pháp luật điều chỉnh.
* Tổ chức bên trong của các trang trại còn nhiều yếu kém: Nhiều chủ
trang trại còn thiếu kinh nghiệm và kiến thức quản lý kinh tế. Việc đào tạo bồi
dưỡng kiến thức quản lý, chuyên môn kỹ thuật chưa được quan tâm đúng mức
cả phía chủ trang trại lẫn cơ quan quản lý nhà nước.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
87
* Môi trường xã hội còn nhiều trở ngại: Đặc thù miền núi, các hộ nông
dân của tỉnh Bắc Kạn chủ yếu là dân tộc thiểu số có phong tục tập quán, lối
sống, tâm lý, văn hóa phong phú, có nhiều mặt tích cực song mặt hạn chế
cũng rất lớn. Tới nay tập quán chăn thả rông trâu, bò vẫn là một trở ngại lớn
cho sản xuất nông nghiệp.
* Môi trường đầu tư kinh doanh, tư pháp chưa thuận lợi:
- Cho đến hết năm 2006 mới chỉ có 2 trang trại thực hiện đăng ký
kinh doanh, chính vì vậy sự trợ giúp của nhà nước đối với các trang trại
rất còn hạn chế.
- Vốn đầu tư xây dựng cơ bản của tỉnh hàng năm hạn chế, nhu cầu đô thị
hoá lớn nên bố trí vốn xây dựng các công trình thuỷ lợi, giao thông, điện,
nước sinh hoạt cho nông thôn chưa được nhiều. Tốc độ đầu tư xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật cho nông thôn chậm.
- Thị trường lao động chưa hình thành cho nên việc kiếm lao động ổn
định làm tại trang trại đang là một vấn đề khó đối với các trang trại. Thị
trường tiêu thụ nông sản phẩm hàng hoá còn nhỏ hẹp.
- Công tác khuyến nông, khuyến lâm đã thực hiện được nhiều mô hình
thử nghiệm thành công, song tính hiệu quả thấp, việc nhân rộng trong sản
xuất đại trà ra các hộ nông dân không thực hiện được. Cán bộ khuyến nông khuyến lâm ở cơ sở còn quá ít, chưa sâu sát với nông dân để nắm bắt nhu cầu
và trực tiếp giúp đỡ kỹ thuật sản xuất cho các hộ gia đình nông dân.
* Quản lý nhà nước về kinh tế trang trại còn bị buông lỏng:
- Các cơ quan quản lý không nắm được chính xác số lượng trang trại
cũng như hoạt động kinh tế của các trang trại. Số liệu thống kê theo các kênh
của cơ quan quản lý nhà nước cũng không có sự thống nhất: Theo thống kê
của ngành Nông nghiệp và PTNT Bắc Kạn năm 2004 số liệu là 64 trang trại,
trong khi đó số liệu của Cục Thống kê tỉnh cùng thời điểm chỉ có 21 trang trại
đạt tiêu chí.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
88
- Quản lý về vệ sinh phòng trừ dịch bệnh, vệ sinh an toàn thực phẩm,
chất lượng nông sản hàng hoá... đang còn để ngỏ.
Tóm lại: Tuy còn gặp nhiều trở ngại, khó khăn trong quá trình phát triển,
nhưng cũng có thể khẳng định rằng: Phát triển kinh tế theo hướng trang trại
gia đình; xây dựng mô hình sản xuất nông nghiệp bền vững là xu thế tất yếu
để các hộ nông dân Bắc Kạn tiếp tục đẩy mạnh sản xuất kinh doanh theo
hướng sản xuất hàng hoá với quy mô ngày càng lớn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
89
Chƣơng 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ
TRANG TRẠI TỈNH BẮC KẠN THỜI GIAN TỚI
3.1. QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI
3.1.1. Quan điểm phát triển kinh tế trang trại trong thời kỳ công nghiệp
hóa - hiện đại hoá ở Việt nam
3.1.1.1. Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá trong
nông nghiệp, nông thôn, chủ yếu dựa vào hộ gia đình, nhằm mở rộng quy
mô và nâng cao hiệu quả sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi,
nuôi trồng thuỷ sản, trồng rừng, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ
nông, lâm, thuỷ sản
Việc phát triển kinh tế trang trại nên đi theo trình tự từ đơn giản lên hiện
đại, lấy việc phát triển kinh tế hộ làm tiền đề để hình thành kinh tế trang trại,
tránh sử dụng các công cụ kích thích kinh tế trực tiếp để tạo ra một hệ thống
các trang trại phong trào, không có tính ổn định và bền vững.
Xây dựng các hộ gia đình thành các hộ kinh tế tự chủ. Nhiều địa phương
miền núi vẫn còn tồn tại hai loại gia đình: Gia đình lớn và gia đình nhỏ. Các
gia đình lớn, do tác động của cơ chế làm ăn mới, do những khó khăn ngày
càng không thể khắc phục về lương thực, thực phẩm ngày càng phân rã nhanh
hơn (đây là khuynh hướng tích cực). Nói chung, ở các tỉnh miền núi phía Bắc,
các gia đình nhỏ (hay là tiểu gia đình) là tế bào của xã hội. Loại hình gia đình
này có khả năng thích ứng linh hoạt nhất với nền nông nghiệp tiểu nông. Việc
giao đất, giao rừng cho các hộ gia đình là rất đúng hướng và cần phải xúc tiến
nhanh hơn, mạnh hơn. Tuy nhiên, mấu chốt của vấn đề giao và nhận đất rừng
là chỗ phải xác định rõ ràng quyền sở hữu và quyền thừa kế của người nông
dân đề người nông dân thực sự yên tâm sản xuất, đầu tư lâu dài theo kiểu
canh tác trang trại trên các mảnh đất mà họ đã nhận.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
90
Kinh tế trang trại là lực lượng xung kích đi đầu trong sản xuất nông sản
hàng hóa, đồng thời cũng là lực lượng đi đầu trong ứng dụng tiến bộ KH&CN
nông nghiệp trong thời kỳ đi lên CNH. Kinh tế trang trại không đơn nhất mà
rất đa dạng về đặc điểm, tiềm năng kinh tế kỹ thuật và qui mô sản xuất. Trang
trại ở vùng đồi núi khác trang trại vùng đồng bằng, và vùng ven biển. Trang
trại sản xuất lương thực, cây công nghiệp, cây ăn trái, khác trang trại chăn
nuôi trâu bò, lợn, gà, nuôi trồng thủy sản, và khác trang trại trồng rừng, vì vậy
mỗi loại trang trại trong từng thời kỳ có những yêu cầu về KH&CN khác
nhau. Kinh tế trang trại lại có qui mô nhỏ, vừa, lớn, do đó khả năng tiếp thu
và ứng dụng tiến bộ KH&CN cũng khác nhau. KH&CN nông nghiệp chỉ đem
lại hiệu quả kinh tế khi các trang trại lựa chọn đúng được loại hình, mức độ
phù hợp với đặc điểm, yêu cầu và khả năng kinh tế kỹ thuật cụ thể của từng
trang trại.
Trang trại là nơi có thể đẩy mạnh ứng dụng khoa công nghệ làm tác nhân
quan trọng để phát triển công nghệ sau thu hoạch: Thu hoạch, sơ chế, bảo quản,
chế biến và thị trường (marketting) - nâng cao giá trị kinh tế của nông sản phẩm
hàng hoá. Khi khả năng nguồn cung trong trang trại không đủ thì nó giúp tiêu
thụ sản phẩm cho nông dân và cung cấp dịch vụ (vật tư, kỹ thuật v.v...) cho các
hộ gia đình xung quanh địa bàn. Với hiệu quả kinh tế được trực tiếp thấy và
điều kiện sản xuất trong vùng không có gì khác biệt nhiều, các hộ nông dân
trong vùng sẽ học tập làm theo mô hình làm kinh tế của các trang trại này.
3.1.1.2. Phát triển kinh tế trang trại nhằm khai thác, sử dụng có hiệu quả đất
đai, vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý góp phần phát triển nông nghiệp bền
vững; tạo việc làm, tăng thu nhập; khuyến khích làm giàu đi đôi với xoá đói
giảm nghèo; phân bổ lại lao động, dân cư, xây dựng nông thôn mới
Sản xuất nông nghiệp cần phải đáp ứng các nhu cầu ngày một tăng của
xã hội trong điều kiện nguồn lực bị hạn chế. Vì vậy muốn phát triển bền
vững, cách cơ bản để giải quyết vấn đề này là tăng năng suất. Do nhu cầu cấp
bách, hiện nay có khuynh hướng là nhiều vùng đất vốn không thích hợp cho
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
91
sản xuất nông nghiệp cũng được huy động để sản xuất, điều này sẽ gây ra
những tác động không tốt cho môi trường do đó nó cần được ngăn chặn.
Để được bền vững trong thời hạn dài, việc phát triển kinh tế trang trại
cũng phải nhằm vào việc bảo vệ tài nguyên. Nhân dân địa phương cần phải
được tham gia trong việc bảo vệ và quản lý lâu bền các nguồn tài nguyên
thiên nhiên. Họ cần phải được chia sẻ những lợi ích của các nguồn tài nguyên
thiên nhiên từ các khu vực mà họ sinh sống. Vì vậy, để phát triển bền vững
các chủ trang trại phải gắn kết được lợi ích của mình với lợi ích cộng đồng.
Việc đẩy mạnh áp dụng các kỹ thuật trong các trang trại nhằm nâng cao năng
lực sản xuất, giảm tổn thất do sâu bệnh, bảo vệ tài nguyên đất và nước v.v... sẽ tạo
ra hạt nhân tốt để kích thích các đối tượng khác cùng áp dụng. Vì vậy cần
khuyến khích các chủ trang trại, các nông dân đầu tư vào việc sử dụng đất
một cách bền vững bằng cách giao cho họ quyền sử dụng đất ổn định, lâu dài
và tạo điều kiện thuận lợi cho họ sở hữu về các nguồn lợi sản sinh từ đất đai.
Phát triển các cách sử dụng lâu bền về công nghệ sinh học, và các trang
trại sẽ đóng vai trò là cầu nối để chuyển giao công nghệ này một cách an toàn
hợp lý, cho cộng đồng cư dân địa phương, đặc biệt là chuyển giao cho các hộ
nông dân đang sản xuất các cây trồng, vật nuôi tương tự.
Sự bền vững của nông nghiệp nông thôn còn đòi hỏi trong hoạt động sản
xuất nông nghiệp, cần phải có các chính sách để khuyến khích chủ trang trại
sử dụng các biện pháp quản lý sản xuất tổng hợp nhằm tránh tình trạng các
chủ trang trại vì chạy theo mục tiêu lợi nhuận nên lạm dụng quá mức các chất
hoá học để kiểm soát sâu bệnh, diệt trừ cỏ dại hoặc sử dụng các chất kích
thích tăng trưởng để tăng năng suất cây trồng, vật nuôi... gây ra những tác hại
lâu dài cho sức khoẻ con người và môi trường sinh thái.
Việc phát triển kinh tế trang trại là bước đi tất yếu của nền sản xuất nông
nghiệp nước ta trên con đường CNH, HĐH. Tuy nhiên do đặc điểm ở nông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
92
thôn Việt nam nói chung và Bắc Kạn nói riêng tồn tại tính cộng đồng làng xã
rất cao nên khi đẩy mạnh phát triển KTTT cần phải tính đến yếu tố này.
Nghĩa là các trang trại phải dựa trên nền tảng gia đình là chủ yếu, lao động
chủ yếu trong trang trại là người nhà hoặc bà con làng xóm. Trang trại phải là
một hạt nhân văn hoá của làng xã về mặt cấu trúc, không nên biến trang trại
thành một thực thể độc lập với cộng đồng làng xã.
Mục đích của chương trình chống nghèo khó là làm cho mọi người có
khả năng tốt hơn để có một cuộc sống theo lối bền vững. Sự phát triển kinh tế
trang trại ở các vùng nông thôn, đặc biệt là các vùng sâu, vùng xa là cần thiết
vì nó có khả năng tạo ra công ăn việc làm và thu nhập cho người dân thiếu
việc làm ngày hôm nay và cho những lực lượng lao động đang lớn lên.
3.1.1.3. Quá trình chuyển dịch, tích tụ ruộng đất hình thành các trang trại
gắn liền với quá trình phân công lại lao động ở nông thôn, từng bước
chuyển dịch lao động nông nghiệp sang làm các ngành phi nông nghiệp,
thúc đẩy tiến trình công nghiệp hoá trong nông nghiệp và nông thôn
Trên thực tế, sau nhiều lần tiến hành giao đất canh tác cho nông dân, đến
nay đất nông nghiệp nước ta về cơ bản vẫn rất manh mún. Tại miền Bắc bình
quân 6.637m2/ hộ, miền Nam 10.757m2/ hộ. Vì vậy, để tiến đến sản xuất
hàng hoá, Nhà nước không chỉ dừng lại ở những giải pháp chung chung mà
phải có những việc làm thiết thực đẩy nhanh tốc độ DĐĐT, tích tụ ruộng đất.
Cần có cơ chế quản lý, khuyến khích nông dân "dồn điền, đổi thửa",
phấn đấu để mỗi hộ có 1 - 2 thửa ruộng; khuyến khích việc cho thuê hoặc
chuyển nhượng ruộng đất nhưng để sản xuất, nhằm đẩy nhanh quá trình tích
tụ ruộng đất ở nông thôn, tạo điều kiện để hình thành các trang trại quy mô
lớn, sản xuất khối lượng hàng hóa lớn. Theo các chuyên gia, tích tụ ruộng đất
phải đi đôi với phát triển ngành nghề, công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn
nhằm tạo việc làm và tăng thu nhập cho nông dân. GS. Nguyễn Lân Dũng cho
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
93
rằng, để trở thành nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020, lao động nông
nghiệp phải giảm xuống chỉ còn 23%, phải chuyển khoảng 50% lao động
nông nghiệp hiện nay sang các ngành kinh tế khác, đi đôi với tích tụ đất đai
để có thể cơ giới hoá các khâu canh tác và thu hoạch. Ngoài ra, chính sách đất
đai phải tạo điều kiện và thúc đẩy việc nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp hiện có và khai thác nhanh đất hoang hoá đang còn chiếm một diện
tích lớn.
Đẩy mạnh việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ, thực hiện
thuỷ lợi hoá, điện khí hoá, cơ giới hoá, nâng cao trình độ công nghệ chế biến,
công nghệ sau thu hoạch. Chú trọng phát triển mở rộng thị trường tiêu thụ
nông sản cả trong và ngoài nước. Nhân rộng các mô hình liên kết kinh tế hộ
nông dân, các hình thức kinh tế hợp tác và HTX, nông lâm trường, kinh tế
trang trại gắn với doanh nghiệp chế biến và tiêu thụ. Nhà nước khuyến khích,
hỗ trợ đầu tư ban đầu thoả đáng cho việc chuyển lao động và dân cư đến
những nơi khó khăn nhưng giàu tiềm năng kinh tế, có vị trí xung yếu về an
ninh, quốc phòng, tạo đà phát triển nhanh cho những vùng này để giảm sự
cách biệt. Giải quyết các vướng mắc về chính sách và thể chế để tạo động lực
mới thúc đẩy kinh tế - xã hội nông thôn phát triển vững chắc. Đề cao trách
nhiệm và tính năng động, sáng tạo của nhiều địa phương, ban ngành trong
việc tạo thuận lợi cho nông dân, các thành phần kinh tế có nhu cầu và khả
năng mạnh dạn đầu tư phát triển nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ ở nông
thôn theo đúng pháp luật.
Về cầu lao động, để nông thôn thực sự phát triển bền vững theo hướng
CNH HĐH, trước hết phải phát triển mạnh doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong đó
có làng nghề và kinh tế trang trại, nơi tạo ra thu nhập cao và ổn định hơn.
Thực tế cho thấy các loại hình kinh tế này có khả năng áp dụng khoa học kỹ
thuật tốt hơn và có tiềm lực kinh tế để sẵn sàng đầu tư khi cần thiêt. Kinh tế
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
94
trang trại có khả năng làm tăng giá trị sản phẩm theo hướng xuất khẩu và hình
thành các thị trường nông sản ngay tại địa phương.
Như vậy kinh tế trang trại là lực lượng xung kích đi đầu trong sản xuất
nông sản hàng hóa, đồng thời cũng là lực lượng đi đầu trong ứng dụng tiến bộ
KH&CN nông nghiệp thúc đẩy tiến trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
3.1.2. Quan điểm riêng đối với tỉnh Bắc Kạn
Căn cứ vào kết qủa nghiên cứu của đề tài, đối với tỉnh Bắc Kạn chúng tôi
thấy cần thêm một số quan điểm sau:
* Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng phát triển
nền nông nghiệp hàng hoá gắn với việc phát triển các trang trại phù hợp với
tiểu vùng sinh thái và công nghệ sinh học. Chuyển dịch cơ cấu trong nông
nghiệp, nông thôn theo hướng tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi, giảm tỷ trọng
trồng trọt; phát triển ngành nghề nông thôn để chuyển một số lao động nông
nghiệp sang các ngành sản xuất phi nông nghiệp.
Hình thành các vùng kinh tế trang trại tập trung theo quy hoạch của tỉnh
dành cho các cây trồng, vật nuôi hàng hoá có lợi thế so sánh. Ưu tiên cho phát
triển các trang trại mới tập trung vào vùng kinh tế trọng điểm được quy hoạch
cho các cây trồng, vật nuôi hàng hoá mũi nhọn, vừa khuyến khích và có cơ
chế kích thích sự phát triển nội tại của các cơ sở hiện có điều kiện, phát triển
thành loại hình kinh tế trang trại.
Cần quan tâm phát triển các trang trại sử dụng nhiều lao động. Hiện nay
vấn đề lao động đến độ tuổi không có công ăn việc làm ổn định ở nông thôn
là rất quan trọng. Rất nhiều người lao động nông nghiệp ở thị xã Bắc Kạn và
các khu công nghiệp bị mất đất trong quá trình đô thị hoá. Họ đang có tiền do
đền bù giải phóng mặt bằng, tuy nhiên tìm ra một công việc có thu nhập ổn
đinh đối với họ là một vấn đề khó. Việc phát triển kinh tế trang trại còn giải
quyết tận gốc làn sóng di dân ra đô thị trong quá trình đô thị hoá và cùng với
nó là tệ nạn xã hội và sự cách biệt giàu nghèo.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
95
* Khuyến khích và tạo điều kiện cho sự phát triển của các ngành nghề,
đa dạng hoá các loại hình kinh tế ở nông thôn miền núi, khắc phục tư tưởng
và thói quen của việc điều hành nền kinh tế nông nghiệp tự cấp tự túc với sự
chi phối lớn của kinh tế tự nhiên.
Các nghề thủ công ở miền núi kém phát triển làm cho quá trình đô thị
hoá chậm chạp, mật độ tập trung dân cư thấp, nhu cầu xã hội về tiêu thụ các
sản phẩm thủ công chưa đủ cho các nghề này tách khỏi nghề nông. Theo đó,
cần phải cấy nghề hình thành làng thủ công ở các vùng miền núi như các làng
thủ công ở đồng bằng Bắc bộ.
* Về phương diện kinh tế, kinh doanh miền núi có các thế mạnh riêng,
vừa mang tính phổ biến, vừa có yếu tố đặc thù. Nói chung thì các thế mạnh
của miền núi thể hiện rõ ràng nhất ở hai khả năng cụ thể:
+ Thâm canh đất rừng, vườn rừng
+ Chăn nuôi gia súc lớn (chủ yếu là đàn trâu, bò)
Thực chất đây chính là mô hình kinh tế nông - lâm hay lâm - nông kết
hợp có tác dụng kích thích sự phát triển của khuynh hướng sản xuất hàng hoá.
* Bảo vệ và phát triển vốn rừng, bảo tồn sự đa dạng sinh học
Sự tổn thất về đa dạng sinh học đang diễn ra ngày một gay gắt, chủ yếu
là do sự phá huỷ môi trường sinh sống, sự khai thác quá mức, sự ô nhiễm và
do việc đưa vào nuôi trồng các loài động và thực vật nhập ngoại một cách
không thích hợp. Sự suy giảm về đa dạng sinh học xảy ra phần lớn là do con
người, và trong đó chính cách khai thác tận diệt tự nhiên để phục vụ cho mục
đích tối đa hoá lợi nhuận của các cơ sở kinh doanh nông nghiệp phải chịu một
phần trách nhiệm.
Để đảm bảo sự đa dạng sinh học, ngoài việc cần tiến hành các nghiên
cứu dài hạn về tầm quan trọng của sự đa dạng sinh học đối với những hệ sinh
thái sản xuất ra hàng hoá và cho những lợi ích về môi trường nhằm có biện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
96
pháp tích cực để bảo vệ các nguồn gien quý. Tỉnh còn cần phải khuyến khích
các chủ trang trại, nông dân áp dụng các phương pháp canh tác thân thiện với
tự nhiên và các loài sinh vật hoang dã nhằm duy trì và phát triển thêm sự đa
dạng sinh học.
Việc thực hiện cơ chế phân chia hợp lý và công bằng các lợi ích thu được
do sử dụng nguồn tài nguyên sinh vật và tài nguyên gien giữa nơi tạo ra và
nơi sử dụng các nguồn tài nguyên này cũng có tác dụng tốt trong vấn đề này.
Nhân dân địa phương phải được chia sẻ những lợi ích về kinh tế và thương
mại của những nguồn sinh học đa dạng mà họ đã có công duy trì, phát triển và
tạo mới.
3.2. NHỮNG ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI TỈNH
BẮC KẠN
3.2.1. Căn cứ để định hƣớng
- Căn cứ Nghị quyết Trung ương 5 (Khoá IX) Đảng Cộng sản Việt nam
“Về đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn giai
đoạn 2001-2010”;
- Căn cứ Nghị quyết số 03/2000/NQ-CP ngày 02/02/2000 của Chính phủ
về chủ trương phát triển kinh tế trang trại;
- Căn cứ Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn lần thứ IX nhiệm
kỳ 2005 - 2010;
- Căn cứ Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Kạn đến năm 2020;
- Căn cứ vào kết quả nghiên cứu của tác giả luận văn này.
3.2.2. Phƣơng hƣớng phát triển kinh tế trang trại tỉnh Bắc Kạn
3.2.2.1. Phương hướng chung
Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ Bắc Kạn lần thứ IX đã định hướng phát
triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn đến năm 2010: “Phát triển nông - lâm ngư nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, đảm bảo lương thực, tăng nông sản
hàng hoá. Khai thác có hiệu quả các tiềm năng, thế mạnh về đất đai, nguồn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
97
lực. Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp. Chuyển đổi
cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với vùng, miền. Tăng cường các biện pháp
ứng dụng hoa học, công nghệ mới để nâng cao giá trị kinh tế trên đơn vị diện
tích. Mở rộng phát triển mô hình kinh tế trang trại và trồng rừng kinh tế…”.
3.2.2.2. Định hướng cơ bản phát triển kinh tế trang trại
* Đối với nông nghiệp, vừa chú trọng đầu tư thâm canh, chuyên môn hoá
vừa kết hợp với đa dạng hoá sản phẩm đảm bảo tính bền vững trong sản xuất
kinh doanh.
Về sản xuất lương thực, trọng tâm là lúa nước và ngô lai trên cơ sở thâm
canh giống mới có năng suất cao.
Về cây công nghiệp ngắn ngày phát triển mạnh thuốc lá, đậu tương, đỗ
xanh và đỗ đen, lạc và mía v.v. trên cơ sở sử dụng giống mới vầ sản xuất theo
dây chuyền công nghệ tiên tiến nhằm nâng cao năng suất, chất lượng.
Trồng thâm canh, tạo vành đai thực phẩm cho thị xã Bắc Kạn đối với các
loại rau đậu theo hướng sạch; trồng hoa thương phẩm các loại phục vụ cho
nhu cầu thị trường.
Về cây ăn quả, tập trung phát triển tính tới nhu cầu thị trường các loại
cây như nhãn, vải thiều, mận, cam quýt, hồng không hạt v.v... trên cơ sở chất
lượng giống tốt và gắn với thị trường tiêu thụ sản phẩm.
* Đối với chăn nuôi: Tập trung phát triển nuôi trâu bò thịt, dê, lợn nạc,
gia cầm theo hướng bán công nghiệp, công nghiệp. Trước mắt áp dụng mô
hình chăn nuôi bán công nghiệp để phát triển đàn gia súc và gia cầm ở vùng
bằng và trên vùng đồi.
Tăng cường công tác thú y, phòng chống dịch và đặc biệt chú trọng chất
lượng con giống. Phát triển mạnh chăn nuôi trên cơ sở thúc đẩy việc chế biến
thức ăn gia súc và nhu cầu thị trường.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
98
* Vừa chú trọng trồng rừng sản xuất vừa kết hợp với trồng rừng phòng
hộ để bảo vệ môi trường sinh thái, bên cạnh đó phát triển mạnh sản xuất lâm
sản ngoài gỗ để có nguồn thu nhập trước mắt từ rừng
Tăng cường trồng rừng nguyên liệu để cung cấp nguyên liệu cho chế
biến, chú trọng các loài cây mọc nhanh, loại gỗ sản phẩm đáp ứng thị hiếu của
người tiêu dùng. Trước mắt tập trung vào các các loại như hồi, thảo quả, sa
nhân, chè đắng, song mây v.v... nhưng với cách làm thận trọng theo phương
châm có kết quả mới tiếp tục triển khai trên quy mô rộng và có đầu tư lớn.
Chú trọng phát triển trang trại theo hướng SXKD tổng hợp gắn với đồi
rừng là thế mạnh của địa phương. Gắn phát triển trang trại với kinh doanh
dịch vụ như du lịch sinh thái, tham quan học tập... gắn sản xuất với tiêu dùng
trong địa phương, gắn sản xuất với môi trường nhằm gia tăng tổng năng suất
đầu ra (TFP).
* Phát triển mô hình nuôi trồng thuỷ sản theo phương pháp công nghiệp
đối với các loài thuỷ sản có giá trị kinh tế cao như cá hồi, chình v.v... ở những
nơi có đủ điều kiện nhằm mang lại hiệu quả cao
* Đẩy mạnh ứng dụng khoa công nghệ ở các trang trại làm tác nhân
quan trọng để phát triển công nghệ sau thu hoạch: Thu hoạch, sơ chế, bảo
quản, chế biến và thị trường (marketting) - Nâng cao giá trị kinh tế của nông
sản phẩm hàng hoá.
* Bảo vệ môi trường sinh thái kết hợp với du lịch và dịch vụ. Phát triển
ngành nghề dịch vụ, gắn với du lịch sinh thái ở những trang trại gắn với làng
nghề truyền thống, gắn với địa danh về tài nguyên du lịch tự nhiên như hồ Ba
Bể; các khu vực du lịch lịch sử - văn hoá, lễ hội sẽ tạo ra sức hút du khách và
mang lại nguồn thu nhập ổn định.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
99
3.3. MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI
3.3.1. Mục tiêu tổng quát
- Phát triển và mở rộng mô hình kinh tế trang trại, kinh tế đồi rừng nhằm
khai thác có hiệu quả các tiềm năng, thế mạnh về đất đai, nguồn lực, góp phần
giải quyết việc làm, tăng thu nhập, thúc đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu sản
xuất nông - lâm - ngư nghiệp; chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp
với từng vùng; lấy trang trại cây ăn quả, chăn nuôi đại gia súc, lâm nghiệp
làm đột phá về hiệu quả kinh tế. Tích cực ứng dụng khoa học, công nghệ mới
để nâng cao giá trị kinh tế trên đơn vị diện tích.
- Định hướng đến 2020: xác định kinh tế trang trại và kinh tế đồi rừng là
hình thức kinh tế chủ yếu để khai thác tốt nhất những lợi thế trong nông
nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc
tế; nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các loại hình trang trại với
phương châm: chất lượng, hiệu quả và phát triển bền vững; coi trọng bảo vệ
môi sinh, môi trường.
3.3.2. Mục tiêu cụ thể
- Từ nay đến năm 2010 số lượng trang trại hàng năm tăng bình quân 30%.
Phát triển kinh tế đồi rừng theo hướng thâm canh, mở rộng diện tích trồng cây
có giá trị kinh tế cao, từng bước phát triển thành các trang trại tổng hợp.
- Phấn đấu đưa diện tích đất sử dụng để phát triển kinh tế trang trại lên
500 ha năm 2010, tăng 300 ha so với năm 2006.
- Doanh thu bình quân cho một trang trại tăng: 1,3-1,5 lần so với năm
2006, trong đó: trang trại cây ăn quả tăng 1,7-2,0 lần; chăn nuôi tăng 1,4-1,6
lần; lâm nghiệp và tổng hợp tăng 1,2-1,4 lần.
- Đến năm 2010, 100% các trang traị có mức thu nhập hàng hoá và dịch
vụ theo giá thực tế đạt trên 100 triệu đồng/ năm;
- Nâng cao tỷ suất nông lâm sản hàng hoá trong tổng giá trị nông sản
phẩm và dịch vụ của các trang trại bình quân đạt 80%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
100
3.4. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
3.4.1. Giải pháp chung cho toàn bộ các trang trại
3.4.1.1. Quy hoạch khoanh vùng, lựa chọn mô hình kinh tế trang trại phù
hợp với từng vùng sinh thái, đặc điểm tự nhiên của tỉnh và từng huyện, thị
Việc quy hoạch phân vùng phát triển kinh tế trang trại nhằm tạo điều
kiện cho tất cả các vùng trên địa bàn tỉnh phát triển đồng đều trên cơ sở hình
thành cơ cấu kinh tế hợp lý và liên kết giữa các vùng, tạo nên sự phát triển
kinh tế mạnh mẽ trên địa bàn. Cụ thể:
- Đối với vùng núi: Với độ cao trung bình từ 500 - 750m, mật độ dân cư
thưa thớt, chủ yếu là rừng tự nhiên có chức năng phòng hộ là chính. Về cơ
bản mô hình trang trại ở vùng này là trang trại lâm nghiệp, trồng rừng kinh tế,
cây bản địa lấy gỗ có giá trị kinh tế cao, mô hình trang trại nông - lâm kết
hợp, bảo vệ nguồn gen thực vật quý hiếm theo các dự án.
- Đối với vùng đồi núi thấp: với chức năng vừa phòng hộ, vừa khai thác
kinh tế nên các thành phần trong mô hình kinh tế trang trại ở đây có thể kết
hợp nông - lâm nghiệp, vừa khoanh nuôi bảo vệ rừng, vừa trồng cây công
nghiệp (hồi, quế, thông, bạch đàn, keo...), cây ăn quả, vừa phát triển chăn
nuôi đại gia súc (trâu, bò, dê, lợn). Phát triển các trang trại trồng rừng kinh tế
(cây lấy gỗ), cây công nghiệp lâu năm kết hợp với chăn nuôi đại gia súc,
trồng cây ngắn ngày theo phương thức lấy ngắn nuôi dài.
- Đối với vùng đồng bằng: Với nhiệm vụ chiến lược là vùng kinh tế trọng
điểm, đảm bảo vững chắc an toàn lương thực cho cả tỉnh, tạo sản phẩm hàng
hoá đạt chất lượng cao cho thị trường. Vì vậy, phát triển mô hình trang trại
nông nghiệp toàn diện như: trang trại trồng trọt (thâm canh cây lúa chất lượng
cao, cây thực phẩm, trang trại lúa cá), chăn nuôi (lợn, gia cầm), nuôi trồng
thuỷ sản, dịch vụ hoặc kết hợp các mô hình trên.
- Về đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở dùng chung do nhà nước đầu
tư theo quy định của luật khuyến khích đầu tư trong nước. Trước mắt bao
gồm các công trình chủ yếu: Đường giao thông vùng, đường điện hạ thế.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
101
- Quy hoạch phát triển các trang trại chăn nuôi: cần cách xa khu vực dân
cư tập trung, có biện pháp xử lý tránh ô nhiễm môi trường.
3.4.1.2. Giải pháp về đất đai
- Tạo điều kiện thuận lợi cho việc thuê đất, cấp quyền sử dụng đất cho
các dự án chế biến, dịch vụ và mở rộng diện tích cho các trang trại. Thực hiện
đầy đủ các chính sách khuyến khích của các ngành về lĩnh vực nông nghiệp.
- Đẩy nhanh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các chủ
trang trại, hộ gia đình được giao đất phát triển theo quy hoạch. Triển khai cấp
giấy chứng nhận kinh tế trang trại đối với số trang trại đạt tiêu chuẩn hiện có
nhằm tạo điều kiện cho các chủ trang trại yên tâm đầu tư và vay vốn sản xuất.
- Hộ gia đình, cá nhân phi nông nghiệp hoặc ở các địa phương khác, các
doanh nghiệp có nguyện vọng và khả năng lập nghiệp đầu tư vốn phát triển
trang trại được UBND xã sở tại cho thuê đất sản xuất.
- Miễn tiền thuế sử dụng đất cho các trang trại đối với các xã vùng núi,
vùng đặc biệt khó khăn và giảm 50% cho các xã vùng đồng bằng trong 5 năm
đối với diện tích đất vượt hạn điền.
- Miễn tiền thuê đất 7 năm đối với các xã vùng núi, và 3 năm đối với các
xã vùng đồng bằng, vùng khai hoang phục hoá…
- Khuyến khích các hộ dân chuyển nhượng, dồn điền, đổi thửa tạo điều
kiện tích tụ ruộng đất, chuyển đổi từ đất khác sang trang trại chuyên canh
hoặc kết hợp. Khi hết thời hạn giao đất theo NĐ64/CP (năm 2014), tiến hành
giao lại ruộng đất có điều chỉnh theo hướng tập trung, quy mô diện tíc h lớn,
tạo điều kiện để các hộ dân an tâm đầu tư phát triển kinh tế trang trại.
- Xây dựng đề án giao đất, cho thuê diện tích đất, mặt nước cho hộ gia
đình, tổ chức, cá nhân để phát triển kinh tế trang trại.
- Đẩy nhanh tiến độ giao đất cho các hộ dân vùng đồi núi để phát triển
kinh tế lâm nghiệp, trong giao đất phải căn cứ vào quỹ đất trống đồi núi trọc ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
102
địa phương, nhu cầu và khả năng đầu tư trồng rừng, tránh tình trạng đất giao
không sản xuất hoặc sử dụng không hết diện tích, giữ đất trong khi các hộ có
nhu cầu không có đất trồng rừng. Đồng thời, ưu tiên các hộ ở địa phương đó,
hộ có ý chí vươn lên làm giàu; mặt khác cần khuyến khích những người có vốn
ở nơi khác để đầu tư phát triển kinh tế trang trại theo hợp đồng sử dụng đất. Hộ
gia đình sản xuất nông nghiệp có nhu cầu và khả năng sử dụng đất vượt hạn
điền của địa phương được UBND xã xét thuê đất phát triển kinh tế trang trại.
3.4.1.3. Giải pháp về đầu tư và vốn
- Các tổ chức tín dụng tạo điều kiện thuận lợi cho việc vay vốn đối với
phát triển kinh tế trang trại như: thành lập quỹ cho vay kinh tế trang trại từ
huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân, quy định lãi suất và thời hạn cho
vay hợp lý, cần phát triển hình thức cho vay tín chấp, mức vốn vay nhiều hơn
so với quy định hiện nay của ngân hàng. Thực hiện Quyết định số
423/QĐ/NHNN ngày 22/9/2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về quy
định chính sách tín dụng ngân hàng đối với kinh tế trang trại. Triển khai thực
hiện Quyết định số 178/2001/QĐ-TTg ngày 12/11/2001 của Thủ tướng Chính
phủ về quyền hưởng lợi, nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân được giao đất,
thuê, nhận, khoán rừng và đất lâm nghiệp.
- Phối hợp với các chương trình, dự án khuyến nông, nguồn vốn giải
quyết việc làm để cho vay phát triển kinh tế trang trại. Các tổ chức chính trị
xã hội (Hội Nông dân, Hội Phụ nữ…) bố trí một phần kinh phí từ các nguồn
vốn cho vay để phát triển theo mô hình trang trại.
- Xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, điện, thuỷ lợi… ở các vùng quy
hoạch kinh tế trang trại, chế biến sản phẩm nông nghiệp, để khuyến khích các
hộ gia đình, cá nhân phát triển trang trại sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp.
- Lập dự án giới thiệu tiềm năng và cơ hội hợp tác đầu tư, nhất là đầu tư
công nghệ chế biến thức ăn gia súc, chế biến nông sản. Tăng cường đầu tư
xây dụng các mô hình kinh tế trang trại và nhân diện rộng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
103
- Các trang trại được miễn, giảm tiền thuê đất theo quy định của pháp
luật về đất đai khi thuê đất trống đồi núi trọc, đất hoang hoá để trồng rừng,
trồng cây lâu năm và khi thuê diện tích các vùng nước tự nhiên chưa có đầu
tư cải tạo vào mục đích nuôi trồng thuỷ sản.
- Chính sách của tỉnh: hỗ trợ 01 triệu đồng/trang trại mới thành lập; các
chính sách khác áp dụng theo quy định chính sách hàng năm của tỉnh.
3.4.1.4. Giải pháp về khoa học kỹ thuật và công nghệ
- Việc đầu tiên là cần chú trọng công tác thông tin KH&CN cho các chủ
trang trại. Hiện nay ngành nông nghiệp chỉ hoạt động khuyến nông chung cho
nông dân cả nghèo lẫn giàu. Đã đến lúc cần tập trung công tác khuyến nông
riêng đối với các hộ nông dân - trang trại sản xuất hàng hóa là lực lượng xung
kích, đi đầu trong ứng dụng tiến bộ KH&CN, tổ chức các câu lạc bộ khuyến
nông cho các chủ trang trại theo ngành sản xuất, như các trang trại sản xuất
lúa hàng hóa, sản xuất chè, cây ăn quả, nuôi gà, vịt, nuôi lợn, nuôi trâu bò,
nuôi trồng thủy sản, trồng rừng với qui mô vừa và lớn, khối lượng hàng hóa
nhiều ở từng địa phương, đi vào từng chuyên đề thiết thực.
- Cần chú trọng và tiếp tục đầu tư thoả đáng cho công tác khuyến nông,
khuyến ngư, khuyến lâm, khuyến công để chuyển giao tiến bộ khoa học công
nghệ cho trang trại, đưa các giống cây trồng, vật nuôi có phẩm chất tốt, sản
phẩm chất lượng cao vào sản xuất; áp dụng công nghệ mới trong công nghiệp
chế biến, bảo quản sản phẩm nông nghiệp; rút kinh nghiệm và nhân rộng các
điển hình thành công ra nhiều trang trại khác.
- Phổ biến cho các trang trại biết có thể bố trí cây trồng, vật nuôi phù
hợp với điều kiện tự nhiên và sinh thái từng vùng và phù hợp với quy hoạch
các vùng chuyên canh ở địa phương, đặc biệt đối với các loại cây trồng dài
ngày để giúp các trang trại lựa chọn phương hướng sản xuất phù hợp.
- Khuyến khích các hình thức liên kết và hợp tác trong nghiên cứu và ứng
dụng khoa học - công nghệ nông nghiệp, trong đó coi trọng sự liên kết giữa các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
104
trung tâm, viện nghiên cứu ở trong và ngoài huyện với các trang trại hạt nhân
trên từng vùng để nghiên cứu tạo ra những giống vật nuôi cây trồng phù hợp
với điều kiện đất đai thổ nhưỡng và chịu được điều kiện khí hậu ở địa phương
cũng như chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ cho các trang trại.
- Trên cơ sở quy hoạch về phát triển giống cây trồng, vật nuôi đến năm
2010 của tỉnh, khuyến khích và hỗ trợ các trang trại sản xuất giống cây trồng,
vật nuôi tại địa phương để cung cấp giống tại chổ.
Kinh nghiệm thực tế cho thấy, để sản xuất kinh doanh có lợi, các trang trại
nước ta phải lựa chọn và ứng dụng KH&CN thích hợp, hỗn hợp và tổng hợp.
KH&CN thích hợp là sử dụng các loại vật tư kỹ thuật, động lực, công
cụ và công nghệ phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế, kỹ thuật của
sản xuất, của từng trang trại, và yêu cầu chất lượng sản phẩm của thị
trường tiêu thụ.
KH&CN hỗn hợp là sử dụng đan xen giữa các cấp độ công nghệ khác
nhau (cổ truyền kết hợp với hiện đại, thủ công kết hợp với cơ khí v.v...)
trong các công đoạn sản xuất chế biến các loại nông sản, nhằm sử dụng
hợp lý nhất các yếu tố kỹ thuật, giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản
phẩm.
KH&CN tổng hợp là sử dụng đồng bộ các công nghệ sinh học, hóa học,
cơ điện trong chu trình sản xuất, chế biến nông sản của các trang trại,
huy động sức mạnh tổng hợp của KH&CN, tạo ra hợp lực đem lại hiệu
quả kinh tế cao.
3.4.1.5. Giải pháp về lao động và nguồn nhân lực
Nâng cao trình độ quản lý sản xuất kinh doanh và trình độ khoa học kỹ
thuật của chủ trang trại, hộ gia đình, cá nhân cụ thể:
- Thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng về quản lý, quy trình và cách
thức làm giàu từ kinh tế trang trại không chỉ cho các chủ trại mà còn cho cả
những người có nguyện vọng và có khả năng trở thành chủ trại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
105
- Về nội dung đào tạo bồi dưỡng cần hướng vào những vấn đề của kinh
tế trang trại, xu hướng phát triển trang trại; các chủ trương, đường lối, chính
sách về phát triển kinh tế trang trại; đặc biệt là các kiến thức về tổ chức và
quản trị kinh doanh trong các trang trại như xác định phương hướng kinh
doanh, tổ chức sử dụng các yếu tố sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm.
- Tổ chức các lớp chuyển giao kỹ thuật và công nghệ mới cho các chủ
trại, hỗ trợ họ trong việc triển khai ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật.
- Đào tạo bằng nhiều hình thức như lớp tại địa phương, tham quan,
chuyển giao tiến bộ kỹ thuật… với sự tổ chức hỗ trợ của các cơ quan như Sở
Nông nghiệp và PTNT, Sở Khoa học và Công nghệ, Hội Nông dân…
- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của các trang trại bằng cách
hướng vào tổ chức tốt việc đào tạo nghề phù hợp cho một bộ phận lao động
làm thuê, nhất là bộ phận lao động kỹ thuật.
3.4.1.6. Giải pháp về thị trường tiêu thụ
- Tổ chức dự báo thị trường, mở rộng hình thức thông tin kinh tế.
- Khuyến khích thành lập hợp tác xã, tổ hợp dịch vụ chăn nuôi và tiêu
thụ sản phẩm.
- Mở rộng và phát triển hệ thống tiêu thụ sản phẩm, trong đó chú trọng
khâu bảo quản nhằm hạn chế tổn thất sau thu hoạch.
- Có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện thu hút các tổ chức, cá nhân
trong và ngoài huyện đầu tư để phát triển dịch vụ đầu vào, đầu ra cho nông sản.
- Nhà nước cùng các tổ chức kinh tế có các biện pháp thu mua, chế biến,
dự trữ, điều hoà cung cầu để giữ giá ổn định một số mặt hàng thiết yếu nhằm
bảo vệ lợi ích chính đáng cuả nhà kinh doanh và người tiêu dùng.
- Các cơ sở chế biến nông, lâm sản có ý nghĩa quyết định tới chất lượng
hàng hoá nông sản. Phát triển kinh tế nông, lâm nghiệp theo chiều dọc phải là
quá trình từ sản xuất, gắn với chế biến và tiêu thụ hàng hoá.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
106
- Cần khuyến khích, hỗ trợ cho sự ra đời của các cơ sở chế biến nông
sản như cơ sở chế biến thức ăn gia súc, gia cầm. Chế biến hoa quả mơ, chuối,
nhãn, vải...
3.4.1.7. Môi trường kinh doanh và tư pháp
Tiến hành cấp đăng ký kinh doanh cho các trang trại có đủ điều kiện.
Đăng ký kinh doanh cho trang trại gia đình là một việc làm hợp lý và hết sức
cần thiết. Hiện tại mới có 2 trong tổng số 21 trang trại của Bắc Kạn mới đã
đăng ký kinh doanh (vào khoảng 9,5%).
Thông qua đó, giúp cho Nhà nước thực hiện tốt chức năng quản lý của
mình đối với loại hình trang trại gia đình. Mặt khác, để đảm bảo quyền tự do
kinh doanh và tinh thần cải cách thủ tục hành chính hiện nay, không cần thiết
phải đặt ra thủ tục cấp giấy chứng nhận cho trang trại gia đình. Việc thỏa mãn
các tiêu chí của trang trại gia đình sẽ được các hộ gia đình chứng minh thông
qua các giấy tờ cần thiết trong hồ sơ đăng ký kinh doanh (ví dụ như giấy tờ
chứng minh quyền sử dụng đất, báo cáo tóm tắt tình hình sản xuất kinh
doanh,...). Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là cơ sở pháp lý duy nhất
chứng minh tư cách pháp lý của trang trại gia đình.
Hoàn thiện cơ chế kinh tế thị trường; khuyến khích các thành phần kinh
tế cùng phát triển. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng SX hàng
hóa. Xây dựng HTX mô hình mới là một giải pháp quan trọng giúp cho kinh
tế hộ nông dân phát triển sản xuất hàng hoá ổn định vững chắc. Xây dựng
HTX kiểu mới vừa là giải pháp vừa là xu thế và mục tiêu của phát triển kinh
tế hộ nông dân, kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng hiện đại.
Phân vùng kinh tế và phân bổ lại lao động dân cư. Trong điều kiện đặc
điểm điều kiện tự nhiên không đồng nhất, cần có những tiêu chuẩn phân vùng
nhỏ cho các huyện thị. Tuy không tạo thành vùng chuyên canh lớn thì cũng
tạo ra một lượng sản phẩm đủ lớn cho kinh tế hàng hoá phát triển, thúc đẩy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
107
phân bố lại lao động dân cư hiện nay cư trú rất phân tán, nhất là vùng cao,
vùng sâu,vùng xa.
Tổ chức công tác truyền thông giúp cho các hộ vượt qua tâm lý an phận,
tâm lý tự ti, phong tục tập quán sản xuất tự túc, tự cấp, sản xuất manh mún
nhỏ lẻ để tăng cường nghị lực vượt qua khó khăn trước mắt, tích cực nỗ lực
trong sản xuất kinh doanh. Tuyên truyền chủ trương chính sách của Trung
ương cũng như địa phương về phát triển kinh tế trang trại trong giai đoạn tới.
Phổ biến quy hoạch, kế hoạch phát triển các vùng kinh tế trang trại trong tỉnh
cho tất cả các đối tượng có nhu cầu làm trang trại để thu hút đầu tư. Thông
tin, phổ biến kinh nghiệm sản xuất kinh doanh của các trang trại điển hình tạo
ra động lực trong đầu tư vào sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp,
nông thôn.
Bằng các phương thức cụ thể:
Tổ chức hội thảo
Phát sóng trên đài truyền hình, trên báo địa phương
Phát tờ rơi, tờ bướm
3.4.1.8. Tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại
- Thực hiện quản lý nhà nước đối với quá trình sản xuất kinh doanh của
trang trại, nhằm định hướng phát triển và đảm bảo công bằng trong sản xuất
kinh doanh, khuyết khích mặt tích cực và hạn chế những tiêu cực của loại
hình kinh tế trang trại, khắc phục tình trạng phát triển mang tính tự phát tích
tụ ruộng đất tràn lan.
- Xác định các loại hình trang trại và hình thức kinh doanh để có sự quản
lý thống nhất và phù hợp với từng loại hình trang trại, nhất là loại hình trang
trại có thuê mướn nhiều lao động mà chủ trại không trực tiếp tham gia sản
xuất trong trang trại.
- Thực hiện quản lý nhà nước đối với đầu ra, chất lượng sản phẩm nhằm
đảm bảo lợi ích chung của Nhà nước, quyền lợi của người tiêu dùng và môi
trường sinh thái.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
108
- Tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra đối với kinh tế trang trại, đảm
bảo các chủ trang trại thực hiện đầy đủ qui trình kỹ thuật canh tác bảo vệ và
làm giàu đất, bảo vệ môi trường; thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước
theo pháp luật. Đồng thời, bảo vệ quyền lợi chính đáng của chủ trang trại về
tài sản và các lợi ích khác.
- Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm dịch giống, thực hiện quy trình
sản xuất, du nhập giống chất lượng cao và sạch bệnh. Đa dạng hoá các loại
giống cây trồng, vật nuôi. Đưa các đối tượng nuôi, trồng đã thử nghiệm có
hiệu quả vào sản xuất để đa dạng hoá các đối tượng nuôi, trồng.
3.4.1.9. Hình thành, phát triển quan hệ hợp tác giữa các trang trại
- Hình thành và phát triển quan hệ hợp tác giữa các trang trại nhằm trao
đổi kinh nghiệm, trình độ quản lý, trao đổi sản phẩm, dịch vụ để nâng cao
hiệu quả kinh tế.
- Khuyến khích thành lập các câu lạc bộ, tổ hợp tác theo từng loại hình
trang trại để liên doanh, liên kết trong sản xuất kinh doanh, tạo sức cạnh tranh
và sự ổn định trong tiêu thụ sản phẩm trên thị trường, hạn chế tình trạng ép
giá của các tư thương và rủi ro trong sản xuất kinh doanh.
- Xây dựng mối quan hệ giữa các tổ hợp tác, chủ trang trại với các hộ
dân để các chủ trang trại, tổ hợp tác là đầu mối thu mua, tiêu thụ sản phẩm
nông sản.
Tóm lại: Phát triển kinh tế trang trại tỉnh Bắc Kạn trong giai đoạn tới có ý
nghĩa rất quan trọng trong việc khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế để thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên địa bàn tỉnh, góp phần thực
hiện thắng lợi Nghị quyết lần thứ IX Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn về chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội đến năm 2020. Chính vì vậy, chương trình này cần được
sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ban
ngành đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở một cách đồng bộ, tạo sự đột phá quan trọng
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
109
3.4.2. Giải pháp cho nhóm trang trại
3.4.2.1. Trang trại trồng trọt
Nên tập trung vùng ven đô, vùng có lợi thế so sánh cao; đồng thời
chuyển diện tích trồng lúa năng suất thấp, không chủ động được nước tưới
sang nuôi trồng thủy sản hoặc trồng các loại cây công nghiệp ngắn ngày.
Về cây công nghiệp ngắn ngày, phát triển mạnh thuốc lá, đậu tương, đỗ
xanh, đỗ đen, lạc và mía v.v. trên cơ sở sử dụng giống mới và sản xuất theo
dây truyền công nghệ tiên tiến nhằm nâng cao năng suất, chất lượng.
Trồng thâm canh, tạo vành đai thực phẩm cho thị xã đối với các loại
rau, đậu theo hướng sạch; trồng hoa thương phẩm các loại phục vụ cho nhu
cầu thị trường.
Về cây ăn quả, cây công nghiệp dài ngày tập trung phát triển tính tới nhu
cầu thị trường các loại cây như hồng không hạt, cam, quýt, chè, v.v trên cơ sở
giống mới và gắn với thị trường tiêu thụ sản phẩm. Phát triển để hình thành
các vùng nguyên liệu tập trung gắn với công nghiệp chế biến: hình thành
1000 ha cam, quýt nguyên liệu tại Thị xã Bắc Kạn; Bạch Thông; Chợ Đồn;
Chè Shan tuyết và chè chất lượng cao; Vùng trồng đỗ tương, thuốc lá, khoai
môn 700 ha tại Bạch Thông, Ba Bể, thị xã Bắc Kạn, Chợ Mới; 500 ha Hồng
không hạt tại Ba Bể, Ngân Sơn, Chợ Đồn;
3.4.2.2. Trang trại chăn nuôi
Một là về giống, vật nuôi, tiếp tục sử dụng con giống tốt trong nước, khuyến
khích các chủ trang trại, doanh nghiệp nhập nguồn gien, giống có năng suất chất
lượng cao: Chương trình cải tạo chất lượng đàn bò địa phương bằng giống bò lai
Sind; chương trình móng cái hoá đàn lợn nái, nuôi lợn hướng lạc, lợn siêu lạc;
phát triển đa dạng đàn gia cầm trong chăn nuôi có khả năng tăng trọng nhanh như
các giống gà Tam Hoàng, Lương Phượng, Kabir, Sắc-sô, ngan Pháp;
Hai là về thức ăn chăn nuôi, người chăn nuôi và nhà máy chế biến phải
ký hợp đồng, bảo đảm cung cấp ổn định và chất lượng thức ăn tốt.
Ba là công nghệ chuồng trại, người chăn nuôi phải nghiên cứu các mẫu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
110
chuồng trại, áp dụng các loại máng ăn, uống, phù hợp với từng vật nuôi.
3.4.2.3. Trang trại lâm nghiệp
Đối với diện tích rừng nghèo kiệt, khuyến khích các tổ chức, cá nhân cải
tạo và trồng lại rừng để nâng cao giá trị sử dụng rừng và đất rừng. Đối với
diện tích đất trống, thu hút đầu tư vào lĩnh vực trồng rừng tạo vùng nguyên
liệu tập trung, theo hướng đầu tư thâm canh gắn với công nghiệp chế biến, kết
hợp sản xuất lâm - nông - ngư nghiệp để nâng cao hiệu quả sử dụng đất.
Loài cây chính cho trồng rừng sản xuất: Keo, thông, mỡ, trúc... để tạo
vùng nguyên liệu cho sản xuất ván MDF, ván ghép thanh, sản xuất giấy. Diện
tích trồng rừng nguyên liệu khoảng 40 nghìn ha tập trung ở các huyện Chợ
Mới, Chợ Đồn, Ba Bể để sản xuất các mặt hàng đồ mộc gia dụng, vật liệu xây
dựng và đồ gỗ mỹ nghệ.
Đầu tư trồng 10 nghìn ha trúc sào ở thị xã Bắc Kạn, Ba Bể, Pác Nặm để
có thể sản xuất 4-5 triệu trúc đoạn/ năm.
Đầu tư trồng rừng theo cơ chế sạch (CDM) trên diện tích đất trống, đồi
núi trọc ở các huyện Pắc Nậm, Ngân Sơn, Ba Bể, Na Rì, Chợ Đồn, Chợ Mới,
Bạch Thông.
3.3.2.4. Trang trại thuỷ sản
Phát triển nuôi trồng thủy sản nước ngọt ở các hồ chứa, hồ tự nhiên và
nuôi cá lồng trên các sông, suối. Trong nuôi thủy sản sử dụng giống mới như
rô phi đơn tính, cá tra, cá basa, tôm càng xanh,
Nghiên cứu giúp các địa phương, các chủ trang trại, các hộ gia đình nuôi
trồng thủy sản xây dựng phương án đổi đất dồn ao để tạo điều kiện cho việc
hình thành các trang trại thủy sản sản xuất tập trung với quy mô lớn, tạo điều
kiện thuận lợi cho việc đầu tư nuôi thâm canh công nghiệp. Có chính sách thu
hút các nhà đầu tư vào lĩnh vực nuôi trồng thủy sản để hình thành nên các cơ
sở sản xuất thủy sản tập trung. Đây chính là những mô hình nuôi trồng thủy
sản theo hướng công nghiệp, để cho các chủ trang trại, các hộ gia đình tham
quan học tập; đồng thời cũng là cơ sở dịch vụ đầu vào con giống, thức
ăn,.v.v... và tiêu thụ sản phẩm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
111
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
KẾT LUẬN
1. Kinh tế trang trại ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong sự phát
triển của nông nghiệp, nông thôn hiện nay. Nó cho phép khai thác, sử dụng
triệt để tiềm năng về đất đai, đặc biệt ở những vùng đồi núi như Bắc Kạn hiện
nay mang lại khối lượng sản phẩm hàng hoá lớn cho xã hội.
2. Tuy mới hình thành và phát triển ở nước ta nói chung và Bắc Kạn nói
riêng, kinh tế trang trại đã khẳng định là một hình thức tổ chức sản xuất tiến bộ,
phù hợp và có hiệu quả trong nông nghiệp. Nó đã và đang góp phần tạo ra quan
hệ sản xuất mới ở nông thôn, xoá đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới.
3. Điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội của một vùng ảnh hưởng
rất lớn đến phát triển kinh tế trang trại. Chính sự kết hợp giữa sự đa dạng với
sự lựa chọn loại hình đem lại giá trị kinh tế cao trong kinh doanh trang trại ở
Bắc Kạn hiện nay đã thể hiện sự năng động của các trang trại. Tuy nhiên số
lượng, quy mô cũng như trình độ sản xuất kinh doanh của các trang trại của
Bắc Kạn còn hạn chế và đang trong giai đoạn phát triển ban đầu bởi nền kinh
tế địa phương còn mang nặng tính tự nhiên, thị trường nhỏ hẹp.
4. Thực trạng kinh tế trang trại ở Bắc Kạn cho thấy, các nguồn lực của
các trang trại huy động còn thấp, kết quả sản xuất cũng như hiệu quả kinh tế
mang lại cũng chưa cao. Tuy nhiên, qua thực tế cũng có thể kết luận rằng:
nhân tố ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doạnh của các trang trại ở đây
không phải do quy mô đất đai của trang trại mà do sự lựa chọn loại hình kinh
doanh phát huy lợi thế so sánh của địa phương; trình độ quản lý của chủ trang
trại đã mang lại nhiều trang trại có quy mô đất đai nhỏ nhưng có tỷ suất nông
sản hàng hoá lớn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
112
5. Qua kết quả nghiên cứu cho thấy loại hình kinh doanh có hiệu quả
nhất ở Bắc Kạn cũng chính là khai thác và sử dụng nguồn lực là lợi thế so
sánh của địa phương. Cây ăn quả, chăn nuôi đại gia súc kết hợp với lâm
nghiệp hiện tại vẫn hướng đi mang lại hiệu quả tốt nhất cho các chủ trang trại.
Tuy nhiên điều kiện tự nhiên không đồng nhất, quản lý đất đai manh mún là
một trở ngại để phát triển sản xuất với quy mô lớn.
6. Cũng như các loại hình kinh tế mới hình thành khác, kinh tế trang trại
cần một môi trường chính sách, thể chế cần thiết cho sự tồn tại và phát triển
ổn định, bền vững. Vai trò của công tác truyền thông, nâng cao năng lực của
chủ trang trại, hỗ trợ thị trường v.v... trong phát triển kinh tế trang trại là
những vấn đề mà các cấp chính quyền cần phải quan tâm.
KIẾN NGHỊ VỀ NHỮNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO
Ở nước ta, vị trí chính thức của trang trại gia đình đã có hơn 8 năm hình
thành và phát triển. Đã đến lúc cần phải nhìn lại để thấy rõ mặt mạnh, mặt còn
hạn chế của chính sách pháp luật về trang trại gia đình. Trên cơ sở tổng kết
thực tiễn phát triển trang trại gia đình, Nhà nước cần ban hành một luật hoặc
pháp lệnh về trang trại gia đình tạo khung pháp lý cho hoạt động của loại hình
này, trong đó xác định rõ khái niệm, đặc điểm pháp lý, các điều kiện để được
xác định là trang trại gia đình, trình tự, thủ tục đăng ký kinh doanh, quyền và
nghĩa vụ của trang trại.
Với một tư cách pháp lý độc lập, một địa vị pháp lý bình đẳng với các
chủ thể kinh doanh khác sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng để trang trại gia đình
tự tin, chủ động bước vào “sân chơi” lớn - nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần như ở nước ta hiện nay.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
113
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Bộ Lao động thương binh và xã hội (2000), Thông tư hướng dẫn áp
dụng một số chế độ làm việc trong các trang trại, Hà Nội.
2.
Các Mác - Tư bản, Quyển 3 tập 1, NXB Sự thật Hà nội 1960.
3.
Cục Thống kê tỉnh Bắc Kạn (2007), Niên giám thống kê tỉnh Bắc Kạn
năm 2006, NXB Thống kê, Hà Nội.
4.
Nguyễn Điền, Nông nghiệp nước Mỹ - Công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
NXB Thống kê, Hà Nội, 1998.
5.
Nguyễn Điền, Trần Đức, Trần Huy Năng (1993), Kinh tế Trang trại
gia đình trên thế giới và châu Á, NXB Thống kê.
6.
Trần Đức, Kinh tế trang trại vùng đồi núi, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1998.
7.
Nguyễn Đình Hà, Nguyễn Khánh Quắc (1999), Kinh tế nông nghiệp
gia đình nông trại, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
8.
Đào Hữu Hoà (2005), Vai trò của kinh tế trang trại trong quá trình
phát triển một nền nông nghiệp bền vững, Trường đại học Kinh tế Đà
Nẵng, Đà Nẵng.
9.
Hoàng Văn Hoa, Hoàng Thị Quý, Phạm Huy Vinh (1999), Quá trình
phát triển kinh nghiệm trang trại ở Việt nam và một số nước trên thế
giới - Bài học kinh nghiệm; Thực trạng và giải pháp phát triển kinh
tế trang trại trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt nam,
Trường đại học KTQD, Hà Nội.
10.
Trần Văn Hưng, Hoàng Văn Chính (2000), Kinh tế trang trại gia đình
nông lâm nghiệp, Hà Nội.
11.
Kinh tế trang trại gia đình trên thế giới và châu Á, NXB thống kê 1993
12.
Liên Bộ Nông nghiệp và PTNT - Tổng cục Thống kê (2003), Thông tư
liên tịch hướng dẫn tiêu chí để xác định kinh tế trang trại, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
114
13.
Mác - Ăng ghen toàn tập, bản tiếng Nga - tập 25 phần II, Matxcơva 1961.
14.
Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Bắc Kạn (2004), Báo cáo tình hình phát
triển kinh tế trang trại trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn từ khi có Nghị quyết
03/NQ-CP, Bắc Kạn.
15.
Lê Duy Phong (2001), Kinh tế trang trại sau 1 năm thực hiện Nghị
quyết 02/NQ-CP của Thủ tướng Chính phủ; Kinh tế trang trại sau 1
năm thực hiện Nghị quyết 03/NQ-CP, Trường ĐHKT thành phố
HCM, Vũng Tàu.
16.
Lê Trường Sơn (2004), Trang trại gia đình - một loại hình doanh
nghiệp mới trong nền kinh tế thị trường ở Việt nam, Tạp chí Khoa học
pháp lý, (Số 3, 2004).
17.
Lê Trọng (2000), Phát triển và quản lý trang trại trong kinh tế thị
trường, NXB Nông nghiệp Hà Nội.
18.
Trần Tác (2001), “Một số giải pháp nhằm tiếp tục đẩy mạnh phát triển
kinh tế trang trại ở Việt nam”, Kinh tế trang trại sau một năm thực
hiện Nghị quyết 03/NQ-CP, Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí
Minh, Vũng Tàu.
19.
Nguyễn Thị Thắc (1999), Thực trạng và những giải pháp phát triển
kinh tế trang trại tỉnh Thái Nguyên, Luận văn Thạc sỹ kinh tế nông
nghiệp, Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội.
20.
Đoàn Quang Thiệu (2001), Thực trạng và giải pháp chủ yếu nhằm phát
triển hệ thống nông lâm kết hợp ở huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên,
Luận án Tiến sỹ kinh tế, Hà Nội.
21.
Tổng cục Thống kê (2007), Báo cáo sơ bộ kết quả cuộc Tổng điều tra
nông thôn, nông nghiệp năm 2006, Hà Nội.
22.
Nguyễn Văn Tuấn (2000), Quản lý trang trại trong nền kinh tế thị
trường, NXB Nông nghiệp, Hà nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
115
23.
Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Kạn (2006), Quy hoạch tổng thể kinh tế - xã
hội tỉnh Bắc Kạn đến năm 2020, Bắc Kạn.
24.
V.I. Lê-nin toàn tập - tập 17, NXB tiến bộ Matxcơva 1978.
25.
Viện Kinh tế (1995), Kinh tế hộ trong nông thôn Việt nam, NXB
khoa học xã hội, Hà Nội.
26.
Ngô Bằng Việt (2001), Đánh gía hiệu quả kinh tế của một số mô hình
trang trại điển hình ở huyện miền núi Đoan Hùng, Phú Thọ, Luận văn
cử nhân kinh tế, Thái Nguyên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
116
PHỤ LỤC
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn