Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Sư phạm Tiểu thuyết nguyễn xuân khánh nhìn từ góc độ thẩm mỹ...

Tài liệu Tiểu thuyết nguyễn xuân khánh nhìn từ góc độ thẩm mỹ

.PDF
92
1
59

Mô tả:

i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan: Luận văn tốt nghiệp với đề tài “Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh nhìn từ góc độ thẩm mỹ” là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, không sao chép của bất cứ ai. Tôi xin chịu mọi trách nhiệm về công trình nghiên cứu của riêng mình. Phú Thọ, ngày tháng năm 2018 Tác giả luận văn Lê Mai Anh ii LỜI CẢM ƠN Luận văn đƣợc hoàn thành dƣới sự hƣớng dẫn và góp ý của TS. Phạm Tuấn Anh. Em xin gửi lời biết ơn chân thành với sự hƣớng dẫn tận tình của thầy giúp em hoàn thành luận văn này. Em xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo trong Phòng Đào tạo, Khoa Khoa học xã hội - Nhân văn - Trƣờng Đại học Hùng Vƣơng đã trực tiếp giảng dạy, hƣớng dẫn các học viên lớp Thạc sĩ Lí luận văn học khóa 1, giúp chúng em hoàn thành chƣơng trình học tập và nghiên cứu. Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, đồng nghiệp tại Trƣờng Đại học Hùng Vƣơng, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ đã tạo điều kiện, giúp đỡtôi hoàn thành chƣơng trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này. Dù đã rất cố gắng, song luận văn cũng không tránh khỏi khỏi những hạn chế và thiếu sót. Tác giả mong nhận đƣợc sự góp ý của thầy cô và các bạn. Phú Thọ, tháng 9 năm 2018 Tác giả luận văn Lê Mai Anh iii M C C MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu ........................................................... 1 2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu ....................................................................... 2 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................... 10 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu............................................................... 10 5. Phƣơng pháp nghiên cứu............................................................................. 11 6. Giới thiệu bố cục luận văn .......................................................................... 11 CHƢƠNG 1. TIỂU THUYẾT NGUYỄN XUÂN KHÁNH TRONG SỰ VẬN ĐỘNG CỦA VĂN XUÔI VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI ................................... 13 1.1. Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh trong bối cảnh lịch sử văn hóa ........... 13 1.2. Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh trong sự vận động đổi mới quan niệm về hiện thực và con ngƣời ............................................................................... 15 1.3. Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh trong sự vận động đa dạng thẩm mĩ .. 21 CHƢƠNG 2. QUAN NIỆM THẨM MĨ TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN XUÂN KHÁNH ............................................................................................... 25 2.1. Tiểu sử và sự hình thành quan niệm ........................................................ 25 2.2. Quan niệm về con ngƣời .......................................................................... 27 2.3. Quan niệm về lịch sử................................................................................ 30 CHƢƠNG 3. HỆ THỐNG THẨM MĨ TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN XUÂN KHÁNH ............................................................................................... 36 3.1. Cái đẹp trong Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh ..................................... 36 3.1.1. Khái niệm cái đẹp.................................................................................. 36 3.1.2. Biểu hiện cái đẹp trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh .................... 39 3.2. Cái bi trong Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh ........................................ 51 3.2.1. Khái niệm cái bi .................................................................................... 51 iv 3.2.2. Biểu hiện cái bi trong Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh ..................... 53 3.3. Cái phi lí trong Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh ................................... 61 3.3.1. Khái niệm cái phi lí ............................................................................... 61 3.3.2. Biểu hiện cái phi lí trong Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh ................ 62 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 80 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 82 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu Văn xuôi sau 1975 với những đặc điểm và thời cơ của mình đã thực sự trở thành một vùng đất mới giàu trầm tích để các nhà văn, nhà thơ khám phá và thể hiện tài năng nghệ thuật. Văn học sau 1975 có rất nhiều thay đổi, sự mở rộng, đa dạng hơn về đề tài, quan niệm con ngƣời cũng thay đổi... Tuy nhiên vẫn mang nét tƣơng đồng về chủ đề cốt lõi cùng những nét đặc trƣng đƣợc thể hiện trong giai đoạn trƣớc đó. Văn học Việt Nam trải qua một cuộc cách mạng mạnh mẽ và toàn diện sau năm 1975. Một khởi đầu chƣa từng có vào năm 1986 đánh dấu một dòng văn học ảnh hƣởng sâu rộng trong những năm cuối thế kỷ XX và tiếp tục trong đầu thế kỷ XXI. Sự ra đời của cuộc cách mạng mang đến cái nhìn hoàn toàn mới về hệ thống giá trị thẩm mĩ. Tiếp cận trên phƣơng diện mỹ học trong tiểu thuyết Việt Nam sau năm 1975 là một đề tài mới mẻ đối với tác giả. Sự đa dạng của tiểu thuyết giai đoạn sau năm 1975 yêu cầu một quan điểm nghiên cứu cởi mở. Nguyễn Xuân Khánh đã trở thành đại diện cho nghiên cứu thẩm mĩ trong tiểu thuyết; các tiểu thuyết của ông với lối viết đi chuyên biệt, nhấn mạnh, tìm hiểu sâu sắc vào những giá trị trong quá trình chuyển đổi tƣ duy về thẩm mỹ của tiểu thuyết giai đoạn sau 1975. Cột mốc đƣợc xem nhƣ đánh dấu sự trở lại của Nguyễn Xuân Khánh với giới văn học và đời sống văn học và công chúng là cuốn tiểu thuyết Hồ Quý Ly. Tác phẩm nhanh chóng đƣợc truyền bá rộng rãi, đánh giá cao, vinh dự nhận giải thƣởng của Hội nhà văn Việt Nam trong cuộc thi sáng tác tiểu thuyết (1998-2000) cùng nhiều giải thƣởng khác. Tiếp nối thành công, hai tác phẩm Mẫu thượng ngàn (2006), Đội gạo lên chùa (2011) nhận đƣợc sự chú ý và đánh giá cao trong giới văn học và công chúng. Nguyễn Xuân Khánh trở 2 thành tiểu thuyết gia hàng đầu của văn xuôi đầu thế kỷ XXI sau 10 năm với ba tác phẩm tiểu thuyết đƣợc công bố Hồ Quý Ly, Mẫu thượng ngàn, Đội gạo lên chùa. Những sáng tác của Nguyễn Xuân Khánh trở thành những tác phẩm tiêu biểu trong đời sống văn học. Quan niệm giá trị thƣờng không tồn tại nhƣ những tuyên ngôn trực tiếp, thuần khiết nên không dễ dàng trả lời thẳng thừng cho câu hỏi “Cái đẹp trong mỗi tác phẩm là gì?”: “Hồ Quý Ly”, “Mẫu thượng ngàn”, “Đội gạo lên chùa” nhà văn Nguyễn Xuân Khánh. Trong văn học giai đoạn sau năm 1975, một hệ quy chiếu đa chiều, đa diện đƣợc áp dụng để nhìn nhận cuộc sống trong từng chi tiết, sự kiện. Với lý do trên, tôi chọn đề tài luận văn tốt nghiệp: Tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh nhìn từ góc độ thẩm mĩ để thể hiện hiểu biết, nghiên cứu của mình nhằm đƣa ra ý kiến cá nhân về những giá trị thẩm mĩ mới trong tác phẩm của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh, đặc biệt là những sáng tạo nghệ thuật làm nên sức sống cho tác phẩm. 2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu Nguyễn Xuân Khánh là nhà văn sinh ra lớn lên giữa lòng Hà Nội, nhƣng lại đồng cảm sâu sắc với văn hóa truyền thống, tôn giáo tín ngƣỡng làng quê. Khi viết về tín ngƣỡng, tôn giáo, những tiểu thuyết của ông không chỉ là minh họa, triết luận giáo lý, đặc điểm của các tôn giáo tín ngƣỡng mà những tiểu thuyết ấy hòa cùng với niềm tin linh thiêng của ngƣời dân Việt Nam. Nguyễn Xuân Khánh tìm về tín ngƣỡng dân gian, tìm đến dấu ấn của Phật giáo trong văn hóa ngƣời Việt, không phải với tƣ cách một ngƣời truyền giáo, hay một nhà thần học, mà với tƣ cách nghệ sĩ - nghĩa là nơi khoa học dừng lại, nghệ thuật bắt đầu [17;399]. Cùng nhìn nhận về nhân vật, con ngƣời trong sáng tác của Nguyễn Xuân Khánh, Tiến sĩ Phạm Xuân Thạch cho rằng, nhân vật trong các tác phẩm của Nguyễn Xuân Khánh bị ràng buộc bởi muôn vàn mối quan hệ. Vì 3 thế, họ phân vân, mâu thuẫn trong những lựa chọn của mình, nhiều khi không thể hành động dứt khoát theo một ý thức hệ hoặc theo một lựa chọn chính trị nào. Nguyễn Xuân Khánh thể hiện góc nhìn khác về “cái làng Việt Nam” trải qua sóng gió của lịch sử, nơi đối kháng - hòa giải thƣờng xuyên lặp lại nhƣ một chu trình. Với con mắt của Nguyễn Xuân Khánh, mọi sự xung đột cũng đƣợc nhìn nhận, chịu tác động dƣới nhiều ý thức hệ khác nhau [67]. Theo đánh giá về những cách tân trong văn học của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh, Giáo sƣ Tiến sĩ Trần Đình Sử, Phó Giáo sƣ Tiến sĩ Nguyễn Thị Bình và Phó Giáo sƣ Tiến sĩ La Khắc Hòa, trong tọa đàm “Lịch sử và văn hóa trong tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh” của Viện Văn học và Nhà xuất bản Phụ nữ năm 2012, sự đổi mới theo hƣớng tiểu thuyết hóa nguyên tắc tự sự; đổi mới cấu trúc chuyện kể, ngôn ngữ, kết cấu tạo thành cuộc đối thoại giữa các lớp văn hóa. Với một chủ thể thống nhất, đã tạo ra ba khúc biến tấu Hồ Qúy Ly, Mẫu thượng ngàn và Đội gạo lên chùa. Theo nhà phê bình văn học Hoài Nam, bên cạnh những thành công, tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh vẫn còn những hạn chế. Sự sa đà vào việc trình bày các phong tục văn hóa, sự thiếu cụ thể ở những chi tiết thực đã khiến đọc tiểu thuyết của ông thích nhƣng chƣa “sƣớng”. Trƣớc nhƣng nhận xét của các chuyên gia phê bình văn học, Nguyễn Xuân Khánh cũng tự bộc bạch: “Tôi cũng nhận thấy những khiếm khuyết của mình khi sáng tác, nhƣ là sự nói dài, nhƣ khi viết về đạo Phật. Khi viết, tôi không quan tâm dài hay ngắn mà chỉ sợ mình thiếu đi sự lịch lãm và cái phông văn hóa sâu rộng. Tôi luôn tâm niệm: Mọi quan điểm, mọi ý kiến đều có chỗ đứng dƣới ánh mặt trời, cốt là hay. Xin hãy cho mọi ngƣời có quyền khác với mình, bởi các khuynh hƣớng sáng tác đều có độc giả của nó”. Lã Nguyên trong bài phê bình văn học: Những cách tân nghệ thuật trong Hồ Qúy Ly, Mẫu thượng ngàn và Đội gạo lên chùa cho rằng; cùng là lối 4 viết cổ điển (nhƣ đã nhận xét ở bìa “bốn” cuốn Đội gạo lên chùa), cùng một loạt các nhà văn cùng thời nhƣ Nguyễn Khải, Minh Châu, Ma Văn Kháng, Lê Lựu, Nguyễn Khắc Tƣờng,… nhƣng trong tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh, lối viết cổ điển ấy không đi nguợc hay mâu thuẫn với những đổi mới, cách tân trong nghệ thuật. Sáng tác của ông vừa thể hiện xu hƣớng của văn học thời đại nhƣng cũng mang đậm dấu ấn cá nhân. Sự làm việc kiên trì, bền bỉ của Nguyễn Xuân Khánh thể hiện bằng bộ ba tiểu thuyết Hồ Qúy Ly, Mẫu thượng ngàn và giờ là Đội gạo lên chùa đƣợc sáng tác trong hơn một thập kỷ. Những tiểu thuyết này ghi đƣợc dấu ấn mạnh mẽ trong giới văn đàn Việt Nam. Tiểu thuyết Đội gạo lên chùa của Nguyễn Xuân Khánh là một tác phẩm gây không ít những xôn xao dƣ luận trong giới nghệ thuật. Các góc cạnh khác nhau của tác phẩm đã và đang đƣợc đánh giá bởi các nhà phê bình và nghiên cứu văn học. Tiến sĩ Nguyễn Văn Tùng trong buổi tọa đàm “Nguyễn Xuân Khánh - Đội gạo lên chùa” của Hội Văn học và Nghệ thuật Hà Nội, nhận xét: Tiểu thuyết với lối viết mang đầy văn hóa truyền thống và kiến thức lịch sử phong phú, nhuần nhuyễn trong sử dụng ngôn ngữ, văn từ đẹp và trau chuốt đã lôi cuốn độc giả. Bằng việc gửi gắm những triết lý về cuộc sống, về nhân sinh quan của mình thông qua miêu tả đời sống nội tâm đa dạng của các nhân vật, tác phẩm Đội gạo lên chùa đã thể hiện sâu săc sự đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, cái đúng và cái sai. Cũng theo tiến sỹ Nguyễn Văn Tùng, nói về cảm hứng và nghệ thuật của tác phẩm thì tôn giáo chính là nguồn cảm hứng chủ đạo. Tác phẩm đã miêu tả đƣợc vai trò trong giai đoạn khó khăn giữa hai cuộc chiến tranh, kháng chiến của Phật giáo. Phật giáo trong giai đoạn chiến tranh thể hiện nhƣ một mái nhà che chở về tinh thần cho những số phận đau thƣơng mất mát, nơi giúp họ tìm về cái thiện trong tâm, vƣợt qua nỗi đau, khó khăn, khắc nghiệt, và vƣơn lên trong cuộc sống. Cũng tại buổi tọa đàm, nhà 5 văn Hoàng Quốc Hải cho rằng tiểu thuyết Đội gạo lên chùa thể hiện sự hòa quyện giữa văn hóa bản sắc Việt Nam và Phật giáo trong đời sống. Văn hóa, Phật giáo đã song hành với dân tộc, con ngƣời Việt Nam trải qua hai cuộc chiến tranh vệ quốc. Sự hòa quyện giữa tôn giáo và văn hóa làm nên văn hóa nguời Việt, tuy nhiên để phản ánh sự hòa quyện đó thông qua văn học là điều không dễ dàng. Tuy nhiên, Nhà phê bình Nguyễn Thị Minh Thái lại cho rằng sự nghiền ngẫm, nghiên cứu về Phật giáo và những trải nghiệm những cuộc đời ở lứa tuổi “xƣa nay hiếm” của Nguyễn Xuân Khánh đã mang tới nhiều thành công đặc sắc cho tác phẩm [61]. Theo Mai Anh Tuấn trong Tiểu thuyết như một tham khảo Phật giáo (Đọc Đội gạo lên chùa, Nguyễn Xuân Khánh, Nhà xuất bản Phụ nữ, 2001) đăng trên tạp chí Nhà văn tháng 8 năm 2001, nhận xét về chất Phật giáo đƣợc thể hiện trong tác phẩm Đội gạo lên chùa của Nguyễn Xuân Khánh đã coi cuốn tiểu thuyết là tác phẩm mang dấu ấn Phật giáo ngay từ cái tiêu đề, và tiếp theo cái nguồn cảm xúc phật giáo ấy, đã hƣớng ngƣời đọc vào dòng cảm xúc , tri thức chốn cửa thiền với không gian trang nghiêm, e dè, trong nét văn hoá riêng biệt. Từ đó, cái phi lý, cái oái oăm thú vị là chính trong không gian những tƣởng vô cùng trang nghiêm và thanh tịnh ấy, là hình ảnh ba cô thôn/ thiếu nữ với một cô yếm thắm xinh đẹp nổi bật đến mức nhà sƣ bị bỏ bùa, bị ốm tƣơng tƣ, quả thật là một sự tƣơng phản không dễ giải thích. Nét dí dỏm, thông thái đã xí xóa sự khiếm nhã, để chỉ còn lại thức nhận mối quan hệ tinh tế, sự chuyển hóa lạ thƣờng giữa đời và đọa, giữa kẻ tu hành và ngƣời cõi tục. Theo cái nhìn của nhà văn Trần Thanh Giao qua bài viết “Thử nhìn Đội gạo lên chùa qua góc độ “cổ điển mới”, khi mới nhìn qua tiểu thuyết Đội gạo lên chùa có bố cục rất cổ điển với ba phần, mỗi phần lại chia thành chƣơng, nhiều ít không đều nhau, nhƣng tất cả phần, chƣơng đều có tiêu đề. Cách chia này làm cho tác phẩm mang tính cổ điển nhƣng cũng mang nhiều “tính mới” [65]. 6 Cuốn khảo cứu Triết lý văn hóa và triết luận văn chương của Hoàng Ngọc Hiến có thể coi nhƣ sự tìm hiểu một cách khái quát về mối quan hệ song hành giữa văn học và triết học. Còn các luận văn nhƣ Triết luận trong truyện ngắn Nguyễn Khải (Nguyễn Thị Huấn - Luận văn thạc sĩ Ngữ văn - Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2002), Chất triết luận trong Trường ca Thanh Thảo (Hoàng Thị Thu Hƣơng - Luận văn thạc sĩ Ngữ văn 2009, Từ cảm hứng triết luận tôn giáo đến nhân vật trong Đội gạo lên chùa (Nguyễn Thị Mai Hƣơng Luận văn thạc sĩ Ngữ văn - Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2012). Những công trình nghiên cứu kể trên ngƣời viết cất công đi tìm hiểu sự thể hiện của triết luận trong sáng tác của các tác giả cụ thể để làm rõ những tƣ tƣởng mới mẻ của những nghệ sĩ ngôn từ trong việc khái quát các vấn đề của cuộc sống. Đề tài văn hóa, lịch sử xã hội từ lâu đã trở thành chủ đề quen thuộc trong sáng tác của nhiều tác giả, với nhà văn Nguyễn Xuân Khánh, tác phầm của ông mặc dù không nhiều nhƣng mang tính đột phá nhận đƣợc sự tôn trọng và đánh giá cao của giới nghiên cứu, phê bình. Tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn là một trong những tác phẩm đuợc ghi nhận thể hiện cho phong cách viết văn của Nguyễn Xuân Khánh trong những năm gần đây. Xét về phƣơng diện nội dung, nhà nghiên cứu Châu Diên trong Nguyễn Xuân Khánh và cuộc giành lại bản sắc, báo Tuổi Trẻ ra ngày Chủ nhật 16-72006 cho rằng Mẫu Thượng Ngàn là cuốn tiểu thuyết khắc hoạ nhân vật không còn là những thân phận riêng lẻ mà là cả một cộng đồng mang nên nó mang tầm khái quát văn hóa. Với tác giả Lê Thị Thanh Bình, nếu không có tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn thì cái bản sắc văn hoá Việt Nam sang trọng trong mƣời năm trở lại đây sẽ bớt đi rất nhiều. Nhà văn Nguyên Ngọc trong Tọa đàm về tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Xuân Khánh cũng có đánh giá tác giả về tác phẩm Mẫu Thượng Ngàn nhƣ ngƣời là “đã trả lời câu hỏi đã đƣợc nêu 7 ra và đƣợc hàng trăm, nếu không nói hàng nghìn nhà nghiên cứu tìm cách lý giải từ rất lâu về Văn hóa Việt, bản sắc văn hóa Việt”. Bên cạnh những nhận xét, đánh giá phƣơng diện nội dung qua ý kiến trên thì còn có các công trình, nhận xét nghiên cứu về hình thức nghệ thuật của Mẫu Thượng Ngàn. Nhà văn Nguyễn Thị Bình trong bài viết Tiểu thuyết Việt Nam sau năm 1975 một cái nhìn khái quát đã nhấn mạnh nhu cầu đổi mới tƣ duy nghệ thuật của ngƣời viết trong cái nhìn tổng quát về tiểu thuyết đổi mới trong đó có đề cập đến vấn đề cách tân trong sáng tác của Nguyễn Xuân Khánh, đồng thời đánh giá Mẫu Thượng Ngàn là một tác phẩm đi đầu trong việc dẫn dắt sự đổi mới trong phong cách viết văn. Giáo sƣ Phong Lê cũng nhấn mạnh: “Ngòi bút thể hiện đƣợc cái tầm suy nghĩ của lịch sử, văn hoá đã đuợc thể hiện trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh”. Nhà văn Châu Diên cũng trong bài: Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh và cuộc giành lại bản sắc đăng trên báo Tuổi trẻ chủ nhật ra ngày16/7/2006 thì Mẫu Thượng Ngàn lấy ý tƣởng từ cuốn Làng nghèo đƣợc nhà văn viết trong thời kỳ chiến tranh nhƣng không đƣợc xuất bản. Nhà văn Châu Diên khẳng định việc viết lại cuốn tiểu thuyết đã biến từ một cuốn tiểu thuyết bậc trung, hiện thực tàm tạm thành tiểu thuyết mang tầm khái quát văn hóa thông qua việc miêu tả một cộng đồng chứ không còn là một cá nhân riêng lẻ. Hoài Nam trong bài Sức hấp dẫn của cái được viết, Báo Văn nghệ số 29 ra ngày 22/7/2006 đã lí giải nguyên lí văn hóa Việt đƣợc nhà văn thể hiện trong Mẫu Thượng Ngàn là “nguyên lí tính nữ” “đƣợc tƣợng hình qua ngƣời phụ nữ và những phẩm chất thiên bẩm của ngƣời phụ nữ đó là: “Sự mềm dẻo uyển chuyển, khả năng sinh sản, sự nhẫn nhịn và năng lực mềm dẻo có thể hóa giải những mâu thuẫn căng thẳng. Những ngƣời đàn bà trong Mẫu Thượng Ngàn đều đẹp và đều truân chuyên. 8 Nguyễn Sĩ Đại trên báo Nhân dân có bài Mẫu Thượng Ngàn và những câu chuyện tình yêu (số 31 ra ngày 30/7/2006) cho rằng tình yêu ở đây đƣợc Nguyễn Sĩ Đại nhìn nhận ở nhiều mặt, rộng lớn nhƣ tình yêu quê hƣơng, yêu con ngƣời đồng bào, và cả tình yêu nam nữ: “Đó là những cặp vú giỏ ấm tích, những đêm trăng ngà ngọc dâng hiến, những chờ đợi câm lặng cả một đời ngƣời, những trái tim rạo rực đập về cuộc sống nhƣ Nhụ, nhƣ Hoa, nhƣ bà Váy, cô Ngơ, chị ba Pháo… Không chỉ tình yêu nam nữ, tình yêu đối với đất đai, mùa màng, với những ngày hội…”. Tất cả đều thể hiện tình yêu, nguồn sống mãnh liệt, tuơi trẻ bất diệt bất chấp khó khăn, nghèo đói, thù oán, chiến tranh. Tiểu thuyết tiêu biểu Hồ Qúy Ly lại là một tác phẩm dã sử, một tác phẩm mà ai cũng phải nhắc đến nhƣ một cây đại thụ trong dòng tiểu thuyết dã sử văn học hiện đại Việt Nam. Cũng chính từ tác phẩm gây nên cơn địa chấn trong những năm 90 này, Nguyễn Xuân Khánh đã vƣơn lên nổi bật giữa rừng văn, khiến tất cả các nhà văn, độc giả đều nhìn thấy. Hoàng Cát trong Tạp chí Sách (số 11/2000) với bài viết Tiểu thuyết Hồ Quý Ly - thưởng thức và cảm nhận đánh giá đây là một tác phẩm tiểu thuyết mang ý nghĩa sâu xa, đa chiều, mang bối cảnh rộng lớn, thu hút ngƣời đọc, lôi cuốn bởi rất nhiều yếu tố với lối viết văn “trang nhã, đẹp, sâu sắc”, “tính hữu ích lắng đọng mà nó hàm chứa, với một tính khái quát tƣơng đối cao, nghiêm túc”. Ở Hồ Quý Ly “giữa sự thật lịch sử và sự sáng tạo, hƣ cấu của nhà văn tƣơng đồng, tƣơng hỗ và logic đến mức nhuần nhị, hấp dẫn nhƣ thể câu chuyện đang xảy ra ngay trƣớc mắt chúng ta”. Có rất nhiều ý kiến của các chuyên gia văn học nhìn nhận tác phẩm dƣới nhiều góc cạnh, nhiều phƣơng diện trong hội thảo về tiểu thuyết Hồ Quý Ly (Trên báo Văn nghệ số 41 tháng 10/2000). Theo nhà văn Hoàng Quốc Hải: “Cuốn tiểu thuyết dã sử nhƣng bám rất sát chính sử, nhà văn đã viết rất nghiêm túc với lối văn mƣợt mà, giàu sức lôi cuốn khiến cho độc giả vẫn 9 muốn đọc lại sau khi đọc hết hơn 800 trang sách”. Nhà văn Hoàng Tiến quan tâm đến vấn đề kẻ sĩ: “Với tôi, góc độ tiếp xúc là ở đề tài: thân phận kẻ sĩ: Hồ Nguyên Trừng, Nguyễn Cẩn, Sử Văn Hoa, Phạm Sinh, cụ lang Phạm Công, sƣ Vô Trụ, cụ Lang Điền, đạo sĩ Thanh Hƣ, đạo sĩ Bạch Hạc, cụ Sƣ Hiền, Đoàn Xuân Lôi (Trợ lí quốc tử giám)…”. Trần Thị Thƣờng lại chú ý đến hình tƣợng Những nhân vật nữ trong tiểu thuyết Hồ Quý Ly: “Tôi nhớ đƣợc mƣời bốn ngƣời phụ nữ trong cuốn sách này, mƣời bốn số phận, mƣời bốn tính cách và mƣời bốn lối ứng xử. Có lẽ Nguyễn Xuân Khánh đã dành một phần đáng kể tri thức và tình cảm của mình cho những trang viết về ngƣời phụ nữ”. Còn nhà văn Hồ Anh Thái nhận xét: “Cuốn sách đã làm tốt cả hai yếu tố thể loại: Tiểu thuyết và lịch sử”. Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên trong bài đọc Hồ Quý Ly đăng trên Tạp chí Tia sáng số 1/2001 đã chứng minh chất tiểu thuyết ƣu trội của tác phẩm, khác với những tiểu thuyết lịch sử trƣớc đó, bởi những tác phẩm trƣớc “phần sử nặng hơn, át hơn phần tiểu thuyết”. Tác giả Nguyễn Xuân Khánh rất tôn trọng sự thật lịch sử nhƣng với tƣ cách là một nhà văn, Nguyễn Xuân Khánh đi sâu vào đời sống bên trong nhân vật để phân tích, lí giải: “Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh không dám vi phạm gì lịch sử, ông theo đúng biên niên sử quan các đời đã biên chép, nhƣng là nhà tiểu thuyết ông nhìn vào bên trong con ngƣời, cố hình dung và diễn tả những vận động tinh thần của con ngƣời quan trọng trong dòng chảy của lịch sử mấy trăm năm trƣớc. Ông đã làm đƣợc điều này; mỗi nhân vật lịch sử đƣợc khắc hoạ trong tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh mang những mâu thuẫn giằng xé cá nhân, một bên là những vấn đề thúc bách tất yếu của lịch sử, một bên là đòi hỏi, cá tính tất yếu con ngƣời, trƣớc khó khăn, thử thách của vận mạng của đất nƣớc, chúng dân. 10 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục tiêu nghiên cứu Luận văn đề xuất một cách tiếp cận mới đối với tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh: tiếp cận từ góc độ mĩ học. Từ góc nhìn này, chúng tôi sẽ làm nổi bật sự đa dạng của hệ giá trị thẩm mĩ mà Nguyễn Xuân Khánh đã miêu tả một cách xuất sắc các tiểu thuyết của ông. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn Tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh nhìn từ góc độ thẩm mĩ làm sáng tỏ: cái đẹp, cái bi, cái phi lý thông qua ba tiểu thuyết Đội gạo lên chùa, Mẫu thượng ngàn và Hồ Qúy Ly. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tƣợng nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là Tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh nhìn từ góc độ thẩm mĩ. 4.2. Phạm vi nghiên cứu *Về ngữ liệu: Nhằm phục vụ hƣớng nghiên cứu, tôi sử dụng ba tiểu thuyết đã từng đoạt giải cao, đƣợc sự chú ý và đánh giá cao: Đội gạo lên chùa, Hồ Qúy Ly và Mẫu thượng Ngàn làm đối tƣợng khảo sát chính. *Về lí thuyết: Luận văn nghiên cứu giá trị thẩm mĩ trong các tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh trong hệ thống văn xuôi Việt Nam. Thông qua việc nghiên cứu ba tiểu thuyết cụ thể cho thấy sự khác biệt về ứng dụng các hệ thống giá trị thầm mỹ trong việc phân tích các tác phẩm của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh. 11 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài áp dụng một số phƣơng pháp truyền thống thƣờng xuyên sử dụng trong nghiên cứu văn học nhƣ so sánh, phân loại, phân tích, tổng hợp… Ngoài ra, luận án còn sử dụng các phƣơng pháp chủ yếu sau: - Phƣơng pháp phân tích thẩm mĩ: Nhằm làm rõ sự đa dạng thẩm mĩ của tiểu thuyết trong hệ thống văn học Việt Nam, cần phân tích những phẩm chất, giá trị thẩm mĩ của các tác phẩm. Giá trị thẩm mĩ là những phẩm chất tạo nên khoái cảm thẩm mĩ, khoái cảm tinh thần, nhƣ cái đẹp, cái cao cả, cái bi, cái hài, cái cảm thƣơng…Để làm rõ vấn đề thẩm mỹ, cần phân biệt giữa giá trị thẩm mĩ và giá trị nghệ thuật. Giá trị nghệ thuật là phẩm chất của các phƣơng tiện nghệ thuật trong việc tạo ra giá trị thẩm mĩ. Phƣơng pháp phân tích thẩm mĩ đƣợc vận dụng đối với nhiều cấp độ đối tƣợng và thƣờng xuyên kết hợp với các phƣơng pháp khác. - Phƣơng pháp tiếp cận thi pháp học: Văn học, qua sự cắt nghĩa thi pháp đã bộc lộ đƣợc bản chất sáng tạo trong tính quan niệm, giá trị sâu sắc của bản thể văn chƣơng Thi pháp học hiện đại đã đƣợc ứng dụng nghiên cứu thành công ở Việt Nam. Những biểu hiện của thi pháp tác phẩm, tác giả, lịch sử văn học…là căn cứ để xác thực những biểu hiện thẩm mĩ của văn học Việt Nam giai đoạn sau năm 1975. - Phƣơng pháp tiếp cận hệ thống: Cái nhìn hệ thống cũng sẽ giúp chúng tôi lí giải sự tƣơng tác, chuyển hóa giữa các phẩm chất thẩm mĩ. Nghiên cứu sự đa dạng cần đồng thời với một cái nhìn về hệ thống thẩm mĩ mới của văn xuôi Việt Nam sau 1975. 6. Giới thiệu bố cục luận văn Bố cục luận văn gồm có 4 phần Mở đầu, phần nội dung, phần Kết luận, Tài liệu tham khảo. Nội dung của luận văn có bố cục thành 3 chƣơng: 12 - Chƣơng 1: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh trong sự vận động của Văn xuôi Việt Nam đƣơng đại - Chƣơng 2: Quan niệm thẩm mĩ trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh. - Chƣơng 3: Hệ thống thẩm mĩ trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh. 13 CHƢƠNG 1 TIỂU THUYẾT NGUYỄN XUÂN KHÁNH TRONG SỰ VẬN ĐỘNG CỦA VĂN XUÔI VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI 1.1. Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh trong bối cảnh lịch sử văn hóa Chiến tranh bom đạn đã đi qua, đất nƣớc ta mở ra một trang sử mới và những yêu cầu, thách thức đƣợc đặt ra với bao bề bộn, lo toan, với nhiều thăng trầm đổi mới. Chứng kiến hình ảnh đất nƣớc đang thay da đổi thịt tiến lên hàng ngày, nền văn học cũng không thể dậm chân tại chỗ trong những ý niệm truyền thống. Việc khắc hoạ đời sống, con ngƣời trong thời đại mới, với những tƣ duy mới đặt ra nhƣ một đòi hỏi tất yếu trong đời sống văn chƣơng. Và trong khoảng giữa những năm 80 văn học phát triển, hình thành nên một hình thái lý tƣởng, một hệ thống các giá trị thẩm mỹ mới thay thế cho hệ thống giá trị thẩm mĩ cũ không còn phù hợp, đây đƣợc coi là vận động mang tính đổi mới tất nhiên của lịch sử văn học. Hệ giá trị này đuợc coi là phản ánh lý tƣởng thẩm mĩ của văn học giai đoạn sau 1975. Nghị quyết 05 của Bộ chính trị đã khẳng định tinh thần thế hệ mới, một tinh thần nhân đạo cộng sản chủ nghĩa đƣợc thể hiện qua tiếng nói trung thực, tự do, đầy trách nhiệm của văn học. Tiếng nói đó phản ánh nguyện vọng sâu xa của quần chúng, là tiếng nói của lƣơng tri, của sự thật và quyết tâm của Đảng trong việc đƣa đất nƣớc thực hiện đổi mới thắng lợi. Trong báo cáo chính trị đại hội VI của Ban chấp hành Trung ƣơng đã chỉ ra Đảng ta nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nhìn thẳng vào sự thật để đánh giá đúng tình hình, đây là thái độ nhất quán của Đảng. Mặt khác, trong thời ký này, khả năng phản ánh đời sống của văn xuôi, tiểu thuyết còn hạn chế do chƣa bắt đƣợc với loại hình nội dung mới, vì thế chƣa phát huy hết những thế mạnh của loại hình. Giáo sƣ Phan Cự Đệ nêu ra rất nhiều những vấn đề cho 14 nền văn xuôi mới: “Làm sao cho tầm nhìn, tầm khái quát chất tƣ duy, chất trí tuệ sâu hơn, cao hơn những cái ta đã có trong bút kí, truyện ngắn, truyện dài hiện nay, làm sao cho nền văn xuôi của ta không chỉ giải đáp những câu hỏi còn trăn trở của đất nƣớc, dân tộc mà còn nhạy bén hơn với các vấn đề lớn của thời đại. Đó cũng chính là yêu cầu tất yếu của cuộc sống mới, của công chúng văn nghệ, họ "đang cần những cuốn sách tự vấn, những cuốn sách giúp họ nhận thức lại mình"” [15]. “Văn học nào cũng hƣớng con ngƣời tới một thế giới vĩnh cửu, soi sáng cuộc đời trong viễn cảnh của các giá trị bất diệt, vĩnh hằng” [49]. Đời sống thay đổi, mong muốn cũng từ đó mà thay đổi theo, hệ giá trị đời sống, hệ giá trị thẩm mĩ cũng từ đó mà phải thay đổi, thích nghi. Mối quan hệ văn học với đời sống, công chúng tạo nên sự khác biệt lớn về tƣ duy, hình thái nghệ thuật trong thực tế xã hội thay đổi nhanh chóng, mạnh mẽ đã làm nên thay đổi mang tính bƣớc ngoặt với nhu cầu thẩm mĩ của văn học. Nguyễn Minh Châu, "ngƣời mở đƣờng tinh anh và tài năng" đã khai phá hiện thực cuộc sống với "những vấn đề còn ẩn náu". Theo ông, ngƣời cầm bút không những không đƣợc phép biến những cánh rừng già của đời sống thành những vƣờn cây cảnh, biến những trái núi cuộc đời thành những hòn non bộ xinh xẻo mà cao sâu hơn, văn học thể hiện những chiêm nghiệm có tính khái quát, triết lý của cả một đời ngƣời viết văn. Tạ Duy Anh trong tác phẩm Bước qua lời nguyền cũng quan niệm về hiện thực cuộc sống đa diện có thiện, có ác, đúng sai, thiên thần và ác quỷ, nhà văn có khả năng viết về cái thiện hay cái ác, “nhƣng dù viết về cái gì thì giá trị lớn nhất mỗi nhà văn tạo giá trị thẩm mỹ, phải là hƣớng tới cái đẹp, cái chân, cái thiện”. Một vấn đề xuất hiện đối với ngƣời nghệ sĩ trong quá trình đổi mới tƣ duy đó là nhà văn phải vƣợt ra khỏi những hiểu nhầm vƣơng giả, hành trình thoát khỏi đó không hề dễ dàng mà các nhà văn đều phải đối mặt với những nhận thức truyền 15 thống cộng đồng. Sự không hài lòng luôn tiềm ẩn trong tính thƣờng trực của ngƣời nghệ sĩ, những khao khát cháy bỏng đến tận cùng sẽ luôn ở phía trƣớc và ngƣời nghệ sĩ chƣa bao giờ đạt tới. Đằng sau những điều chƣa đạt đó, khát vọng của mỗi nhà văn đều muốn đứa con tinh thần của mình phải là nơi thể hiện đƣợc phần khuất lấp trong sâu thẳm linh hồn của con ngƣời trong mỗi hoàn cảnh cuộc sống. Nguyễn Huy Thiệp từng đề cao vấn đề nhân tính nhƣ mối quan tâm hàng đầu trong ý thức thẩm mỹ của ông. Theo Nguyễn Huy Thiệp, văn học giá trị luôn đề cao nhân tính, nếu nhƣ không xuất hiện những tác phẩm văn học hay, có giá trị nhân văn thì giá trị xã hội, nhân tính đang bị xói mòn đi. Bảo Ninh với tinh thần nghệ thuật cách tân, luôn muốn các tác phẩm văn học của phải mang "vẻ đẹp của quân đội". Vẻ đẹp quân đội theo ông là sự mềm dẻo, chừng mực chứ không phải sự hung hăng. Trong các sáng tác của mình, Bảo Ninh cũng thể hiện cái nhìn mang tính cá nhân sau một thời gian chiêm nghiệm đề nhận xét, soi rọi vào những góc khuất của sự việc, sự vật chứ không có ý định tái hiện hiện thực [64]. 1.2. Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh trong sự vận động đổi mới quan niệm về hiện thực và con ngƣời Đời sống của văn học sau 1975 so với các sáng tác ở thời kỳ truớc thể hiện nét phong phú và đa dạng hơn nhiều. Cuộc sống trong các tác phẩm đƣợc xây dựng theo những cấu trúc khác trƣớc với những cái ngẫu nhiên, nghịch lí trong các tình huống thế sự. Không chỉ là nghịch lí chiến tranh mà còn cả những nghịch lí, phi lí của cuộc sống hậu chiến với bao bề bộn, dang dở. Đây là điều tất yếu của hoàn cảnh mới, bởi vì chỉ ở đó các ngòi bút mới có thực tế, có điều kiện nhìn nhận cuộc sống con ngƣời, vận động xã hội và sự tác động phức tạp của nó đến mỗi cuộc đời, đến các mối quan hệ một cách sâu sắc hơn. Cuộc sống với rất nhiều góc cạnh đã bƣớc vào các trang văn với tính thời sự sâu sắc, sự thƣờng nhật trong đời thƣờng hiện ra với 16 những Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng), những Tướng về hưu (Nguyễn Huy Thiệp), những Mê lộ (Phạm Thị Hoài), cuộc sống là cả Một cõi nhân gian bé tý với những Vòng sóng đến vô cùng (Nguyễn Khải). Nghĩa là một cuộc sống đƣợc nhìn nhận đa chiều, đa diện với những vấn đề bức súc nóng hổi. Văn học sau 1975 đã giảm dần giọng điệu sử thi ca ngợi, thay vào đó là chất suy tư đối thoại. Nhà văn Nguyễn Thị Bình trong Mấy nhận xét về nhân vật của văn xuôi Việt Nam sau 1975, đó là sự đối thoại giữa những nguyên tắc cộng đồng với đời sống cá nhân muôn vẻ (Bức tranh, Chiếc thuyền ngoài xa...); đối thoại giữa cái đúng, cái tốt cái thiện (Bức tranh); đối thoại với cái nhìn lịch sử đã quen thuộc (Cỏ lau, Phiên chợ Giát..); đối thoại với quan niệm lí tƣởng hoá về con ngƣời hay những tƣ tƣởng một chiều về sức mạnh quần chúng, với quan niệm phiến diện duy lí thuần tuý về sự vận động tất yếu của cuộc sống, đối thoại giữa lịch sử và hiện tại; đối thoại giữa bản lĩnh, cá tính và chính số phận họ.... Nghĩa là một loạt những mâu thuẫn, phức tap của cuộc đời mỗi nhân vật đặt ra một câu hỏi yêu cầu mọi ngƣời phải suy nghĩ, đối chất. Nghĩa là một cuộc đối chất đa dạng và gay gắt mà dƣờng nhƣ không có ai là ngƣời ngoài cuộc. Trong cuộc sống bề bộn nhƣ vậy, các nhà văn nhận thấy đƣợc những điều chƣa biết, không thể biết, những yêu cầu khám phá, tìm tòi về hiện thực đã xuất hiện. Các ngòi bút đã lựa chọn một khía cạnh của thực tế để truyền tải tƣ tƣởng của mình, cách đánh giá của mình. Chính vì vậy mà bản thân hiện thực có khi không quan trọng bằng cách đánh giá của nhà văn. Điều này sẽ gắn với tinh thần dân chủ mà văn học sau 1975 đã và đang vƣơn tới [8]. Khái quát những sáng tác văn xuôi sau 1975, đặc biệt là đối với tiểu thuyết ta nhận thấy sự chuyển biến rõ rệt trong tƣ duy, khái niệm nghệ thuật, trong đó có quan niệm về bản chất, chức năng văn chƣơng, cũng nhƣ tƣ duy, khái niệm nghệ thuật về hình tƣợng con ngƣời chuyển từ quan niệm con
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng