Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Sư phạm Tính hiện thực trong nghệ thuật chạm khắc trang trí cổ đình làng trù mật, xã văn...

Tài liệu Tính hiện thực trong nghệ thuật chạm khắc trang trí cổ đình làng trù mật, xã văn lung, thị xã phú thọ, tỉnh phú thọ

.PDF
83
1
61

Mô tả:

TRƢỜN ĐẠI HỌ HÙN VƢƠN KHOA NGHỆ THUẬT NGUYỄN THỊ THU HIỀN TÍNH HIỆN THỰC TRONG NGHỆ THUẬT CHẠM KHẮC TRANG TRÍ CỔ ĐÌNH LÀN TRÙ MẬT XÃ VĂN LUN – THỊ XÃ PHÚ THỌ - TỈNH PHÚ THỌ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Ngành Sƣ phạm Mỹ thuật PHÚ THỌ, 2017 TRƢỜN ĐẠI HỌ HÙN VƢƠN KHOA NGHỆ THUẬT NGUYỄN THỊ THU HIỀN TÍNH HIỆN THỰC TRONG NGHỆ THUẬT CHẠM KHẮC TRANG TRÍ CỔ ĐÌNH LÀN TRÙ MẬT XÃ VĂN LUN – THỊ XÃ PHÚ THỌ - TỈNH PHÚ THỌ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Ngành Sƣ phạm Mỹ thuật GIẢN V ÊN HƢỚNG DẪN: ThS. Hoàng Bá H ng PHÚ THỌ, 2017 LỜ ẢM ƠN Được sự phân công của khoa Nghệ Thuật, trường Đại học Hùng Vương và sự đồng ý của thầy giáo hướng dẫn TH.S Hoàng Bá Hồng em đã thực hiện đề tài “Tính hiện thực trong nghệ thuật chạm khắc trang trí cổ đình làng Trù Mật, xã Văn Lung, thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ”. Để hoàn thành khóa luận này, em xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thầy TH.S Hoàng Bá Hồng, đã tận tình hướng dẫn trong suốt quá trình viết luận văn tốt nghiệp. Em chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô trong khoa Nghệ Thuật , Trường Đại Học Hùng Vương đã tận tình truyền đạt kiến thức trong những năm em học tập. Em xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo xã Văn lung, thị xã Phú Thọ,tỉnh Phú Thọ và Ban quản lí đình đền Trù Mật thuộc xã Văn lung, thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ đã giúp đỡ em trong quá trình tìm hiểu về các họa tiết chạm khắc cũng như lịch sử hình thành đình đền Trù Mật. Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài này một cách hoàn chỉnh nhất. Song trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu bản thân em còn nhiều hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm nên không thể tránh khỏi những thiết sót nhất định mà bản thân chưa thấy được. Em rất mong nhận được sự góp ý của quý thầy, cô giáo và các bạn đọc để khóa luận của em được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Phú Thọ, tháng 5 năm 2017 Sinh viên thực hiện Hiền Nguyễn Thị Thu Hiền MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1 2. Tình hình nghiên cứu .................................................................................... 3 3. Mục tiêu của đề tài ........................................................................................ 3 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 4 5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 4 6. Dự kiến kết quả nghiên cứu .......................................................................... 4 PHẦN N I DUNG ........................................................................................... 5 Chương 1: Khái quát lịch sử hình thành và đặc điểm của nghệ thuật chạm khắc đình làng Bắc bộ Việt Nam ...................................................................... 5 1. 1. Nguồn gốc và chức năng của đình làng (Bắc bộ Việt Nam) .................... 5 1.1.1. Nguồn gốc ............................................................................................... 5 1.1.2. Chức năng đình làng ............................................................................... 8 1.2. Tổng quan về làng Trù Mật, xã Văn Lung, thị xã Phú Thọ ..................... 17 1.2.1. Vị trí địa lý ............................................................................................ 17 1.2.2. Lịch sử hình thành làng ......................................................................... 18 1.3. Nét khái quát về nghệ thuật chạm khắc đình làng Việt Nam ở Bắc Bộ ..... 24 1.3.1. Khái quát về nghệ thuật chạm khắc trang trí cổ.................................... 24 1.3.2 Khái quát về nghệ thuật đình làng Trù Mật, xã Văn Lung, thị xã Phú Thọ .................................................................................................................. 26 Tiểu kết chương 1............................................................................................ 26 Chương 2: ........................................................................................................ 28 Tính hiện thực trong nghệ thuật chạm khắc đình làng Trù Mật ..................... 28 2.1. Hiện thực trong đời sống vật chất, tinh thần và tâm linh làng Trù Mật .. 28 2.2. Tính hiện thực trong nội dung, hình thức nghệ thuật chạm khắc đình làng Trù Mật thông qua các mô típ trang trí ........................................................... 31 2.2.1. Trong nội dung chạm khắc trang trí ...................................................... 31 2.2.2. Trong hình thức nghệ thuật trang trí, thủ pháp tạo hình ....................... 42 Tiểu kết chương 2: .......................................................................................... 62 Chương 3: Phát huy, bảo tồn những giá trị văn hóa, ...................................... 63 nghệ thuật trang trí đình làng Trù Mật ............................................................ 63 3.1. Phát huy và phát triển những giá trị văn hóa, nghệ thuật trang trí đình làng Trù Mật. ................................................................................................... 63 3.2. Bảo tồn những giá trị văn hóa, nghệ thuật trang trí đình làng Trù Mật ..... 66 3.3. Bảo tồn và phát huy giá trị vốn cổ thị xã Phú Thọ ................................... 69 3.4. Đề xuất giải pháp bảo tồn giá trị nội dung nghệ thuật trong chạm khắc trang trí đình Trù Mật ...................................................................................... 70 Tiểu kết chương 3 ............................................................................................ 71 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 74 1.Phần kết luận chung ..................................................................................... 74 2.Kiến nghị, đề xuất......................................................................................... 75 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 76 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trước các biến động của lịch sử - xã hội, dường như có rất nhiều giá trị văn hóa đã nảy sinh hoặc là quy tụ về với làng, làm cho văn hóa trở nên đa dạng, phong phú trong tính tự trị riêng của nó. Trải qua bao nhiêu thăng trầm, biến cố của lịch sử, con người đã không ngừng đấu tranh để vươn lên, không ngừng sáng tạo để sản sinh ra những đứa con tinh thần cho cuộc sống. Một trong những sản phẩm của sự sáng tạo đó là đình làng, nơi sản sinh, hội tụ các yếu văn hóa dân gian. Ở mỗi vùng nông thôn Việt Nam, hình ảnh cây đa, mái đình đã trở thành biểu tượng của văn hóa đời sống, gắn bó mật thiết với những hoạt động, sinh hoạt của người dân. Đình làng là nơi thờ Thành Hoàng làng, người có công đầu sáng lập làng xã, hoặc các anh hùng dân tộc... Ngoài ra, đình làng còn là nơi sinh hoạt văn hóa, hội hè... là trụ sở hành chính của chính quyền làng xã, nơi giải quyết mọi vấn đề, mọi công việc theo quy ước của làng. Do vậy, kiến trúc đình làng được trú trọng, phát triển mạnh. Gắn chặt với kiến trúc là nghệ thuật trang trí đình làng. Những chạm khắc đình làng đã được thể hiện trên các vì kèo, đầu bẩy, xà... mà ở đó những nghệ sĩ dân gian đã gửi gắm những tâm tư, tình cảm của mình, ngoài những mảng hoa văn như một sự kế tiếp truyền thống trước đó, những đề tài như loài vật, thảo mộc. Chạm khắc ở đình làng không những là tài liệu để nghiên cứu đời sống ngày thường của người xưa cũng như tâm hồn người nghệ sĩ nông dân Việt Nam. Trên thực tế, có nhiều cách hiểu về hiện thực rất khác nhau: hiện thực là cái có thực trong cuộc sống xung quanh như thiên nhiên, đồ vật, đời sống con người được mô phỏng giống hệt, y chang ngoài cuộc sống... Cái đẹp ngoài thiên nhiên, cuộc sống và trong nghệ thuật phải chăng là do nghệ sĩ tạo nên trong trang trí đình làng? Cái nhìn của ông cha ta xưa kia, của nghệ sĩ dân gian, lối diễn tả hiện thực với những khát vọng về cuộc sống có gì cần phải bàn bạc đến? Cái gì qui định họ trong lối diễn tả hiện thực? Những người quan niệm rằng thực tại còn có cả đời sống tâm linh, niềm 2 tin tôn giáo, các huyền thoại và truyền thuyết. Đây là vấn đề cần bàn luận và cần có sự hiểu thấu đáo về nó. Nghệ thuật chạm khắc đình làng Việt Nam đóng góp những thành tựu nghệ thuật và ảnh hưởng không nhỏ cho tới nền mĩ thuật Việt Nam trong suốt cả thế kỷ IX đến XX. Trong giai đoạn hiện đại nội dung thể hiện trong các tác phẩm chạm khắc đình làng được mở rộng, đề tài sáng tác phong phú. Ngôn ngữ của chạm khắc đình làng cũng vượt qua cả khái niệm chạm khắc đơn thuần. Hệ thống nét, hình, phương pháp chạm khắc không còn câu nệ vào một cách làm truyền thống nào. Nhiều kỹ thuật, thủ pháp làm mới được bổ sung, ngôn ngữ thay đổi làm đa dạng và phong phú thêm cho loại hình nghệ thuật này. Đã có nhiều tác phẩm đạt tới sự thành công nhất định, thể hiện được vẻ đẹp tinh tế qua chất liệu, được nhìn nhận và đánh giá cao trong xu thế hội nhập và phát triển với nền hội họa thế giới. Đình làng Trù Mật là di tích lịch sử cấp quốc gia có lịch sử lâu đời lên đến 1047 năm. Đền thờ Đức đại vương Kiều Công Thuận và đình là thờ Mẹ của Đức Đại Vương, không những thế người dân ở đây còn tôn vị tướng Kiều Công Thuận lên làm Thành hoàng bởi cảm phục trước tài cao đức trọng của vị tướng này. Đặc sắc trong kiến trúc, chạm khắc trang trí đình làng Trù Mật là những nét cổ kính, họa tiết chạm khắc trang trí cổ, phản ánh những hiện thực đời sống vật chất, tinh thần, tâm linh trong văn hóa người dân vùng trung du Đất Tổ. Bởi kiến trúc lâu đời và trải qua nhiều biến cố lịch sử nên các họa tiết trang trí cũng như các công trình kiến trúc cũng thay đổi theo thời gian. Bởi vậy em muốn nghiên cứu về những nét chạm khắc trong đình cũng như ngôi đền bên trong đình Trù Mật. Em muốn tìm hiểu kĩ hơn về những nét chạm khắc trang trí cổ cũng như muốn bảo tồn những giá trị lịch sử để nó không bị lãng quên theo thời gian. Nghệ thuật ngày càng phát triển, đòi hỏi các thế hệ trẻ ngày nay phải không ngừng sáng tạo, học hỏi kinh nghiệm để thừa kế những tinh hoa và vận 3 dụng vào việc sáng tác. Được học tập và làm quen với chất liệu này sẽ giúp cho thế hệ trẻ hiểu được cái hay cái đẹp của nghệ thuật cha ông nhằm tiếp thu và vận dụng vào việc học tập. Chính vì những lý do trên em đã chọn đề tài “Tính hiện thực trong nghệ thuật chạm khắc trang trí cổ đình làng Trù Mật, xã Văn Lung, thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ” làm luận văn tốt nghiệp. 2. Tình hình nghiên cứu Đã có một số bài viết nghiên cứu về nội dung này nhưng với cách tiếp cận khác nhau: 1. Nguyễn Kim Bảo (2014), Chạm khắc trang trí đình làng, Tạp chí Mỹ thuật .... đề cập đến thủ pháp nghệ thuật trang trí của nghệ nhân. 2. Hoàng Bá Hồng (2015), Hiện thực trong một số tác phẩm hội họa giai đoạn 1975 đến nay, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, trường ĐH Hùng Vương nghiên cứu về hiện thực trong hội họa. 3. Nguyễn Huy Oanh (2013), Lễ hội đình đền Trù Mật, Luận văn tốt nghiệp cao học khai thác nét văn hóa lễ hội đền Trù Mật. 4. Thắng Trần (2013), Nguồn gốc và chức năng đình làng Việt Nam, Website Sở VHTT và DL tỉnh Tuyên Quang chỉ mới viết về Nguồn gốc và chức năng đình làng Việt Nam. Nội dung đề tài chạm khắc trang trí cổ cũng đã được nhiều nhà nghiên cứu mỹ thuật, mỹ học quan tâm nhưng trong đề tài này em chọn và nghiên cứu các vấn đề về: tính hiện thực trong nghệ thuật chạm khắc đình làng trên đình làng cổ Trù Mật, xã Văn Lung, thị xã Phú Thọ. Đây là đề tài nghiên cứu tìm hiểu về nghệ thuật chạm khắc đình làng nhằm vận dụng vào việc học tập và sáng tác nghệ thuật không trùng lặp với những nghiên cứu khác. 3. Mục tiêu của đề tài Đề tài này nhằm nghiên cứu và khẳng định những giá trị đặc sắc của chạm khắc đình làng Trù Mật ở vùng trung du tỉnh Phú Thọ. Nghiên cứu nội dung chạm khắc khai thác tính hiện thực trong tư tưởng thẩm mỹ của nghệ nhân vùng đất Tổ. Những thủ pháp, kỹ thuật và phong cách sáng tác thể hiện 4 trên chạm khắc đình làng của nghệ nhân đạt được những giá trị nổi bật, đặc biệt trong nền mỹ thuật cổ Việt Nam. Tiếp thu, kế thừa, phát huy những giá trị của một số phong cách trong tính hiện thực của nghệ thuật chạm khắc đình làng nhằm vận dụng vào học tập và sáng tác nghệ thuật. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung chủ yếu vào các họa tiết, hình thức trang trí chạm khắc trên kiến trúc (các yếu tố biểu cảm, biểu đạt ngôn ngữ trang trí) đình Trù Mật, xã Văn Lung, thị xã Phú Tho., tỉnh Phú Thọ. Nghiên cứu sự biểu hiện nội dung trang trí thông qua hiển, dụng, mật từ đó làm sáng tỏ các mối quan hệ giữa cái nhìn hiện thực và cách thức diễn tả của phong cách sáng tạo nghệ nhân. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu điền dã (lịch sử học nghệ thuật) ở những mức độ nhất định nhằm: tiếp cận, phân tích nghệ thuật chạm khắc đình làng với tư cách là đối tượng nghiên cứu chính. - Phương pháp phân tích, tổng hợp nhằm: phân tích về mặt lịch sử, phong cách, đặc thù chất liệu, tính biểu cảm nghệ thuật, ngôn ngữ tạo hình trong tính hiện thực của nghệ thuật chạm khắc đình làng - Phương pháp trưng cầu ý kiến chuyên gia nhằm tìm ra giá trị của nghệ thuật chạm khắc đình làng. - Khai thác, sưu tầm tư liệu các sách báo nghiên cứu của các học giả Việt Nam, đặc biệt lưu ý các thông tin về nghệ thuật chạm khắc đình làng, ý nghĩa và hình thức biểu đạt của chúng. 6. Dự kiến kết quả nghiên cứu - Báo cáo tốt nghiệp - Là tài liệu nghiên cứu cho những người ham mê mỹ thuật truyền thống Việt muốn tìm hiểu về nhân sinh quan, vũ trụ quan, phong cách sáng, góp phần nâng cao khả năng thẩm mỹ, xây dựng hình tượng sáng tác tác phẩm. - Là tài liệu tham khảo cho sinh viên mỹ thuật trường Đại học Hùng Vương. 5 PHẦN N hƣơng DUN hái quát lịch s hình thành và đ c đi m của nghệ thuật chạm khắc đình làng ắc Ngu n gốc và chức năng của đình làng Việt Nam ắc Việt Nam 1.1.1. Nguồn gốc Mỗi làng quê Việt Nam đều có một ngôi đình. Đó là nơi thờ Thành Hoàng làng (vị thần bảo trợ của làng). Vào mỗi dịp lễ tết, đình trở thành trung tâm văn hóa của làng mà ở đó, tất cả kho tàng văn hóa tích lũy từ đời này qua đời khác được thể hiện đầy đủ nhất. Đình làng là một thiết chế văn hóa tín ngưỡng ra đời từ thời Lê Sơ, đánh dấu một bước phát triển của cơ cấu làng xã cổ truyền. Đây là một biểu tượng của tính cộng đồng, tự trị dân chủ của làng xã. Ngôi đình là trung tâm văn hóa của làng mà thể hiện cô đọng nhất là lễ hội....[12;16] Theo các già làng kể lại, thời xưa có 9 loại đình: 1/ Kiều đình (cầu mái) 2/ Viên đình (đình dạng hình tròn) 3/ Phương đình (đình dạng hình vuông) 4/ Giang đình (quán bến đò) 5/ Dịch đình 6/ Biên đình (Nơi trung chuyển của sứ thần 2 nước ở biên giới) 7/ Đình làng (nơi tụ họp của làng và thờ thần) 8/ Đình thưởng hoa 9/ Đình trạm Thời điểm xuất hiện và nguồn gốc của đình làng Việt Nam đến nay vẫn có nhiều giả thuyết khác nhau. Từ “đình” xuất hiện sớm nhất trong lịch sử Việt Nam là vào thế kỉ II, thế kỉ III. Trong “Lục bộ tập kinh” của Khang Tăng Hội có đoạn: “Đêm đến ông lặng lẽ chốn đi. Đi hơn trăm dặm vào nghỉ ở một ngôi đình trống. Người giữ đình hỏi: “Ông là người nào”. Ông trả lời: “Tôi là người xin nghỉ nhờ”... (Theo Hà Văn Tấn - Đình Việt Nam). Chi tiết “ngôi đình trống” trong đoạn văn trên cho ta cơ sở khẳng định đó là trạm nghỉ chân 6 dọc đường, còn chi tiết “người giữ đình” cho ta giả thiết đó là ngôi đình là nhà công cộng của làng xã. Tuy nhiên, giả thiết này còn thiếu chắc chắn. Như vậy, đình trạm là hiện tượng phổ biến ít nhiều từ thế kỉ thứ II. Thời nhà Đinh, ở cố đô Hoa Lư đã có dựng đình cho sứ thần nghỉ chân trước khi vào trầu vua. Đến đời Trần, đình với tư cách là trạm nghỉ chân được ghi trong Đại Việt sử kí toàn thư: “Thượng hoàng xuống chiếu rằng, trong nước ta, phàm chỗ nào có đình trạm đều phải tô tượng phật để thờ. Trước là tục nước ta, sau là vì nắng mưa nên làm đình để cho người ta đi đường nghỉ chân, trát vách bằng vôi trắng gọi là đình trạm” (Theo Hà Văn Tấn, Nguyễn Văn Kự - Đình Việt Nam). Dưới thời nhà Lê, đình làng đã phát triển. Một sự kiện quan trọng dưới thời Lê Thánh Tông đã được Hồng Đức thiên chính ghi chép lại về việc lập đình như sau: “Người giàu đã bỏ tiền làm đình hay công đức làm chùa. Thế mà (người sau giữ việc hậu) không biết đền đáp ơn đức, chỉ lừa người lấy của, chẳng bao lâu, tình nhạt lễ bạc, quên cả lời đoan, sinh thói bạc ác hoặc bỏ cả giỗ chạp, không như đời trước, hoặc là làm cỗ bàn không như khoán ước, hoặc năm thì trước năm thì sau, không đúng tháng hoặc trẻ thì lạy lớn thì không, chẳng đồng lòng. Vậy con cháu đặt hậu ở đình hay ở chùa mà thấy kẻ giữ ở hậu có trái lễ thì trình báo với nha môn để thu lại tiền công đức” (Theo Hà Văn Tấn - Đình Việt Nam).[5;48] Đình có bia xưa nhất là đình Thanh Hà (Hà Nội), vốn xưa thuộc làng Thanh Hà cổ, nay thuộc phố ngõ Gạch, quận Hoàn Kiếm. Bia đề năm Thuận Thiên thứ 3 (1433). Các cứ liệu trên cho phép ta khẳng định đình làng đã có từ thời Lê Sơ, đầu thế kỉ XV. Những ngôi đình xưa nhất còn bảo tồn đến ngày nay đều có niên đại vào thời nhà Mạc, thế kỉ XVI, đó là: - Đình Thụy Phiêu (Ba Vì, Hà Nội) dựng năm Đại Chính thứ 2 (1531). - Đình Lỗ Hạnh (Hiệp Hòa, Bắc Giang) được ghi vào niên hiệu Sùng Khang (1566 - 1577), nhiều người dự đoán vào năm 1576. - Đình Phù Lưu (Tiên Sơn, Bắc Ninh), được dựng vào cuối thế kỉ XVI. - Đình Là (Thường Tín, Hà Nội) dựng năm Diên Thành thứ 4 (1581). 7 - Đình Tây Đằng (Ba Vì, Hà Nội) dựa vào phong cách kiến trúc và điêu khắc, người ta dự đoán được dựng vào thế kỉ XVI. Căn cứ vào tài liệu, bi kí, chúng ta có thể biết thêm về những ngôi đình được dựng trong thế kỉ XVI. Bia đình Nghiêm Phúc (xã Lam Cầu, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương) dựng năm Hưng Trị thứ 4 (1591) ghi rằng đình được làm vào niên hiệu Cảnh Lịch (1548- 1553). Văn bia đình Đại Đoan (xã Đoan Bái, Gia Lương, Ninh Bình) cho biết đình dựng năm Quý Tỵ, niên hiệu Diên Thành (1583)… Về nguồn gốc đình làng cũng có nhiều ý kiến khác nhau và cũng chưa có giải đáp chắc chắn. Có ý kiến cho rằng, đình vốn là hành cung của vua, được xây dựng dành cho vua khi đi tuần thú, sau mới thành đình làng. Có ý kiến khác cho rằng, vào thời Lý ở Thăng Long, người ta xây dựng những phương đình (có quy mô nhỏ) để dán các thông báo của chính quyền, hoặc là nơi người ta tuyên đọc các văn kiện của nhà vua. Sau đó, kiến trúc loại này tỏa về làng với chức năng như trụ sở hành chính của làng. Một vài ý kiến khác cho rằng đình làng có thể bắt nguồn từ các kiến trúc thờ thần đất và thần nước. Các cư dân Việt cổ trong tín ngưỡng bản địa, sùng bái thần đất và thần nước che chở nuôi sống họ. Do vậy, đình làng với tín ngưỡng của nó có thể có nguồn gốc từ việc thờ thần đất, nước, hai vị thần quan trọng nhất của cư dân nông nghiệp Việt Nam. Trong tiến trình lịch sử tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng phồn thực, thờ mẫu, thờ sức mạnh tự nhiên, và có phần ảnh hưởng không lớn lắm của đạo Phật, đạo Nho đã được bổ sung tạo ra những biến thể phong phú của Thành Hoàng làng Việt Nam. Trong các đình của người Việt, ta biết rằng đình chắc chắn đã có từ thế kỷ 15. Về vật chất của đình làng, niên đại sớm nhất ta mới tìm thấy từ năm 1531, đó mới chỉ là niên đại trùng tu ở đình Thụy Phiêu (Ba Vì), và sau đó là các đình Tây Đằng, Lỗ Hạnh…[22;62] Các đình đã dính đến thờ thần thành hoàng làng thì dần dần người ta lấy cái đó là yếu tố tín ngưỡng thờ cúng rất cao. Từ đó, kiến trúc đình mang tư 8 cách ba tầng của vũ trụ. Ví dụ, tầng mái gắn với tầng trời, tầng giữa là tầng người và thần linh quan hệ và tầng dưới là tầng đất. Ngôi đình làng là sản phẩm thuần khiết gắn với văn hoá làng, hội tụ biểu tượng cao độ về đời sống vật chất và tinh thần của làng. Giá trị của nó nằm ở thành tựu kiến trúc và điêu khắc trang trí cổ Việt Nam, ở đó đã kế thừa và phát triển cao, độc đáo nghệ thuật điêu khắc truyền thống của người Việt. 1.1.2. Chức năng đình làng Đình làng là một thiết chế văn hóa - tín ngưỡng tổng hợp, có ba chức năng: Tín ngưỡng, hành chính, văn hóa. Rất khó để xác định chức năng nào có trước, chức năng nào được bổ sung. Hơn nữa, ba chức năng đan xen, hòa quện với nhau đến mức khó có thể phân biệt. Trong đời sống văn hóa tinh thần người Việt từ xa xưa, cái đình đã trở thành một hình ảnh tiêu biểu và thân thuộc đại diện cho tính cộng đồng làng xã. Mái đình từ lâu đã sớm đi vào trong những câu ca dao quen thuộc, nhuần nhị: “Qua đình ngả nón trông đình Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu.” Hay: “Trúc xinh trúc mọc đầu đình Em xinh em đứng một mình cũng xinh.” Đình là nơi diễn ra mọi hoạt động đời sống của làng. Chức năng đầu tiên khi đình được thành lập là chức năng tín ngưỡng. Đình là nơi thờ thành hoàng làng, đó có thể là những trung thần nghĩa sĩ có công với đất nước (nhân thần) hoặc các vị tiên thần trong truyền thuyết. Những hương ước, luật lệ, những quyết định trọng đại về các vấn đề của làng được giải quyết trong các cuộc họp của Hội đồng kì mục ở dưới mái đình. Qua đây, chức năng hành chính đã được thể hiện rõ rệt. Không dừng lại ở đó, đình thể hiện trọn vẹn chức năng văn hóa khi là nơi tụ họp trong những dịp hội hè đình đám, nơi diễn ra các trò chơi dân gian, các hoạt động văn hóa, văn nghệ của làng. 9 Chẳng thế mà “nghe tiếng trống chèo” giữa sân đình là người người nhà nhà lại nhanh chóng sửa soạn, í ới gọi nhau để cùng nô nức đi xem. Như vậy, đình đã trở thành mái nhà chung của cả cộng đồng, nó gắn bó khăng khít và chứng kiến mọi buồn vui trong đời sống con người từ khi thiếu thời đến lúc về già. Vì lẽ thế mà dân làng rất yêu quý cái đình của làng mình. Một ngôi đình khang trang, uy nghi bề thế thể hiện đời sống vật chất và tinh thần thịnh vượng, và do đó, là niềm tự hào của cả làng. “Trời lấy đình để nuôi muôn vật Đất lấy đình để chứa muôn loài Người ta lấy đình làm nơi tụ họp” (Ngô Thì Nhậm) Trong các đình làng Việt Nam, vị thần được thờ cúng là Thành Hoàng làng, vị vua tinh thần, thần hộ mệnh của làng do triều đình ban bố, gây dựng. Hình 1.1: Đình Phù Lưu( Bắc Ninh) - Ảnh: Nguồn internet Khi tín ngưỡng Thành Hoàng du nhập vào Việt Nam từ thời Bắc thuộc cũng nảy sinh ra một số Thành Hoàng mà chức năng cũng giống như ở Trung Quốc… Các vua triều Nguyễn còn lập miếu thờ Thành Hoàng làng ở tỉnh và huyện. Nhưng khi tín ngưỡng Thành Hoàng về làng, xã thì nó đã biến đổi khác với tín ngưỡng Thành Hoàng ở Trung Quốc. Như vậy, tín nguỡng Thành Hoàng Trung Quốc khi du nhập vào làng xã Việt Nam thì các yếu tố văn hóa Hán, hoặc hiện tượng Hán hóa khác bị cổng làng chặn lại thì nó lại tìm thấy 10 các tín ngưỡng bản địa có tính tương đồng, nên hội nhập rất thuận lợi với hệ thống tín ngưỡng đa nguyên của Việt Nam. Nguồn gốc của Thành Hoàng cũng rất phức tạp. Trước hết là các thần tự nhiên (thiên thần hay nhiên thần) được thờ ở rất nhiều đình làng. Các vị thần này đều được khoác áo nhân thần với các tiểu sử thế tục. Được thờ chủ yếu là Sơn Tinh (thần núi), Thủy Tinh (thần sông, thần biển), trong đó, Tản Viên Sơn thánh có địa vị cao hơn cả. Ngoài ra, các vị thần núi có tên như Cao Các, Quý Minh được thờ ở nhiều nơi. Các thần núi ở địa phương, như: Tam Điệp Sơn, Điệp Sơn cũng được tôn làm Thành Hoàng làng. Thành Hoàng làng thứ hai là các nhân thần. Các nhân vật lịch sử, như: Lí Bôn, Ngô Quyền, Đinh Tiên Hoàng, Trần Hưng Đạo… Chiếm số đông trong các nhân thần là những người ít nổi tiếng hơn như: Quan lại, nho sĩ và đặc biệt là các tướng của Hai Bà Trưng, nhất là các nữ tướng. Những vị thần này thực ra là các nhân vật truyền thuyết, mang tính giả lịch sử hơn. Thành Hoàng làng thứ ba gắn liền với tín ngưỡng bản địa, như tục thờ cây, thờ đá thời nguyên thủy... Ngoài các vị thần, ở đình làng còn thờ những người có công khai phá đất mới, lập làng, như: Hai hoàng tử thời Lý là Đông Chinh Vương và Dực Thánh Vương, Nguyễn Hữu Cảnh, Thoại Ngọc Hầu, Nguyễn Cư Trinh … Ở miền Bắc thường gặp ở các vùng ven biển dân làng thờ những người có công khai hoang lấn biển. Những người gọi là “tiên hiền” là những người đến trước, “hậu hiền” là những người đến sau tiếp tục công cuộc “khai canh, khai khẩn”. Thành Hoàng có thể là người xuất thân hèn kém, có người chết vào giờ thiêng cũng được thờ làm thần. Trong lễ hội, người ta thường cử hành “hèm” để nhắc lại thần tích của các vị Thành Hoàng làng này. Những người có công đóng góp cho làng sau khi chết được dân làng thờ làm “hậu thần”, hàng năm cúng giỗ ở đình. Có người khi còn sống đóng góp cho làng trên cơ sở có khoán ước với làng, được ghi thành văn bản, đôi khi được khắc vào bia đá. Họ được “bầu hậu” khi chết đi được thờ làm “hậu thần” và được làng hương khói hàng năm. 11 Ngoài ra, ở một số làng nghề thủ công người ta còn thờ tổ nghề gọi là “tiên sư”. Trong miền Nam các “tiên sư” được thờ ở nhà hậu của đình làng, chỉ có một số ít “tiên sư” được thờ ở chánh điện. Tóm lại, các thần làng Việt Nam biểu hiện một hệ thống tín ngưỡng đa nguyên. Đó là một hệ thống pha lẫn nhiều yếu tố tín ngưỡng sơ khai của cư dân nông nghiệp (tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng thờ mẹ, các thần sức mạnh tự nhiên…) với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, những người anh hùng và có phần ảnh hưởng không nhiều của của đạo Phật và đạo Nho. Đình làng thực sự là trụ sở hành chính - nơi mọi công việc về hành chính của làng đều được tiến hành ở đó. Từ việc xét xử các vụ tranh chấp, phạt vạ, khao vọng, từ thu tô thuế đến việc bắt lính, bỏ các xuất phu đinh. Chủ thể tiến hành các hoạt động hành chính ở đình làng là các vị có chức danh Chánh tổng, Lý trưởng, Phó lý, Trưởng tuần và các viên quan của Hội đồng hương kì, kì mục. Cơ sở để giải quyết các công việc của làng được dựa vào lệ làng hoặc hương ước. Hương ước là một hình thức luật tục. Gắn với hoàn cảnh, phong tục, tập quán lâu đời của từng làng mà nhân dân có các bộ luật nhà nước không thể bao quát được. Các làng đều có hương ước riêng với nội dung rất cụ thể khác nhau. Tuy nhiên, hương ước làng bao gồm những nội dung chủ yếu sau: + Những qui ước về ruộng đất: việc phân cấp công điền, công thổ theo định kì và qui ước về việc đóng góp (tiền và thóc). + Qui ước về khuyến nông, bảo vệ sản xuất, duy trì đê đập, cấm lạm sát trâu bò, cấm bỏ ruộng hoang, chặt cây bừa bãi. + Những quy ước về tổ chức xã hội và trách nhiệm của các chức dịch trong làng. Việc xác định chức dịch trong làng nhằm hạn chế họ lợi dụng quyền hành và thế lực để mưu lợi riêng. + Những quy định về văn hóa tư tưởng, tín ngưỡng. Đó là những quy ước nhằm đảm bảo các quan hệ trong làng xóm, dòng họ, gia đình, láng giềng, được duy trì tốt đẹp. Quy định về việc sử dụng hoa lợi của ruộng công 12 vào việc sửa chữa, xây dựng đình, chùa, điện, quy định về thể lệ tổ chức lễ hội, khao vọng, lễ ra làng, lễ nộp cheo… Hương ước còn có những quy định về hình phạt đối với ai vi phạm. Vi phạm mức độ nào thì nộp phạt hoặc phải làm cỗ ở đình làng để tạ tội với Thành Hoàng làng. Hình phạt cao nhất là bị đuổi ra khỏi làng. Có thể nói, hương ước là một bộ luật của làng xã. Về cơ bản, hương ước chứa đựng nhiều giá trị văn hóa dân gian tốt đẹp, được hình thành lâu đời và nếu được chắt lọc có thể phát huy những giá trị tốt đẹp trong cuộc sống làng xã hiện nay. Với đặc điểm của tính tự trị và tính cộng đồng của làng xã, hoạt động hành chính và quản lí của làng xã được tiến hành có hiệu quả. Đình làng với tư cách là trụ sở hành chính đã trở thành biểu tượng của tính tự trị và sự cố kết cộng đồng trong suốt chiều dài lịch sử của mình. Đình làng là trung tâm sinh hoạt văn hóa của cả làng. “Cây đa, bến nước, sân đình” đã đi vào tâm hồn của người dân quê. Đỉnh cao của các hoạt động văn hóa ở đình làng là lễ hội. Làng vào hội cũng được gọi là vào đám, là hoạt động có quy mô và gây ấn tượng nhất trong năm đối với dân làng. Ở các làng quê Việt Nam còn có hội chùa, hội đền nhưng phần lớn là hội làng được diễn ra ở đình làng gắn với đời sống của dân làng. Lễ hội bao gồm hai phần chính là: Phần lễ và phần hội: + Lễ là các hoạt động có tính nghi lễ liên quan đến tín ngưỡng. + Hội là hoạt động mang tính giải trí, gắn liền với thế tục, nghệ thuật, thể dục, thể thao. Nhưng trong một số trò chơi hội làng cũng có ý nghĩa tâm linh, gắn với mục đích cầu mưa, cầu mùa. Lễ hội ở làng diễn ra “xuân thu, nhị kì” vào các dịp nông nhàn. Lễ hội phần lớn vào tháng Giêng, có nơi vào thành hai, tháng ba âm lịch. Lễ hội thu thường vào tháng bẩy, tháng tám. Đó là hai lễ hội lớn, còn trong năm người ta cúng lễ Thành Hoàng làng. Lễ cúng Thành Hoàng làng trong khi mở hội có quy trình như sau: - Lễ trộc dục: Lễ tắm tượng thần hay thần vị. 13 - Lễ tế Gia quan tức là lễ mặc áo, đội mũ cho tượng thần. Nếu chỉ có thần vị thì đặt áo, mũ lên ngai. - Rước thân: Khi mở hội, người ta rước thần từ đền ra đình. Khi kết thúc hội thì lại rước thần về đền. Ở nhiều làng, người ta thờ Thành Hoàng làng ngay trong đình. Trong ngày hội, người ta rước thần đi vòng quanh làng và quay về đình. - Đại tế: Là lễ tế quan trọng nhất. Có một người đứng chủ trì lễ (chủ tế), còn gọi là mạnh bái. Ngoài ra còn có hai hoặc bốn người bồi tế, hai người đồng xướng, hai người nội tán, mười đến mười hai người chấp sự. Sau buổi đại tế, người ta coi thần luôn có mặt ở đình nên các chức sắc và bô lão phải thay nhau túc trực. Mở hội gọi là nhập tịch, hết hội gọi là ngày xuất tịch hay còn gọi là ngày dã đám. Sau phần tế lễ là các hoạt động vui chơi, giải trí. Sân đình trở thành sân khấu diễn xướng, ca hát. Ở những hội làng Bắc Bộ, sân đình thường có chiếu chèo, vùng Bắc Ninh, Bắc Giang sân đình gắn với hội hát quan họ. Mỗi địa phương có trò chơi khác nhau, thỏa mãn con người với nhiều nhu cầu như: Nhu cầu tâm linh (các trò chơi gắn với cầu mưa, cầu mùa, cầu ngư...), nhu cầu cộng cảm, nhu cầu thể hiện sức mạnh, sự tài trí. Các trò chơi gắn liền với nghi lễ cầu mưa, cầu mùa, như: Cướp cầu, kéo co, đua thuyền… Cho đến nay, cúng đình và lễ hội vẫn là hình thức sinh hoạt cộng đồng tiêu biểu ấn tượng nhất của làng xã. Trong sinh hoạt tín ngưỡng đó, người dân vẫn tin vào sự phù hộ của các vị thần trong mùa màng và đời sống. Hội làng ở đồng bằng Bắc Bộ sau một thời gian bị đứt đoạn đã có sự phục hồi nhanh chóng, chứng tỏ dân làng vẫn có nhu cầu về tâm linh. Điều đó cũng chứng tỏ sức sống bền bỉ của tín ngưỡng thờ Thành Hoàng làng. Tóm lại, đồng bằng trung du Bắc Bộ là cái nôi của nền văn hóa Việt Nam. Những nhân tố tự nhiên và xã hội đã hình thành nên làng, một cộng đồng làng, lối sống làng. Đình làng là một thiết chế văn hóa tín ngưỡng ra đời từ thời Lê Sơ, đánh dấu một bước phát triển của cơ cấu làng xã cổ truyền. 14 Đình làng là một biểu tượng của tính cộng đồng, tự trị dân chủ của làng xã. Ngôi đình là trung tâm văn hóa của làng mà thể hiện cô đọng nhất là lễ hội. Ngôi đình làng là địa điểm diễn ra nhiều hoạt động quan trọng của làng xã trong thời trung cận đại. Đây là nơi thờ Thành hoàng Làng để cầu mong được chở che, ngăn tai giáng phúc, là nơi diễn ra lễ hội Nhập tịch Tàng câu của làng, nơi kỳ lão chức sắc hội họp bàn bạc và giải quyết việc làng, nơi tất cả đinh nam trong làng cùng thực hiện lễ Hương ẩm tửu mỗi khi có việc tế tự cầu cúng. Nơi tiếp đón quan lại triều đình khi có việc công hoặc khách khứa của làng… Điều này cho thấy ngôi đình làng là một địa điểm công cộng quan trọng không thể thiếu của cộng đồng làng xã xưa kia. Trước khi Phật giáo du nhập vào Việt Nam, các tín ngưỡng dân gian đã ngự trị trong đời sống tinh thần người Việt. Để chấn an mình trước những hiện tượng tự nhiên không thể lý giải, để được che chở, để có cuộc sống bình yên, người Việt cổ từ lâu đời đã thờ cúng các vị Nhiên thần như các thần núi sông, cây đá, đặc biệt, do là vùng đất nhiều sông nước, người dân sống bám dọc theo các triền sông nên thủy thần là vị thần được thờ phụng khắp nơi. Việc thờ cúng ban đầu diễn ra ngoài trời, ngay tại gốc cây, bờ nước, về sau khuynh hướng nhân hóa thần linh phát triển, người chết có những biểu hiện thiêng bắt đầu được thờ cúng, nhiều vị đã trở thành phúc thần bảo hộ cho cộng đồng, người ta đã dựng lên những ngôi miếu, ngôi đền nhỏ để thờ. Dần dần những nơi này trở thành địa điểm sinh hoạt cộng đồng, không chỉ cầu cúng xin được chở che, đừng gây tai giáng họa mà các hoạt động khác trong cộng đồng như xử lý các vi phạm luật lệ của cộng đồng, ăn thề, xử các vụ tranh chấp nhỏ… cũng diễn ra tại đây trước sự chứng kiến của thần linh và dân làng. Vào đầu công nguyên, khi bị nhà Hán xâm lược, văn hóa Hán dần xâm nhập vào nước ta, tín ngưỡng thờ Xã thần du nhập theo chân các cư dân Hán. Các đàn thờ xã thần (xã đàn) được lập lên tại các làng xóm. Xã ban đầu chỉ là một cái nền đất đắp cao, xung quanh trồng một số loài cây làm biểu tượng cho sự no đủ. Hàng năm vào các tháng trọng xuân và trọng thu, người ta tổ chức 15 cúng tế tại đây để báo đáp công sinh dưỡng vạn vật của đất đai. Về sau, tín ngưỡng xã thần diễn biến dần, chuyển hóa thành tín ngưỡng thờ thần đất (thần thổ địa) – vị thần có quyền lực chở che coi sóc cho một địa phương, mang nhiều chức năng xã hội hơn. Dần dần, miếu thờ Thổ địa được dựng lên thay thế Xã đàn. Cùng với những miếu thờ thần linh bản địa khác, miếu Thổ địa trở thành một trong những địa điểm sinh hoạt cộng đồng của làng. Vào các dịp lễ tết, dân chúng tụ tập đến trước những đền miếu này làm lễ tế thần, ca hát vui chơi. Đầu thế kỷ XV, tục thờ Thành hoàng làng cũng bắt đầu phát triển. Trên thực tế, tín ngưỡng Thành hoàng đã được truyền đến nước ta vào thời Đường - Tống, tuy nhiên cho đến thế kỷ XIV, vẫn chỉ có Đô thành hoàng, chưa có Thành hoàng làng. Để tín ngưỡng Thành hoàng trở thành tục thờ Thành hoàng làng đậm màu sắc Việt thì phải tính từ thế kỷ XV sau khi nhà Minh chiếm được nước ta. Một số chính sách về thờ cúng tế tự được ban hành, trong đó mệnh lệnh lập thêm Thành hoàng ở các phủ châu huyện được thực thi, kể từ đó tín ngưỡng Thành hoàng phát triển mạnh ở nước ta và đây chính là thời kỳ Thổ địa và Phúc thần địa phương được nâng cấp thành Thành hoàng làng. Vậy là cho đến trước khi có dấu vết tồn tại của ngôi đình (cuối thế kỷ XV), lễ Nhập tịch Tàng câu, tục thờ Thành hoàng và các sinh hoạt cộng đồng khác của người Việt như xử lý việc làng, bao gồm xử các tranh chấp kiện cáo nhỏ trong làng, các hành vi vi phạm lệ làng, giải quyết các vấn đề về thuế má quan dịch. Cả việc tập họp dân làng để nghe các lệnh lệ của triều đình đều đã tồn tại và được thực hiện từ lâu đời tại các địa điểm công cộng của làng như các đền miếu thờ thần linh, thổ địa và sân chùa, trên thực tế, nhu cầu về một địa điểm dành cho tất cả các hoạt động này không đến mức buộc phải có. Vậy điều gì thúc đẩy sự xuất hiện của ngôi đình làng? Mô hình Thân minh đình thời Lê sơ. Ở lễ hội này, người ta tế thần, chúc tụng, vui chơi, hát xướng, yến hưởng… Hầu hết các hoạt động vốn có trong cộng đồng thường được thực hiện ở đền miếu trước khi có sự xuất hiện
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng