BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
VŨ THỊ NHƯ HOA
TỰ SỰ VỀ ĐÔ THỊ TRONG TIỂU THUYẾT
PHỒN HOA CỦA KIM VŨ TRỪNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Phú Thọ, năm 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
UBND TỈNH PHÚ THỌ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
VŨ THỊ NHƯ HOA
TỰ SỰ VỀ ĐÔ THỊ TRONG TIỂU THUYẾT
PHỒN HOA CỦA KIM VŨ TRỪNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số:8220120
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Đỗ Văn Hiểu
Phú Thọ, năm 2021
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn này là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi.
Các số liệu và tài liệu đƣợc trích dẫn trong luận văn là trung thực. Kết quả
nghiên cứu này không trùng với bất cứ công trình nào đã đƣợc công bố trƣớc đó.
Tôi chịu trách nhiệm với lời cam đoan của mình.
Phú Thọ, tháng 6 năm 2021
Tác giả luận văn
ii
LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới quý thầy cô, phòng đào
tạo sau đại học trƣờng Đại học Hùng Vƣơng đã tạo điều kiện thuận lợi cho em
hoàn thành tốt luận văn. Đặc biệt cảm ơn thầy cô đã dùng với vốn tri thức và
tâm huyết của mình để truyền đạt vốn kiến thức quý báu cho chúng em trong
suốt thời gian học tập ở khoa.
Em xin chân thành cảm ơn TS. Đỗ Văn Hiểu ngƣời trực tiếp đã chỉ bảo
và hƣớng dẫn em rất tận tâm để em có thể hoàn thành tốt luận văn này. Cảm
ơn Thầy đã luôn theo sát, nhắc nhở và góp ý kịp thời cho em trong quá trình
làm luận văn.
Em xin gửi lời cảm ơn tới gia đình và bạn bè, những ngƣời đã luôn giúp
đỡ và động viên em trong suốt thời gian làm luận văn.
Do kiến thức và trình độ còn hạn chế, trong quá trình làm luận văn, khó
tránh khỏi những sai sót, rất mong thầy cô và các bạn đóng góp ý kiến để em học
thêm đƣợc nhiều kinh nghiệm trong quá trình làm các bài nghiên cứu sau này.
Em xin chân thành cảm ơn.
Ngƣời thực hiện
Vũ Thị Nhƣ Hoa
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... ii
Phần I: MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1.Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................. 1
2.Tổng quan vấn đề nghiên cứu ........................................................................ 2
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu..................................................................... 5
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu .................................................................... 5
5. Phƣơng pháp nghiên cứu............................................................................... 5
6. Cấu trúc của luận văn .................................................................................... 6
Phần II: NỘI DUNG ......................................................................................... 7
CHƢƠNG 1: TỰ SỰ VỀ ĐÔ THỊVÀ TIỂU THUYẾT VIẾT VỀ ĐÔ THỊ
THƢỢNG HẢI .................................................................................................. 7
1.1. Tự sự về đô thị ........................................................................................... 7
1.1.1. Đô thị trong văn học................................................................................ 7
1.1.2. Phƣơng thức tự sự về đô thị .................................................................. 14
1.2. Tiểu thuyết viết về đô thị Thƣợng Hải và “Phồn hoa” của Kim Vũ Trừng . 17
1.2.1. Tiểu thuyết viết về đô thị Thƣợng Hải .................................................. 17
1.2.2. “Phồn hoa” của Kim Vũ Trừng trong bộ phận tiểu thuyết viết về
Thƣợng Hải ..................................................................................................... 20
CHƢƠNG 2. ĐÔ THỊ THƢỢNG HẢI TRONG TIỂU THUYẾT “PHỒN
HOA” CỦA KIM VŨ TRỪNG ...................................................................... 24
2.1 Đô thị Thƣợng Hải trong bão táp cách mạng............................................ 24
2.1.1 Cuộc sống đời thƣờng của những thị dân nhỏ bé .................................. 25
2.1.2. Những nạn nhân của đại cách mạng văn hóa ........................................ 30
2.2. Đô thị Thƣợng Hải trong nền kinh tế thị trƣờng ...................................... 36
2.2.1. Một Thƣợng Hải với những con ngƣời bị chi phối mạnh mẽ bởi quan hệ
lợi ích vật chất ................................................................................................. 36
iv
2.2.2. Một Thƣợng Hải với những con ngƣời đầy nhục dục .......................... 39
2.3. Đô thị Thƣợng Hải trong kí ức và bản sắc văn hoá ................................. 43
2.3.1. Kiến trúc Thƣợng Hải ........................................................................... 45
2.3.2. Ẩm thực, trang phục Thƣợng Hải ......................................................... 48
CHƢƠNG 3: PHƢƠNG THỨC TỰ SỰ VỀ ĐÔ THỊ TRONG TIỂU
THUYẾT “PHỒN HOA” CỦA KIM VŨ TRỪNG ....................................... 52
3.1. Ngƣời kể chuyện thuyết thƣ và sự luân phiên ngƣời kể chuyện ............. 52
3.1.1. Ngƣời kể chuyện thuyết thƣ .................................................................. 52
3.1.2. Sự luân phiên ngƣời kể chuyện ............................................................. 54
3.2. Tổ chức đan xen các mảng không gian .................................................... 58
3.2.1. Đan xen giữa không gian quá khứ với không gian hiện tại .................. 59
3.2.2. Đan xen giữa không gian thực và không gian ảo.................................. 65
3.2.3. Đan xen giữa không gian riêng tƣ với không gian xã hội..................... 68
3.3. Phƣơng ngữ đối thoại, ngôn ngữ điện ảnh và khoảng trống trong văn
bản ................................................................................................................... 70
3.3.1. Phƣơng ngữ đối thoại ............................................................................ 71
3.3.2. Ngôn ngữ điện ảnh ................................................................................ 73
3.3.3. Khoảng trống trong văn bản.................................................................. 76
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 83
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 85
1
Phần I: MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Tự sự gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của lịch sử
loài ngƣời, nhƣ Roland Barthes từng nói: “Đã có bản thân lịch sử loài ngƣời,
thì đã có tự sự” (câu nói quen thuộc ở phƣơng Tây “History is astory / L’Hi
storie est unrécit”) [41; 12]. Nhƣng tự sự học với tƣ cách là một bộ môn khoa
học độc lập thì phải đến khoảng giữa thế kỉ XX mới hình thành. Tự sự học
nhanh chóng trở thành lĩnh vực thu hút các nhà nghiên cứu, là “bộ phận
không thể thiếu của hành trang nghiên cứu văn học hôm nay, và nói theo ngôn
ngữ của Thomas Kuhn, thì đó là một bộ phận cấu thành của hệ hình
(paradigme) lý luận hiện đại” [41; 11].
1.2. Văn học Trung Quốc là nền văn học phát triển lâu đời, có vị trí
riêng trên bản đồ văn học thế giới với những tên tuổi lớn nhƣ Lí Bạch, Bạch
Cƣ Dị, Lỗ Tấn, Mạc Ngôn, Giả Bình Ao, Diêm Liên Khoa…Sự phát triển rực
rỡ và nhiều thành tựu của văn học Trung Quốc có ảnh hƣởng không nhỏ đến
nền văn học Việt Nam. Vì vậy, nghiên cứu văn học Trung Quốc, chúng ta có
thể hiểu sâu sắc hơn về nền văn học có nhiều thành tựu này, đồng thời cũng
có thể hiểu thêm về văn học dân tộc.
1.3. Đô thị là một trong những mảng đề tài lớn đƣợc các nhà văn Trung
Quốc chú ý khai thác. Trong các thành phố ở Trung Quốc, Thƣợng Hải có
một vị trí hết sức đặc biệt, cũng chính vì thế, tự sự về Thƣợng Hải có vị trí
riêng trong văn học viết về đô thị ở Trung Quốc. Hàn Khánh Bang, Vƣơng
An Ức, Kim Vũ Trừng là những cây bút nổi bật khi viết về đô thị Thƣợng
Hải. Những nhà văn này có đóng của riêng trong mảng văn học viết về
Thƣợng Hải.
1.4. Kim Vũ Trừng là nhà văn đã xác lập đƣợc một vị trí riêng trên văn
đàn Trung Quốc, đặc biệt là trong lĩnh vực tiểu thuyết viết về đô thị. Ông đã
2
thực sự tạo ấn tƣợng sâu sắc đối với giới phê bình văn học bằng việc liên tiếp
cho ra đời những tác phẩm có giá trị nhƣ: Khinh hàn, Phương Đào, phồn hoa,
Uyển, Hồi vọng…Ông đã liên tiếp giành đƣợc nhiều giải thƣởng văn học, nhƣ
giải thƣởng Mao Thuẫn lần thứ 9 và giải thƣởng Thi Nại Am lần thứ 2.
Những tác phẩm của Kim Vũ Trừng phần lớn là những trải nghiệm sâu sắc
của một con ngƣời đã có sự gắn bó sâu nặng với mảnh đất Thƣợng Hải. Nếu
nhƣ Mạc Ngôn có vùng Cao Mật, Diêm Liên Khoa có núi Bá Lâu thì Kim Vũ
Trừng có Thƣợng Hải. Nói tới mảnh đất đô thị này làm sao có thể không nhắc
đến tác phẩm Phồn hoa– một bộ kỳ thƣ khổng lồ về Thƣợng Hải vàvăn học
đô thịTrung Quốc nửa cuối thế kỉ XX. Chính vì vậy, ngƣời viết chọn “Tự sự
vềđô thị trong tiểu thuyết Phồn hoa của Kim Vũ Trừng” làm đề tài nghiên
cứu nhằm tìm hiểu nét đặc sắc trong tự sự về đô thị của tác phẩm này.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
2.1. Nghiên cứu tự sự học ởViệt Nam
Mặc dù tự sự học đã phát triển từ khoảng giữa thế kỉ XX trên thế giới,
nhƣng ở Việt Nam, mãi đến năm 2001, hội thảo quy mô toàn quốc về tự sự
học mới đƣợc tổ chức (tổ chức tại trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội). Trong
bài viết Tự sự học - một bộ môn nghiên cứu liên ngành giàu tiềm năng, Trần
Đình Sử đã hệ thống, khái lƣợc những vấn đề tự sự từ chủ nghĩa hình thức
Nga, ngôn ngữ học Saussure, Platon, Aritoste, Tz. Tododov, Genette… Qua
đó, ông khẳng định vai trò quan trọng của tự sự học. Cao Kim Lan trong bài
viết Lí thuyết về điểm nhìn nghệ thuật của R. Scholes và R. Kellogg đã dựa
vào cuốn Bản chất của tự sự để giới thiệu về điểm nhìn nghệ thuật và sự chi
phối của điểm nhìn trong truyện kể, vấn đề quyền năng của ngƣời kể chuyện
với điểm nhìn của nhân vật, điểm nhìn của ngƣời kể chuyện và điểm nhìn của
ngƣời đọc…Tác giả Lê Phong Tuyết trong bài Tiếp cận Genette qua một vài
khái niệm trần thuật đã giới thiệu về Genette và lí thuyết của ông một cách hệ
thống với những khái niệm liên quan đến trần thuật. Trong đó, tác giả tập
3
trung làm rõ hai vấn đề mới mẻ với giới nghiên cứu và bạn đọc Việt Nam là
tình huống trần thuật và ngƣời nghe chuyện. Một trong những công trình có ý
nghĩa lớn với việc giới thiệu lí thuyết tự sự vào Việt Nam đó là cuốn Tự sự
học - Một số vấn đề lí luận và lịch sử [41] do Trần Đình Sử chủ biên. Trong
chuyên luận này, ông đã hệ thống các vấn đề cơ bản của tự sự học kinh điển
và hậu kinh điển.
Sau thi pháp học do Trần Đình Sử giới thiệu và nghiên cứu, Tự sự học
đã trở thành lí thuyết đƣợc ứng dụng rộng rãi trong nghiên cứu văn học ở Việt
Nam. Tính đến nay, có rất nhiều công trình đã nghiên cứu các hiện tƣợng văn
học cụ thể dƣới góc độ tự sự học, chẳng hạn nhƣ, Nghệ thuật tự sự trong
tiểu thuyết Nam Cao, Luận văn thạc sỹ Văn học, Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà
Nộicủa Trần Thị Xuyến (2007), Nghệ thuật tự sự trong sáng tác của Ma Văn
Kháng Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Học viện Khoa học xã hội của Đỗ Phƣơng
Thảo (2007), Nghệ thuật tự sự của Lỗ Tấn qua hai tập truyện ngắn Gào thét
và Bàng hoàng của Nguyễn Thị Mai Chanh (viện văn học,2010), Tự sự kiểu
Mạc Ngôn (Nxb Văn học, 2018) của Nguyễn Thị Tịnh Thy….Các công trình
nghiên cứu này, đều xuất phát từ lí thuyết tự sự nhƣ ngƣời kể chuyện, điểm
nhìn, ngôn ngữ, giọng điệu để chỉ ra cấu trúc độc đáo trong tiểu thuyết của
Nam Cao, sự kết hợp linh hoạt các hình thức tự sự, gia tăng hợp lí các điểm
nhìn trần thuật trong truyện ngắn của Lỗ Tấn, Lỗ Tấn truyện ngắn của Lỗ
Tấn, hay là sự đi sâu phân tích, luận chứng, so sánh và kiến giải nghệ thuật tự
sự của Mạc Ngôn trong tiểu thuyết từ đặc trƣng sáng tác, tƣ duy thẩm mĩ, soi
chiếu từ lí thuyết tự sự truyền thống Trung Quốc cùng tự sự hiện đại, hậu hiện
đại phƣơng Tây trong tự sự kiểu Mạc Ngôn của Tịnh Thi…
2.2. Nghiên cứu về tiểu thuyết “Phồn hoa”
Tác phẩm Phồn hoa của Kim Vũ Trừng đƣợc xuất bản ở Việt Nam năm
2020 do Nguyễn Thị Minh Thƣơng dịch. Dịch giả Nguyễn Minh Thƣơng
trong Lời giới thiệu của tiểu thuyết đã trích những lời đánh giá rất cao về tác
4
phẩm này, nhƣ: “Nói đến tự sự Thƣợng Hải, từ khi thịnh hành tiểu thuyết
bạch thoại, đến khi Phồn hoa ra đời, không thể không nhắc đến bốn nhà văn,
liệt kê theo thời gian, đó là: Hàn Băng Khánh, Trƣơng Ái Linh, Vƣơng An
Ức, Kim Vũ Trừng” của Vƣơng Xuân Lâm - thành viên Ban giám khảo Giải
thưởng văn học Mao Thuẫn; Phồn hoa mang vẻ đẹp của “màn sƣơng mù dày
đặc trên sông Tô Châu vào lúc cuối thu, giống nhƣ một giấc mộng u ám, chỉ
có thể cảm, không thể chạm” của Hoàng Bình - giáo sƣ của Đại học Hoa
Đông. Đỗ Văn Hiểu trong bài viết Giới thiệu tiểu thuyết “Phồn hoa” của Kim
Vũ Trừng (Trung Quốc) đã nhắc đến những vấn đề sau: Kim Vũ Trừng dùng
ngôn ngữ Thƣợng Hải để viết về cuộc sống của con ngƣời thành phố Thƣợng
Hải. Phồn hoa có phong cách ngôn ngữ và phƣơng thức tự sự vô cùng đặc
biệt, tác phẩm biểu hiện mối quan hệ giữa con ngƣời và đô thị Thƣợng Hải,
đề cập đến nhiều giai tầng thị dân Thƣợng Hải. Thụy Oanh trong bài Bản
nhạc buồn của thành phố phồn hoa đã viết: “Tiểu thuyết "Phồn hoa" không
chỉ đƣợc viết bằng sự tinh tế của nhà văn. Sâu thẳm trong từng câu chữ là
những rung cảm của một tâm hồn thiết tha với Thƣợng Hải (Trung Quốc)”,
Tác giả đã khẳng định, Phồn hoa là cuốn tiểu thuyết đồ sộ. Bởi chỉ với ba
nhân vật chính, Kim Vũ Trừng đã phát triển ra nhiều nhánh truyện phụ đan
xen, với hàng chục câu chuyện lớn nhỏ, cùng hơn một trăm con ngƣời. Mỗi
chi tiết nhỏ trong tác phẩm đều chứa đựng hơi thở, phong vị và nhịp điệu
riêng có của chốn đô thành này. Bởi thế, “Paris của phƣơng Đông” hiện lên
trong tác phẩm vừa diễm lệ xa hoa, vừa bi ai tủi nhục, vừa phóng túng bất
cần, vừa luyến lƣu trì níu”
Nhìn chung, từ khi xuất bản đến nay, nghiên cứu về tiểu thuyết Phồn
hoa ở Việt Nam chƣa nhiều, có lẽ một phần vì đây là tiểu thuyết đầu tiên của
Kim Vũ Trừng đƣợc dịch ra tiếng Việt, và cũng có lẽ bởi tiểu thuyết này
thuộc diện tiểu thuyết kén độc giả. Mặc dù nghiên cứu về Phồn hoa chƣa
nhiều, nhƣng những bài viết ít ỏi đó cũng đã gợi ý cho tôi rất nhiều trong quá
5
trình triển khai đề tài này.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
Với đề tài này, ngƣời viết thực hiện những nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Khái quát về tự sự về đô thị và vị trí của tiểu thuyết Phồn hoa trong
mảng văn học viết về Thƣợng Hải ở Trung Quốc.
- Phân tích “câu chuyện”và nghệ thuật tự sự về đô thị Thƣợng Hải
trong tiểu thuyết Phồn hoa của Kim Vũ Trừng.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn lànghệ thuật tự sự về đô thị trong
tiểu thuyết Phồn hoa của Kim Vũ Trừng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn khảo sát tiểu thuyết Phồn hoa của Kim Vũ Trừng do Minh
Thƣơng chuyển ngữ, Nxb Hội Nhà văn xuất bản năm 2020, 590 trang.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Ngƣời viết sử dụng triệt để phƣơng pháp nghiên cứu của tự sự học, sử
dụng các phạm trù của tự sự học để nghiên cứu tự sự về đô thị trong tiểu
thuyết Phồn hoa của Kim Vũ Trừng. Cụ thể là ngƣời viết sử dụng phạm trù
“câu chuyện” trong tự sự học (dựa theo lí thuyết đƣợc trình bày trong cuốn Tự
sự học – lí thuyết và ứng dụng (Nxb Giáo dục, 2017) do Trần Đình Sử chủ
biên để triển khai nghiên cứu “câu chuyện” của Thƣợng Hải trong chƣơng 2.
Đô thị Thượng Hải trong tiểu thuyết Phồn hoa của Kim Vũ Trừng. Bên cạnh
đó, ngƣời viết sử dụng phạm trù Ngƣời kể chuyện, kết cấu không gian nghệ
thuật, ngôn ngữ giọng điệu để nghiên cứu phƣơng thức tự sự về đô thị trong
Phồn hoa.
Bên cạnh đó, ngƣời viết sử dung phƣơng pháp lịch sử để nghiên cứu đô
thị Thƣợng Hải trong những thời điểm lịch sử khác nhau, đặt Phồn hoa trong
lịch sử tiểu thuyết viết về đô thị Thƣợng Hải ở Trung Quốc.
6
Ngoài ra, ngƣời viết còn sử dụng các thao tác phổ biến khác nhƣ phân
tích, tổng hợp, so sánh để nghiên cứu
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung luận văn gồm ba chƣơng:
Chƣơng 1: Tự sự về đô thị và tiểu thuyết viết về đô thị Thƣợng Hải ở
Trung Quốc
Chƣơng 2:Đô thị Thƣợng Hải trong tiểu thuyết Phồn hoa của Kim Vũ
Trừng
Chƣơng 3: Phƣơng thức tự sự về đô thị Thƣợng Hải trong tiểu thuyết
Phồn hoa của Kim Vũ Trừng
7
Phần II: NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: TỰ SỰ VỀ ĐÔ THỊ
VÀ TIỂU THUYẾT VIẾT VỀ ĐÔ THỊ THƢỢNG HẢI
1.1. Tự sự về đô thị
1.1.1. Đô thị trong văn học
Trong nhiều năm gần đây, văn học đô thị thu hút đƣợc sự quan tâm của
đông đảo các nhà văn, các nhà nghiên cứu, phê bình, học viên, sinh viên và cả
bạn đọc ngoài và trong nƣớc. Đã có nhiều cuộc hội thảo, nhiều luận văn thạc
sĩ, đã lấy văn học đô thị làm đối tƣợng nghiên cứu. Vì thế “Văn học đô thị”
không còn là một khái niệm xa lạ đối với các nhà nghiên cứu. Đô thị nhƣ là
một dấu mốc quan trọng đánh dấu sự phát triển của của mỗi thời đại nói chung
và của mỗi quốc gia nói riêng. Có quốc gia nào mà không có đô thị? Có đô thị
nào mà không phải là biểu tƣợng lịch sử, văn hóa, kiến trúc của quốc gia đó?
Có ai sinh ra khi biết đến đô thị mà không từng khao khát, ƣớc mơ về cuộc
sống đô thị? Khi nói đến đô thị có ngƣời đã ví nó nhƣ một thứ bùa ngải mà ai
cũng có thể bị hấp dẫn nhƣng đồng thời cũng ẩn chứa rất nhiều mối đe dọa.
Đô thị không còn là một khái niệm để chỉ về một vùng cƣ trú, sinh hoạt của
con ngƣời theo nghĩa đơn thuần mà đã trở thành một yếu tố quan trọng trong
sự phát triển của xã hội. Theo chúng tôi tìm hiểu đƣợc thì đô thị đƣợc hình
thành trên thế giới cách đây hàng ngàn năm. Trong lịch sử phát triển của các
quốc gia trên thế giới chƣa khi nào vắng bóng hình ảnh của đô thị, bắt đầu từ
những thành phố cổ Jerusalem (Isarel) hay Athens (Hy Lạp), sau đó là sự xuất
hiện của các đô thị lớn trên thế giới nhƣ Paris (Pháp), Lôn Đôn (Anh),
Beirerin (Đức), Istanbul (Thổ Nhĩ Kì), Hà Nội (Việt Nam)…tất cả những biểu
hiện của các đô thị ấy đã đƣợc các nhà văn đƣa vào trong tác phẩm văn học,
khám phá và suy ngẫm về đô thị với một niềm say mê vô tận.
Khái niệm đô thị trƣớc tiên là để phân biệt với một môi trƣờng sống
8
hoàn toàn khác biệt là nông thôn.Theo Từ điển tiếng Việt, khái niệm “đô thị”
đƣợc định nghĩa là “nơi dân cƣ đông đúc, là trung tâm thƣơng nghiệp và có
thể cả công nghiệp; thành phổ hoặc thị trấn”. Nói nhƣ vậy thì đô thị là khu
vực tập trung đông dân cƣ sinh sống và chủ yếu hoạt động trong những lĩnh
vực kinh tế phi nông nghiệp, là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội,
du lịch và dịch vụ của cả nƣớc hoặc vùng lãnh thổ bao gồm thị trấn, thị xã,
thành phố (thành phố trực thuộc tỉnh và thành phố trực thuộc trung ƣơng).
Dƣới khía cạnh xã hội học, đô thị và nông thôn là hai khái niệm về mặt nội
dung có hàng loạt đặc điểm có tính đối lập nhau. Nếu các nhà xã hội học đã
đƣa ra rất nhiều cơ sở khác nhau để phân biệt đô thị và nông thôn nhƣ các lĩnh
vực hoạt động sống của xã hội thì trong văn học sự khác biệt giữa đô thị và
nông thôn lại càng khiến cho những ngƣời chƣa từng một lần nhìn thấy đô thị,
chƣa đặt chân đến đô thị họ khao khát và ƣớc mơ. Trong suy nghĩ của nhiều
ngƣời, đô thị chính là chốn phồn hoa, nơi đông đúc, nhộn nhịp. Đã córất
nhiều ngƣời chọn cách rời bỏ vùng quê nghèo khó để đến với đô thị. Chấp
nhận thay đổi các thói quen, lợi ích ở vùng quê để đổi lấy cuộc sống mới đô
thị. Cuộc sống hào nhoáng với đầy đủ tiện nghi hiện đại với các hoạt động
giải trí đã khiến nhiều ngƣời bị mê hoặc. Nhƣng không ai có thể biết đƣợc bên
trong cái hào nhoáng ấy là những phức tạp và rắc rối trong cuộc sống hàng
ngày, những ngột ngạt, tù túng, những giả tạo, sự xuống cấp của đạo đức đều
đƣợc đô thị che đậy lại kín đáo và tài tình. Điều này đã đƣợc thể hiện chân
thực và cũng đầy ám ảnh trong văn chƣơng. Nhiều nhà văn lớn trong và ngoài
nƣớc đã dành trọn cuộc đời mình chỉ để viết về đô thị:
Những người khốn khổ, Nhà thờ đức bà Pari là những tác phẩm kinh
điển của Victor Huygo viết về thủ đô Pari thế kỉ XIX của nƣớc Pháp. Bản
giao hƣởng của ánh sáng và bóng tối.Vừa khổ đau tận cùng vừa đẹp đẽ mẫu
mực, vừa lãng mạn nhƣng cũng đầy tính hiện thực, Những người khốn khổ và
nhà thờ đức bà Pari là một bức tranh đầy đủ về xã hội Pháp trong những năm
9
đầu thế kỷ XIX với những mảnh đời bất hạnh và nghiệt ngã nhƣ Jean Valjean,
Fantine, vũ nữ Esmeralda xinh đẹp, thằng gù Quaimodo. Một Pari bị bóp
nghẹt trong bầu không khí chuyên chế khắc nghiệt, bị chi phối bởi thần học,
giáo lí, con ngƣời nhƣ sống trong một cái nhà hộp bằng sắt không có cửa sổ,
họ quằn quại trong những trò nhơ bẩn, những đau khổ trái ngang, lại vừa
nhem nhuốc bởi sự băng hoại đạo đức đã ăn sâu vào đến tận chân tƣờng của
giáo đƣờng. Trong không khí u ám, đen tối đó của Pari, nhà văn đã xây dựng
thành công những hình mẫu nghệ thuật là biểu tƣợng của lối sống cao thƣợng
và tình thƣơng trọn vẹn, từ đó đề cao và lí tƣởng hóa tình yêu thƣơng của con
ngƣời, thể hiện niềm tin mãnh liệt vào tình yêu sẽ có thể cảm hóa đƣợc cái
xấu, cái ác.
Nếu muốn tìm kiếm một đô thị đa sắc màu thì không thể không nói tới
Những màu khác trên lãnh thổ Thổ Nhĩ Kì của nhà văn Orhan Pamuk. Đó là
vùng đất mỗi khi nhắc đến là khiến độc giả nhớ đến những trận động đất,
cuộc hỏa hoạn và những tái thiết liên miên trong lịch sử. Ở đó, con ngƣời luôn
phải chịu đựng sự rình rập của những cái chết bất ngờ, tính mạng con ngƣời
trở nên mong manh, chấp chới và rẻ mạt. Nhƣng cũng chính vì lẽ đó, con
ngƣời ở đây lại cảm nhận rõ hơn diện mạo của sự sống, họ trở nên trân quý sự
sống của bản thân và sẵn sàng đấu tranh cho sự sống đáng quý ấy. Ở một diện
mạo khác, Istanbul còn đƣợc hiện ra là một đô thị đặc biệt, nằm trung tâm
trên con đƣơng giao thƣơng giữa phƣơng Đông và phƣơng Tây, sự giao lƣu
giữa hai nền văn hoá cũng khiến cuộc sống đô thị của Istanbul bị ảnh hƣởng
bởi nhiều sắc thái văn hóa, lối sống khác nhau, hình thành nên một không
gian đô thị đặc trƣng mà các tác phẩm khác về đô thị khác không thể có.
Có đô thị thì ắt sẽ nảy sinh những vấn đề của đô thị, có những câu
chuyện đô thị, con ngƣời đô thị, dục vọng đô thị, đó chính là tiền đề của văn
chƣơng về đô thị. Cùng với sự thay đổi của nền kinh tế, xã hội các nhà văn đã
thực tế, chủ động, nắm bắt đƣợc những vấn đề nóng bỏng của đời sống xã hội,
10
đi sâu đề cập đến những vấn đề cá nhân, xoáy sâu vào thực tế bụi bặm của đời
sống con ngƣời. Trong cái vỏ bọc đô thị ấy, văn hoá, đạo đúc, tinh thần của
con ngƣời đang bị băng hoại dần và con ngƣời cũng dễ bị rơi vào sự hoài nghi
và vỡ mộng. Trong các tác phẩm trong bộ Tấn trò đời của Honore Đe Banzac
nhƣ Vỡ mộng, Miếng da lừa…. đô thị Pháp một lần nữa lại đƣợc soi chiếu,
mô tả chân thực sự xa hoa giàu có nhƣng cũng vô tình, bạc bẽo đến mức ớn
lạnh. Một đô thị trụy lạc, phóng đãng nửa đầu thế kỉ XIX hiện lên cực kì chân
thực và sinh động.Trong Miếng da lừa, nhân vật Raphaen đơ Valangtanh lên
Pari trọ học với thiện ý và hoài bão cao cả, nhƣng sau khi cảm nhận đƣợc sự
lãnh đạm tàn nhẫn của mọi ngƣời với những việc làm có ý nghĩa cao đẹp của
anh, Raphaen đã rơi vào khủng hoảng, cô đơn, tuyệt vọng. Tình cờ anh đƣợc
một lão già buôn đồ cổ cho một miếng da lừa trên đó có dòng chữ "Nếu mi có
ta mi sẽ có hết thảy, nhƣng đời mi sẽ thuộc về ta. Trời đã định thế. Hãy ƣớc
đi, lời ƣớc của mi sẽ đƣợc toại, nhƣng hãy chỉnh lời ƣớc hẹn theo đời mi. Mỗi
lần ƣớc ta sẽ co nhỏ lại nhƣ đời mi vậy. Muốn ta chăng? Cầm lấy Trời chuẩn
y cho". Kể từ khi có miếng da lừa, Raphaen dù cố kiềm chế ƣớc muốn nhƣng
vẫn không thoát khỏi tham vọng lạc thú và cuối cùng miếng da lừa co nhỏ lại,
kết thúc cuộc đời anh. Nhà văn đã nhấn mạnh một quy luật khắc nghiệt của
tạo hóa mà con ngƣời đô thị đƣơng thời đã vi phạm: đời sống của con ngƣời
đã đƣợc sắp xếp trong phạm vi nhất định, biết sống theo quy luật thì đƣợc
sống lâu. Kẻ nào lòng đầy tham vọng muốn sống trụy lạc trác táng sẽ mau
chóng tàn lụi.
Ba người lính Ngự lâm của Alexan Durma nổi tiếng với chủ đề tình yêu
lãng mạn của giới quý tộc và những xung đột ngầm trong tranh đoạt quyền
lực của các phe phái chính giới phong kiến Pháp. Thông qua cuộc gặp gỡ, đối
đầu của d'Artagnan và ba ngƣời lính ngự lâm Aramis, Porthos, Athos, với bên
kia là Hồng y giáo chủ Richelieu, Milady, quận công Buckingham…Cuộc
sống đô thị ở Anh hay Pháp thì đều có những điểm rất giống nhau. Những cái
11
cao thƣợng, nghĩa hiệp của giới quý tộc luôn đồng hành cùng những giả dối,
lừa lọc, tham lam, thủ đoạn, âm mƣu thâm độc. Một bên là những chuẩn mực
đạo đức tốt đẹp, một bên lại sự phá vỡ những chuẩn mực tốt đẹp đó. Các nhà
văn đã cho độc giả thấy đƣợc bộ mặt của xã hội tƣ sản thị dân tự do, dân chủ
và đổi mới, thực dụng.
Đô thị khi đƣợc xây dựng qua lăng kính văn học còn đƣợc hiện ra với
những mặt trái của xã hội. Càng xa hoa, lộng lẫy, nhiều thú vui thì lại càng
khiến con ngƣời dễ bị đánh mất mình. Phế đô của Giả Bình Ao đã cho chúng
ta thấy ở chốn kinh kỳ hƣng thịnh khi xƣa, là trung tâm kinh tế và văn hóa của
Trung Hoa trung đại, mặc dù đã bị lãng quên một thời gian dài và cho đến khi
nền kinh tế thị trƣờng ùa vào, làm thay đổi đời sống kinh tế và xã hội của mọi
thứ dân nơi đây, nhƣng dƣờng nhƣ chƣa hề làm biến đổi đƣợc cái máu háo
danh của quân tử Tàu từ thời cổ đại. Với một bút pháp giản dị đến lạnh lùng,
nhƣng rất tinh tế, Giả Bình Ao đã đem đến cho chúng ta những trận cƣời đầy
nƣớc mắt, cùng những suy ngẫm về thế thái nhân tình, những con ngƣờichết
vì danh. Ngƣời hết lòng vì chồng nhƣ Ngƣu Nguyệt Thanh cuối cùng cũng
phải bỏ nhà về quê ngoại vì không muốn nhìn thấy cảnh chồng mình và Uyển
Nhi thậm thụt với nhau làm mất thể diện, thanh danh của gia đình đã một thời
nổi tiếng là văn nhân. Cảnh Tuyết Ấm theo kiện Chu Mẫn và Trang Chi Điệp
đến cùng vì cái danh của bà hiện tại không muốn bị ai bôi nhọ dù cho mối
tình ấy trƣớc đây có thật. Tổng biên tập Chung Duy Hiền vì cuốn sổ đỏ xác
nhận cái danh văn sĩ của mình mà bất đắc kỳ tử. Nhà thƣ pháp Cung Tịnh
Nguyên sợ rằng hơn một nửa số tranh chữ ông vẽ và sƣu tập trong suốt bao
năm trời bị thằng con trai lấy cắp đem bán cho kẻ vô danh tiểu tốt nào đấy, để
lấy tiền hút thuốc phiện, cuối cùng cũng lăn đùng ra mà chết. Vợ của giám
đốc Hoàng chết dù không có ý định tự tử. Giống nhƣ cách mẹ Cám đã đem
mắm cô Tấm ra thết đãi Hoàng tử trong truyện Tấm Cám của Việt Nam, nồi
lẩu là một chi tiết đắt giá trong tác phẩm, đƣợc Ngƣu Nguyệt Thanh nấu bằng
12
chính con chim bồ câu đƣa thƣ của Trang Chi Điệp mua tặng ngƣời tình
Đƣờng Uyển Nhi. Cách thết đãi của Ngƣu Nguyệt Thanh là đỉnh điểm của
một cách trả thù vì danh rất thâm thúy và cay độc theo kiểu Trung Quốc nói
riêng và phƣơng Đông nói chung. Cùng với cái chết của Chung Duy Hiền,
bức thƣ của Uyển Nhi gửi cho Trang Chi Điệp qua con chim bồ câu mà Liễu
Nguyệt đọc đƣợc, hành động lấy que sắt nung đỏ dí vào âm hộ Đƣờng Uyển
Nhi của ngƣời chồng cũ ở Đồng Quan có lẽ chỉ có ở Trung Quốc và một số
nƣớc phƣơng Đông ngƣời ta mới làm nhƣ vậy. Uyển Nhi, Liễu Nguyệt, A
Xán đều tự nguyện hiến mình cho Trang Chi Điệp, đến nỗi cuối cùng Uyển
Nhi bị ngƣời chồng cũ trói lại bắt về Đồng Quan đánh cho nát ngƣời và bị
ngƣợc đãi về tình dục, A Xán thì trốn chạy, Liễu Nguyệt thì làm vợ của một
anh thọt…, xét cho cùng cũng đều vì cái danh. Và chính Trang Chi Điệp, kẻ
có danh nhất ở thành phố Tây Kinh này kết thúc đời mình bằng cái chết ở nhà
ga cũng chỉ vì cái danh của tôi lớn đến mức nó đã ăn thịt hết tất thảy mọi
người ở thành phố này và cuối cùng nó quay ra ăn thịt chính bản thân người
mang nó, nhƣ chính Trang Chi Điệp đã từng thú nhận nhƣ vậy ở cuối sách.
Tất cả những chi tiết đó là biểu hiện của một kết cục tất yếu tấn bi kịch của
tầng lớp trí thức Trung Quốc đƣơng đại. Đó cũng chính là ý nghĩa xã hội rộng
lớn và sâu sắc mà Phế đô đã đạt đƣợc.
Phế đô thật sự là tiếng chuông cảnh báo đối với những ai đang cố tình
nhắm mắt chạy theo cái danh mà Giả Bình Ao muốn gửi đến tất cả chúng ta
qua tác phẩm của mình. Mỗi nhân vật, đều có số phận, tính cách rất riêng
không ai giống ai. Đằng sau những câu chuyện của những con ngƣời ấy, Giả
Bình Ao đã đặt ra và lý giải rất thấu đáo và tài tình một vấn đề thật sự nghiêm
túc không chỉ về khía cạnh lối sống cá nhân của giới trí thức Trung Quốc
đƣơng đại, mà còn cả về khía cạnh nhân sinh và xã hội. Đó là vấn đề thành
danh và thành công. Không phải bất cứ ai, ở đâu và lúc nào ngƣời ta thành
danh là đã thành công và trong thực tế cuộc sống nhiều khi lại hoàn toàn trái
13
ngƣợc. Kẻ nào đùa giỡn với cái danh của mình hoặc là dùng cái danh để mƣu
lợi một cách quá đáng thì trƣớc sau ắt phải trả giá là lẽ đƣơng nhiên. Nhƣng
những kẻ cố tình lợi dụng danh tiếng hoặc mạo danh ngƣời khác cũng không
thể nào trốn khỏi sự trừng phạt của số phận. Và quan trọng hơn là nhiều khi vì
cái danh mà ngƣời ta có thể đánh mất mình và làm đảo lộn cả một trật tự xã
hội vốn rất nền nếp và quy củ nhƣ Trung Quốc.
Số đỏ của Vũ Trọng Phụng lại là một tác phẩm của sự phi lí và mâu
thuẫn. Nhƣng chỉ có những sự phi lí và mâu thuẫn đó, Vũ Trọng Phụng mới
có đất dụng tài, lấy ngòi viết của mình rồi làm nổi bật lên sự thật của những
điều phi lí đó.“Số đỏ làm cho người đọc cười theo nhiều kiểu. Cười vì cái sự
hài hước trong văn của Vũ Trọng Phụng, cười cái sự tình nhố nhăng lộn xộn
của gia đình cụ cố Hồng, hay cũng là cười mỉa, cười thẳng mặt cái chế độ
phong kiến thối tha, chạy theo cái danh và đồng tiền”. Trong Số đỏ,Vũ Trọng
Phụng đã nêu bật lên những tính cách khác ngƣời và chơi trội của một đại gia
đình văn minh, có học thức qua tình huống gia đình có ngƣời chết. Nhà có
tang, ai cũng buồn dầu, đau khổ, tất cả đều mang những gƣơng mặt ủ rũ
nhƣng kì thực họ không hề đau khổ vì ngƣời thân đã mất mà mỗi ngƣời đều
đang có những suy nghĩ, tính toán riêng. Điều đặc biệt là không chỉ những
ngƣời đã có tuổi mà cả những thanh niên trẻ tuổi, những nhân vật nam mà
thậm chí những nhân vật nữ nhƣ bà Phó Đoan, cô Tuyết hay cô Hoàng Hôn
đều sở hữu tính nết hƣ hỏng, không nên có ở một ngƣời phụ nữ. Họ là những
con ngƣời suy đồi đạo đức và thiếu mất nét đẹp thuần túy thƣờng thấy của
ngƣời con gái Việt Nam. Không chỉ dừng lại ở đó, Số đỏ còn xây dựng những
hình tƣợng nhân vật phụ cũng hết sức lố bịch. Những ông bạn thân của cụ cố
Hồng với trên áo khoe mẽ thật nhiều huy chƣơng đến những cô cậu Âu hóa
đang cƣời tình với nhau, ghen tuông nhau, bình phẩm nhau. Có lẽ, đây chính
là hình tƣợng chung đƣợc lấy cảm hứng từ hiện thực của xã hội thời ấy,
những nguyên bản thối nát ở đời thực. Gia đình cụ cố Hồng chính là bức tranh
14
thu nhỏ về đô thị Việt Nam thời kì 1930-1945, giai đoạn giao thời đầy lố lăng
và ô uế.
Nhƣ vậy, mỗi một quốc gia, mỗi một đô thị qua lắng kính văn học lại
hiện ra với những đƣờng nét, biểu hiện riêng. Qua đó, độc giả có thể khám
phá, chiêm ngƣỡng, mộ ái thêm rất nhiều những vùng đô thị trên thế giới dù
chƣa một lần đặt chân đến.
1.1.2 Phương thức tự sự về đô thị
Viết về đô thị, các nhà văn vẫn sử vẫn dụng các phƣơng thức tự sự
phổ biến nhƣ ngƣời kể chuyện, tổ chức không gian, thời gian, giọng điệu,
nhịp điệu trần thuật…Thông qua các phƣơng thức tự sự này, đô thị trong
văn học không đơn giản là sự phản ánh đô thị có thực ngoài đời, mà là
một đô thị đƣợc kiến tạo. Cũng chính vì thế mà cùng là Thƣợng Hải,
nhƣng Thƣợng Hải trong tiểu thuyết của Vƣơng An Ức khác với Thƣợng
Hải trong tiểu thuyết của Kim Vũ Trừng.
1.1.2.1. Người kể chuyện
Ngƣời kể chuyện là một phƣơng diện quan trọng của lí thuyết tự sự, là
phƣơng thức tự sự quan trọng trong tác phẩm tự sự.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, ngƣời kể chuyện là “hình tƣợng ƣớc
lệ về ngƣời trần thuật trong tác phẩm văn học, chỉ xuất hiện khi nào câu
chuyện đƣợc kể bởi một nhân vật cụ thể trong tác phẩm” [7; 191]. Nhƣ vậy,
ngƣời kể chuyện là hình tƣợng nghệ thuật đặc biệt và tất yếu trong một tác
phẩm tự sự. Ngƣời kể chuyện có mối quan hệ đặc biệt với tác giả nhƣng
không đồng nhất với tác giả. Tác giả là chủ thể sáng tạo, ở bên ngoài tác
phẩm, là ngƣời thật có tên, tuổi, tiểu sử còn ngƣời kể chuyện tồn tại trong thế
giới hƣ cấu và tƣởng tƣợng, là nhân vật do tác giả sáng tạo ra có nhiệm vụ tổ
chức kết cấu tác phẩm và môi giới, dẫn dắt ngƣời đọc tiếp cận thế giới nghệ
thuật, thay mặt nhà văn bày tỏ quan điểm về con ngƣời, cuộc đời. Nhƣ vậy,
tác giả có trách nhiệm về tác phẩm nghệ thuật do mình sáng tạo ra, còn ngƣời
- Xem thêm -