BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
ĐỖ THỊ HẠNH
TỰ SỰ VỀ NÔNG THÔN
TRONG MẢNH ĐẤT LẮM NGƯỜI NHIỀU MA
CỦA NGUYỄN KHẮC TRƯỜNG
VÀ ĐINH TRANG MỘNG CỦA DIÊM LIÊN KHOA
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Phú Thọ, năm 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
UBND TỈNH PHÚ THỌ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
ĐỖ THỊ HẠNH
TỰ SỰ VỀ NÔNG THÔN
TRONG MẢNH ĐẤT LẮM NGƯỜI NHIỀU MA
CỦA NGUYỄN KHẮC TRƯỜNG
VÀ ĐINH TRANG MỘNG CỦA DIÊM LIÊN KHOA
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số: 8220120
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Minh Thương
Phú Thọ, năm 2021
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn Tự sự về nông thôn trong “Mảnh đất lắm
người ma” của Nguyễn Khắc Trường và “Đinh Trang mộng” của Diêm Liên
Khoa là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi. Những tài liệu đƣợc trích dẫn
trong luận văn là trung thực. Kết quả nghiên cứu này không trùng với bất
cứ công trình nào đã đƣợc công bố trƣớc đó.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm với lời cam đoan của mình.
Phú Thọ, tháng 07 năm 2021
Học viên
Đỗ Thị Hạnh
ii
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn sự quan tâm, giúp đỡ của tập thể thầy cô
Khoa Khoa học xã hội & Văn hóa du lịch; các thầy cô đã tham gia giảng dạy
lớp Cao học K4 - Lý luận văn học, Trƣờng Đại học Hùng Vƣơng.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn Lãnh đạo Trƣờng Đại học Hùng Vƣơng;
Ban giám hiệu Trƣờng THPT Ngô Gia Tự - Huyện Lập Thạch - Tỉnh Vĩnh
Phúc đã nhiệt tình giúp đỡ, tạo mọi điều kiện cho tôi đƣợc tham gia học tập,
nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Đặc biệt, tôi xin cảm ơn sự quan tâm sâu sắc của Tiến sĩ Nguyễn Thị
Minh Thƣơng đã tận tình hƣớng dẫn, chỉ bảo tôi trong suốt quá trình học tập,
nghiên cứu để hoàn thiện công trình này.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình cùng các đồng nghiệp,
đồng khóa đã động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên
cứu khoa học.
Phú Thọ, tháng 07 năm 2021
Học viên
Đỗ Thị Hạnh
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... ii
MỤC LỤC ........................................................................................................ iii
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................. 1
1.2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu .................................................................... 3
1.3. Mục tiêu nghiên cứu................................................................................... 9
1.4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.............................................................. 9
1.5. Nhiệm vụ và phƣơng pháp nghiên cứu ...................................................... 9
1.6. Đóng góp của luận văn............................................................................. 10
1.7. Cấu trúc luận văn ..................................................................................... 10
PHẦN NỘI DUNG ......................................................................................... 12
CHƢƠNG 1: KHÁI LƢỢC VỀ TỰ SỰ HỌC ............................................... 12
VÀ VẤN ĐỀ NÔNG THÔN TRONG VĂN HỌC ........................................ 12
1.2. Khái lƣợc về vấn đề nông thôn trong văn học ......................................... 19
CHƢƠNG 2: BỨC TRANH NÔNG THÔN TRONG ................................... 29
MẢNH ĐẤT LẮM NGƯỜI NHIỀU MA CỦA NGUYỄN KHẮC TRƢỜNG
VÀ ĐINH TRANG MỘNG CỦA DIÊM LIÊN KHOA .................................. 29
2.1. Nông thôn trong các bi kịch tồn sinh khắc nghiệt ................................... 29
2.2. Nông thôn với vấn đề tha hoá đạo đức .................................................... 48
2.3. Nông thôn với vấn đề môi trƣờng sinh thái ............................................. 64
2.4. Nông thôn với những hủ tục lạc hậu ........................................................ 72
3.1. Điểm nhìn trần thuật................................................................................. 82
3.2. Không gian nghệ thuật ............................................................................. 87
3.3. Bút pháp kì ảo .......................................................................................... 92
PHẦN KẾT LUẬN ....................................................................................... 108
THƢ MỤC THAM KHẢO ........................................................................... 111
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1.1. Nông thôn có thể xem là một thực thể văn hóa yếu thế/bị tổn
thƣơng trong thời kì đô thị hóa, toàn cầu hóa. Đứng trƣớc “cơn địa chấn” đất
đai, tiền bạc, quyền lực, nông thôn “oằn mình” chống đỡ để thích nghi và giữ
gìn các giá trị bền vững. Bên cạnh đề tài chiến tranh hay thành thị thì đề tài
nông thôn đƣợc coi là một mảnh đất trù phú, có sức hút to lớn đối với nhiều
văn nghệ sĩ. Trên con đƣờng hiện đại hóa, nông thôn đã có những khởi sắc và
cả sự bất ổn. Ngƣời nông dân không còn thuần túy làm nông nghiệp và sống ở
nông thôn nhƣ giai đoạn trƣớc. Nhiều ngƣời thất nghiệp ngay chính trên
mảnh đất mà mình đã đƣợc sinh ra. Nhiều ngƣời rơi vào bi kịch thƣơng tâm
do vô tình hoặc do nhận thức,… cùng bao hệ lụy khác. Đó cũng chính là
những trăn trở, băn khoăn của các nhà văn về một vùng đất tƣởng nhƣ chỉ có
sự tĩnh lặng và yên bình, trong đó có Nguyễn Khắc Trƣờng với Mảnh đất ắm
người nhiều ma và Diêm Liên Khoa với Đinh Trang mộng. Hai tác phẩm đã
gieo vào lòng ngƣời đọc những băn khoăn, trăn trở về số phận ngƣời nông
dân trƣớc sự biến chuyển đầy phức tạp của thực tiễn đời sống.
1.1.2. Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Đồng Hỷ - Thái Nguyên,
Nguyễn Khắc Trƣờng đƣợc biết đến là nhà văn quân đội của quân chủng
Phòng không - Không quân từ năm 1965. Một trong những tác phẩm để lại
dấu ấn quan trọng trong sự nghiệp viết văn của Nguyễn Khắc Trƣờng chính là
Mảnh đất lắm người nhiều ma. Tác phẩm chứa đựng vốn kiến thức sâu sắc về
nông thôn Việt Nam này đã vinh dự đƣợc nhận giải thƣởng của Hội nhà văn
Việt Nam. Bằng tấm lòng trân quý ngƣời nông dân, Nguyễn Khắc Trƣờng
miêu tả tình cảnh của nông thôn và số phận của ngƣời nông dân một cách
chân thực. Ở đó, cái ác, cái xấu có mặt khắp nơi, thả sức hoành hoành và
nhiều ngƣời hành động nhƣ những kẻ cuồng tín. Sự ấu trĩ trong nhận thức, sự
hạn hẹp về tầm nhìn của một số cán bộ có chức có quyền đã khiến biết bao
2
gia đình tan nát, bao số phận dang dở. Nhìn chung, Nguyễn Khắc Trƣờng đã
dựng lại bi kịch của một thời, nhƣng thông qua đó, chúng ta luôn hi vọng sẽ
hƣớng tới một tƣơng lai tốt đẹp, giàu tính nhân bản hơn.
Diêm Liên Khoa là một trong những nhà văn đƣơng đại tiêu biểu Trung
Quốc với những tác phẩm xuất sắc nhƣ Nhật quang ưu niên, Nàng Kim Liên
ở trấn Tây Môn, Đinh Trang mộng, Tứ thư, … Tác phẩm của Diêm Liên
Khoa không chỉ có tầm giá trị đối với riêng đất nƣớc Trung Quốc, con ngƣời
Trung Quốc mà còn đối với nhân loại nói chung. Tiểu thuyết chính là mảng
thành công nhất trong sự nghiệp sáng tác của ông. Khi nghiên cứu về tiểu
thuyết của Diêm Liên Khoa, đề tài nông thôn có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Nếu nhƣ đối với Diêm Liên Khoa, nó là kim chỉ nam trong sáng tác, là đặc
điểm để khu biệt, sáng tạo và nỗ lực của Diêm Liên Khoa thì đối với ngƣời
đọc, khai thác chủ đề nông thôn sẽ là bản đồ để giải mã, khám phá những bí
ẩn trong địa hạt sáng tạo của ông. Đó cũng chính là lí do mà Diêm Liên Khoa
cùng với những tác phẩm của mình đã chinh phục đƣợc nhiều giải thƣởng văn
học danh giá của cả Trung Quốc và thế giới. Diêm Liên Khoa thực sự trở thành
cây bút nổi bật trên văn đàn với các tác phẩm miêu tả sự đau khổ của ngƣời nông
dân, sự can đảm và dũng khí của họ khi chiến đấu với hoàn cảnh sống.
1.1.3. Roland Barthes từng nói: “Đã có bản thân ịch sử oài người, thì
đã có tự sự” (“History is astory / L’Hi storie est unrécit”). Cùng với quá trình
hình thành và phát triển của lịch sử loài ngƣời thì không thể không nhắc đến
tự sự học. Lĩnh vực học thuật này đƣợc quan tâm, nghiên cứu tìm hiểu rõ rệt
nhất là vào khoảng thế kỷ XX. Đối với Việt Nam, các nhà nghiên cứu đã sớm
tiếp nhận và phát huy rất hiệu quả khi vận dụng lý thuyết tự sự để làm cơ sở
khám phá các tác phẩm văn học. Hơn nữa, tự sự học có thể mở rộng phạm vi
nghiên cứu. Nó không đơn thuần là nghiên cứu các thể loại tự sự văn học mà
còn nghiên cứu những lĩnh vực phi văn học nhƣ điện ảnh, nghệ thuật thị
giác… Miieke Bal cho rằng, tất cả các khách thể văn hoá (bộ luật, tranh ảnh,
3
tƣ liệu lịch sử…) đều ít nhiều có liên quan đến tự sự. Với tất cả ý nghĩa đó,
chúng tôi quyết định chọn đề tài mang tên Tự sự về nông thôn trong Mảnh
đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trƣờng và Đinh Trang mộng của
Diêm Liên Khoa với mong muốn góp phần lý giải đƣợc thành công của hai
tác phẩm.
1.2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.2.1. Các nghiên cứu về “Mảnh đất ắm người nhiều ma” của Nguyễn
Khắc Trường
Cho đến nay, xoay quanh Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn
Khắc Trƣờng đã có nhiều bài viết nghiên cứu, phê bình, nhiều ý kiến thảo
luận. Tiêu biểu là cuộc thảo luận do báo Văn Nghệ tổ chức ngày 25 - 01 1991, sau đó đƣợc tập trung in trên tờ báo Văn Nghệ số 11, ngày 16-03-1991,
đã có rất nhiều ý kiến đáng chú ý:
Theo nhà nghiên cứu Hà Minh Đức, nông thôn đƣợc Nguyễn Khắc
Trƣờng nói đến là “nông thôn với cách nhìn chân thực, chủ động”, với “nhiều
chuyển động, xáo trộn, đấu tranh giữa cái tốt, cái xấu, tranh chấp nhau giữa
các thế lực”. Theo cách nhìn nhận của tác giả thì nông thôn “không cuộn ên
trong các phong trào đấu tranh yêu nước, cải cách, hợp tác mà sôi ên từ
những nguyên nhân bên trong, những chuyện àng xóm”.
Giáo sƣ Phong Lê bằng kinh nghiệm quan sát khá tỉ mỉ và tinh tƣờng đã
phát hiện ra cái gây đƣợc ấn tƣợng ở đây “ à các vấn đề chìm và nổi, ở bề
mặt và bề sâu trong sự đan xen đó. Không chỉ à chất thơ, mà còn à bi kịch,
và à những bi kịch gọi nhau. Không chỉ à những con người nhân danh đủ
dạng trong thế bài trừ tiêu diệt lẫn nhau mà còn à đủ những dạng “dị dạng”
bị đẩy ra hoặc bị vào những cuộc giao tranh quyết liệt đó”.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh đã thể hiện sự trân trọng đối với tài
năng của Nguyễn Khắc Trƣờng “ à tạo được một không khí riêng cho tác
4
phẩm, một không khí âm dương ẫn lộn, có nhân vật thật khó tách bạch đâu
à phần quỷ, đâu à phần người”.
Riêng Giáo sƣ Trần Đình Sử thì ông đã tỏ rõ sự thích thú, đam mê của
mình khi đọc tiểu thuyết này, bởi ở đấy có sức lôi cuốn đặc biệt từ đầu đến
cuối. Qua tác phẩm, Giáo sƣ đã nhận ra “một hiện tượng xã hội nghiêm trọng,
đáng quan tâm trong cuộc sống hiện nay à ý thức dòng họ, gia tộc đang gây
trở ngại cho sự nghiệp xây dựng xã hội mới, xã hội công dân ở nông thôn”.
Ông còn phát hiện ra tác giả khắc hoạ rất xuất sắc về ý thức dòng họ “như
một hiện tượng chìm sâu, ngấm ngầm, dai dẳng nhưng có vai trò rất lớn”.
Ngoài ra, tác phẩm còn nhận đƣợc sự quan tâm, đánh giá, nhận xét của
các tác giả nhƣ Nguyễn Phan Hách, Ngô Thảo, Hồ Phƣơng, Thiếu Mai… Hầu
hết các bài viết đều gặp gỡ nhau trong việc nhìn nhận về hiện thực biệt đặc là
ý thức dòng họ. Chính điều đó đã tạo nên sức mạnh vô hình, chi phối đến tất
cả các mối quan hệ giữa con ngƣời với con ngƣời. Và cũng vì nó mà con
ngƣời khó có thể đƣợc sống theo những gì mà mình mong muốn. Tại cuộc hội
thảo này, tác giả Mảnh đất lắm người nhiều ma Nguyễn Khắc Trƣờng đã có ý
kiến giúp cho độc giả hiểu rõ hơn về quá trình ra đời của tác phẩm. Đó là
“nhằm truy tìm tận gốc rễ sự xuống cấp, sự tha hoá về đạo đức của nông
thôn chúng ta… Tôi thấy, một trong những nguyên nhân sâu xa ấy à vấn đề
dòng họ… Đây à cái nhân của mỗi một àng từ ngày khai thiên ập địa, từ
thời mở đất, thường à mỗi dòng họ lập nên một àng”.
Tác phẩm Mảnh đất lắm người nhiều ma còn nhận đƣợc ý kiến của một
số cây bút trên một số bài báo, chuyên luận khác, tiêu biểu nhƣ:
Trong “Đọc mảnh đất lắm người nhiều ma” (Tác phẩm mới, Hà Nội, số
8, tháng 8, 1991). Lê Thành Nghị đã nhận ra vấn đề bao quát của tác phẩm là
“Vấn đề nhận dạng bộ mặt tinh thần nông thôn”. Theo ý kiến của tác giả,
điều làm nên bộ mặt nông thôn hôm nay, cũng nhƣ từ ngàn xƣa là sự chi phối
“khá triệt để về ý thức của các dòng họ”. Phải chăng chính điều này đã chi
5
phối hết thảy ý nghĩ, hành động của con ngƣời, ngay cả với ngƣời có vị trí
cao nhất - Bí thƣ đảng uỷ Trịnh Bá Thủ thì mọi hành động của hắn đều bị xô
lệch đi qua từ “trƣờng” ý thức dòng họ?
Tác giả Hồng Diệu với Mảnh đất lắm người nhiều ma (Văn nghệ Quân
đội, Hà Nội số 8, tháng 8, 1991) đã khẳng định rõ đây là một tác phẩm “nổi
bật ên một dáng vẻ rất riêng trong những quyển sách viết về nông thôn ta
dưới chế độ đổi mới”. Tác giả khẳng định, trong tiểu thuyết này không chỉ
mang giọng điệu hài hƣớc mà còn có một giọng điệu khác “chìm ở tầng dưới,
đó à giọng bi thảm”.
Tác giả Ngọc Anh trong báo Giáo dục và thời đại, 27 – 5 - 1991 đã
khẳng định rõ những thành công về mặt nghệ thuật của Nguyễn Khắc Trƣờng,
đó là việc tác giả đã tỏ rõ sự vững vàng từ “việc dựng truyện, xây dựng nhân
vật, đến sử dụng ngôn ngữ”. Tác giả Ngọc Anh đã phát hiện và nhấn mạnh
tính chỉnh thể và kết cấu của tác phẩm “sự việc nọ nối tiếp sự việc kia, bi kịch
này kéo theo bi kịch khác”. Nhiều sự việc diễn ra mâu thuẫn, phức tạp nhƣng
tác giả đã nhìn sâu vào bản chất của sự việc, giải quyết thấu đáo cứ nhƣ “sự
việc nó đúng phải xảy ra như thế”.
Lê Nguyên Cẩn với Thế giới kỳ ảo trong “Mảnh đất lắm người nhiều
ma” của Nguyễn Khắc Trường từ cái nhìn văn hoá (Tạp chí khoa học số 5,
2005, Trƣờng ĐHSP Hà Nội) thể hiện sự chuyên sâu trong tìm hiểu các vấn
đề trong tác phẩm có gắn với cái nhìn văn hoá. Tác giả chỉ rõ, cái tạo ra giá trị
của tác phẩm ngoài nội dung hiện thực gắn với một thời kỳ khó khăn mà đất
nƣớc ta phải trải qua còn là “Thế giới kỳ ảo mà tác giả đã dụng công xây
dựng với các yếu tố kỳ ảo rất đặc trưng, đó à môtíp cái chết đi iền với môtíp
ma hiện hồn”. Ta nhận thấy văn hoá tâm linh đƣợc các thế lực trong làng triệt
để lợi dụng. Hơn thế, tác giả bài viết cũng đã chỉ ra các biểu hiện khác nhau
của văn hóa cũng lần lƣợt xuất hiện. Đó là “Văn hóa ịch sử”; “Văn hoá ẩm
6
thực”; “Văn hoá cưới xin, tang lễ”. Bài viết đã tiếp cận tác phẩm theo hƣớng
văn hoá học đƣa đến những kiến giải độc đáo.
1.2.2. Các nghiên cứu về “Đinh Trang mộng” của Diêm Liên Khoa
Diêm Liên Khoa là một trong những nhà văn xuất sắc trong nền văn học
hiện đại Trung Quốc. Những tác phẩm của ông cũng là một vùng đất màu mỡ
cho giới học thuật và nghiên cứu văn học. Xoay quanh các sáng tác của Diêm
Liên Khoa, có thể kể đến một số nghiên cứu của những học giả Trung Quốc
nhƣ Hùng Tu Vũ với “Diêm Liên Khoa và văn học đương đại Trung Quốc”;
Trƣơng Thụy Kiệt với “Phong Nhã Tụng”- Sự o ắng về thân phận của phần
tử trí thức nông thôn”; Thiệu Yên Quân với “Hoang đản hay à hoang
đường, ộng ngôn hay à khinh nhờn?”; Trần Phúc Chí với “Sự hoang đường
chân thực”... Năm 2014, Diêm Liên Khoa đƣợc nhận giải thƣởng văn học
Kafka và cũng bắt đầu từ đây, ông đƣợc truyền thông và độc giả Trung Quốc
đặc biệt chú ý. Nhiều công trình nghiên cứu về nhà văn đã xuất hiện: 141 bài
năm 2012; 189 bài năm 2013; riêng năm 2014 có tới 235 bài. Diêm Liên
Khoa nổi lên với những đề tài sáng tác phong phú, nhiều thể loại, đặc biệt hơn
cả là truyện và tiểu thuyết.
Trong các nghiên cứu của giới học thuật Trung Quốc về Diêm Liên
Khoa, phải kể đến bài nghiên cứu của nhà phê bình văn học Vƣơng Nghiêu:
“Văn học sử của một cá nhân hay là xuất phát từ điểm mờ của lịch sử văn
học”. Trong bài tiểu luận, nhà phê bình khẳng định tác phẩm của Diêm Liên
Khoa “nhƣ là mắt xích quan trọng trong sự thay đổi trật tự văn học giữa thập
niên 90 của thế kỉ XX trở lại đây”, tập trung vào các vấn đề: “Xung đột giữa
hiện thực và nội tâm”, “quan hệ giữa chính trị và mĩ học”, “siêu thể loại và
siêu chủ nghĩa” trong sáng tác của Diêm Liên Khoa.
Ở Việt Nam, Diêm Liên Khoa tuy vẫn còn là một tác giả tƣơng đối mới
nhƣng đã nhanh chóng thu hút giới nghiên cứu phê bình và độc giả. Hiện nay,
số tác phẩm của Diêm Liên Khoa đã đƣợc dịch ra tiếng Việt và xuất bản chƣa
7
nhiều, chủ yếu có thể kể đến những sáng tác đƣợc coi là nổi tiếng và xuất sắc
nhất của ông nhƣ Người tình của phu nhân sư trưởng, Kiên ngạnh như thủy,
Phong nhã tụng, Nàng Kim Liên ở trấn Tây Môn, Đinh Trang mộng và Tứ
thư. Dù với số lƣợng tác phẩm đã đƣợc dịch chƣa đầy đủ so với sự nghiệp
sáng tác đồ sộ của ông, nhƣng điều đó cũng không quá gây cản trở đối với
những học giả có niềm yêu thích với văn học Trung Quốc nói chung và sáng
tác của Diêm Liên Khoa nói riêng.
Trong bài viết “Diêm Liên Khoa thắp ánh sáng từ bóng tối”, Nguyễn Thị
Minh Thƣơng đã khẳng định rằng “tác phẩm của Diêm Liên Khoa thƣờng viết
về mặt tối của xã hội, nhƣng lại hƣớng con ngƣời đến ánh sáng và nhân tính.
Có thể nói, ông là ngƣời thắp lên ánh sáng từ bóng tối” (29/12/2018). Trong
buổi tạo đàm “Khám phá tiểu thuyết với diễn giả là nhà văn – giáo sƣ Diêm
Liên Khoa (Đại học nhân dân Trung Quốc) và giáo sƣ Vƣơng Nghiêu” (Đại
học Tô Châu, Trung Quốc) diễn ra vào ngày 05/04/2019 tại Trƣờng Đại học
Sƣ phạm Hà Nội, và buổi giao lƣu “Văn học Trung Quốc trong một thôn
trang” tổ chức tại khoa Văn học, Trƣờng Đại học Khoa học xã hội và Nhân
văn Hồ Chí Minh ngày 8/4/2019. Độc giả Việt Nam đã có buổi giao lƣu và
chia sẻ trực tiếp với nhà văn Diêm Liên Khoa, từ đó hiểu hơn về tƣ tƣởng và
nghệ thuật sáng tác của ông.
Diêm Liên Khoa đã giúp độc giả Việt Nam gợi lại hình ảnh thôn trang
không chỉ tồn tại trong ông nhƣ một hoài niệm đẹp, một động lực lớn cho con
đƣờng viết lách, mà còn là nguồn cảm hứng mãnh liệt cho sáng tác, một kho
tàng của những câu chuyện và kí ức sống động, nhức nhối và có khả năng
khai mở những vấn đề tầm cỡ của đất nƣớc, dân tộc, thậm chí của nhân loại.
Tác giả Nguyễn Thị Thúy Hạnh đã bày tỏ quan điểm khi nghiên cứu
Diêm Liên Khoa: “Diêm Liên Khoa: Từ quan niệm đến sự thực hành chủ
nghĩa thần thực” đăng trên tạp chí nghiên cứu Văn học số 11 năm 2019. Ở đó,
tác giả đã chỉ ra quá trình chuyển biến trong quan niệm nghệ thuật của nhà
8
văn từ “hiện thực” đến “thần thực”; tiếp đến là “Kết cấu tự sự trong một số
tiểu thuyết của Diêm Liên Khoa” đăng trên Tạp chí Văn nghệ Thái Nguyên
của Hội văn học nghệ thuật Thái Nguyên. Tác giả đã giới thiệu khái quát kết
cấu tự sự trong sáng tác của Diêm Liên Khoa tạo nên “phong cách tự sự”
mang đến sự độc đáo riêng của nhà văn. Ngoài ra, trong năm 2019, khi
nghiên cứu Luận án Tiến sĩ văn học nƣớc ngoài “Nghệ thuật tiểu thuyết Diêm
Liên Khoa”, Nguyễn Thị Thúy Hạnh đã giới thiệu, nhận diện đặc sắc nghệ
thuật tiểu thuyết Diêm Liên Khoa so với những nhà văn trƣớc và đƣơng thời,
qua đó chỉ ra những đóng góp của ông đối với văn học Trung Quốc hiện đại.
Năm 2019, khi Đinh Trang mộng ra mắt độc giả trong nƣớc, tác phẩm
cũng đƣợc đón nhận với nhiều bài viết khác nhau, xoay quanh chủ đề, đề tài
hay hiện thực sáng tác của tác phẩm. Có thể kể đến các bài viết “Mộng mị và
tình thế của sự làm ngƣời - Đọc Đinh Trang mộng của Diêm Liên Khoa” của
Nguyễn Đình Minh Khuê. Tiếp đến phải kể đến bài viết “Đinh Trang mộng
nghẹt thở với vực thẳm nhân tính” đăng trên trên báo Thanh niên của Nguyễn
Thị Trịnh Thy. Ở đó, bài viết cũng đã đề cập đến nội dung phản ánh đậm chất
hiện thực bằng việc khai thác đề tài xã hội của nhà văn Diêm Liên Khoa…
Ngoài ra, một số vấn đề trọng tâm trong sáng tác của Diêm Liên Khoa
nhƣ vấn đề ngƣời trí thức, vấn đề tính dục, vấn đề hiện thực, nghịch dị,…
cũng đƣợc khám phá. Có thể kể đến các công trình: “Vấn đề tính dục trong
tiểu thuyết Kiên ngạnh nhƣ thủy của Diêm Liên Khoa” (Luận văn thạc sĩ của
Lƣơng Thị Bích), “Nghịch dị trong tiểu thuyết Phong nhã tụng của Diêm
Liên Khoa” (Nguyễn Thị Tịnh Thy); “Bi kịch của ngƣời tri thức trong tiểu
thuyết Phong nhã tụng của Diêm Liên Khoa” của Trần Thị Việt Hà; “Bức
tranh hiện thực trong Phong Nhã tụng của Diêm Liên Khoa” (2017),…
Tuy nhiên, chƣa có đề tài nào nghiên cứu vấn đề tự sự về nông thôn
trong Đinh Trang mộng của Diêm Liên Khoa, cũng chƣa có nghiên cứu nào
đặt vấn đề so sánh tự sự về nông thôn trong Mảnh đất ắm người nhiều ma
9
của Nguyễn Khắc Trƣờng và Đinh Trang mộng của Diêm Liên Khoa. Nghiên
cứu của ngƣời đi trƣớc đã gợi ý cho chúng tôi khai thác sâu hơn đề tài này.
1.3. Mục tiêu nghiên cứu
Phân tích tự sự về nông thôn trong hai tiểu thuyết Mảnh đất lắm người
nhiều ma của Nguyễn Khắc Trƣờng và Đinh Trang mộng của Diêm Liên
Khoa.
Làm sáng tỏ lí thuyết tự sự học thông qua hai hiện tƣợng văn học tiêu
biểu nói trên, qua đó chỉ ra những đóng góp của các nhà văn đối với đề tài
nông thôn trong văn học.
1.4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
1.4.1. Đối tượng nghiên cứu: Tự sự về nông thôn trong hai tác phẩm
Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trƣờng và Đinh Trang
mộng của Diêm Liên Khoa.
1.4.2. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài khảo sát tự sự về nông thôn trong hai
tác phẩm Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trƣờng và Đinh
Trang mộng của Diêm Liên Khoa.
1.5. Nhiệm vụ và phƣơng pháp nghiên cứu
1.5.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Dựa trên lí thuyết về thi pháp học, tự sự học, văn học so sánh đề tài sẽ
làm rõ vấn đề nông thôn trong hai tác phẩm của Nguyễn Khắc Trƣờng và
Diêm Liên Khoa trên cả hai bình diện nội dung và nghệ thuật. Trong quá trình
tìm hiểu, phân tích và chứng minh, đề tài sẽ làm rõ sự độc đáo, mới mẻ của
Nguyễn Khắc Trƣờng và Diêm Liên Khoa trong mảng đề tài này. Cùng với
việc tham khảo nhiều nguồn tƣ liệu khác nhau, đề tài sẽ thể hiện quan điểm
riêng, mới mẻ dựa trên việc khảo sát, đối sánh hai tác phẩm.
1.5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài này, chúng tôi sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu sau:
10
Phƣơng pháp nghiên cứu tự sự học: Để tìm hiểu vấn đề tự sự về nông
thôn trong hai tác phẩm Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc
Trƣờng và Đinh Trang mộng của Diêm Liên Khoa, chúng tôi sử dụng phƣơng
pháp nghiên cứu của tự sự học, tập trung vào các phạm trù cơ bản mà tự sự
học chú trọng nghiên cứu nhƣ: Điểm nhìn trần thuật, giọng điệu trần thuật,
kết cấu, không gian - thời gian nghệ thuật….
Phƣơng pháp tiếp cận hệ thống: Vấn đề tự sự về nông thôn trong sáng
tác của Nguyễn Khắc Trƣờng và Diêm Liên Khoa đƣợc thể hiện qua hai tác
phẩm, phƣơng pháp này giúp chúng tôi nhìn sáng tác của Nguyễn Khắc
Trƣờng và Diêm Liên Khoa nhƣ một hệ thống, từ đó thấy đƣợc những nét
chính trong tự sự về nông thôn của các tác giả.
Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp: phƣơng pháp đƣợc sử dụng xuyên
suốt để làm nổi bật các luận điểm và nhận định trong quá trình tìm hiểu vấn
đề nông thôn trong sáng tác của Nguyễn Khắc Trƣờng và Diêm Liên Khoa.
Phƣơng pháp so sánh: Để có cái nhìn sâu hơn, chúng tôi so sánh sáng
tác của Nguyễn Khắc Trƣờng và Diêm Liên Khoa và các nhà văn khác cùng
quan tâm đến vấn đề này, từ đó chỉ ra sự giống nhau và khác nhau khi tiếp
cận và thể hiện vấn đề nông thôn.
1.6. Đóng góp của luận văn
Hệ thống một số phạm trù lý thuyết tự sự học; làm rõ khả năng của lý
thuyết này trong nghiên cứu hiện tƣợng cụ thể.
Làm sáng tỏ đặc điểm của tự sự về nông thôn trong hai tiểu thuyết của
Nguyễn Khắc Trƣờng và Diêm Liên Khoa.
Bƣớc đầu thực hiện và phát triển hƣớng nghiên cứu tự sự học hậu kinh
điển gắn với các hệ chủ đề nổi bật trong văn học.
1.7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung chính luận văn chúng tôi triển
khai thành ba chƣơng:
11
Chƣơng 1: Khái lƣợc về tự sự học và vấn đề nông thôn trong văn học
Chƣơng 2: Bức tranh nông thôn trong Mảnh đất lắm người nhiều ma của
Nguyễn Khắc Trƣờng và Đinh Trang mộng của Diêm Liên Khoa.
Chƣơng 3: Nghệ thuật tự sự về nông thôn trong Mảnh đất lắm người
nhiều ma của Nguyễn Khắc Trƣờng và Đinh Trang mộng của Diêm Liên
Khoa.
12
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: KHÁI LƢỢC VỀ TỰ SỰ HỌC
VÀ VẤN ĐỀ NÔNG THÔN TRONG VĂN HỌC
1.1. Khái lƣợc về tự sự học
1.1.1. Khái niệm tự sự học
Theo Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) trong
“Từ điển thuật ngữ văn học” thì “tự sự à phương thức tái hiện đời sống, bên
cạnh hai phương thức khác à trữ tình và kịch, được dùng àm cơ sở để phân
oại tác phẩm văn học” [19; 385].
Lại Nguyên Ân trong “150 thuật ngữ văn học”, nhà nghiên cứu thuật
ngữ văn học cho rằng: “Nét đặc thù của tự sự à vai trò tổ chức của trần
thuật: nó thông báo về các biến cố, các tình tiết như thông báo về một cái gì
đó đã xảy ra và được nhớ ại, đồng thời mô tả hoàn cảnh hành động và dáng
nét các nhân vật, nhiều khi còn thêm cả những ời bàn uận” [1; 2]. Trong
mỗi tác phẩm tự sự thì ngôn từ trần thuật và đối thoại, độc thoại (độc thoại nội
tâm) của các nhân vật luôn tƣơng tác tự nhiên với nhau.
Theo GS. Trần Đình Sử, tự sự học là “một nhánh của thi pháp học hiện
đại, hiểu theo nghĩa rộng nghiên cứu cấu trúc của văn bản tự sự và các vấn đề
liên quan, hoặc nói cách khác là nghiên cứu đặc điểm nghệ thuật trần thuật
của văn bản tự sự nhằm tìm một cách đọc” [39; 11].
Đây là một vấn đề rộng và có vai trò rất quan trọng trong nghiên cứu văn
học. Với tƣ cách là bộ môn khoa học, nó ra đời vào khoảng năm 1966 với bài
viết “Phân tích cấu trúc của truyện kể in trên tờ báo Communications của
Pháp”. Nhƣng phải đến năm 1969, thuật ngữ tự sự học mới đƣợc nói đến
trong công trình “Ngữ pháp câu chuyện mƣời ngày của T.Todorov”. Từ đây,
nó trở thành tên chính thức của ngành nghiên cứu tự sự từ trƣớc tới nay và trở
thành ngành khoa học nghiên cứu có tính độc lập. Lí thuyết tự sự học đã đem
13
đến bộ công cụ hữu hiệu, ƣu việt giúp cho giới nghiên cứu có thể giải mã văn
bản văn học.
1.1.2. Các thành tố của tự sự
Theo “Lí luận văn học tập 2, Tác phẩm và thể loại văn học” (Trần Đình
Sử chủ biên), Nxb ĐHSP, 2011, tự sự bao gồm nhiều thành tố, cụ thể:
Thành tố đầu tiên không thể thiếu của tự sự chính là ngƣời kể chuyện
hay còn gọi là ngƣời trần thuật. Nhà văn tạo ra ngƣời kể chuyện để thay mình
thực hiện hành vi trần thuật. Ngƣời kể chuyện trong văn bản ẩn mình trong
các dòng chữ; có thể kể theo ngôi thứ nhất, thứ ba hoặc thứ hai. Ngƣời kể
chuyện ngôi thứ nhất xƣng tôi chứng kiến các sự kiện đứng ra kể, kể các nội
dung không nằm ngoài phạm vi hiểu biết của một ngƣời và thƣờng gắn bó với
quan điểm đánh giá riêng của cá nhân. So với ngôi kể thứ nhất, đây là ngôi kể
tự do nhất. Ngôi kể thứ hai tƣơng đối ít gặp trong văn học, nó thƣờng đƣợc
nhắc tới trong các tiểu thuyết nhƣ “Đổi thay” của Michel Butor, “Linh Sơn”
của Cao Hành Kiện,… Ngôi kể thứ hai tạo ra một không gian gián cách, một
cái tôi khác, một cái tôi đƣợc kể ra, chứ không phải là tự kể nhƣ ngôi thứ
nhất.
Ngƣời kể chỉ có thể kể đƣợc thông qua các điểm nhìn. Thể hiện vị trí
ngƣời kể dựa vào để quan sát, cảm nhận, trần thuật, đánh giá các nhân vật và
sự kiện đó chính là điểm nhìn. Tác phẩm tự sự có nhiều loại điểm nhìn,
thƣờng đƣợc phân chia thành điểm nhìn bên ngoài, điểm nhìn bên trong, điểm
nhìn tác giả, điểm nhìn nhân vật.
Nhân vật cũng là một thành tố quan trọng của tự sự. Đó là “hình tượng
các cá thể con người trong tác phẩm văn học – cái đã được nhà văn nhận
thức, tái tạo, thể hiện bằng các phương tiện riêng của nghệ thuật ngôn từ”.
Có nhiều kiểu loại hình nhân vật khác nhau nhƣ nhân vật chính, nhân vật phụ,
nhân vật trung tâm; nhân vật chính diện, nhân vật phản diện… Có thể kể đến
14
một số kiểu cấu trúc nhân vật trọng tâm là nhân vật chức năng, nhân vật “loại
hình”, nhân vật tính cách, nhân vật tƣ tƣởng, nhân vật ngụ ngôn.
Trong các thành tố của tự sự, không thể thiếu sự kiện, cốt truyện. Sự
kiện nói chung là những hành vi (việc làm) của nhân vật hay sự việc xảy ra
đối với nhân vật, có thể làm biến đổi hay bộc lộ một ý nghĩa nào đó đối với
mục đích ngƣời kể. Cốt truyện đƣợc tạo nên từ hệ thống sự kiện cụ thể, đƣợc
tổ chức theo yêu cầu tƣ tƣởng nghệ thuật của nhà văn, đây là bộ phận cơ bản,
quan trọng nhất của tác phẩm tự sự.
Thành tố cốt truyện gắn liền với kết cấu. Vậy có thể hiểu kết cấu là
“toàn bộ tổ chức sinh động và phức tạp của tác phẩm, phục tùng đặc trưng
nghệ thuật và nhiệm vụ nghệ thuật cụ thể mà nhà văn đặt ra”.
Ngôn ngữ, giọng điệu cũng là những thành tố không thể thiếu trong tác
phẩm tự sự. Ngôn từ nghệ thuật dùng để sáng tạo hình tƣợng nghệ thuật.
Giọng điệu trong văn bản thể hiện thái độ, tình cảm và đánh giá của tác giả.
Trong tác phẩm tự sự có hai loại giọng chủ yếu, đó là giọng nhân vật đối với
thế giới và giọng của ngƣời kể chuyện đối với nhân vật, tùy theo đặc điểm
tính cách, số phận nhân vật, ngƣời kể và các mối quan hệ đa dạng của chúng
mà ta có giọng điệu đa dạng.
Tác phẩm tự sự cũng bao gồm thành tố không – thời gian nghệ thuật.
Thời gian là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật. Tác phẩm cần một
lƣợng thời gian để mở ra trƣớc mắt ngƣời đọc. Tuy nhiên, thời gian nghệ
thuật không đồng nhất với thời gian vật chất thực tại. Có nhiều loại thời gian:
thời gian vũ trụ, bốn mùa, có thời gian lịch sử, có thời gian xã hội, thời gian
tâm lý, đậm tính chủ quan; có thời gian thần thoại, thời gian vĩnh hằng, bất
biến trong tâm tƣởng.
15
1.1.3. Tự sự học kinh điển và tự sự học hậu kinh điển
Theo nghiên cứu mới nhất về tự sự học của GS. Trần Đình Sử trong
cuốn sách “Tự sự học í thuyết và ứng dụng” [38, 28], tự sự học đã trải qua
hai giai đoạn cơ bản là tự sự học kinh điển và tự sự học hậu kinh điển.
Tự sự học kinh điển (đại diện tiêu biểu nhƣ R.Barthes,Tz.Todorov,
G.Genette, F.Stanzel,... với các công trình chính: Nhập môn phân tích cấu
trúc truyện kể, Ngữ pháp Câu chuyện mười ngày, Diễn ngôn truyện kể, Diễn
ngôn mới về truyện kể,...) thƣờng đƣợc hiểu là tự sự học giai đoạn những năm
60 kéo dài đến khoảng những năm 80 của thế kỉ trƣớc. Tự sự học kinh điển
tập trung nghiên cứu cấu trúc của truyện, mối quan hệ của các sự kiện tạo nên
truyện ở bƣớc phát triển thứ nhất. Trƣớc tiên phải kể đến vai trò to lớn của
các nhà tự sự học từ chủ nghĩa hình thức Nga nhƣ: Shklovski đã tiến hành
phân biệt tích truyện (fabula) với truyện kể (siuzhet); B.Tomashevski nghiên
cứu đơn vị môtip và phân loại các loại môtip; đặc biệt là V.Propp nghiên cứu
các chức năng và chuỗi các chức năng của hành động trong việc tạo thành
tiến trình của truyện. Sau các nhà hình thức Nga là các nhà tự sự học của chủ
nghĩa cấu trúc luận Pháp nghiên cứu hệ thống cấu trúc bề sâu và cấu trúc bề
mặt của truyện kể. Mặc dù lấy truyện kể làm đối tƣợng nghiên cứu, song, các
nhà tự sự học giai đoạn đầu chỉ quan tâm tới hành động, sự kiện mà bỏ qua
việc nghiên cứu cách kể, nhân vật và ý nghĩa của truyện, đồng thời có phần
lạm dụng thuật ngữ ngữ học. Vậy nên, có một số ý kiến cho rằng tự sự học
cấu trúc đã rơi vào khủng hoảng, lỗi thời. Trong khi đó, hƣớng phát triển thứ
hai của tự sự học kinh điển lại tập trung nghiên cứu diễn ngôn tự sự, tức là lớp
ngôn ngữ trần thuật và các yếu tố tạo nên nó: ngƣời kể, hành động kể, ngôi
kể, điểm nhìn, giọng điệu. Các nhà nghiên cứu chú ý đến trật tự thời gian,
khoảng cách thời gian, tần suất kể với các thời thái, thể thức khác nhau. Năm
- Xem thêm -